|
Kiếm ra cuốn
cũ, có cái hình là bức tượng của Rodin.
Có cả hai thì cũng tuyệt quá, vì cái
phần hồ sơ, dossier, râu ria, khác hẳn nhau, bổ túc nhau.
Hà, hà!
TTT viết nhiều
văn xuôi, nhưng "cốt" của ông là thi sĩ. Những người đọc văn ông, mà
mê, thì là
do chất hung bạo, thời cuộc của nó, và dù sao, thì cũng dễ đọc, so với
thơ, nhất
là thứ thơ bị coi là hũ nút.
Võ Phiến, qua lời kể của Kiệt Tấn, phán, TTT là nhà
văn chứ không phải là nhà thơ.
TTT, qua Ninh Hạ kể, thời gian ở tù VC chung,
cho biết, ông thích làm thơ hơn viết văn.
Và nếu TTT viết văn, thì cũng là 1 cách
làm thơ! Khi đọc Bếp Lửa, lần
tái bản 1972 (?), Gấu đã nhận ra, và vạch ra điều này,
trong bài viết “Bếp Lửa trong văn chương”.
Hai cuốn tuyệt
nhất của ông là Bếp Lửa, và Một Chủ Nhật Khác, và, tuyệt nhất
ở trong đó, là những
câu thơ, theo Gấu. Bởi vì là những câu thơ, cho nên chúng "loạng quạng"
so với dòng kể, và đây là 1 điều mà, một trong những độc giả của ông,
còn là nhà
văn, cũng
quen thân với Gấu, cũng đi tù chung với ông, và cũng rất mê TTT, nhận
ra:
Văn của
TTT không thoáng, không tự nhiên so với văn của GCC!
Hà, hà!
Khi cố gò
“văn” thành “thơ” thì mạch văn sẽ bị hỏng cẳng.
Trường hợp
TTT làm Gấu nhớ tới Rilke.
Sau đây, sẽ
viết về Rilke, đúng hơn, sẽ giới thiệu bài viết về Rilke của Coetzee,
và nhân đó,
chúng ta so sánh hai nhà thơ, qua cái gọi là “đứa con tư sinh” của 1
miền đất
[TTT viết về chính ông], và “thi sĩ đếch có nhà” [Rilke].
Rilke by Banville
Thư gửi một
nhà thơ trẻ
Phạm Thị
Hoài dịch
Số phận bản
văn
Khi xb tác
phẩm của Rilke, Oeuvres, nhà xb Seuil,
cũng như trong tủ sách Pléiade, Thư
gửi thi sĩ trẻ được để vô thơ xuôi, hoặc tiểu
luận, chứ không phải Trao đổi, Correspondance. Như thể thư [Lettres]
xoáy vào
nghệ thuật thơ [un concentré d’art poétique], bỏ qua thời điểm xuất
hiện của
chúng (1903-1908).
Số phận của tuyển tập thư [lettre] cũng đặc biệt: nó được biết
đến nhiều ở Pháp. Đám chuyên gia, phê bình gia thường lèm bèm về “góc
độ thơ” hơi
bị nhảm của nó [Pourtant de nombreux spécialistes ont crié à
l’escroquerie littéraire]:
chiều hướng thơ [le dimesion poétique] của tiểu luận, hơi bị yếu, và
chẳng có gì
hỗ trợ cho tiếng nói cà chớn của 1 nhà thơ nhóc tì, (Rilke), anh ta 27
tuổi, khi viết lá
thư đầu, so với đại thi sĩ, [thì cũng vẫn là] Rilke, tác giả của 1 tác
phẩm, sau đó xuất hiện,
và được coi là độc nhất vô nhị trong thế giới thi ca: Élégies de Duino.
Tuy nhiên,
qua những lá thư, thì người ta lại nhìn ra 1 giai đoạn chuyển tiếp của
Rilke, một
sự hoá thân đau thương và chậm chạp, từ 1 nhà văn hơi mùi mẫn, và hiếm
quí, un
peu sentimental et précieux, thành 1 giọng thơ cất lên tột bực, trong
những âm điệu
tiên tri và gần như thần bí, une voix poétique s’élèvera souveraine en
accents
prophétiques et presque mystiques.
Tác
phẩm đầu tay
Trong khi chờ
Gogol
Note: Bài
này, tháng nào cũng hót, theo server!
Gừng càng
già càng cay. Những linh hồn chết của
Gogol lại sống lại với bản tiếng Anh, mới,
của nhà Penguin.
Tuồng ảo hoá
đã bầy ra đấy: đầy người và vật, trong cõi thực mấp mé bờ siêu thực.
Nabokov,
trong một bài tiểu luận lớn, và độc đoán, coi Những Linh Hồn Chết, một thứ
"Văn Đẻ Ra Đời", trong đó, những câu kệ của Gogol, giống như những
câu thần chú, kêu gọi ra một thế giới, và thế giới này có thể, hoặc
phát triển
hoặc huỷ diệt, thì đều theo cùng một cách, là khùng điên ba trợn.
Gogol gọi,
đây là một "bài thơ" (1), và theo một số đường hướng, tác phẩm tiếng
Anh gần gũi nhất với nó, là The
Canterbury Tales, trong đó, nhịp điệu văn không
những làm tăng thêm, mà còn tạo ra cái bất ngờ khoái tỉ về chi tiết,
của người
và vật.
Nabokov cũng
bị ảnh hưởng Gogol, trong "Nhạt Lửa" ("Feu Pâle", 1962),
câu chuyện một gã khùng cứ nghĩ mình là vua. Trong một tiểu luận về
Gogol
(1944), dành cho những độc giả không chuyên, không rành tiếng Nga,
Nabokov đã
đưa ra một Gogol với một tầm nhìn lớn, nhưng luôn bám vào chi tiết. Ông
nhấn mạnh
tới tính mỹ học nội tại của bản văn, theo đó, nghệ phẩm không phải là
phát ngôn
viên của tác giả: nó muốn là chính nó, sáng tạo ra thực tại cho chính
nó. Ông
viết:
"Chiếc
Áo Khoác" của Gogol là một cơn ác mộng tối tăm và thô kệch đã chọc
những lỗ
thủng đen ngòm vào dòng đời chẳng có chi là rõ ràng. Một độc giả phiến
diện sẽ
chỉ coi đây là một câu chuyện của một tên hề quá lố. Một độc giả
"nghiêm
túc", coi đây là một tố cáo chế độ thư lại ghê tởm của nước Nga. Nhưng
đây
là một tác phẩm không dành cho bất cứ độc giả nào không biết cười,
không thèm đến
phát điên, một tác phẩm làm cho mình "đau đầu". Hãy tóm lấy một độc
giả có đầu óc sáng tạo: đây là một câu chuyện dành cho anh ta. Và với
độc giả
này, Gogol chính là một bậc kỳ tài, về phi lý. Ở đây, là nghệ thuật
chống lại
cái thực, là hiện thực huyền ảo, là thế giới được tái dựng lại…
NQT
(1)
Trong lời tựa,
bản tiếng Việt, dịch giả Hoàng Thiếu Sơn viết rõ hơn: Puskin đã từng
khuyên
Gôgôn sáng tác Những linh hồn chết
thành một thiên 'trường ca' - poema - Chữ
"poema" đây không phải có nghĩa là một tập thơ mà là một tiểu thuyết
trường thiên có tính sử thi rộng lớn. Đến khi xuất bản tác phẩm, Gôgôn
cho in
lên bìa chữ "poema" to hơn tên sách.
*
Why do
you think Gogol interested you?
SIMENON:
Maybe
because he makes characters who are just like everyday people but at
the same
time have what I called a few minutes ago the third dimension I am
looking for.
All of them have this poetic
aura. But not the Oscar Wilde kind-a poetry which
comes naturally, which is there, the kind Conrad has.
Theo ông, tại
sao Gogol lại làm ông quan tâm?
Có thể, bởi
vì ông ta tạo ra những nhân vật giống y hệt những con người hàng ngày,
nhưng
cùng một lúc, họ có cái, lúc nẫy tôi có nói, cái chiều thứ ba mà tôi
tìm kiếm.
Tất cả họ đều có cái mà tôi gọi là hào quang thơ. Không phải
kiểu của Oscar
Wilde - một thứ thơ đến một cách tự nhiên, cái thứ mà Conrad có.
The Paris
Review Interviews, vol. 3
Bản tiếng
Tây lại đưa ra 1 lời giải thích khác về từ “Poem”, đã từng gây xì căng
đan,
hay, chế nhạo, ở nơi những địch thủ của Gogol. Theo anh Tẩy, có thể
Gogol, do cẩn
thận, vì trong truyện có vụ mua linh hồn người chết - đề là "thơ" cho
nó chắc ăn - có thể là do Pouchkine, khi đề nghị, nên làm thơ chứ đừng
viết văn!
Nhưng câu trả
lời của Simenon liên quan tới chúng ta ở đây, nghĩa là, liên quan tới
TTT, tác
phẩm đầu tay, thơ "vs" văn xuôi của ông.
TTT viết nhiều
văn xuôi, nhưng "cốt" của ông là thi sĩ. Những người đọc văn ông, mà
mê, thì là
do chất hung bạo, thời cuộc của nó, và dù sao, thì cũng dễ đọc, so với
thơ, nhất
là thứ thơ bị coi là hũ nút.
Võ Phiến, qua lời kể của Kiệt Tấn, phán, TTT là nhà
văn chứ không phải là nhà thơ.
TTT, qua Ninh Hạ kể, thời gian ở tù VC chung,
cho biết, ông thích làm thơ hơn viết văn.
Và nếu TTT viết văn, thì cũng là 1 cách
làm thơ! Khi đọc Bếp Lửa, lần
tái bản 1972 (?), Gấu đã nhận ra, và vạch ra điều này,
trong bài viết “Bếp Lửa trong văn chương”.
Hai cuốn tuyệt
nhất của ông là Bếp Lửa, và Một Chủ Nhật Khác, và, tuyệt nhất
ở trong đó, là những
câu thơ, theo Gấu. Bởi vì là những câu thơ, cho nên chúng "loạng quạng"
so với dòng kể, và đây là 1 điều mà, một trong những độc giả của ông,
còn là nhà
văn, cũng
quen thân với Gấu, cũng đi tù chung với ông, và cũng rất mê TTT, nhận
ra:
Văn của
TTT không thoáng, không tự nhiên so với văn của GCC!
Hà, hà!
Khi cố gò
“văn” thành “thơ” thì mạch văn sẽ bị hỏng cẳng.
Trường hợp
TTT làm Gấu nhớ tới Rilke.
Sau đây, sẽ
viết về Rilke, đúng hơn, sẽ giới thiệu bài viết về Rilke của Coetzee,
và nhân đó,
chúng ta so sánh hai nhà thơ, qua cái gọi là “đứa con tư sinh” của 1
miền đất
[TTT viết về chính ông], và “thi sĩ đếch có nhà” [Rilke].
Nhìn thấy bản tiếng Tẩy, Những
Linh Hồn Chết, thì lại nhớ đến bạn quí, và lần ghé nhà bạn, là khu
thánh
địa có nhà của BHD, khi đó còn ở đường Phan Đình Phùng, trường Kiến
Thiết, ở 1
con hẻm Trần Quí Cáp, nơi em học những năm tiểu học, quán cà phê
hủ tíu
ngã tư Lê Văn Duyệt & Trần Quí Cáp, nơi vẫn thường ngồi đợi em đưa
cô em
gái đi học - thì cũng vẫn trường Kiến Thiết cô chị ngày xưa học – khi
gia
đình đã dọn lên con phố Gia Long, căn nhà số 293 sau là địa chỉ Hộp Thư
Tòa Soạn Tập San Văn Chương [nhờ vậy mà còn nhớ
được số nhà!] rồi những quán bán sách báo cũ dọc theo đường TQC, nơi
lục lọi
những số báo nrf, sci-fi, những cuốn série noire đầu tiên trong đời…
Lần đó,
ghé là vì bạn lỡ phán, tối ghé nhà tao chơi nhé, khi ghé Bưu Điện gửi
thư, thấy
thằng bạn cũ lúc này ghiền, ngồi vỉa hè làm nghề viết mướn. Bạn kêu Chị
Hai,
thực ra là người làm trong nhà từ bao đời, lấy cho nó 1 cái áo sơ mi
cộc tay
cũ, đang mặc…
Thấy cuốn Les Âme Mortes
trên bàn, bèn hỏi mượn, bạn tuy không khứng, nhưng cũng đành gật đầu,
giao hẹn,
cái áo thì cho luôn, nhưng cuốn sách phải trả lại tao đấy nhé!
Trả thế đéo nào được!
Chuyện đau lòng này thì cũng đã
kể đâu đôi ba lần rồi, cho cái xác
của Gấu Cà Chớn nghe, lần gặp trôi lềnh bềnh trên sông Mékong. Vị bạn
thân K, còn là 1 trong tả hữu hộ pháp của trang TV, chắc là cũng đau
lòng
giùm, nên
bèn chúc sinh nhật GCC năm ngoái:
Chúc anh Trụ một ngày SN thật
thoải mái, không nghĩ chi về ai hết,
không lo chi chuyện tây, chuyện ta gì hết , chỉ nghĩ tới mình và những
bài thơ
đã làm, đang làm, và sẽ làm thôi.
Mua bản tiếng Tây, là vì bài
intro, thật tuyệt.
Và cũng để lèm bèm
thêm, nhân đọc ông anh phán về cuốn này, trong số Vấn Đề
mới được BVVC gửi cho đọc.
Tks All of U
NQT
Câu Lạc Bộ của
những kẻ mà bản văn bị vất vô thùng rác!
Gấu vẫn thường tự hỏi,
giai thoại thần sầu, trong 1 bài
viết về Dương Nghiễm Mậu của Mai Thảo, có… thực
không, qua đó, Người kể là đã nhặt cái
truyện ngắn làm nên tên tuổi họ Dương, từ 1 thùng rác 1 tòa soạn 1 tờ
báo văn học ở Xề Gòn
Bởi
là vì Người đã từng lầm TTT với 1 tên thợ sắp chữ, và tay này còn hỗn
láo dám
ngửa tay xin Người 1 điếu thuốc lá!
Nhưng cái truyện ngắn đầu tay của Gấu, Những
Con Dã Tràng, quả là bị tờ Văn
Nghệ của băng Dương Nghiễm Mậu & Ông Số 2
& Lý Hoàng Phong vất vô thùng rác, dù Gấu đếch gửi cho băng này.
Bài viết trên của
Vila-Matas thực thú vị. Tiếc là cả hai mục, một do ông phụ
trách, và 1 do Linda Lê, "Trở về với những tác giả cổ điển", đã bị tờ
ML bỏ đi.
Gấu mua tờ ML chỉ vì hai bài đó.
Vào những
đêm đầy trăng, người ta vưỡn còn nhìn thấy Gide và Proust cãi nhau ỏm
tỏi, về
giá trị thực, của 1 bản thảo bị vứt vô thùng rác.
Với Gấu, thì là, cho đến bây giờ, vưỡn tự hỏi, liệu "đám ngu" kia có
đọc được cái truyện ngắn của Gấu không, hay là chỉ là do đếch thuộc
băng của họ?
Hà, hà!
Bởi là đó là
1 truyện ngắn thần sầu. Cứ như Bà Cụ của TTT kể lại cho thằng con nuôi
của Cụ,
là Anh Cu Gấu nghe, thì là, thằng Tâm nó nói, mày viết truyện ngắn,
được lắm, và… tương lai còn đi xa hơn
Dương
Nghiễm Mậu!
Hà, hà!
Sáng Tạo tính
đăng, nhưng liền sau đó, báo chết, và Gấu thấy tên của Gấu, là Sơ Dạ
Hương, lúc
đó, trong mục Hộp Thư của tờ Văn Nghệ, và bèn suy ra là TTT gửi đống
bản thảo của
tờ Sáng Tạo qua cho tờ Văn Nghệ.
Phải đến mãi
sau đó, khi Gấu bị VC cho xơi hai trái mìn đếch chết, trong khi dưỡng
thương tại
Đài Liên Lạc TVD, đọc tờ Nghệ Thuật, thấy cái bài thơ của Cao Thoại
Châu, thế là
bèn hứng lên, lôi mớ bản thảo ra, sửa lại, và nhờ Trần Công Quốc, khi
đưa vợ đi
làm [bà xã của TCQ là 1 nữ điện thoại viên trên Đài], đưa cho TTT. Đó
là cái
truyện Những Ngày Ở Sài Gòn.
Vẫn chuyện liên
quan tới tác phẩm đầu tay.
Trên TLS số
15.2.2013, có 1 bài viết thực là thú vị, của 1 nhà văn Nga, Boris
Akumi:
"Mishima và tôi". Đọc cái tít, là biết ngay, ông là 1 dịch giả.
Quả như thế, bài
viết trên, còn có nhan đề là "Lời thú tội của 1 nhà dịch giả".
Akumi cho biết, ở
cái xứ Nga tồi tệ, là nhà văn là 1 điều thật xẩu hổ, nhục nhã, nhưng là
1 nhà dịch
thuật, thì đúng là nghề sạch sẽ nhất trên đời.
Ui chao, Gấu
cũng có cảm tưởng như thế, khi đọc những bản dịch của Miền Bắc, những
ngày sau
30 Tháng Tư, của những đấng đáng sư phụ của Gấu về tiếng Tây, khi dịch
những
tuyệt tác cổ điển như Đỏ và Đen,
hay Những Linh Hồn Chết.
Là nhà dịch
thuật nổi tiếng, rồi mới nhảy qua viết tiểu thuyết.
Tin Văn sẽ giới thiệu bài
viết này, nhân đọc 1 entry của NL về sách dịch MB trước 1975 so với
Miền Nam.
Cũng
trước 1975.
Before becoming the
successful Russian novelist famed as Boris
Akunin, Grigory Chkhartishvili was a literary translator in Moscow and
much
less famous for his translations from the Japanese. In this week's
Commentary,
he evokes the distinctive climate of his youthful literary life in the
Soviet
Union, where to be a writer (especially a "published" one) might be
thought shameful, while to be a translator was the "cleanest"
profession of all, bar medicine. "Stalin's directorship of the writing
world was awful for Russian literature, which quickly lost all of its
previous greatness",
he writes, "but it proved to be a blessing for literary translation",
which "rose to an incredible height". Discarding the well-worn
comparisons of translators to "post-horses of enlightenment" or
gardeners transplanting foreign trees, Akunin recalls the pleasure he
found in
(metaphorically) "restoring a work of art, covered by an ugly and
irritating layer of foreign language that didn't let Russians admire
it".
In the process he turned himself into a "Russian Mishima", attending
to the inner "melody" (silent in the English translations he knew) of
an author considered at the time "an epitome of decadence, moral
corruption and political subversion, a devil reincarnate". In a mood of
nostalgia
prompted by this month's awards ceremony in London for translators into
English
(part sponsored by the TLS), he leaves us wondering which of his two
careers
was the true "whim", the real "diversion".
Người
ta chỉ
ưa đọc tác phẩm đầu của mỗi nhà văn. Tôi hiểu câu đó như vầy, người đọc
chỉ ưa khám
phá ra cái phần yếu của tác phẩm. Trong Mù Sương, có cái
yếu, tất nhiên, nhưng là của... 1 thiên tài.
Như Tây Thi nhăn mặt!
Đâu có ai bắt chước được!
Hà, hà!
Tks.
BEST TẾT
TO ALL THERE
NQT
V/v Tác phẩm
đầu tay.
Gấu nhớ là đây
là đề tài được cả nhóm – nhóm Tân Tiểu Thuyết Mít ở Sài Gòn thời kỳ đó
– lèm bèm.
Và Gấu có phán, và sau viết thành cả 1 bài, ý kiến này: Nhà văn chỉ là
nhà văn
từ tác phẩm thứ nhì. Lý do là tác phẩm đầu tay chứa nhiều chất thực
quá, nghĩa
là, đẫm chất tự truyện. Chỉ 1 khi thanh toán xong cái tính thực tự
truyện đó,
thì cuộc viết như là 1 giả tưởng, như là đời sống được phịa ra, mới bắt
đầu.
Nhưng sau này, đọc Trevor,
1 nhà văn
gốc Ái Nhĩ Lan, viết truyện ngắn thuộc loại tổ sư [ông là sư phụ của
nhà văn Tẫu
rất nổi tiếng Yiyun
Li. Trong 1 bài
trả lời
phỏng vấn, chính bà cũng xác nhận, tôi viết được là nhờ Trevor, và quá
nữa, Chekhov] thì Gấu mới rõ, là, chẳng có cái gì mà thoát ra khỏi
tự truyện hết:
"They are my
memories too, but I am not the character in the
story", Những hồi ức là của tôi, nhưng tôi không phải là nhân vật trong
truyện, William Trevor, nhà văn Ái-nhĩ-lan nhận xét về nghệ thuật giả
tưởng. Viết,
theo ông, là nghiệp (a professional activity), tuy nhiên thành phẩm -
giả tưởng
khi chín mùi - bắt buộc phải là của riêng. Khi dấn vào nghiệp, bạn đừng
mong trốn
thoát cái kẻ là bạn đó, cho dù bạn không hề có ý định tra hỏi về chính
mình,
cho dù bản năng cho bạn biết, rằng, đừng để dấu tay của bạn lên trang
sách chừng
nào, tốt chừng đó.
Mọi giả tưởng đều mang mầm tự
thuật... Nhập một, con người (với những
hồi ức như thế), với nhà văn, là nghiệp viết. (1)
TTT nhắc tới trường hợp Les Âmes
Mortes, Những Linh Hồn Chết - Phần hai
bỏ dở,
chỉ gồm toàn những đoạn rời. Nhưng theo GCC, không phải ai cũng dễ
lâm vào
trường hợp Gogol, vì lý do dở dang của cuốn sách cũng "khủng"
lắm:
Nicolai
V. Gogol (1809-52), ngoài Dead Souls
còn một số tác phẩm khác nữa, nhưng đây là
tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, và chỉ có một nửa tác phẩm được hoàn
tất, nửa
sau là những đoạn rời. Qua giai thoại, ông viết từ một gợi ý của
Turgenev. Viết
được một, hai trăm trang, ông đọc cho bạn nghe. Turgenev nói gần như
mếu: Không
ngờ dân Nga khổ đến như vầy sao! Gogol biết như vậy là hỏng, viết lại
từ đầu.
Ông dự kiến, đây là tập thứ nhất của một tác phẩm bộ ba đầy tham vọng:
Tất cả
nước Nga sẽ xuất hiện ở trong đó, ông hứa hẹn. Trong thập niên cuối
đời, ám ảnh
này lôi ông vào khuynh hướng thần bí mang chất tôn giáo, khi ông cố
chiến đấu
trong việc ghi lại sự sa đọa và cứu rỗi của Chichikov. Trước khi chết,
Gogol đốt
toàn bộ bản thảo. Nhưng với một số nhà phê bình, tất cả năng lực sáng
tạo,
Gogol đã dồn hết vào phần đầu. Tác phẩm hoàn tất từ chỗ dang dở đó. Và
"Những
linh hồn chết" là một đại tác phẩm.
Chính
câu văn “điều kiện duy nhất là sống sót”, và quá nữa, như TTT đẩy tới,
tác phẩm
sau cùng mới là tác phẩm đầu tay, cho thấy, phải qua được tác phẩm đầy
chất tự
truyện là, tác phẩm đầu tay!
Trong khi chờ
Gogol
Note: Bài
này, tháng nào cũng hót, theo server!
Gừng càng
già càng cay. Những linh hồn chết của
Gogol lại sống lại với bản tiếng Anh, mới,
của nhà Penguin.
Tuồng ảo hoá
đã bầy ra đấy: đầy người và vật, trong cõi thực mấp mé bờ siêu thực.
Nabokov,
trong một bài tiểu luận lớn, và độc đoán, coi Những Linh Hồn Chết, một thứ
"Văn Đẻ Ra Đời", trong đó, những câu kệ của Gogol, giống như những
câu thần chú, kêu gọi ra một thế giới, và thế giới này có thể, hoặc
phát triển
hoặc huỷ diệt, thì đều theo cùng một cách, là khùng điên ba trợn.
Gogol gọi,
đây là một "bài thơ" (1), và theo một số đường hướng, tác phẩm tiếng
Anh gần gũi nhất với nó, là The
Canterbury Tales, trong đó, nhịp điệu văn không
những làm tăng thêm, mà còn tạo ra cái bất ngờ khoái tỉ về chi tiết,
của người
và vật.
Nabokov cũng
bị ảnh hưởng Gogol, trong "Nhạt Lửa" ("Feu Pâle", 1962),
câu chuyện một gã khùng cứ nghĩ mình là vua. Trong một tiểu luận về
Gogol
(1944), dành cho những độc giả không chuyên, không rành tiếng Nga,
Nabokov đã
đưa ra một Gogol với một tầm nhìn lớn, nhưng luôn bám vào chi tiết. Ông
nhấn mạnh
tới tính mỹ học nội tại của bản văn, theo đó, nghệ phẩm không phải là
phát ngôn
viên của tác giả: nó muốn là chính nó, sáng tạo ra thực tại cho chính
nó. Ông
viết:
"Chiếc
Áo Khoác" của Gogol là một cơn ác mộng tối tăm và thô kệch đã chọc
những lỗ
thủng đen ngòm vào dòng đời chẳng có chi là rõ ràng. Một độc giả phiến
diện sẽ
chỉ coi đây là một câu chuyện của một tên hề quá lố. Một độc giả
"nghiêm
túc", coi đây là một tố cáo chế độ thư lại ghê tởm của nước Nga. Nhưng
đây
là một tác phẩm không dành cho bất cứ độc giả nào không biết cười,
không thèm đến
phát điên, một tác phẩm làm cho mình "đau đầu". Hãy tóm lấy một độc
giả có đầu óc sáng tạo: đây là một câu chuyện dành cho anh ta. Và với
độc giả
này, Gogol chính là một bậc kỳ tài, về phi lý. Ở đây, là nghệ thuật
chống lại
cái thực, là hiện thực huyền ảo, là thế giới được tái dựng lại…
NQT
(1)
Trong lời tựa,
bản tiếng Việt, dịch giả Hoàng Thiếu Sơn viết rõ hơn: Puskin đã từng
khuyên
Gôgôn sáng tác Những linh hồn chết
thành một thiên 'trường ca' - poema - Chữ
"poema" đây không phải có nghĩa là một tập thơ mà là một tiểu thuyết
trường thiên có tính sử thi rộng lớn. Đến khi xuất bản tác phẩm, Gôgôn
cho in
lên bìa chữ "poema" to hơn tên sách.
Chúng ta đều
chui ra từ “Chiếc Áo Khoác”.
(We have all
come out of the folds of ‘The Overcoat’).
Trong những
chú giải về Sự Sa Ngã của Con Người, có một, theo đó, Cõi Phúc của Adam
bị huỷ
diệt, không phải bởi vì Adam vi phạm lệnh của Thượng Đế (God), nhưng là
do anh
mê đắm mê đuối.... Lolita, xin lỗi, BHD, xin lỗi, Eva, tuyệt phẩm sáng
tạo, một
toà thiên nhiên như thế đó! Cũng vậy, cõi phúc của Akaky đã bị huỷ
diệt, vì sự
xuất hiện của chiếc áo khoác:
“Vậy là tiêu
trầm, biến vào hư không…. chẳng để lại một trò huênh hoang bắng nhắng
nào, đối
con người đó, [một ngày đẹp trời kia], một người khách hào hoa trong bộ
dạng
chiếc áo khoác bất thình lình xuất hiện, làm cuộc đời khốn khổ của anh
sáng
lên, chỉ một giây phút phù du; [rồi sau đó] là tai ương giáng lên
đầu…”, vẫn
Gogol, khi viết về cái chết của nhân vật của mình. Chính “người khách
hào hoa…
làm sáng ngời dù chỉ đôi phút phù du”, cái áo khoác, và Akaky “hệ lụy”
vào nó
(his attachment to it) đã xóa sạch cõi phúc của anh: một khi “đời thực”
xuất hiện,
đâu ai còn nghĩ đến “chép lại” làm chi nữa
|