|
Tại sao Bác Hồ
không khen thơ Tố Hữu ?
(VHNA 21-10-13)
THD
Note: Bài
thúi quá, VC cũng thấy thúi (?), ngượng, delete mất tiêu rùi!
Note: GCC search net. Bèn
bệ về TV cho chắc ăn: HCM vs TH:
Trong “Chân
dung và đối thoại”, Trần Đăng Khoa nói, Tố Hữu thừa nhận “Bác chưa bao
giờ khen
thơ tôi”. Điều này như có vẻ hơi lạ vì cả Bác và Tố Hữu đều được liệt
vào nhóm
những người lấy văn nghệ làm vũ khí cách mạng. Bởi vậy, việc Bác không
khen thơ
Tố Hữu cũng cần được lý giải rõ ràng. Sau đây là mấy nhận định riêng
của cá
nhân tôi.
Thứ nhất, Tố
Hữu thường tự hào cho mình là người giác ngộ sớm, giác ngộ sâu sắc lý
tưởng
cách mạng và có nhãn quan chính trị tốt. Không ngờ sự thật đã chứng
minh ông chỉ
là một người hơi ấu trĩ và ngây thơ trong nhận thức về XHCN và cách
mạng. Ông
cho rằng cách mạng VN cũng như Liên Xô, cứ thế tiến lên, vọt một cái,
nhảy phốc
lên CNXH, không thể thoái trào.
Tệ hơn, ông
tin rằng người lãnh đạo cộng sản nào cũng vĩ đại. Sai lầm lớn nhất của
ông là lớn
tiếng khen Stalin và Mao. Một người lãnh đạo công tác văn hóa tư tưởng
mà sai lầm
như thế, kể cũng đáng tiếc thật. Trong khi đó, Cụ Hồ có vẻ không hề
đánh giá
cao hai vị này. Bằng chứng là Hồ Chí Minh chưa từng nhắc đến tên
hai vị này
trong bất cứ bài nói bài viết nào của Người. Lịch sử đã chứng minh, so
với Bác,
tầm nhìn và tư duy của Stalin và Mao rất thiển cận. Ngoài Lênin ra, ở
châu Á, Cụ
Hồ thích Ghandi và Tôn Trung Sơn hơn cả. Tuy mang tiếng là đường lối tư
sản
nhưng tư tưởng hai vị này thực tế và khoa học hơn, gần Lênin hơn. Tố
Hữu, vì thế,
trong mắt Bác, đã mất điểm nhiều.
Trong bài
SÁNG THÁNG NĂM, Tố Hữu ca ngợi Hồ chủ tịch khá hay. Bài đó, người ta đã
phân
tích nhiều. Tôi cũng không có ý kiến gì thêm. Đại ý Tố Hữu vẽ chân dung
HCM giản
dị mà vĩ đại, gần gũi. Người là kết tinh những giá trị văn hóa, vẻ đẹp
tâm hồn
và sức mạnh Việt Nam. Người là nguồn sức mạnh, nguồn động viên, là cảm
hứng lao
động, chiến đấu và sáng tạo của chúng ta. Tiếc thay khi kết thúc ông
làm một
câu rất mất hứng:
Việt Nam có
Bác Hồ
Thế giới có
Stalin
Việt Nam phải
tự do
Thế giới phải
hòa bình
Không biết
Bác Hồ khi đọc mấy câu này, Người sẽ nghĩ gì. Tôi cứ tưởng tượng ra một
nụ cười
nhạt đầy ý nghĩa. [...]
Lâu lắm mới
được cười cùng với Bác!
Hà, hà!
*
Đại khái,
Bác chê thơ TH, nổ quá!
Sorry!
Bác ghen
tài!
Vậy mà cũng
bày đặt ‘thai đố’, ‘ẩn dụ’!
Ông Trùm viết
tiểu thuyết gián điệp, le Carré dạy, bài học đầu tiên, là:
'Con mèo nằm
trong ổ', KHÔNG PHẢI một câu chuyện.
Nhưng 'con
mèo nằm trong ổ của con chó', là KHỞI ĐẦU một câu chuyện.
Thuổng ý đó,
thì ‘Tại sao Tố Hữu đếch thèm khen thơ Bác’, mới là ‘khởi đầu’ của mọi
khởi đầu
của mọi câu chuyện, về…. Mít!
[Định viết....về... Cái Ác Bắc Kít, nhưng chợt
nhớ ra, Tố Hữu là... Trung Kít!]
Hà, hà!
John
Le Carré's Page
Obs: Từ
Somerset Maugham tới Graham Greene, và chính ông, nhiều mật vụ Anh trở
thành
nhà văn. Một truyền thống?
Le Carré:
Theo tôi hai thứ đó có nhiều điểm chung. Là cớm chìm, hay là nhà văn,
thì đều cần
quan sát, biết nghe, có cái sự thông minh đừng vỗ ngực xưng tên như… Thầy Cuốc [garder un profil bas]...
Sự thực, theo GCC, quả
có 1 truyền thống giữa mấy nhà văn đồng thời đã từng là điệp viên trên.
Coetzee,
trong bài viết về GG, viết: Mặc dù Graham Greene kính trọng [revered]
Henry
James [“cô đơn trong lịch sử tiểu thuyết như Shakespeare trong lịch sử
thi ca”],
ông là hậu duệ trực tiếp, immediate descent, từ The Secret
Agent của Joseph
Conrad.
Và trong số những đệ tử của GG, thì John le Carré bảnh nhất, the most
distinguished.
Cựu Trùm KGB thèm gặp "Tổ
Sư Điệp
Viên"!
The fiction
of John le Carré
JANUARY 23RD
1963 Kim Philby, a British spy (and one-time contributor to The
Economist)
disappeared following his defection to the Soviet Union. Nine months
later “The
Spy Who Came in from the Cold” was published. It was the third novel
from John
le Carré, the pseudonym for David John Moore Cornwell, an unknown
30-year-old
writer who was working as an intelligence officer in Bonn. It was
fiction, but
the book seemed to reflect the larger reality of the cold war. It also
changed
the face of the thriller genre forever.
The novel starts with Alec Leamas, a British spy running the
counter-intelligence unit in Berlin, waiting for one of his agents to
cross the
border into the West. From the very first sentence Mr le Carré’s
writing is startling.
Scenes are illuminated as if by flashpoint. Characters are sketched in
sharp,
quick phrases. Sentences are short and to the point. The plot is
complex, but
never over-burdened with secondary characters or unnecessary twists and
turns.
Unlike the spy fiction of “James Bond”, Mr le Carré’s world was gritty
and
distinctly dark. Leamas drinks whisky by himself in badly-lit,
barely-furnished
rooms. Women are muted and downtrodden, rather unlike the Technicolour
fantasies in silk stockings created by Ian Fleming. Far from being
glamorous,
Mr le Carré’s spies are, in the words of Leamas, “a squalid procession
of vain
fools, traitors…pansies, sadists and drunkards, people who play cowboys
and
Indians to brighten their rotten lives”.
This starkness made Mr le Carré’s world of spooks and double-agents
seem, as he
writes in a new afterword to the book, credible if not authentic. His
writing
owes much to another master of the well-written thriller, Graham
Greene, and
his 1938 masterpiece “Brighton Rock”. But the grittiness of “The Spy
Who Came
in from the Cold” can be seen in other fiction that emerged at the
time. Five
years earlier Allan Sillitoe wrote about working-class life in
Nottingham in
“Saturday Night, Sunday Morning”, shocking readers with descriptions of
back-street abortions and evenings spent drinking away dole money in
the pub.
In 1956 John Osborne wrote “Look Back in Anger”, a realist play
revolving
around an angry, disaffected young man. Mr Le Carré's novel spun a
rather
different yarn, but it reflected a larger rift in post-war Britain and
tapped
into a new way of writing about British life.
Soon after the novel was published, Mr le Carré gave up his work with
the
foreign office to concentrate on writing. Another 20 novels followed,
including
“A Delicate Truth”, released earlier this year, and “Tinker, Tailor,
Soldier,
Spy”, his dazzling 1974 novel which was made into both a television
series in
1979 and a
film in 2011. All of these novels contain the same taut
language and
keen eye for detail. But “The Spy Who Came in from the Cold” remains
his finest
work. Nearly 30 years after the fall of the Berlin wall, Mr le Carré’s
novel
still reverberates with frustration at the impotence and deceit of the
cold
war. It is a reminder, if ever one was needed, of how good fiction can
question
the way that governments work.
Prospero
Ngày 23
Tháng Giêng, 1963, Kim Philby, gián điệp
Anh (cộng tác viên một thời cho Người
Kinh Tế) chuồn qua Xô Viết. Chín tháng sau, “Điệp Viên Từ Miền
Lạnh"
ra lò.
Giả tưởng, tất nhiên, nhưng hình như nó còn thực hơn cả sự thực, phản
chiếu một thực tại rộng lớn hơn, cái gọi là Cuộc Chiến Lạnh.
Bảnh hơn nữa,
nó xuất hiện, và sau đó, tiểu thuyết điệp viên thay đổi hẳn,
không
còn như trước nữa.
John le
Carré là bút hiệu của David Cornwell, người Anh, sinh năm 1931, làm Bộ
Ngoại
giao (công tác gián điệp), do vậy, không được dùng tên thực. Cuốn The
Spy Who
Came in From The Cold là cuốn đưa ông lên đài danh vọng. Đã được quay
thành
phim, với tài tử Richard Burton. Đã được dịch ra tiếng Việt, nhưng thú
vị nhất,
đã được nhà văn chuyên viết truyện trinh thám nổi tiếng, Người Thứ Tám,
phóng
tác, với nhân vật "thần sầu quỉ khốc" Tống Văn Bình, bí số Z.28. Nội
ngoại công thâm hậu; võ Hồng Mao, Thiếu Lâm vào hàng thượng thừa, Văn
Bình được
Ông Hoàng, thủ lãnh điệp viên Miền Nam phái ra Bắc (Hà Nội), để cứu một
điệp
viên Miền Nam nằm vùng, một cán bộ cao cấp CS. Anh được cung cấp đầy đủ
tài liệu:
nào là sổ băng của tên "ngụy đội lốt cách mạng" ở một ngân hàng Thụy
Sĩ; ngày giờ, địa điểm những lần nhận tiền…
Trong
nguyên tác của Le Carré, câu chuyện xẩy
ra tại nước Đức, bên này và bên kia Bức Tường (Bá Linh). Muốn cho chắc
ăn, ông
đã để cho nhân vật chính của mình bị cơ quan phản gián cho về vườn, sau
khi thất
bại trong một điệp vụ, thân tàn ma dại, đói, bịnh, rồi được một cô gái
thương
tình cưu mang, săn sóc cho hết bịnh, và sau đó được móc nối với "cách
mạng"
(Đông Đức).
Mọi
việc diễn tiến êm ru bà rù. Muốn chắc ăn,
Phản Gián Anh vờ đi, cho gián điệp Đông Đức bắt cóc cô gái, người yêu
của anh
chàng điệp viên bị thất sủng quay đầu về với cách mạng.
Bí
mật bật mí: tất cả những tài liệu tố cáo đều
là dởm. Người mà anh điệp viên tin là phe ta, lại là kẻ địch. Và kẻ
địch này là
một tay Cộng Sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ nghĩa Cộng
Sản sẽ đưa
thiên hạ tới "thái bường"! Còn
cái người mà anh điệp viên "tởm"
nhất, và tin rằng là kẻ địch, lại chính là phe ta!
1
Checkpoint
The American
handed Leamas another cup of coffee and said, "Why don't you go back
and sleep?
We can ring you if he shows up."
Leamas said nothing, just stared through
the window of the checkpoint, along the empty street.
"You can't wait
forever, sir. Maybe he'll come some other time. We can have the Polizei contact
the Agency: you can be back here in twenty minutes."
"No," said
Leamas, "it's nearly dark now."
"But
you can't wait forever; he's nine hours over schedule.
"
"If you
want to go, go. You've been very good," Leamas
added. "I'll tell Kramer you've been damn good."
"But
how long will you wait?"
"Until
he comes." Leamas walked to the observation window and stood between
the
two motionless policemen. Their binoculars were trained on the Eastern
checkpoint.
"He's
waiting for the dark," Leamas muttered, "I know he
is."
"This morning you said he'd come across with the workmen."
Leamas
turned on him.
"Agents
aren't airplanes. They don't have schedules. He's blown,
he's on the run, he's frightened. Mundt's....
[Trang đầu
cuốn The Spy]
Giới tuyến
Anh chàng
người Mỹ đưa cho Leamas một tách cà phê và nói:
- Sao ông
không về ngủ đi? Chúng tôi có thể điện thoại cho ông biết nếu thấy hắn
xuất hiện.
Leamas không
nói gì cả, chỉ nhìn chăm chăm qua khung cửa sổ của trạm gác, dọc theo
con đường
vắng tanh.
- Ông không
thể đợi mãi. Có thể hắn sẽ tới vào một lúc khác. Chúng tôi có thể cho
Poliezei
liên lạc với cơ quan và ông có thể trở lại đây trong vòng hai mươi phút.
Leamas trả lời
- Không, gần
tối rồi
- Nhưng ông
không thể đợi mãi, hắn đã trễ hẹn chín tiếng đồng hồ rồi.
- Nếu anh muố
đi, thì cứ đi. Anh đã làm việc chu tất.
Leamas nói
thêm :
- Tôi sẽ cho
Kramer biết là anh đã tỏ ra rất giỏi
- Nhưng ông
sẽ đợi bao lâu?
- Đến khi hắn
tới.
Leamas bước
đến cửa sổ và đứng giữa hai viên cảnh sát bất động. Ống nhòm của họ
đang hướng
về phía nút chặn phía Đông
Leamas khẽ bảo
:
- Anh ta
đang đợi trời tối. Tôi biết thế.
- Sáng nay
ông nói với anh ta sẽ tới với bọn thợ.
Leamas quay
lại:
- Điệp viên
không phải là máy bay. Họ không có thời biểu. Anh ta bị lộ, đang chạy
trốn, đang
sợ hãi. Mundt đang bám theo anh ta, ngay lúc này. Anh ta chỉ có một cơ
hội. Hãy
để anh ta chọn lựa giờ giấc. (a)
Đoạn trên Bồ Giang dịch,
post trên VN thư quán. “Checkpoint” ở đây là “Charlie
Checkpoint”, giữa Đông Bá Linh và Tây Bá Linh, nổi tiếng 1 thời. NQT

GCC đọc The
Spy, lần đầu, bản tiếng Tây, nhà sách Xuân Thu, đường Tự Do ngày
nào, kế bên Quán Chùa. Bản nrf,
bìa trắng. Cầm lên, đọc 1 phát, là bèn từ từ đến quầy, thò tay ra
phía sau, móc bóp.
Lúc đó cày hai jobs, UPI & Bưu Điện, chưa dính Cô Ba, tiền chỉ để
bao cà phê bạn
quí, và
mua sách, nếu không cháy túi trong 1 trận xì, tại ngay chính nhà mình!
*
"Nous ne lui demandons pas de devenir un
traître. Nous lui proposons une nouvelle définition du mot loyauté."
Chúng ta đâu có đòi hắn ta phải trở thành một tên phản bội. Chúng ta
chỉ đề nghị với hắn ta một định nghĩa mới về lòng trung thành.
Le Carré,
le grand réveil
Un homme très
recherché
JOHN LE CARRÉ
Với
cuốn mới nhất này, Kẻ bị truy
nã tới chỉ, Le Carré trở lại mảnh đất của những
tác phẩm đầu tay của ông, nhưng đây là một sự tỉnh thức lớn, như Le Magazine Littéraire nhận xét.
Gấu này
thú thực, cũng chỉ mê những tác phẩm thời kỳ đầu của ông, và nếu phải
chọn, thì nhất, vẫn là cuốn Điện
thoại dành cho người chết, Call for the Dead, và
tiếp theo là Gián điệp về từ miền lạnh, The
Spy who
came in
from the
cold,
bộ ba, trilogy, về Smiley…
Trong
cuốn Điện thoại dành cho người
chết có hai xen thật là tuyệt vời. Xen Smiley ghé tiệm
giặt ủi lấy quần áo mang về nhà, và khi đứng trước cửa nhà mình, linh
tính xui bảo, thay vì mở, ông giơ tay gõ cửa, và khi kẻ sát nhân đang
chờ ông ở trong nhà ra mở cửa, ông nói, ông là người đi trao quần áo
giặt ủi.
Xen thứ hai, là khi Smiley đánh lừa được trùm gián điệp Đông Đức gặp nữ
gián điệp nhân viên, tại một rạp hát, và khi nhân viên của Smiley xin
lệnh bắt, ông lắc đầu...
Cuốn Call for the
Dead, Gấu đã dịch được một, hai chương, rồi bỏ ngang,
tiếc quá!
Call For The
Dead đọc như thơ, thế mới sướng!
Sau này, có thể do viết nhiều, cái chất thơ của văn Le Carré ngày càng
bớt dần.
*
Ngược lại, hắn buồn rầu chứng kiến khoái lạc tự nhiên cứ chết dần trong
hắn. Bản chất luôn khép kín, hắn thấy mình lúc này co rúm lại trước
những cám dỗ của tình bạn và lòng chung thủy của con người; hắn cảnh
giác hết mức, chính hắn, trước những phản ứng bộc phát. Bằng sức mạnh
lý trí, hắn ép mình quan sát nhân gian với sự khách quan lâm sàng, và,
bởi vì hắn không bất tử, và chắc không khỏi lỗi lầm, hắn thù ghét và
ghê sợ sự giả trá của đời mình.
Nhưng Smiley là con người tình cảm, và nỗi xa xứ ngày càng làm mạnh
thêm tình yêu sâu thẳm của hắn với nước Anh. Hắn ngấu nghiến những hồi
ký về Oxford, vẻ
đẹp, sự phóng khoáng trí tuệ, tính chậm chạp chín mùi trong những phán
đoán của nó. Hắn mơ về những ngày nghỉ lộng gió mùa thu ở bến Hartland,
những chuyến tản bộ dài trên những vách đá ở Cornall, mặt trơn láng,
nóng bỏng trước gió biển. Đây là một cuộc sống thầm kín khác của hắn,
và hắn càng ngày càng thù ghét sự xâm nhập tục tằn của nước Đức mới,
những bước dậm chân và la hét của đám sinh viên đồng phục, những khuôn
mặt sẹo, kiêu căng và những câu trả lời hạ cấp của họ. Hắn cũng căm tức
cái lối Phân khoa xía vô môn dạy của hắn - nền văn học Đức yêu dấu của
hắn. Và rồi một đêm, cái đêm khủng khiếp của mùa đông l937 khi Smiley
đứng ở cửa sổ phòng mình ngắm một đám lửa trại lớn nơi sân trường Đại
học: Vây quanh ngọn lửa, hàng trăm sinh viên mặt hồ hởi bóng nhẫy dưới
ánh lửa bập bùng. Và họ ném hàng trăm cuốn sách của họ vào ngọn lửa
ngoại đạo. Hắn biết tác giả của những cuốn sách: Thomas Mann, Heine,
Lessing, và hàng loạt những người khác, và Smiley bàn tay ẩm ướt khum
khum quanh đầu điếu thuốc, ngắm nhìn và thù hận, hả hê trong nỗi chiến
thắng vì đã nhận diện ra kẻ thù của mình.
l939, hắn có mặt ở Thuỵ Điển, nhân viên
được bảo chứng của một hãng chế tạo vũ khí nhẹ nổi tiếng của Thụy Sĩ;
mối làm ăn được ghi lùi lại ngày cho thuận tiện. Cũng để cho thuận
tiện, tướng mạo của hắn đã phần nào biến cải, bởi vì Smiley khám phá ra
hắn có tài nhập vai hơn hẳn cái trò thô thiển về thay đổi mái tóc hoặc
thêm hàng ria mép nho nhỏ. Trong bốn năm hắn đóng vai đi đi lại lại
giữa Thụy Sĩ, Thụy Điển và Đức, hắn không ngờ mình bị hoảng sợ lâu đến
như thế. Hắn mắc cơn kích giật nơi mắt trái, mười lăm năm sau vẫn còn,
sự căng thẳng vạch những đường hằn trên đôi má phính, trên trán. Hắn
học được, làm sao để có thể không bao giờ ngủ, không bao giờ xả hơi,
làm sao cảm thấy nhịp đập hoài hoài của trái tim của chính mình bất kể
ngày và đêm, làm sao với tới những cực điểm của nỗi cô đơn và sự thương
thân, làm sao nhận ra niềm dục vọng bất thần không đắn đo về một người
đàn bà, một ly rượu, một vận động, và thuốc, bất kể thứ thuốc gì bứng
đi sự căng thẳng của đời mình.
Call for the Dead
John Le Carré là bút hiệu
của David Cornwell, người Anh. Sinh năm 1931. Học Đại học Berne, Oxford. Dạy học tại Eton. Sau làm Bộ Ngoại Giao, vì vậy ông không được
phép dùng tên thật khi viết. Bút hiệu Le Carré, tiếng Pháp có nghĩa là
hình vuông, do ông tình cờ nhìn thấy trên kính một cửa tiệm ở Luân đôn.
Tuần báo Time đã mô tả ông:
Người viết truyện gián điệp số một của thời đại ông ta hiện đang sống.
Và có lẽ của mọi thời.
Gọi Người Đã Chết,
tác phẩm đầu tay trong đó gói ghém tất cả ước vọng của tác giả, muốn sử
dụng thể loại gián điệp, một hình thức phổ cập, đại chúng, dể giải
quyết những vấn đề lớn lao, như văn chương, chính trị, thời đại... Ông
còn muốn tìm lại cội rễ của nó, vốn bắt nguồn từ bi hùng kịch Hy Lạp. —
Màn Cuối (The Last Act) trong Gọi Người Đã Chết, độc giả, và có
thể, chính tác giả cũng không tiên đoán được kẻ thù sẽ phản ứng như thế
nào: Chúng sẽ làm một điều gì đó. Chắc chắn như vậy. Chúng ta còn có cơ
hội...
Đối những độc giả quá quen thuộc với Smiley, nhân vật chính của Le
Carré qua những tác phẩm The
Spy who
came in
from the
cold, The Smiley People... cơ hội đó là sự sụp đổ của chủ
nghĩa Cộng sản, chấm dứt Chiến Tranh Lạnh. (1)
Gọi Người
Đã Chết

Gọi
người đã chết
Đánh máy: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội )
Nguồn: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội )
Được bạn: Ct. Ly đưa lên
vào ngày: 4 tháng 9 năm 2006
Note: "Cái này", của
Gấu mà!
Đâu phải của Mõ Hà Nội?
Mới có hai chương, Gấu tính dịch tiếp nhưng bận quá!
Mấy đấng hảo hán giang hồ bên Việt Nam Thư Quán ẩu quá!
NQT
Gọi Người Đã Chết
Trên VN thư quán còn
thấy cuốn The
spy who came in from the cold, cũng của Le Carré.
Gấu
mê cuốn này lắm, mỗi lần đọc nó, là nhớ đến cảnh, lần đầu gặp nó, bản
tiếng Tây, ở nhà sách Xuân Thu, cầm lên một cái là thấy cái lạnh của
Đất Bắc ùa tới.
Khủng
khiếp thật.
Tác
giả Z. 28, biết đâu đấy, cũng cảm thấy lạnh như Gấu, bèn phóng tác, và
cho Tống Văn Bình, thay vì vượt Bức Tường Bá Linh qua Đông Đức, thì
vượt Bến Hải, về Hà Nội....
Notes
on a voice: Le Carré
Hai cuốn về
PXA, The Spy Who Loved Us, và
cuốn The Perfect Spy, mỗi
cuốn có một ‘ẩn
dụ’ của
riêng nó, chỉ ở nội cái tên, chưa nói đến nội dung tác phẩm.
The Spy Who Loved Us phỏng theo một
cái tít của một trong những phim
James
Bond, và đây là câu chuyện về anh chàng 007 làm thịt một điệp viên KGB,
và em
KGB, người tình của tay bị giết, thề sẽ giết 007 để trả thù, sau cùng
lại mê
007.
Us ở đây, vừa là Mẽo, vừa là
đô la Mẽo, bởi vì PXA đã từng viết thư xin
tiền
cựu đồng nghiệp, tức đám ký giả Mẽo ngày xưa, để lo cho con trai đi du
học Mẽo.
Còn cuốn kia, The Perfect
Spy, sử dụng đúng cái tít của một
cuốn tiểu thuyết của Le Carré, và cuốn này cũng có vấn đề, anh chàng
điệp viên
tuyệt hảo, bậc thầy này rất thù ông bố, người đã đẩy anh vào cái nghề
khốn nạn,
ông bố ở đây cũng là một bố kép, chỉ nước Anh, và chỉ ông bố ruột của
Le Carré,
một tay lường đảo bậc thầy.
Riêng cuốn The Spy Who Loved Us, khi còn là
một bài báo, đăng trên The
New
Yorker, vì Gấu thường xuyên đọc tờ này, nên thấy nó trước tiên,
và lôi
về đăng
trên Tin Văn, tính vừa dịch, vừa kèm vài chi tiết, kỷ niệm về PXA mà
Gấu biết
qua cái tên Cao Bồi, nhưng vì là tin sốt rẻo, báo chí đua nhau dịch,
thế là Gấu
chán, bỏ ngang.
Tuy nhiên, khi bài đăng trên
The New Yorker, số báo liền sau đó, có
phản ứng từ
bạn cũ của PXA, và độc giả tờ báo. Gấu có scan sau đây.
Bạn cũ và độc giả trách đám
ký giả Mẽo đã góp tiền gửi cho PXA, nhưng
Gấu nghĩ
khác!
Đó là cách tạ tội bảnh nhất,
một điệp viên bậc thầy mới nghĩ ra được!
Đừng nghĩ đến chuyện tiền
bạc ở đây, dù mấy chục ngàn đô.
PXA lừa bè bạn, tháng tháng
lãnh tiền Time, tối tối lén
coi tài liệu
mật chuyển
cho VC, báo trước những chiến dịch di chuyển lính Mẽo, để VC làm thịt
họ.
Vậy mà khi công thành danh
toại, PXA lại nhục nhã viết thư xin tiền bạn
cũ, bởi
vì ông nghĩ, chỉ còn mỗi cách đó, hạ nhục mình để tạ lỗi ngày nào.
Đám bạn hiểu ra, nên mới gom
tiền cho PXA.
Gấu nghĩ
ra điều trên là do đọc Le Carré.
Trong Gọi
Người Đã Chết, bà vợ của Smiley bỏ chồng theo trai,
và khi
trai bỏ, viết thư năn nỉ chồng cho mình trở về lại.
Smiley lắc đầu
chịu thua.
PXA chính là
cái bà vợ bỏ chồng theo trai, [làm cho Mẽo, lãnh lương
Mẽo, lừa
Mẽo, đưa tin cho VC làm thịt Mẽo], và cái đám bạn cũ của PXA, là
Smiley, gật
đầu tha thứ cho PXA.
Thư
độc giả, bạn cũ của PXA, The New
Yorker
1 2
3
THE SAIGON
SPY
Thomas A.
Bass's profile of Pham Xuan An, the Time journalist who also spied for
North
Vietnam, includes an interview with Frank McCulloc, An’s boss at Time's Saigon bureau ("The Spy Who Loved
Us," May 23rd). Bass writes, "McCulloch remembers An with tremendous
fondness and respect, and he says it was a 'great pleasure,' in 1990,
to
organize a subscription fund, which raised thirty-two thousand dollars,
to send
An's eldest son .... to journalism school at the University of North
Carolina,
The list of subscribers to the fund reads like a Who's Who of Vietnam
War
reporters." It's easy to imagine the reaction this provokes among those
of
us who served in Vietnam and lost comrades there, friends whose
families often faced
serious financial difficulties after their deaths. Anyone who wonders
why active-duty
military personnel and veterans distrust the mainstream media need only
read
those two sentences.
David Clayton Carrad
Augusta, Ga.
I was a
correspondent for Time in Vietnam, and I knew Pham Xuan An for nearly
ten
years. While spying for the North Vietnamese, An transformed 'Time's
correspondents into an inadvertent worldwide network of spies for
Hanoi. Time
had high-level sources who often provided classified information on the
condition that it would be kept secret and used only as background, The
content
of these confidential briefings was circulated internally in the weekly
"Time memo," which was considered so sensitive that copies were
numbered
and returned after a reading by the editors. The memo contained much
useless
gossip, but also solid-gold insider reports from the White House, the
State
Department, and the Pentagon. The memo was also circulated to Time
bureaus
around the world, which were supposed to take equal precautions, An, as
a Time
reporter, had access to it. I often saw him taking notes from the
Saigon bureau
chief's confidential reports. These would have included briefings by
Generals
William Westmoreland and Creighton Abrams and Ambassadors Henry Cabot
Lodge and
Ellsworth Bunker, which often covered operations and strategy scheduled
for weeks
in the future. Then An would suddenly disappear without a word,
presumably to
brief his comrades in the tunnels of Cu Chi. I have always questioned
the
American journalists who insist on romanticizing An. It is one thing to
have
been against the Vietnam War-many of us were-but quite another to
express
unconditional admiration for a man who spent a large part of his life
pretending to be a journalist while helping to kill Americans.
Zalin Grant
Paris, France
“The New
Yorker”
|