TẠP GHI
|
Author claims political pressure behind
cancellation of Stalin book
Historian Orlando
Figes: claims publisher of
book about life in Russia
under Stalin has bowed to 'political pressure'
Russian
revelations
Sách viết về Nga dưới thời Stalin, bản dịch qua tiếng Nga bị nhà xb huỷ
giao kèo
*
Stalin no better than Hitler?
Well, at least Stalin wasn't as bad as Hitler." How many times have we
all heard that said – or said it ourselves? For a variety of
complicated reasons I still half-believe it. "At least he didn't
butcher the Jews." Hey, no, Joe butchered or enslaved everyone, Jews
included. Read The Whisperers, now that Russians can't.
Remember, it's nationalism, not nationalization, that we have to worry
about in the economic crisis.
*
Hell
Sự hiểu biết
về văn học Nga ở
trong nước
thật quá tồi tệ, hay dùng chữ của chủ soái Mít về hậu hiện đại, đúng là
một
“quái trạng". [Còn một ông chủ soái Mít nữa về thơ tân hình thức, và
Gấu đương
băn khoăn, “hoàn cảnh tân hình thức” có được coi là thuộc hậu hiện
đại?]. Họ
chỉ đọc thứ nhà nước Xô Viết cho phép, và gần mù tịt về văn hóa dưới
hầm, truyền
tay, rỉ tai, và nếu bất đắc dĩ phải nhắc tới, thì nhắc theo kiểu huề
vốn, thí
dụ như khi nhắc tới những Mandelstam, Akhmatova, Brodsky. Những chuyên
viên về
văn học Nga, ngôn ngữ Nga như bạn Nguyên Đầu Bạc chẳng hạn, đâu có nhận
xét nào
ghê gớm về Solzhenitsyn, thí dụ. Mấy ông ra được bên ngoài, thí dụ đám
Mít làm
cho Bi Bì Xèo cũng chẳng chịu bỏ chút thì giờ đọc Solz, hay tìm hiểu về
thế giới
tù đầy của Gấu Mẹ Vĩ Đại. Cái sự dửng dưng của trong nước đối với văn
hóa "Gulag",
thì cứ gọi đại như vậy, cũng giống như của Tây phương, trước, và ngay
sau khi
cuốn Quần Đảo Gulag được xb tại Tây Phương. Trên số NYRB, 12
June, 2003,
điểm cuốn Gulag, một lịch sử của Anne Applebaum, được Pulitzer,
Orlando
Figes viết: Đã ba chục năm kể từ khi Tập I, bộ sách khổng lồ Quần
đảo Gulag được
xb tại Pháp. Sự xuất hiện của nó vào Tháng Chạp 1973 đã gây nên một
chiến dịch
bôi nhọ Solz của báo chí Liên xô dẫn tới vụ tống xuất ông.
Đọc "văn hóa
Gulag", Gấu có một thắc mắc, nhân một ý tưởng của Solz
mà ra: Tại sao tù cải tạo Miền Nam
được đưa lên mạn Cực Bắc, và chỉ sau khi xẩy ra cuộc chiến biên giới
với TQ,
mới được sơ tán xuống miền dưới?
Ý tưởng, sự
hiện hữu của Gulag thực ra là có từ hồi còn Nga Hoàng, như Anne
Applebaum cho thấy. Liệu cái vụ đưa tù cải tạo lên mạn cực bắc, cũng có
từ thời
tiền CS Mít, và cũng đã ăn sâu vào tận xương tận tuỷ Yankee mũi tẹt?
Solz nhìn ra,
có một sự triển khai nhịp nhàng giữa Khủng Bố và bùng nổ Trại Tù:
những vụ bắt bớ tập thể là cách nhanh chóng nhất để cung cấp nguồn nhân
lực vô
hạn và rẻ như bèo cho nền kỹ nghệ hóa khổng-khổng-khổng lồ của Stalin
[super-super-super-industrialization]
Nói một cách
khác, thật giản dị, đã có nghị quyết từ trước, càng nhiều trại
được sửa soạn theo cùng một nhịp với những vụ bắt bớ tập thể vô tư được
lên kế
hoạch [In other words, putting it simply, it was proposed that more
camps be
prepared in anticipation of the abundant arrests planned].
Như vậy, cái
vụ đưa tù cải tạo ra Bắc, là cũng đã được lên kế hoạch, từ trước
khi cướp được Miền Nam, và những 10 ngày cải tạo là cũng đã được
proposed từ
khuya?
Top
Ten về nước Nga, 10 books of Russia
1. Dead Souls, by Nikolai
Gogol, 1842. Những linh hồn chết.
A novel of comedy and shame.
[Một cuốn tiểu thuyết về khôi hài và nhục nhã]
2. Fathers And Sons, by Ivan
Turgenev, 1862. Cha và Con
A novel of ease versus
rebellion. [Một tiểu thuyết về sự thoải mái vs sự nổi loạn]
3. The Brothers Karamazov, by
Fyodr Dostoyevsky, 1879. Anh em nhà Karamazov
A pious brother, a
wild-living brother, a political brother and their wretched father.
Một thằng con hiếu thảo, một
thằng con hoang tàn, một thằng con mê làm chính trị, và ông bố khốn
kiếp của
chúng.
4. Petersburg,
by Andrei Bely, 1916-1922
A symbolist novel of
terrorism. Một cuốn tiểu thuyết biểu tượng về khủng bố.
5. The Master And Margarita,
by Mikhail Bulgakov, 1940
A novel of magic, hubris and
retribution.
6. To The Finland
Station, by Edmund Wilson, 1940
How Lenin's mind got to where
it was in 1917.
7. Russian Thinkers, by
Isaiah Berlin,
1948
A wise, beautiful guide to
19th-century minds.
8. Kolyma
Tales, by Varlam Shalamov, 1929
9. A People's Tragedy, by Orlando
Figes, 1997
Revolution and civil war as
seen from the ground.
10. Chapayev And Pustota, by
Viktor Pelevin, 1998
(published in English both as
Buddha's Little Finger and The Clay Machine Gun)
A novel of Yeltsin's Russia,
with
Buddhist-Bolshevik episodes.
Note: Mấy cái tiểu tít, như
trên, của Guardian, [làm sao viết ngắn gọn nhất, về một đại tác phẩm],
thật
tuyệt.
*
1. Dead
Souls, by Nikolai
Gogol, 1842
A novel
of comedy and shame.
"Chichikov
saw that the
old woman was far from grasping the issue, and that he needed to make
it clear.
In a few words he explained that the transfer, or purchase, would take
place
only on paper and that the souls would be registered as if they were
living.
'And
what good are they to
you?' asked the old woman, her eyes bulging.
'That's
my business.'
'But,
really, all the same,
they're dead.'
'Who
said they were alive?
You're losing money because they're dead: you're still paying for them,
and I'm
offering to rid you of all these bills and bother. Do you understand?
Not just
rid you, but give you 15 roubles into the bargain. Is that clear?'
'Really,
I'm not sure,"
said the proprietress hesitantly. "I've never sold dead people before,
you
know.'"
"I've never sold dead people
before, you
know.'"
"Tôi chưa hề bán
những người
chết, trước đây".
Trong khi chờ Gogol
Gừng
càng già càng cay. Những
linh hồn chết của Gogol lại sống lại với bản tiếng Anh, mới,
của nhà
Penguin.
Tuồng
ảo hoá đã bầy ra đấy:
đầy người và vật, trong cõi thực mấp mé bờ siêu thực. Nabokov, trong
một bài
tiểu luận lớn, và độc đoán, coi Những Linh Hồn Chết, một thứ "Văn Đẻ Ra
Đời", trong đó, những câu kệ của Gogol, giống như những câu thần chú,
kêu
gọi ra một thế giới, và thế giới này thì có thể, hoặc phát triển hoặc
huỷ diệt,
đều theo cùng một cách, là khùng điên ba trợn. Gogol gọi, đây là một
"bài
thơ", (1) và theo một số đường hướng, tác phẩm tiếng Anh gần gũi nhất
với
nó,
là The Canterbury Tales, trong đó, nhịp điệu văn không những làm tăng
thêm, mà
còn tạo ra cái bất ngờ khoái tỉ về chi tiết, của người và vật.
(1)
Trong lời tựa, bản tiếng Việt, dịch giả Hoàng Thiếu Sơn viết rõ hơn:
Puskin đã từng khuyên Gôgôn sáng tác Những
linh hồn chết thành một thiên 'trường ca' - poema - Chữ "poema"
đây không phải có nghĩa là một tập thơ mà là một tiểu thuyết trường
thiên có tính sử thi rộng lớn. Đến khi xuất bản tác phẩm, Gôgôn cho in
lên bìa chữ "poema" to hơn tên sách.
Nikolai
Gogol was a wildly
inventive writer. Robert A Maguire's translation of Dead Souls is a
revelation
for AS Byatt. Saturday October 30, 2004. The Guardian
Trong
khi chờ Gogol
Phải
đợi cả một thế kỷ qua
đi, người đọc mới có được một bản dịch Anh ngữ đàng hoàng tác phẩm Dead
Souls,
"Những linh hồn chết" của Gogol. Và bây giờ, nhân vật giả tưởng Pavel
Ivanovich Chichikov lại một lần nữa nhập xác, qua những thương gia,
biznesmen,
những nhân vật trong xã hội đen, mafia, trong giới "lãnh đạo bằng bom
đạn" của Tân Nga-xô.
"Những linh hồn
chết" thuật lại những chuyến phiêu lưu phi lý của Chichikov, qua khắp
nước
Nga để mua những tá điền, những nô lệ đã chết nhưng chủ đất chưa khai
báo. Anh
ta sẽ dùng danh sách đó để mượn tiền nhà nước, như thể họ vẫn còn sống.
Người
ta có thể tưởng tượng ra một anh chàng Chichikov tân thời, đang đi khắp
nước
Nga, mua những hợp đồng công nhân chưa được thanh toán, rồi dùng nó để
vay tiền
Ngân hàng Thế giới.
Những độc giả nước ngoài đầu
tiên chỉ được biết tác phẩm như một tài liệu mang tính xã hội của một
nước Nga
đầu thế kỷ 19. Tới năm 1942, một thế kỷ sau khi tác phẩm lần thứ nhất
được xuất
bản, với bản dịch của Bernard Guilbert Guerney, khi đó những độc giả
Anh ngữ
mới nhận ra đầy đủ tầm vóc của Gogol, về tính châm biếm, satire, trò
chơi đùa
với ngôn ngữ, và sự bịa đặt đầy chất mộng mị của ông.
Nabokov, trong một bài viết
từ năm 1944, cho rằng Dead Souls liên quan tới từ "poshlost" của
tiếng Nga, một từ gần như không thể dịch được, đại khái có thể hiểu như
là
"quan trọng giả, đẹp giả, thông minh giả", và như vậy, đây là một
cuốn tiểu thuyết ít nói về nước Nga, mà là về sự ruỗng nát của nhân
tính. Cũng
trong bài biết, ông vứt bỏ mọi bản dịch, chỉ giữ lại bản của Guerney
(chủ nhân
một tiệm sách ở New York,
một người viết tiểu thuyết, chết năm 1979).
Nicolai V. Gogol (1809-52),
ngoài Dead Souls còn một số tác phẩm khác nữa, nhưng đây là tác phẩm
nổi tiếng
nhất của ông, và chỉ có một nửa tác phẩm được hoàn tất, nửa sau là
những đoạn
rời. Qua giai thoại, ông viết từ một gợi ý của Turgenev. Viết được một,
hai
trăm trang, ông đọc cho bạn nghe. Turgenev nói gần như mếu: Không ngờ
dân Nga
khổ đến như vầy sao! Gogol biết như vậy là hỏng, viết lại từ đầu. Ông
dự kiến,
đây là tập thứ nhất của một tác phẩm bộ ba đầy tham vọng: Tất cả nước
Nga sẽ
xuất hiện ở trong đó, ông hứa hẹn. Trong thập niên cuối đời, ám ảnh này
lôi ông
vào khuynh hướng thần bí mang chất tôn giáo, khi ông cố chiến đấu trong
việc
ghi lại sự sa đọa và cứu rỗi của Chichikov. Trước khi chết, Gogol đốt
toàn bộ
bản thảo. Nhưng với một số nhà phê bình, tất cả năng lực sáng tạo,
Gogol đã dồn
hết vào phần đầu. Tác phẩm hoàn tất từ chỗ dang dở đó. Và "Những linh
hồn
chết" là một đại tác phẩm.
Chúng
ta đều chui ra từ
"Chiếc Áo Khoác".
(We have all come out of the
folds of ‘The Overcoat’)
Nhận xét của Dostoyevsky cho
thấy, Gogol đã mở ra cả một mùa văn chương Nga thế kỷ 19.
Nhưng Chiếc Áo Khoác (1842),
cái gì vậy cà?
Đây là câu chuyện một viên
thư ký và chiếc áo khoác của anh. Người tốt vì lụa, lúa tốt vì phân,
đời anh
thay đổi hoàn toàn, sau khi vận may mỉm cười với anh, và anh sắm được
cái áo
khoác. Anh chết vì đau tim, sau khi bị trộm lấy mất chiếc áo, nhưng hồn
ma sau
đó trở về đòi hỏi công lý. Câu chuyện trên đã ảnh hưởng tới sự phát
triển thể
loại truyện ngắn Nga thế kỷ 19 sau đó: thực và ảo trộn trạo, rồi thăng
hoa, qua
tài làm bếp khéo của nhà văn. "Con Cá Sấu" (1865) của Dostoyevsky, là
từ Chiếc Áo Khoác mà ra; đây là câu chuyện một công chức bị cá sấu
nuốt, khi ở
trong bụng con quái vật, anh vẫn tiếp tục phát triển những qui luật về
kinh tế!
Ý nghĩa và ảnh hưởng của
Chiếc Áo Khoác không đơn giản, Chúng cứ thay đổi theo thời gian. Khi
mới xuất
hiện, nhà phê bình nổi tiếng của Nga là Belinsky và một số người khác
đã coi
đây là tiếng khóc cầu mong lòng nhân ái, của những kẻ bị đọa đầy. Ngay
Gogol
hình như cũng chấp nhận một lối giải thích như vậy, khi viết về cái
chết của
nhân vật của mình:
"Vậy là tiêu trầm, biến
vào hư không, cái con người mà chẳng ai nghĩ đến chuyện che chở; cái
con người
chẳng ai thèm, chẳng ai quan tâm dù chỉ một tí một tẹo…; cái con người
cứ chịu
đựng hoài hoài những sự chế giễu của đồng nghiệp mà chẳng bao giờ phản
ứng, cái
con người cho tới khi đặt mình vào trong nấm mồ của mình, chẳng hề để
lại cho
đời bất cứ một trò huênh hoang bắng nhắng nào…"
Theo Richard Moore, trên tờ
Partisan Review, Fall 2000, nếu áp dụng nhận xét của chính tác giả về
tác phẩm
của mình, nó lúc đúng lúc không. Đây là một nhận định theo kiểu "đồng
ca" (a choral statement), giống như ở cuối bi kịch của Sophocles. Nó đề
nghị một cái nhìn khả hữu, về những biến diễn của câu chuyện; nó bảo
chúng ta,
"người đời thường nghĩ như vậy đó"… Nếu chúng ta bỏ qua cụm từ
"không phản ứng" (without protesting), đoạn văn trên đúng với tiếng
khóc của Akaky, ở đầu câu chuyện, khi năn nỉ đồng nghiệp: "Hãy để cho
tôi
yên thân, tại sao hành hạ tôi làm chi thật tội nghiệp". Nhưng tiếng
khóc
đạt hết sức mạnh qua những tương phản của nó với sự cường điệu tiếu lâm
và sự
phi lý vây quanh nó. Ngay cái tên của nhân vật, Akaky Akakievitch – có
thể dịch
là "Cứt, đồ cứt đái", hay theo cách nói của con nít Nga,
"Doo-doo, son of Doo-doo" – và nhiều chi tiết khác cho thấy anh ta
như là một biếm họa gớm ghiếc, thô tục. Và ngay như đoạn văn trên xác
nhận, anh
ta chẳng đáng quan tâm, không bằng một con ruồi (a housefly). Ai tỏ ra
nhân ái
với bầy ruồi?
Nhưng coi Akaky như một thứ
sâu bọ cũng chẳng nói lên được một điều gì. Đây chính là quan điểm của
đám đồng
nghiệp nông cạn của anh, bọn họ cũng chui ra từ thế giới mộng ảo trống
rỗng của
thành phố Petersburg.
Chẳng có cách nhìn nào đúng với điều gọi là nỗi đam mê chính (the
central
passion), về một cõi người ta của Akaky:
"Thật khó mà kiếm ra
được một người, ở bất cứ đâu, một người chỉ sống cho công việc của
mình. Nói
anh ta hăm hở làm lụng là chưa đi tới đâu, phải nói là anh ta làm việc
"với tình yêu". Trọn thế giới mừng vui và cứ thế mà thay đổi, của
riêng anh. Người ta có thể nhìn thấy nỗi vui này ở trên mặt anh ta.
(Viết) một
vài lá thư là cái thú tuyệt vời của anh. Anh như nhẩy cẫng lên, cười
nhè nhẹ
với chính mình, uốn éo ngòi viết theo cặp môi, và người ta có thể đoán
ra được,
anh ta đang viết con chữ nào….".
Anh ta bê luôn cái sở của
mình về nhà để chép lại! Anh chép lại đủ thứ khác nữa, "chỉ để vui với
mình mà thôi" (for his own personal pleasure). Công việc và lạc thú là
một; không có cái gọi là "làm lụng" đối với anh. Đời là một cuộc
chơi, y chang Adam trước khi bị tống ra khỏi Vuờn Địa Đàng. Akaky sống
trong
cõi được gọi là Cõi Phúc (the blessedness). Chép lại (copying) cuộc
đời, đâu
cần chi nữa, ngoài "cõi phúc" đó ra? Chỉ khi mà chú ngựa dí cái mũi,
phả hơi thở nóng hổi vào mặt Akaky, tới lúc đó anh mới nhận ra là mình
đang ở
giữa mặt lộ, chứ không phải ở giữa một câu văn!
Câu văn và đường phố, nghệ
thuật và đời sống: Phải chăng việc chép lại của Akaky "tượng trưng"
cho nghệ thuật của Gogol?
Đoạn văn trích dẫn nêu trên
đề nghị như vậy. Gogol là một đại sư "bắt chước", một tay trình diễn
tuyệt vời, chính nghệ thuật của mình. Chép lại chính mình, niềm háo
hức, cơn
đòi hỏi, (ngứa quá, không viết không chịu được?): chính cái trò chơi
con nít
này, nói theo Aristotle, là sức mạnh sỏ mũi trí tưởng tượng của Gogol,
kéo ông
đi ở trong cái mê cung chẳng cần biết khi nào thoát ra được (họa chăng
là cái
chết, nhưng chết rồi, đệ tử – hay nhân loại thì cũng rứa – lại tiếp tục
trò
chơi của ông). Chính cái trò bắt chước, chép lại này mới đáng quan tâm,
mặc xác
ba chuyện đại sự, nào là món nợ trí thức, nào là phải dấn thân, phải có
trách
nhiệm đối với xã hội…. Chính những người đồng thời đã từng trách móc
Gogol
thiếu những quan tâm xã hội, thiếu những thông điệp hướng thượng
(positive
messages). Bản thân ông cũng bị bối rối, tại sao mình lại "đổ đốn"
như thế cơ chứ? (he himself was evidently troubled by these failings).
Thấy cái
gì cũng cứ cho vào miệng, cứ bắt chước người khác như một con khỉ, hiển
nhiên
đây là một tình trạng "chậm phát triển"! Ôi chao, vậy mà Vladimir
Nabokov chỉ mới đây thôi, đã hết mình ca ngợi tác giả, khi cho thấy sự
tương tự
giữa bắt chước (mimicry) và chép lại (copying) đã đóng một vai trò quan
trọng
làm cho câu chuyện trở nên đa mầu đa dạng.
Nhưng thật hiển nhiên, chính
nỗi mê cuồng, yêu ơi là yêu: chép lại cuộc đời, của nhân vật chính, đã
phản lại
nhận xét "màn đồng ca" mà chúng ta đã nói tới ở đầu câu chuyện.
Trong những chú giải về Sự Sa
Ngã của Con Người, có một, theo đó, Cõi Phúc của Adam bị huỷ diệt,
không phải
bởi vì Adam vi phạm lệnh của Thượng Đế (God), nhưng là do anh mê đắm
Eve, mê
đuối tuyệt phẩm sáng tạo là một toà thiên nhiên như thế đó! Cũng vậy,
cõi phúc
của Akaky đã bị huỷ diệt, vì sự xuất hiện của chiếc áo khoác:
"Vậy là tiêu trầm, biến
vào hư không…. chẳng để lại một trò huênh hoang bắng nhắng nào, đối con
người
đó, [một ngày đẹp trời kia], một người khách hào hoa trong bộ dạng
chiếc áo
khoác bất thình lình xuất hiện, làm cuộc đời khốn khổ của anh sáng lên,
chỉ một
giây phút phù du; [rồi sau đó] là tai ương giáng lên đầu…", vẫn Gogol,
khi
viết về cái chết của nhân vật của mình. Chính "người khách hào hoa… làm
sáng ngời dù chỉ đôi phút phù du", cái áo khoác, và Akaky "hệ
lụy" vào nó (his attachment to it) đã xóa sạch cõi phúc của anh: một
khi
"đời thực" xuất hiện, đâu ai còn nghĩ đến "chép lại" làm
chi nữa?
Gogol rất sợ đàn bà. Nỗi sợ
này có thể nhận ra, qua một số tác phẩm của ông, thí dụ như trong "Nhật
ký
của một người Đàn ông Khùng", hay "Ivan Fyodorovitch Shponka và Bà Cô
của anh". Như vậy, phải chăng "người khách hào hoa trong bộ dạng
chiếc áo khoác" chính là nàng Eve của Akaky?
Sau đây là câu trả lời dõng dạc
(loud and
clear), của chính tác giả:
"Anh ta tự huấn nhục mình bằng
cách nhịn
ăn, bụng rỗng bò lên giuờng, dỗ cái đói bằng giấc ngủ. Bởi vì sự nuôi
dưỡng của
anh mang tính "tâm linh" (spiritual). Suy nghĩ, tư tưởng của anh thì
luôn luôn tràn đầy: rằng một ngày đẹp trời, chiếc áo khoác sẽ là của
anh. Kể từ
lúc đó, trọn cuộc đời anh có vẻ giầu có hơn lên, như thể anh ta có vợ,
có một
con người ở kế bên anh. Như thể anh hết còn trơ trọi, mà có một bạn
đường cùng
đan dệt cuộc đời với anh; và người bạn đường này, đâu ai khác, mà chính
là cái
áo khoác độn len dầy, lụa mềm, thứ hảo hạng; mặc một đời chưa chắc đã
mòn."
Nabokov ghi nhận, cái áo
khoác giống như một cô bồ (a mistress); từ này quá yếu, chưa đủ mạnh để
nói hết
"thâm ý" của Gogol, theo tác giả bài viết trên Partisan Review.
Nhưng nếu Eve là nguồn cơn
nỗi bất hạnh, và sự huỷ diệt của Adam (của chúng ta, những hậu duệ của
"Chàng"), như vậy có thể không phải Thượng Đế, mà chính Quỉ Sứ đã
sáng tạo ra "Nàng"!
Sau sự sáng tạo ra Nàng, là
Sự Mê Hoặc, Niềm Cám Rỗ, chính nó! Akaky được mời tham dự những buổi dạ
tiệc.
Điều này có nghĩa, cánh cửa mở ra cho Chàng, bước vào thế giới không
thực của
thành phố Petersburg; thế là chấm dứt sự giản dị, nghèo đói, niềm dâng
hiến hết
đời mình cho (nghệ thuật) bắt chước, chép lại. Như Gogol tiếc nuối giùm
cho
nhân vật của mình, trước đó:
" [Chuyện đi dự tiệc là
chẳng bao giờ xẩy ra đối với anh]. Chẳng ai có thể nhớ được, rằng anh
ta đã
từng đi dự dạ tiệc. Sau khi đã chép lại, với sự hài lòng của trái tim
mình, anh
ta lên giuờng ngủ, mỉm cười mơ tới ngày hôm sau, Thượng Đế lại ban cho
mình một
điều gì đó để chép lại".
Nhưng bây giờ, mọi chuyện đã
thay đổi, và
Akaky suy nghĩ, rằng đi dạ tiệc là một cơ hội chưng diện chiếc áo
khoác, cứ tối
nào cũng được như vậy thì thích quá nhỉ!
Độc giả có thể tự hỏi: Phải
chăng chính tên
trộm kia, là…. Thiên Thần, hay đích thị… Thượng Đế?
Chiếc Áo Khoác, The Overcoat,
còn có tên là
Shinel, hay The Cloak, đã được quay thành phim, thời kỳ còn phim câm
(1926), và
sau đó (1959), tại Liên Xô, do đạo diễn Aleksey Batalov; tài tử Roland
Bykov
trong vai Akakiy (hay Akaky) Akaiyevich (theo Encarta Encyclopedia,
2000).
Nicolai V. Gogol (1809-52), hầu
như sống trọn
thời gian từ 1826 tới 1848, tại Rome.
Tại đây, ông đã sáng tác Những Linh Hồn Chết (1842), tác phẩm được coi
là một
trong những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời nhất của văn chương thế giới,
tương tự
như Don Quixote của nhà văn người Tây Ban Nha, Miguel de Cervantes.
*
Nói thêm về Gogol
Trong bài viết, "Chúng ta đều chui ra từ
Chiếc Áo Khoác", tôi đã sai lầm một chi tiết, khi cho rằng, qua giai
thoại, Gogol viết "Những Linh Hồn Chết" từ một gợi ý của bạn mình là
Ivan Turgenev. Thật ra là từ Alexander Pushkin.
Ngoại trừ "Những Linh
Hồn Chết", coi như hoàn tất vào năm 1842 (coi như, bởi vì chỉ có phần
đầu
hoàn tất, phần sau là những mẩu đoạn), tất cả những tuyệt tác của Gogol
được
viết trong thời gian từ 1831 tới 1835; năm năm nở ra những tác phẩm như
"Những buổi tối tại một trang trại gần Dikanka" (1831), bốn truyện
vừa về Petersburg, "Tarass Boulba"… Sau 1835, ông cứ trở đi trở lại,
sửa tới sửa lui, và mười năm sau cùng của cuộc đời ông, từ 1842 trở đi,
là dùng
vào việc huỷ diệt chúng, và cũng ba lần lại bắt đầu, và rồi lại đốt bỏ,
bản
thảo phần hai "Những Linh Hồn Chết". Cơn điên khùng của nhân vật
Tchartkov, trong "Chân Dung" - đốt những tác phẩm nghệ thuật (sự thực
là của người khác) - có lẽ đã ứng vào Gogol. Với ông, tác phẩm khi đã
hoàn tất,
trở nên đáng ghét.
Khởi đầu là ngọn lửa thiêu huỷ,
và chấm dứt,
cũng bằng nó: Gogol rời vùng đất quê hương, Ukraine,
với hy vọng sẽ khởi nghiệp văn tại thành phố lớn, St Petersburg. Bỏ tiền túi ra in tác
phẩm đầu
tay, "Hans Kuchelgarten" (1829), nhưng nó là một thất bại hoàn toàn,
thế là tác giả của nó lóc cóc đi thu gom, ném vào ngọn lửa tất cả những
ấn bản
ông vớ được.
"Tôi bịa đặt ra, cho
chính tôi, những nhân vật với những tính tình gây cười, tôi đẩy họ vào
những
hoàn cảnh rất ư lố bịch, chẳng thèm đưa ra một nguyên do, một mục đích,
hay một
lợi ích cho một kẻ nào," Gogol viết, trong "Lời thú nhận của nhà
văn". Ông ít để ý đến đề tài, càng ít để ý tới một mục đích (finalité)
tác
phẩm, và thường nhờ bạn là Pouchkine, gà cho một đề tài. Đề tài "Le
Révizor" (1836) cũng từ Pouchkine. Đây là một hài kịch gây chấn động
khán
thính giả, ngay lần trình diễn đầu tiên, với sự hiện diện của Nga Hoàng
Nicolas
Đệ Nhất; chính ông đã ra lệnh dàn dựng, vì vậy mà thoát khỏi kiểm duyệt.
Nhà thơ Pouchkine kể cho
Gogol nghe, câu chuyện một ký giả, trong lần du ngoạn ở Bessarabie, đã
bị lầm
là một thẩm tra viên nhà nước (Révizor). Từ mẩu chuyện trên, Gogol sáng
tạo ra
nhân vật Khlestiakov, một viên chức trẻ ở Petersburg,
đi du ngoạn vùng quê, và cạn túi vì cờ bạc. Ghé một tỉnh nhỏ, đúng lúc
có văn
thư nhà nước cho biết, sẽ có một thẩm tra viên tới đây, thế là quan lớn
quan
bé, thân hào nhân sĩ xì xầm, đúng anh ta rồi, cái anh chàng trẻ tuổi
vừa ghé
quán ăn đầu tỉnh, chẳng thèm trả tiền trọ…
"Chiếc Áo Khoác"
(1842), được viết trễ nhất, trong số những truyện vừa (nouvelle) về
thành phố Petersburg.
Khởi thảo năm
1839 tại Moscow, với nhan đề "Câu chuyện một người công chức ăn cắp
những
chiếc áo khoác", được viết lại ở Rome, thời gian 1839-41, gợi hứng từ
một
mẩu chuyện (anecdote) nghe được vào thời gian giữa 1832 và 1835: một
viên chức
dành dụm tiền bạc, mua được một cây súng săn, làm mất nó ngay lần đầu
ra quân,
ngã bịnh vì tiếc của, và được bạn bè hùn tiền mua cho một cây súng
khác. Nhan
đề chiếc áo khoác, là từ tiếng Nga "chiniel" (từ tiếng Pháp
"chenille"), dùng để chỉ một chiếc áo khoác bằng lông, mặc phủ lên bộ
đồng phục. Từ này giống cái, và hàm ý nhục dục, (do đó Gustave
Aucouturier đã
"dám" đưa ra đề nghị, nên dịch ra tiếng Pháp là "cái áo
mưa", "la capote"; xin xem ghi chú về Gogol, trong "Toàn bộ
tác phẩm", nhà xuất bản Gallimard, tủ sách Pléiade, 1966, trang 529).
Nabokov cũng bị ảnh hưởng
Gogol, trong "Nhạt Lửa" ("Feu Pâle", 1962), câu chuyện một
gã khùng cứ nghĩ mình là vua. Trong một tiểu luận về Gogol (1944), dành
cho
những độc giả không chuyên, không rành tiếng Nga, Nabokov đã đưa ra một
Gogol
với một tầm nhìn lớn, nhưng luôn bám vàøo chi tiết. Ông nhấn mạnh tới
tính mỹ
học nội tại của bản văn, theo đó, nghệ phẩm không phải là phát ngôn
viên của
tác giả: nó muốn là chính nó, sáng tạo ra thực tại cho chính nó. Ông
viết:
"Chiếc Áo Khoác"
của Gogol là một cơn ác mộng tối tăm và thô kệch đã chọc những lỗ thủng
đen
ngòm vào dòng đời chẳng có chi là rõ ràng. Một độc giả phiến diện sẽ
chỉ coi
đây là một câu chuyện của một tên hề quá lố. Một độc giả "nghiêm
túc", coi đây là một tố cáo chế độ thư lại ghê tởm của nước Nga. Nhưng
đây
là một tác phẩm không dành cho bất cứ độc giả nào không biết cười,
không thèm
đến phát điên, một tác phẩm làm cho mình "đau đầu". Hãy tóm lấy một
độc giả có đầu óc sáng tạo: đây là một câu chuyện dành cho anh ta. Và
với độc
giả này, Gogol chính là một kỳ tài, về phi lý. Ở đây, là nghệ thuật
chống lại
cái thực, là hiện thực huyền ảo, là thế giới được tái dựng lại…
NQT
|
|