|
28.2.2013
There were
moments, as there were throughout the history of the church, when the
seas were
rough and the wind blew against us and it seemed the Lord was sleeping.
Có những lúc
trong suốt lịch sử Nhà Thờ, biển sóng, dữ, và gió, ngược,
và có vẻ như là Đức Chúa Trời đang ngủ.
Note: Đây là
lập luận của ... Steiner, Chúa vắng mặt khi xảy ra Lò Thiêu!
Tắm trong
cái ánh sáng làm nhớ tới tuyệt tác của danh họa Vermeer, TQLC Mẽo chiến
đấu từ
nhà này qua nhà khác với VC ở Huế, Tết Mậu Thân 1968.
Thơ
Mỗi Ngày
Auden
In Memory of W B. Yeats
(d.January 1939)
Trong ác mộng
của bóng tối
Tất cả lũ chó
Âu Châu sủa
Và những quốc
gia đang sống, đợi,
Mỗi quốc gia
bị cầm tù bởi sự thù hận của nó;
Nỗi ô nhục
tinh thần
Lộ ra từ mỗi
khuôn mặt
Và cả 1 biển
thương hại nằm,
Bị khoá cứng,
đông lạnh
Ở trong mỗi
con mắt
Hãy đi thẳng,
bạn thơ ơi,
Tới tận cùng
của đêm đen
Với giọng thơ
không kìm kẹp của bạn
Vẫn năn nỉ
chúng ta cùng tham dự cuộc chơi
Với cả 1 trại
thơ
Làm 1 thứ rượu
vang của trù eỏ
Hát sự không
thành công của con người
Trong niềm
hoan lạc chán chường
Trong sa mạc của con tim
Hãy để cho
con suối chữa thương bắt đầu
Trong nhà tù
của những ngày của anh ta
Hãy dạy con
người tự do làm thế nào ca tụng.
February
1939
W.H. Auden
Paul Celan
Mẹ có đau khổ không mẹ ơi
PAUL CELAN
AND LANGUAGE
JACQUES
DERRIDA
Q: Would you
say that one must have been, like Celan maybe, capable of living the
death of
language in order to try to render that experience "live"?
A: It seems
to me that he had to live that death at each moment. In several ways.
He must
have lived it everywhere where he felt that the German language had
been killed
in a certain way, for example by subjects of the German language who
made a
specific use of it: the language is manhandled, killed, put to death
because it
is made to say in this or that way. The experience of Nazism is a crime
against
the German language. What was said in German under Nazism is a death.
There is
another death, namely the canalization, the trivialization of language,
of the
German language for example, anywhere, anytime. And then there is
another
death, which is the one that cannot happen to language because of what
it is,
that is to say: repetition, slide into lethargy, mechanization,
etcetera. The
poetic act thus constitutes a kind of resurrection: the poet is someone
who is
permanently involved with a language that is dying and which he
resurrects, not
by giving it back some triumphant aspect but by making it return
sometimes,
like a specter or a ghost: the poet wakes up language and in order to
really
make the "live" experience of this waking up, of this return to life
of language, one has to be very close to the corpse of the language.
One has to
be as close as possible to its remains. I wouldn't want to give in to
pathos
too much here, but I suppose that Celan had constantly to deal with a
language
that was in danger of becoming a dead language. The poet is someone who
notices
that language, that his language, the language he inherits in the sense
I
mentioned earlier, risks becoming a dead language again and that
therefore he
has the responsibility, a very grave responsibility, to wake it up, to
resuscitate it (not in the sense of Christian glory but in the sense of
the
resurrection of language), neither as an immortal body nor as a
glorious body but
as a mortal body, fragile and at times indecipherable, as is each poem
by Celan.
Each poem is a resurrection, but one that engages us with a vulnerable
body
that may yet again slip into oblivion. I believe that in a certain way
all of
Celan's poems "remain indecipherable, keep some indecipherability, and
this decipherability can either call interminably for a sort of
interpretation,
a resurrection, new breaths of interpretation or fade away, perish
again.
Nothing insures a poem against its death, because its archive can
always be
burned in crematory ovens or in house fires, or because, without being
burned,
it is simply forgotten, or not interpreted or permitted to slip into
lethargy. Forgetting
is always a possibility.
From an
interview with Evelyne Grossman, Europe
861-62 (January -February 2001): 90-91.
Ông muốn nói,
một người phải, như Celan, thí dụ, có khả năng sống cái chết của ngôn
ngữ để làm
cho kinh nghiệm này thành “sống”?
Theo tôi,
ông ta phải sống cái chết đó từ mỗi thời điểm, khoảnh khắc. Theo một
vài đường
hướng. Ông ta phải sống nó ở mọi nơi, một khi mà ông ta cảm thấy, rằng,
cái
ngôn ngữ Đức đã bị làm thịt, theo một cách nào đó, bởi lũ Nazi Đức. Lũ
này đã sử
dụng tiếng Đức một cách đặc biệt để hưởng lợi, trục lợi, từ đó [nước
Mít là một,
sông có thể cạn núi có thể mòn, song chân lý này không bao giờ thay
đổi, thí dụ]:
Tiếng nói, ngôn ngữ Mít bị lũ VC thao túng, làm thịt, khi bắt phải nói
thế này,
thế nọ, nói khác là đi tù cải tạo mút mùa lệ thủy. Kinh nghiệm Nazi/VC
là một tội
ác đối với ngôn ngữ Mít/Đức. Điều được nói dưới chế độ VC/Nazi là một
cái chết.
Còn một cái chết khác, là đào rạch, tầm thường hóa ngôn ngữ, bất cứ lúc
nào, bất
cứ ở đâu. Và rồi còn 1 cái chết khác nữa, một cái chết đúng ra không
thể xẩy ra
cho ngôn ngữ, bởi vì nó là ngôn ngữ, đó là, sự lập đi lập lại, chìm vào
hôn mê,
máy móc hoá, etcetera. Hành động thơ ca do đó tạo ra một hình thức tái
sinh,
nhà thơ là một người thường trực mắc míu với một ngôn ngữ đang chết, và
anh cố
làm nó tái sinh, không phải bằng cách đem cho nó một khiá cạnh, sắc
thái huy
hoàng, chiến thắng nào đó, nhưng mà là, làm cho nó, đôi khi, trở lại
như một
bóng ma [Ta về như bóng ma hờn tủi. TTY]: nhà thơ đánh thức ngôn ngữ,
và như thế,
anh ta thực sự làm “sống’ cái kinh nghiệm đánh thức đó, cái sự trở về
lại với đời
sống của ngôn ngữ, người phải luôn luôn thật cận kề với cái cái xác
thân ngôn
ngữ. Người phải gần gụi tới mức tối đa mà người đó có thể, với cái còn
lại, tro
cốt, tro than của ngôn ngữ. Tôi không muốn làm cái trò thở than, vãi
linh hồn ở
đây, nhưng tôi giả dụ, đề xuất rằng thì là Celan đã phải hằng hằng,
liên luỷ ăn
thua đủ [deal] với 1 ngôn ngữ đang trong cơn nguy nàn trở thành 1 ngôn
ngữ chết.
Nhà thơ là một kẻ nào đó, và kẻ này nhận ra rằng ngôn ngữ, ngôn ngữ của
anh ta,
ngôn ngữ mà anh ta thừa hưởng như tôi mới vừa nói, có nguy cơ lại trở
thành 1
ngôn ngữ chết, và do đó, anh ta có trách nhiệm, một trách nhiệm nặng
nề, là đánh
thức nó dậy, làm cho nó tái sinh [tái sinh ở đây không có nghĩa tràn
đầy
hào
quang, ân sủng theo Ky Tô giáo, nhưng mà là theo nghĩa, sự tái sinh của
ngôn ngữ),
không phải như là một cái bất tử, cũng không phải như là 1 cái xác đầy
vinh
quang [như Xác Ướp của Bác ở trong Lăng Ba Đình, thí dụ đểu!], nhưng là
1 cái xác
phàm có sống có chết, mảnh mai, mỏng manh, và đôi khi, không thể giải
mã, như mỗi bài thơ của Celan. Mỗi bài thơ là 1 tái sinh, một sự tái
sinh khiến
chúng ta có thể dấn thân vào 1 cơ thể tầm thường, yếu ớt, rất dễ bị tổn
thương, và có thể, rất dễ lại chìm vào cõi mê, vào giấc hôn
thụy. Tôi
tin rằng, theo một đuờng hướng nào đó, tất cả những bài thơ của Celan
không thể giải mã được, chúng giữ 1 cái sự không thể giải mã nào đó. Và
cái sự
không thể giải mã này kêu gọi một thứ "lại dẫn giải", một tái sinh,
những
hơi thở
mới của diễn giải, hay... diễm xưa dần, và lại điêu tàn, huỷ
diệt. Chẳng
có gì bảo
đảm [insure: bảo hiểm] một bài thơ chống lại cái chết của nó....
Note: Bài viết
của Derrida, tuy ngắn, nhưng thật quan trọng, về 1 vấn nạn mà Mít gần
như lơ
là, tức là về ngôn ngữ Mít, sau Lò Cải Tạo.
Khi dịch
"Phép Lạ Hổng", của Steiner, Gấu đã lờ mờ nhận ra điều này, và chôm 1
câu trong
bài, làm đề từ cho bài điểm cuốn Chuyện Kể
Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn:
For let us
keep one fact clearly in mind: the German language was not innocent of
the
horrors of Nazism.
(Hãy minh bạch
một điều: ngôn ngữ Đức không thơ ngây vô tội trước những điều ghê gớm,
tởm lợm
của chủ nghĩa Nazi.)
George
Steiner, Phép Lạ Hổng (The Hollow Miracle)
Tác
phẩm đầu tay
Nhìn thấy bản tiếng Tẩy, Những
Linh Hồn Chết, thì lại nhớ đến bạn quí, và lần ghé nhà bạn, là khu
thánh
địa có nhà của BHD, khi đó còn ở đường Phan Đình Phùng, trường Kiến
Thiết, ở 1
con hẻm Trần Quí Cáp, nơi em học những năm tiểu học, quán cà phê
hủ tíu
ngã tư Lê Văn Duyệt & Trần Quí Cáp, nơi vẫn thường ngồi đợi em đưa
cô em
gái đi học - thì cũng vẫn trường Kiến Thiết cô chị ngày xưa học – khi
gia
đình đã dọn lên con phố Gia Long, căn nhà số 293 sau là địa chỉ Hộp Thư
Tòa Soạn Tập San Văn Chương [nhờ vậy mà còn nhớ
được số nhà!] rồi những quán bán sách báo cũ dọc theo đường TQC, nơi
lục lọi
những số báo nrf, sci-fi, những cuốn série noire đầu tiên trong đời…
Lần đó,
ghé là vì bạn lỡ phán, tối ghé nhà tao chơi nhé, khi ghé Bưu Điện gửi
thư, thấy
thằng bạn cũ lúc này ghiền, ngồi vỉa hè làm nghề viết mướn. Bạn kêu Chị
Hai,
thực ra là người làm trong nhà từ bao đời, lấy cho nó 1 cái áo sơ mi
cộc tay
cũ, đang mặc…
Thấy cuốn Les Âme Mortes
trên bàn, bèn hỏi mượn, bạn tuy không khứng, nhưng cũng đành gật đầu,
giao hẹn,
cái áo thì cho luôn, nhưng cuốn sách phải trả lại tao đấy nhé!
Trả thế đéo nào được!
Chuyện đau lòng này thì cũng đã
kể đâu đôi ba lần rồi, cho cái xác
của Gấu Cà Chớn nghe, lần gặp trôi lềnh bềnh trên sông Mékong. Vị bạn
thân K, còn là 1 trong tả hữu hộ pháp của trang TV, chắc là cũng đau
lòng
giùm, nên
bèn chúc sinh nhật GCC năm ngoái:
Chúc anh Trụ một ngày SN thật
thoải mái, không nghĩ chi về ai hết,
không lo chi chuyện tây, chuyện ta gì hết , chỉ nghĩ tới mình và những
bài thơ
đã làm, đang làm, và sẽ làm thôi.
Mua bản tiếng Tây, là vì bài
intro, thật tuyệt.
Và cũng để lèm bèm
thêm, nhân đọc ông anh phán về cuốn này, trong số Vấn Đề
mới được BVVC gửi cho đọc.
Tks All of U
NQT
Câu Lạc Bộ của
những kẻ mà bản văn bị vất vô thùng rác!
Gấu vẫn thường tự hỏi,
giai thoại thần sầu, trong 1 bài
viết về Dương Nghiễm Mậu của Mai Thảo, có… thực
không, qua đó, Người kể là đã nhặt cái
truyện ngắn làm nên tên tuổi họ Dương, từ 1 thùng rác 1 tòa soạn 1 tờ
báo văn học ở Xề Gòn
Bởi
là vì Người đã từng lầm TTT với 1 tên thợ sắp chữ, và tay này còn hỗn
láo dám
ngửa tay xin Người 1 điếu thuốc lá!
Nhưng cái truyện ngắn đầu tay của Gấu, Những
Con Dã Tràng, quả là bị tờ Văn
Nghệ của băng Dương Nghiễm Mậu & Ông Số 2
& Lý Hoàng Phong vất vô thùng rác, dù Gấu đếch gửi cho băng này.
Bài viết trên của
Vila-Matas thực thú vị. Tiếc là cả hai mục, một do ông phụ
trách, và 1 do Linda Lê, "Trở về với những tác giả cổ điển", đã bị tờ
ML bỏ đi.
Gấu mua tờ ML chỉ vì hai bài đó.
Vào những
đêm đầy trăng, người ta vưỡn còn nhìn thấy Gide và Proust cãi nhau ỏm
tỏi, về
giá trị thực, của 1 bản thảo bị vứt vô thùng rác.
Với Gấu, thì là, cho đến bây giờ, vưỡn tự hỏi, liệu "đám ngu" kia có
đọc được cái truyện ngắn của Gấu không, hay là chỉ là do đếch thuộc
băng của họ?
Hà, hà!
Bởi là đó là
1 truyện ngắn thần sầu. Cứ như Bà Cụ của TTT kể lại cho thằng con nuôi
của Cụ,
là Anh Cu Gấu nghe, thì là, thằng Tâm nó nói, mày viết truyện ngắn,
được lắm, và… tương lai còn đi xa hơn
Dương
Nghiễm Mậu!
Hà, hà!
Sáng Tạo tính
đăng, nhưng liền sau đó, báo chết, và Gấu thấy tên của Gấu, là Sơ Dạ
Hương, lúc
đó, trong mục Hộp Thư của tờ Văn Nghệ, và bèn suy ra là TTT gửi đống
bản thảo của
tờ Sáng Tạo qua cho tờ Văn Nghệ.
Phải đến mãi
sau đó, khi Gấu bị VC cho xơi hai trái mìn đếch chết, trong khi dưỡng
thương tại
Đài Liên Lạc TVD, đọc tờ Nghệ Thuật, thấy cái bài thơ của Cao Thoại
Châu, thế là
bèn hứng lên, lôi mớ bản thảo ra, sửa lại, và nhờ Trần Công Quốc, khi
đưa vợ đi
làm [bà xã của TCQ là 1 nữ điện thoại viên trên Đài], đưa cho TTT. Đó
là cái
truyện Những Ngày Ở Sài Gòn.
Vẫn chuyện liên
quan tới tác phẩm đầu tay.
Trên TLS số
15.2.2013, có 1 bài viết thực là thú vị, của 1 nhà văn Nga, Boris
Akumi:
"Mishima và tôi". Đọc cái tít, là biết ngay, ông là 1 dịch giả.
Quả như thế, bài
viết trên, còn có nhan đề là "Lời thú tội của 1 nhà dịch giả".
Akumi cho biết, ở
cái xứ Nga tồi tệ, là nhà văn là 1 điều thật xẩu hổ, nhục nhã, nhưng là
1 nhà dịch
thuật, thì đúng là nghề sạch sẽ nhất trên đời.
Ui chao, Gấu
cũng có cảm tưởng như thế, khi đọc những bản dịch của Miền Bắc, những
ngày sau
30 Tháng Tư, của những đấng đáng sư phụ của Gấu về tiếng Tây, khi dịch
những
tuyệt tác cổ điển như Đỏ và Đen,
hay Những Linh Hồn Chết.
Là nhà dịch
thuật nổi tiếng, rồi mới nhảy qua viết tiểu thuyết.
Tin Văn sẽ giới thiệu bài
viết này, nhân đọc 1 entry của NL về sách dịch MB trước 1975 so với
Miền Nam.
Cũng
trước 1975.
Before becoming the
successful Russian novelist famed as Boris
Akunin, Grigory Chkhartishvili was a literary translator in Moscow and
much
less famous for his translations from the Japanese. In this week's
Commentary,
he evokes the distinctive climate of his youthful literary life in the
Soviet
Union, where to be a writer (especially a "published" one) might be
thought shameful, while to be a translator was the "cleanest"
profession of all, bar medicine. "Stalin's directorship of the writing
world was awful for Russian literature, which quickly lost all of its
previous greatness",
he writes, "but it proved to be a blessing for literary translation",
which "rose to an incredible height". Discarding the well-worn
comparisons of translators to "post-horses of enlightenment" or
gardeners transplanting foreign trees, Akunin recalls the pleasure he
found in
(metaphorically) "restoring a work of art, covered by an ugly and
irritating layer of foreign language that didn't let Russians admire
it".
In the process he turned himself into a "Russian Mishima", attending
to the inner "melody" (silent in the English translations he knew) of
an author considered at the time "an epitome of decadence, moral
corruption and political subversion, a devil reincarnate". In a mood of
nostalgia
prompted by this month's awards ceremony in London for translators into
English
(part sponsored by the TLS), he leaves us wondering which of his two
careers
was the true "whim", the real "diversion".
Tribute to
Phạm Du
«
La musique. Qui est, avec les mathématiques, la seule langue
universelle. Signifiante au plus haut point, elle refuse toute
paraphrase,
toute traduction. Au-delà du bien et du mal, elle incarne un sens du
sens
autrement indicible et l'indice du transcendant. "Je suis ce que je
suis." L'univers cesserait-il, dit Schopenhauer, la musique
persisterait. »
Car si la musique en soi
est étrangère au bien et
au le mal, elle se déploie, indifféremment semble-t-il, dans la sphère
du divin
comme dans celle de l'infernal. Doktor
Faustus, le grand roman musical dans lequel Thomas Mann interroge
et
dénonce le voisinage entre esthétisme et barbarie, s'inscrit sur le
fond
apocalyptique du nazisme et de la Seconde Guerre mondiale; de manière
éminemment signifiante, Adrian Leverkühn a signé un pacte avec le
diable, mais
sa musique - exigeante, somptueuse et fouudroyante- se joue du bien et
du mal, elle
se meut en sa propre sphère.
One final
legend, and my chronicle
Is finished:
the task ordained by God...
Pushkin,
Boris Godunov
Một giai thoại
chót, và ký sự tù VC của tôi,
hoàn tất.
Đây là do
Ông Trời hành tôi.
D.M. Thomas người viết
tiểu sử của Solz, "Solzhenitsyn, thế kỷ ở trong ta", cho biết, ông mê
nhất đoạn sau đây,
trong lời Tựa của Solz, mở ra Gulag:
Vào năm 1949
tôi và vài người bạn vớ được một ghi chú thật đáng tiền, trong tạp chí Nature,
của Viện Hàn Lâm Khoa Học, về một vụ khai quật một vùng băng nằm dưới
những tầng
đáy ngầm của sông Kolyma River. Trong tầng băng ngầm đó, có một con
suối, và
trong con suối, họ khám phá ra một thứ sinh vật tiền sử [a prehistoric
fauna]
cách chúng ta chừng hàng chục ngàn năm. Chúng được bảo quản tuyệt vời
đến nỗi,
còn tươi rói. Thế là cả đám người bèn đập bể mảng băng ra, và cứ thế
nhai sống
nuốt tươi sinh vật tiền sử đó!
Solz tiếp tục
tưởng tượng ra sự kinh ngạc của độc giả tờ tạp chí, về một thứ sinh vật
từ bao
nhiêu ngàn năm trước còn tươi rói, nhưng đồng thời, dúm bạn bè của ông
cùng hiểu
ngầm với nhau, về cái ý nghĩa đích thực và hùng tráng của một 'mẩu tin
vô ý vô
tứ như thế', ['thiếu cẩn trọng', chữ của Solz.], ấy là nói, về phiá
'nhà nước
ta'.
Solz. viết,
chúng tôi hiểu, liền lập tức, sự thực của câu chuyện, bởi vì chính
chúng tôi,
đã từng là đám người đó. "Chúng tôi, cũng như thế, cũng thuộc về cái bộ
lạc zeks, độc nhất
trên mặt đất này, những con người có thể ăn sống nuốt
tươi, sinh
vật tiền sử, với hứng thú, with
relish".
Hai Lúa cũng
đã từng trải qua kinh nghiệm trên đây rồi. Những ngày cải tạo. Và cái
sinh vật
tiền sử kia, thực sự chỉ là một con tép, tình cờ quơ được trong khi
trầm mình
dưới lòng kinh.
Đó là lần đầu,
Hai Lúa biết cái ngon, cái ngọt, cái tươi, cái mát, của một con tép rẫy lách nhách ở kẽ răng.
Di cư vào
Nam, sống ở Sài Gòn, học hành, tốt nghiệp, làm việc ngay tại Sài Gòn,
chỉ tới một
ngày trầm mình trong một con kinh ta đào đã có nước chảy qua đó, Hai
Lúa mới được
thưởng thức một con tép tươi rói, quẫy ở giữa những cơn đói triền
miên...
Bao nhiêu
năm trời, Hai Lúa vẫn còn nhớ y nguyên những ánh mắt thèm thuồng của
chúng bạn,
và một thằng trong đó, hét lên:
-Đợp liền nó
đi, thằng ngu!
Bài tưởng niệm
PD, phần thứ nhì, chưa viết, mới thần sầu: Giai thoại chót, và ký sự tù
VC của
Gấu, hoàn tất.
.... the
task ordained by God: Đó là do Ông Trời
hành Gấu Cà Chớn!
Văn chương lạnh
Ghi
chú
trong ngày
Royal Bodies
Hilary
Mantel
Hilary
Mantel and the monarchy
A royal mess
Viết bên lề
"Bên Thắng Nhục
Trăm Năm
Camus
Ghiền
Này,
nhìn
này, bé
Rượu đỏ thì vô bằng miệng
Yêu, bằng mắt
Đó là tất cả chúng ta sẽ biết về sự thực ở đời
Trước khi chúng ta trở nên già và chết
Ta cầm ly rượu lên miệng
Nhìn bé, và thở dài đánh sượt 1 phát
"Tôi
thích quán nhậu khi họ mở cửa cho cữ chiều. Khi không khí bên trong
quán còn
mát, và sạch và mọi thứ thì sáng long lanh, và tay giữ quán tự ban cho
mình 1
cái nhìn chót, khi nhìn vô gương, để coi xem cái cà vạt của anh ta có
OK hay là
không, và tóc tai mượt mà ra làm sao. Tôi thích những chai rượu xếp
ngăn nắp
phía sau quầy rượu và những cái ly sáng choang đáng yêu biết là chừng
nào và
cái sự ‘dzô, dzô, một trăm em ơi, chiều nay một trăm phần trăm’, của
chúng. Tôi
thích nhìn tay làm rượu trộn ly đầu tiên của buổi chiều, để nó xuống
miếng vải
lót ly, và để 1 cái khăn lau miệng nho nhỏ, được gấp lại ở kế bên. Tôi
thích nếm
ly rượu chầm chậm. Cú uống trầm lắng của buổi chiều trong 1 cái quán
trầm lặng
- ôi chao, tuyệt cú mèo làm sao!"
Tôi đồng ý với anh ta.
“Rượu thì giống như tình yêu," anh ta nói. “Cái hôn đầu thì mới huyền
diệu
làm sao, cái thứ nhì, ‘mình vào đời nhau’, cái thứ ba, ‘đến hẹn lại
lên’. Sau
đó, bạn lột trần truồng em ra và phán 1 phát”. (1)
(1)
Mấy bữa nay
bác viết hay ghê – hết viết tục rồi.
Cám ơn nhiều.
Tks. NQT
Anh Nguyễn
tuyệt quá, càng già càng dẻo càng dai - Hổng khác gì con trai!!. Cầu
chúc anh mạnh
khỏe nhiều nhiều để còn cho ra những bài thật tuyệt.
Tks. NQT
Không viết tục,
nhạt miệng lắm. Bọ Lập trần tình với độc giả. Với riêng Gấu, nó là thứ
“chim mồi”,
ở những người quá đát. Cái bài viết Nước
Mắm Lá Chuối tình cờ kiếm lại được,
hóa ra là viết dở, rồi bỏ ngang, đến cái tít cũng chưa giải thích được,
và nó –
cái tít - là 1 hình ảnh tuyệt vời, giống như những hình ảnh tuyệt vời
của 1 miền
đất, như những “cá rô cây, cá gỗ”... Khi bỏ vô Nam, Gấu giữ cho riêng
mình 1
số kỷ niệm, hình ảnh, của cái làng Bắc Kít của Gấu, trong đó có "Nước
Mắm
Lá Chuối".
Re: Mấy bữa
nay.
Quả là khủng thật, khách
viếng thăm nườm nượp, như đi đền Thánh Trần
cầu Phúc,
thứ thiệt, không phải thứ này:
Bây giờ, lúc rạp mình trước đức Phật là lúc tâm chúng sinh bất an nhất.
Cô Tư: Sốt Ruột Tháng Giêng
18 Feb 2013 |
399 |
623 |
2,345 |
161.98 MB |
19 Feb 2013 |
521 |
1,128 |
3,140 |
201.28 MB |
20 Feb 2013 |
495 |
1,368 |
3,263 |
182.71 MB |
21 Feb 2013 |
264 |
650 |
2,228 |
170.28 MB |
22 Feb 2013 |
206 |
364 |
1,816 |
127.31 MB |
23 Feb 2013 |
518 |
2,101 |
4,173 |
203.98 MB |
24 Feb 2013 |
480 |
2,185 |
4,347 |
197.63 MB |
25 Feb 2013 |
434 |
2,263 |
4,545 |
223.87 MB |
26 Feb 2013 |
508 |
1,540 |
4,588 |
274.24 MB |
27 Feb 2013 |
564 |
3,374 |
5,709 |
306.93 MB |
28 Feb 2013 |
236 |
385 |
1,256 |
80.86 MB |
Average |
352 |
1,238 |
3,210 |
182.88 MB |
Total |
9,881 |
34,687 |
89,905 |
5.00 GB |
Con số
hàng
đầu, là số khách viếng thăm Tin Văn mỗi ngày. Khách không tăng, nhưng
lần thăm
tăng. Thường, 1 vị, thăm từ 1- 4 lần/1 ngày.
Tks. NQT
Đại Lục Kim Dung
Và
cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất lấy quán cà phê làm bối cảnh hẳn là “Ở
quán cà
phê của tuổi trẻ lạc lối” của Patrick Modiano, sắp được xuất bản tại
Việt Nam.
Blog NL
Tếu thật, Gấu
mua cuốn trên, là cũng tính làm"chim mồi", nhằm làm sống lại cái quán
ngày xưa
hay ngồi với BHD mỗi buổi sáng trên đường chở em tới trường.
Gấu đã
từng viết về
cái quán này, thời gian làm cho ông Nhàn, chủ nhà xb Vàng Son, và còn
chủ
trương 1 tờ báo Thiếu Nhi, giao cho Từ
Kế Tường trông coi. Gấu bèn đóng góp bài vở, và cái bài Gấu viết, là về
cái
quán xưa, cái gì gì, “như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông,
bèn
đánh dấu
vào mạn thuyền, nơi cây gươm rớt xuống, chàng trở lại quán xưa, tìm dư
âm ngày
tháng cũ, dấu hài của BHD trên ngọn cỏ mờ sương…”, ái chà chà, vãi linh
hồn quá
sá… Ông Nhàn đọc, kêu Gấu tới, lắc đầu, báo thiếu nhi mà sao anh đi bài
này!
Cái bài viết
ngắn đó, Gấu lôi ra viết lại, và cho đăng trên Tập San Văn Chương, khi
quen
Joseph Huỳnh Văn, và Nguyễn Tử Lộc, và vì cả hai mà Gấu nhận lời viết
cho tờ báo
này, dù cả đám đều là bạn quí của Gấu ngày nào cả!
Gấu nhớ là
Nguyễn Tử Lộc mê quá; anh gật gù, làm chủ ngòi viết được đến như thế,
thì cực là
bảnh.
Nguyên con cái tít, là 1
câu được tác giả dùng làm đề từ, và theo
như câu
này, thì "perdue", không thể dịch là “lạc lối”, mà là, “mất mẹ
nó rồi”, như cái quán ngày nào của Gấu, thuộc về 1 tuổi trẻ đếch
còn, như
Sài Gòn cũng đếch còn:
À la moitié du chemin
de la vraie vie, nous étions environnés d'une sombre
mélancolie, qu'on exprimé tant de mots railleurs et tristes, dans le
café de la
jeunesse perdue
Guy Debord
[Tạm dịch: Ở
cái đoạn nửa đời người, chúng ta bị bao quanh bởi 1 thứ buồn buồn ảm
đạm, và
bèn diễn tả nó, bằng vô số là từ, tếu và buồn, ở quán cà phê tuổi trẻ
đã mất]
Note: Đọc lại,
thì Gấu hiểu ra, cái từ "lạc lối", tương tự "Lạc Đường" của Đào Hiếu,
và có thể đây là lý do Modiano trích câu của 1 ông Mác Xị làm đề từ
cuốn truyện
của ông về 1 thời cà phê cũng buồn, như tuổi trẻ vậy:
Ôi tuổi trẻ
quá buồn
Như bàn ghế
không bày
Thơ TTT, nhớ
đại khái, trong Liên Đêm, hình như vậy. (2)
Cái hình ảnh
“bàn ghế không bày” này, là cũng của riêng Sài Gòn, của những người
khách lấy
đêm làm ngày của nó. Bạn phải đi qua 1 con phố nhiều hàng quán, vào lúc
nửa đêm về sáng, và nhìn vào những khung cửa sổ, đèn bên trong sáng
trưng, những
chiếc ghế được lật ngửa, treo lên mặt bàn, thì mới cảm khái hai câu thơ
trên!
"Buồn
vào hồn không tên, thức giấc nửa đêm", là cũng ý
đó!
Bạn phải
nghe 1 bướm của Sài Gòn, vào lúc nửa đêm, bật lên câu hát, ở ngay cái
chỗ PD ca
ngợi, cái gì gì, “con đuờng Duy Tân, cây dài bóng mát, uống ly chanh
đường, uống
môi em ngọt”, thì mới hết sẩy con cào cào!
Hà, hà!
Lan Hương
Chàng sẽ gọi
hai tô mì nhỏ và hai ly cà phê sữa, ly ít cà phê dành cho tôi; cả hai
ngồi yên
lặng, chăm chú nghe những người ngồi bàn bên cạnh – những người phu
quét đường,
những công nhân một tư sở phía bên kia đường, một hai công tư chức... –
trò
chuyện. Những câu chuyện của họ thật bình thường, giản dị cũng như
những cử chỉ
của họ, khi châm điếu thuốc, khi đổ cà phê từ chiếc ly ra lòng đĩa; câu
chuyện
cùng tiếng nói giống như những giọt cà phê đổ ra, vừa đủ, không dư,
không thiếu,
khi chăm chú nghe, câu chuyện vừa bắt đầu, khi không muốn chú ý đến
nữa, câu
chuyện chấm dứt; giống như những làn khói thuốc lởn vởn chập chờn trước
mắt,
lúc hết tò mò, tất cả đột nhiên tan biến vào không khí buổi sáng mát
lạnh.
Ngay bây giờ,
vào buổi chiều, lâu lâu tôi còn nghe một giọng gọi tên tôi, ở nơi con
phố. Một
giọng khàn khàn. Giọng kéo dài ở âm cuối, và tôi bèn nhận ra liền,
giọng của…
BHD.
Tôi quay người lại, chẳng có ai.
Không chỉ buổi chiều mà còn ở khoảng rỗng
của xế trưa hè mà chúng tôi chẳng còn nhớ, hè nào, năm nào.
Tất cả sẽ lại bắt đầu
như trước. Cũng vẫn những đêm đó, những gặp gỡ, nơi chốn đó, Quy hồi
vĩnh cửu.
BHD trở về, trở về, hoài hoài….
GNV
Guy Debord.
Gấu chưa từng đọc. Tình cờ, trong khi kiếm 1 số báo Lire, hay ML, về tác giả Cà
Phê Buồn Của Tuổi Trẻ Mất Tích, thì lại vớ được 1 số báo ML xưa, [Juin,
2001], về Guy Debord,
một tay làm phim, và… Mác Xịt.
Trong số báo này, có bài của tay Jean
Baudrillard
thật tuyệt, "Vào cái thời đó đó - thời của Guy Debord, cuối thập niên
1960, ý niệm
cách mệnh vưỡn còn", “À cette époque, le concept de révolution existait
encore”.
Còn Sollers thì gọi Debord là siêu hình gia, métaphysicien.....
Ui chao, còn
quá đi chứ. Đào Hiếu, vào thời đó đó, chạy xe Honda tà tà đường phố Xề
Gòn, đi
ngang trạm gác Ngụy, tiện tay, thả trái bom, rồi đi tiếp. HPNT vừa lên
lớp giảng
về Cách Mạng vừa xuống đường biểu tình chống Mỹ Diệm Ngụy...
Những ngày ở
Sài Gòn (1965)
Mai, Mai, để
anh kể cho em nghe về một thành phố mà anh vừa biết yêu nó thì phải rời
bỏ, một
quãng đời của anh, bây giờ nhớ lại thấy đâu đó trong quá khứ những trái
sấu
vàng vương vãi, tiếng lá vàng xào xạc, tiếng còi mười giờ chạy dọc theo
con phố
Tràng Tiền. Mùa Thu, màu thu Hà Nội, những lá cây vàng úa, hàng cây hai
bên đường
hình như cao thêm, thành phố trang nghiêm và buồn rầu như đang trầm
ngâm suy
nghĩ, buổi sáng trong suốt không vẩn một hạt bụi, tiết trời lành lạnh
người ta
quên đi, rồi đột nhiên nhớ lại, và chút giá lạnh đã len vào tâm hồn;
buổi chiều
sẽ bất chợt trở về, những con đường sẽ im lìm và trầm lặng hơn như giấu
giếm một
tiếng thở dài; chúng như bị bỏ quên, trừ một hai cặp tình nhân đi lại,
hoặc một
hai đứa nhỏ tha thẩn… Để anh kể cho em nghe về một thành phố mùa thu có
những hạt
mưa nhỏ như những hạt bụi bay trong gió, mùa hè vàng nắng đã qua đi từ
lâu cùng
những buổi tắm sông, nằm trên cát nóng bỏng, nhìn thẳng vào mặt trời.
(2)
Trong Dạ Khúc,
1 trong những bài thơ thần sầu của Liên
Đêm:
Ôi môi em như
mật đắng thì chửi bố ông
PD mất rồi!
Hà, hà!
Hay:
Hay nửa đêm
Hà Nội,
Anh là thằng
khùng
Ôm em trong
tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Hóa ra câu
thơ thần sầu này, là cảnh nhà thơ từ biệt Hà Nội, và Liên.
Dạ khúc
Anh sợ những
cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện
cuốn lấy chúng ta
Bóp chết mọi
hi vọng
Nên anh dìu
em đi xa
Ði đi chúng
ta đến công viên
Nơi anh sẽ
hôn em đắm đuối
Ôi môi em
như mật đắng
Như móng sắc
thương đau
Ði đi anh
đưa em vào quán rượu
Có một chút
Paris
Ðể anh được
làm thi sĩ
Hay nửa đêm
Hanoi
Anh là thằng
điên khùng
Ôm em trong
tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Chiếc kèn
hát mãi than van
Ðiệu nhạc gầy
níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ
quá buồn
như con mắt
giận dữ
Sao tuổi trẻ
quá buồn
như bàn ghế
không bầy
Thôi em hãy
đứng dậy
người bán
hàng đã ngủ sau quầy
anh đưa em
đi trốn
những giày
vò ngày mai
TTT
Ôi chao, đọc
bài thơ thì phải nghe bài Jazz này:
Smoking My Sad Cigarette
TTT mê bài này lắm.
Không chỉ bài này, mà còn Let me go, lover. Patti Page ca (1)
|
|