*


Chúng ta đều chui ra từ “Chiếc Áo Khoác”.
(We have all come out of the folds of ‘The Overcoat’). 

Nhận xét của Dostoyevsky cho thấy, Gogol đã mở ra cả một mùa văn chương Nga thế kỷ 19.

Nhưng Chiếc Áo Khoác (1842), cái gì vậy cà? 

Đây là câu chuyện một viên thư ký và chiếc áo khoác của anh. Người tốt vì lụa, lúa tốt vì phân, đời anh thay đổi hoàn toàn, sau khi vận may mỉm cười với anh, và anh sắm được cái áo khoác. Anh chết vì đau tim, sau khi bị trộm lấy mất chiếc áo, nhưng hồn ma sau đó trở về đòi hỏi công lý. Câu chuyện trên đã ảnh hưởng tới sự phát triển thể loại truyện ngắn Nga thế kỷ 19 sau đó: thực và ảo trộn trạo, rồi thăng hoa, qua tài làm bếp khéo của nhà văn. “Con Cá Sấu” (1865) của Dostoyevsky, là từ Chiếc Áo Khoác mà ra; đây là câu chuyện một công chức bị cá sấu nuốt, khi ở trong bụng con quái vật, anh vẫn tiếp tục phát triển những qui luật về kinh tế!

 Ý nghĩa và ảnh hưởng của Chiếc Áo Khoác không đơn giản, Chúng cứ thay đổi theo thời gian. Khi mới xuất hiện, nhà phê bình nổi tiếng của Nga là Belinsky và một số người khác đã coi đây là tiếng khóc cầu mong lòng nhân ái, của những kẻ bị đọa đầy. Ngay Gogol hình như cũng chấp nhận một lối giải thích như vậy, khi viết về cái chết của nhân vật của mình:

 “Vậy là tiêu trầm, biến vào hư không, cái con người mà chẳng ai nghĩ đến chuyện che chở; cái con người chẳng ai thèm, chẳng ai quan tâm dù chỉ một tí một tẹo…; cái con người cứ chịu đựng hoài hoài những sự chế giễu của đồng nghiệp mà chẳng bao giờ phản ứng, cái con người cho tới khi đặt mình vào trong nấm mồ của mình, chẳng hề để lại cho đời bất cứ một trò huênh hoang bắng nhắng nào…”

Theo Richard Moore, trên tờ Partisan Review, số Mùa Thu 2000, nếu áp dụng nhận xét của chính tác giả về tác phẩm của mình, nó lúc đúng lúc không. Đây là một nhận định theo kiểu  “đồng ca” (a choral statement), giống như ở cuối bi kịch của Sophocles. Nó đề nghị một cái nhìn khả hưũ, về những biến diễn của câu chuyện; nó bảo chúng ta, “người đời thường nghĩ như vậy đó”… Nếu chúng ta bỏ qua cụm từ “không phản ứng” (without protesting), đoạn văn trên đúng với tiếng khóc của Akaky, ở đầu câu chuyện, khi năn nỉ đồng nghiệp: “Hãy để cho tôi yên thân, tại sao hành hạ tôi làm chi thật tội nghiệp”. Nhưng tiếng khóc đạt hết sức mạnh qua những tương phản của nó với sự cường điệu tiếu lâm và sự phi lý vây quanh nó. Ngay cái tên của nhân vật, Akaky Akakievitch – có thể dịch là “Cứt, đồ cứt đái”, hay theo cách nói của con nít Nga, “Doo-doo, son of Doo-doo” – và nhiều chi tiết khác cho thấy anh ta như là một biếm họa gớm ghiếc, thô tục. Và ngay như đoạn văn trên xác nhận, anh ta chẳng đáng quan tâm, không bằng một con ruồi (a housefly). Ai tỏ ra nhân ái với bầy ruồi?

Nhưng coi Akaky như một thứ sâu bọ cũng chẳng nói lên được một điều gì. Đây chính là quan điểm của đám đồng nghiệp nông cạn của anh, bọn họ cũng chui ra từ thế giới mộng ảo trống rỗng của thành phố Petersburg. Chẳng có cách nhìn nào đúng với điều gọi là nỗi đam mê chính (the central passion), về một cõi người ta của Akaky:

 Thật khó mà kiếm ra được một người, ở bất cứ đâu, một người chỉ sống cho công việc của mình. Nói anh ta hăm hở làm lụng là chưa đi tới đâu, phải nói là anh ta làm việc “với tình yêu”. Trọn thế giới mừng vui và cứ thế mà thay đổi, của riêng anh. Người ta có thể nhìn thấy nỗi vui này ở trên mặt anh ta. (Viết) một vài lá thư là cái thú tuyệt vời của anh. Anh như  nhẩy cẫng lên, cười nhè nhẹ với chính mình, uốn éo ngòi viết theo cặp môi, và người ta có thể đoán ra được, anh ta đang viết con chữ nào….”.

 Anh ta bê luôn cái sở của mình về nhà để chép lại! Anh chép lại đủ thứ khác nữa, “chỉ để vui với mình mà thôi” (for his own personal pleasure). Công việc và lạc thú là một; không có cái gọi là “làm lụng” đối với anh. Đời là một cuộc chơi, y chang Adam trước khi bị tống ra khỏi Vuờn Địa Đàng.

 Akaky sống trong cõi được gọi là Cõi Phúc (the blessedness). Chép lại (copying)  cuộc đời, đâu cần chi nữa, ngoài “cõi phúc” đó ra? Chỉ khi mà chú ngựa dí cái mũi, phả hơi thở nóng hổi vào mặt Akaky, tới lúc đó anh mới nhận ra là mình đang ở giữa mặt lộ, chứ không phải ở giữa một câu văn!

 Câu văn và đường phố, nghệ thuật và đời sống: Phải chăng việc chép lại của Akaky “tượng trưng” cho nghệ thuật của Gogol?

Đoạn văn trích dẫn nêu trên đề nghị như vậy. Gogol là một đại sư “bắt chước”, một tay trình diễn tuyệt vời, chính nghệ thuật của mình. Chép lại chính mình, niềm háo hức, cơn đòi hỏi, (ngứa quá, không viết không chịu được?): chính cái trò chơi con nít này, nói theo Aristotle, là sức mạnh sỏ mũi trí tưởng tượng của Gogol, kéo ông đi ở trong cái mê cung chẳng cần biết khi nào thoát ra được (họa chăng là cái chết, nhưng chết rồi, đệ tử – hay nhân loại thì cũng rứa – lại tiếp tục trò chơi của ông). Chính cái trò bắt chước, chép lại này mới đáng quan tâm, mặc xác ba chuyện đại sự, nào là món nợ trí thức, nào là phải dấn thân, phải có trách nhiệm đối với xã hội…. Chính những người đồng thời đã từng trách móc Gogol thiếu những quan tâm xã hội, thiếu những thông điệp hướng thượng (positive messages). Bản thân ông cũng bị bối rối, tại sao mình lại “đổ đốn” như thế cơ chứ? (he himself was evidently troubled by these failings). Thấy cái gì cũng cứ cho vào miệng, cứ bắt chước người khác như một con khỉ, hiển nhiên đây là một tình trạng “chậm phát triển”! Ôi chao, vậy mà Vladimir Nabokov chỉ mới đây thôi, đã hết mình ca ngợi tác giả, khi cho thấy sự tương tự giữa bắt chước (mimicry) và chép lại (copying) đã đóng một vai trò quan trọng làm cho câu chuyện trở nên đa mầu đa dạng.

 Nhưng thật hiển nhiên, chính nỗi mê cuồng, yêu ơi là yêu: chép lại cuộc đời, của nhân vật chính, đã phản lại nhận xét “màn đồng ca” mà chúng ta đã nói tới ở đầu câu chuyện.

 Trong những chú giải về Sự Sa Ngã của Con Người, có một, theo đó, Cõi Phúc của Adam bị huỷ diệt, không phải bởi vì Adam vi phạm lệnh của Thượng Đế (God), nhưng là do anh mê đắm Eve, mê đuối tuyệt phẩm sáng tạo là một toà thiên nhiên như thế đó! Cũng vậy, cõi phúc của Akaky đã bị huỷ diệt, vì sự xuất hiện của chiếc áo khoác:“Vậy là tiêu trầm, biến vào hư không…. chẳng để lại một trò huênh hoang bắng nhắng nào, đối con người đó, [một ngày đẹp trời kia], một người khách hào hoa trong bộ dạng chiếc áo khoác bất thình lình xuất hiện, làm cuộc đời khốn khổ của anh sáng lên, chỉ một giây phút phù du; [rồi sau đó] là tai ương giáng lên đầu…”, vẫn Gogol, khi viết về cái chết của nhân vật của mình. Chính “người khách hào hoa… làm sáng ngời dù chỉ đôi phút phù du”, cái áo khoác, và Akaky “hệ lụy” vào nó (his attachment to it) đã xóa sạch cõi phúc của anh: một khi “đời thực” xuất hiện, đâu ai còn nghĩ đến “chép lại” làm chi nữa?

 Gogol rất sợ đàn bà. Nỗi sợ này có thể nhận ra, qua một số tác phẩm của ông, thí dụ như  trong “Nhật ký của một người Đàn ông Khùng”, hay “Ivan Fyodorovitch Shponka và Bà Cô của anh”. Như vậy, phải chăng “người khách hào hoa trong bộ dạng chiếc áo khoác” chính là nàng Eve của Akaky?

 Sau đây là câu trả lời dõng dạc (loud and clear), của chính tác giả:

 “Anh ta tự huấn nhục mình bằng cách nhịn ăn, bụng rỗng bò lên giuờng, dỗ cái đói bằng giấc ngủ. Bởi vì sự nuôi dưỡng của anh mang tính “tâm linh” (spiritual). Suy nghĩ, tư tưởng của anh thì luôn luôn tràn đầy: rằng một ngày đẹp trời, chiếc áo khoác sẽ là của anh. Kể từ lúc đó, trọn cuộc đời anh có vẻ giầu có hơn lên, như thể anh ta có vợ, có một con người ở kế bên anh. Như thể anh hết còn trơ trọi, mà có một bạn đường cùng đan dệt cuộc đời với anh; và người bạn đường này, đâu ai khác, mà chính là cái áo khoác độn len dầy, lụa mềm, thứ hảo hạng; mặc một đời chưa chắc đã mòn.”

 Nabokov ghi nhận, cái áo khoác giống như một cô bồ (a mistress); từ này quá yếu, chưa đủ mạnh để nói hết “thâm ý” của Gogol, theo tác giả bài viết trên Partisan Review.

 Nhưng nếu Eve là nguồn cơn nỗi bất hạnh, và sự huỷ diệt của Adam (của chúng ta, những hậu duệ của “Chàng”), như vậy có thể không phải Thượng Đế, mà chính Quỉ Sứ đã sáng tạo ra “Nàng”!

 Sau sự sáng tạo ra Nàng, là Sự Mê Hoặc, Niềm Cám Rỗ, chính nó! Akaky được mời tham dự những buổi dạ tiệc. Điều này có nghĩa, cánh cửa mở ra cho Chàng, bước vào thế giới không thực của thành phố Petersburg; thế là chấm dứt sự giản dị, nghèo đói, niềm dâng hiến hết đời mình cho (nghệ thuật) bắt chước, chép lại. Như Gogol tiếc nuối giùm cho nhân vật của mình, trước đó:

 “ [Chuyện đi dự tiệc là chẳng bao giờ xẩy ra đối với anh]. Chẳng ai có thể nhớ được, rằng anh ta đã từng đi dự dạ tiệc. Sau khi đã chép lại, với sự hài lòng của trái tim mình, anh ta lên giuờng ngủ, mỉm cười mơ tới ngày hôm sau, Thượng Đế lại ban cho mình một điều gì đó để chép lại”.

 Nhưng bây giờ, mọi chuyện đã thay đổi, và Akaky suy nghĩ, rằng đi dạ tiệc là một cơ hội chưng diện chiếc áo khoác, cứ tối nào cũng được như vậy thì thích quá nhỉ!

 Độc giả có thể tự hỏi: Phải chăng chính tên trộm kia, là…. Thiên Thần, hay đích thị… Thượng Đế?

 Chiếc Áo Khoác, The Overcoat, còn có tên là Shinel, hay The Cloak, đã được quay thành phim, thời kỳ còn phim câm (1926), và sau đó (1959), tại Liên Xô, do đạo diễn Aleksey Batalov; tài tử Roland Bykov trong vai Akakiy (hay Akaky) Akaiyevich (theo Encarta Encyclopedia, 2000).

 ***

 Nicolai V. Gogol (1809-52), hầu như sống trọn thời gian từ 1826 tới 1848, tại Rome. Tại đây, ông đã sáng tác Những Linh Hồn Chết (1842), tác phẩm được coi là một trong những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời nhất của văn chương thế giới, tương tự như  Don Quixote của nhà văn người Tây Ban Nha, Miguel de Cervantes. Những độc giả Anh ngữ đã phải đợi đúng… một thế kỷ, mới được đọc một bản dịch tiếng Anh đàng hoàng tác phẩm này. Và bây giờ, nhân vật giả tưởng Pavel Ivanovich Chichikov lại một lần nữa nhập xác phàm, biến thành những thương gia, biznesmen, những tay giang hồ thuộc giới xã hội đen, mafia, hay trong giới “lãnh đạo bằng bom đạn” của Tân Nga Xô.

 Những Linh Hồn Chết thuật lại những chuyến phiêu lưu phi lý của Chichikov, rong ruổi khắp nước Nga, để mua những tá điền, hay những nô lệ, không phải những người còn sống, mà là đã chết, của những ông chủ đất chưa kịp khai báo. Anh ta sẽ dùng danh sách đó, để mượn tiền nhà nước. Người ta có thể nhìn thấy những anh chàng Chichikov tân thời, hiện đang rong ruổi khắp nước Nga Mới, săn những hợp đồng công nhân chưa được thanh toán, rồi dùng danh sách đó mượn tiền Ngân Hàng Thế Giới!

 Những độc giả Anh ngữ đầu tiên chỉ được biết tác phẩm này, như là một tài liệu mang tính xã hội, của một nước Nga đầu thế kỷ 19. Tới năm 1942, đúng một thế kỷ sau khi tác phẩm được xuất bản lần thứ nhất, với bản dịch của Bernard Guibert Guerney, khi đó độc giả Anh ngữ mới nhận ra tầm vóc khổng lồ của Gogol, về tính châm biếm (satire), trò chơi đùa với ngôn ngữ, và sự bịa đặt đầy chất mộng mị của ông.

 Nabokov, trong một bài viết từ năm 1944, cho rằng Dead Souls liên quan tới từ “poshlost” của tiếng Nga, một từ gần như không thể dịch được, đại khái có thể hiểu như là “quan trọng giả, thông minh giả”, và như vậy, đây là một cuốn tiểu thuyết ít nói về nước Nga, mà là về sự ruỗng nát của nhân tính. Cũng trong bài viết, ông vứt bỏ mọi bản dịch, chỉ giữ lại bản của Guerney nói trên. Ông này là chủ một tiệm sách ở New York, và còn là một tiểu thuyết gia, mất năm 1979.

 Qua giai thoại, Gogol viết Những Linh Hồn Chết, từ một gợi ý của bạn mình là Pushkin. Viết được đâu một, hai trăm trang, ông đọc cho bạn nghe, bạn nói, gần như mếu: Không ngờ dân Nga khổ đến như vậy sao? Gogol biết là hỏng, viết lại từ đầu. Ông dự kiến, đây là tập thứ nhất của một bộ ba cuốn, đầy tham vọng: tất cả nước Nga sẽ xuất hiện ở trong đó. Trong thập niên cuối đời, ám ảnh này đã lôi kéo ông sa vào khuynh hướng thần bí mang chất tôn giáo, khi ông cố chiến đấu trong việc ghi lại sự sa đọa của Chichikov. Trước khi chết, ông đốt toàn bộ bản thảo. Nhưng với một số nhà phê bình, tất cả năng lực sáng tạo, Gogol đã dồn hết vào phần đầu. Phần hai chỉ gồm những đoạn rời (fragments). Tác phẩm hoàn tất từ chỗ dang dở đó. Và đây là một đại tác phẩm.