|
A visceral solicitude
ROBERT
ZARETSKY
Eve Morisi
ALBERT
CAMUS, LE SOUCI DES AUTRES
160pp.
Classiques Garnier. €18.
978 2
812417504
In 2011, Eve
Morisi created a stir with her book Albert
Camus contre la peine de mort (reviewed in the TLS, November 25,
2011).
Prefaced by the former attorney general Robert Badinter, who had
persuaded Francois
Mitterrand to abolish the death penalty in 1981, the book contained
Morisi' s
deft analysis of Camus's writings on capital punishment. Moreover, it
reprinted
the dozens of letters (many for the first time) Camus had sent to
French and
foreign authorities in which he intervened on behalf of men sentenced
to death.
As Morisi underscored, Camus's opposition to state-managed execution
was so
deep that it overrode political or ideological antipathies, leading him
to
plead alike the cases of members of the Front de Liberation Nationale
in
Algeria and Nazi collaborators in France.
In important respects,
this small and superb book is both a
broadening and deepening of Morisi's earlier work. Her approach takes
her in
unexpected, yet illuminating directions - to the work of Primo Levi,
for
example. As the title of his first book announced, the central
question
for Levi was, what does it
mean to be a man? For Morisi, this was also a lifelong concern for the
French
Algerian writer. At the heart of Camus's fiction no less than his
journalism'
from his first published essays to his posthumously published novel Le
Premier Homme, are not just his efforts to portray what it is to
be a moral
being, one who defends his own integrity and dignity, but also the need
to defend
those same traits in his fellow men and women.
Le souci, as Morisi notes, has two
entwined strands of meaning. It
signifies, first, concern over the condition of others, a form of
solicitude that impels us to act on
their behalf. Rather than parsing this conception through the prism of
Christian ethics, or
through a particular school of moral philosophy, Morisi suggests that
in
Camus's writings and life it is best understood through the recent
work, associated
with Carol Gilligan, on the ethics of care. Impatient with efforts to
locate a
universal foundation for morality, Gilligan and her followers instead
emphasize
the importance of attending to, of properly listening and responding to
others.
By "others", Gilligan most often means marginalized or oppressed
social groups. So, too, did Camus: Morisi devotes separate chapters to
Camus's
writings on behalf of those living under a variety of grim sentences:
to
poverty, to the death penalty, to silence or to civil war. This
approach casts new
light on his best-known works such as L'Étranger
and L'Homme révolté, or his editorials
for the French Resistance journal Combat, but also brings to light more
unfamiliar
works like his youthful journalism and early essays.
Morisi is right to stress
the centrality of these early
writings. Camus's "instinctive and obstinate refusal" of another's
physical resistance during the Second World War. Instead, it was the
fruit of a
childhood marked by material scarcity and maternal silence. Raised in a
working-class neighborhood of Algiers by a mother who was illiterate,
deaf and
almost mute, Camus never knew his father. Yet, in a rare story told to
him by
his mother, he learned about his father's reaction after witnessing the
public
execution of a man who had murdered an entire family. On returning from
the
spectacle, the elder Camus rushed to the bathroom, vomited, and never
again
spoke about his experience. The legacy of the father he .never knew,
Morisi
writes, was visceral disgust at man's violence against man.
This reflex remained with
Camus to the end of his life. It
led him to plead for the life of wartime collaborators such as Robert
Brasillach
and Lucien Rebatet, and FLN militants such as Hasni Boualem and Ali
Labdi. It made
him persona non grata in French Algeria for his blistering exposé on
the plight
of the Berbers and made him risk his life to plead for a civilian truce
in that
country. In clear and concise language, Eve Morisi reminds us why we
should
care about Camus.
TLS, April
4, 2014, điểm cuốn của Ève Morisi, viết về Albert Camus: ALBERT CAMUS, LE
SOUCI DES AUTRES [Camus, nỗi
âu lo của những người khác]
In clear and concise
language, Eve Morisi reminds us why we should
care about Camus: Bằng
1 thứ ngôn ngữ trong sáng, ngắn gọn, súc tích, Eve Morisi nhắc nhở tại
sao
chúng ta vưỡn “care” về Camus.
100
ans Camus
Suốt cuộc đời,
Camus luôn tỏ ra trung thành với niềm tin, rằng con người phải hoàn
chỉnh trọn
vẹn chính mình, sống trọn với bản chất của mình, khi mình tương hợp với
thế giới
tự nhiên, khi cuộc ly dị giữa nó và thế giới tự nhiên sẽ cắt manh mún
cuộc hiện
hữu nhân sinh của nó. Có lẽ, đây là niềm tin, kinh nghiệm của một người
lớn lên
không nương tay nhờ sỏi, đá, bụi bặm, giọt mưa, sợi nắng, và, nó tách
Camus ra
khỏi cái đám đông khốn kiếp ở thành phố, ở Paris, và hơn thế nữa, tách
ông ra
khỏi cả một tầng lớp trí thức cùng thế hệ với ông. Tất cả lũ, nào Mác Xịt, nào
Ky Tô, nào tự do, nào hiện sinh, đều có một điểm chung: chúng đều thần
tượng
hoá lịch sử. Sartre và Merleau-Ponty, Raymond Aron và Roger Garaudy,
Emmanuel
Mounier và Henri Lefebvre, ít ra đều đồng ý về một điểm: rằng con người
là một
con người xã hội, và, để hiểu nỗi khốn cùng, những khổ đau của nó, và
đề ra giải
pháp cho vấn đề của con người, việc đó chỉ thế xẩy ra, ở trong cái
khung lịch sử.
Kẻ thù ở bất cứ đâu đâu, ở bất cứ điều gì khác, nhưng đám này đều chia
sẻ với
nhau một giáo điều rộng lớn nhất trong mọi giáo điều của thời đại chúng
ta: rằng
lịch sử là chìa khóa cho câu hỏi nhân sinh [that history is the key to
the
human question], là nơi chốn, môi trường, ở đó, trọn số phận của con
người được
quyết định.
Camus không
bao giờ chấp nhận cái sắc lệnh hiện đại này. Không hề chối bỏ chiều
hướng lịch
sử của con người, ông luôn luôn tin rằng, giải thích số phận con người
hoàn
toàn bằng kinh tế, xã hội hay ý thức hệ, là không đầy đủ, và trên đường
dài,
nguy hiểm. Trong Mùa Hè,
1948, ông viết: “Lịch sử chẳng hề giải thích vũ trụ tự
nhiên, có trước nó, cũng như cái đẹp, ở trên nó”. Cũng trong bài tiểu
luận, ông
phản đối sự lãnh đạo của những đô thị, vì nó a tòng [associated: kết
hợp] với
tính tuyệt đối của lịch sử, và sau này, trong Kẻ Nổi Loạn, ông coi đây là những
nguồn gốc đưa đến bi kịch chính trị hiện đại, thời của những chế độ độc
tài,
chúng tóm lấy [take] những đòi hỏi lịch sử, như là biện minh triết học
của
chúng.
Ngược hẳn
con người thành thị mà những tư tưởng gia hiện đại coi chỉ là một thứ
sản phẩm
lịch sử, mà những ý thức hệ lột sạch máu thịt; con người trừu tượng, đô
thị
này, bị tách ra khỏi đất đá và mặt trời, chẳng còn tí cá nhân cá nhiếc
gì hết,
non-individualized, không còn đồng nhất với gốc gác miệt vườn, với cánh
đồng bất
tận [đất đá, mặt trời, sông nước, con người… là một], con người đó biến
thành một
quần đảo của những phạm trù tinh thần, Camus nói về con người tự nhiên,
được nối
kết với thế giới của những phần tử như đất, như đá, như sông, như nước…
rất
hãnh diện, tự hào về cái vẻ rắn chắc của cơ thể của mình, yêu cơ thể,
thân xác
của mình và cố gắng thoả mãn nó, làm cho nó hài lòng, con người tự
nhiên này nhận
ra một điều, sự hài hòa giữa khung cảnh và vật chất [matter], thì không
chỉ là
sự viên mãn của lạc thú, và còn là sự xác nhận tầm lớn lao vĩ đại của
con người.
Của anh ta. Con người này, thì elemental [có tính phần tử, nguyên tố…]
không chỉ
vì những lạc thú của anh ta đơn giản, và trực tiếp, mà còn vì, anh ta
thiếu [lack]
sự gọt rũa cho thành đẹp của xã hội [social refinement], thiếu trò ma
mãnh,
nghĩa là, anh ta chẳng kính trọng qui ước, mù tịt về thất vọng, chán
chường, và
tình tiết [intrigue], mù tịt về cái gọi là tinh thần thích ứng, gia
nhập, [hội
đoàn hội điệc, cộng đồng, cộng điếc, thua, đếch có tớ!], và lại càng
chẳng có
tí tham vọng quyền lực, vinh quang, và của cải tiền bạc!
Đó là những
điều mà anh ta không thể khinh miệt, bởi vì đếch biết đến chúng! Những
đức
tính, hạnh kiểm của anh ta, là sự thẳng thắn, giản dị, hơi bị tỏ ra
thích, một
cuộc sống X-pác-tơ [a Spartan life], những đức hạnh như thế, theo
truyền thống
mà nói, hầu hết kết hợp với cuộc sống nhà quê, thôn dã, tỉnh nhỏ, và
nói một
cách khác, với thế giới tà giáo, a pagan world. Chuyện gì xẩy ra khi
một ông
nhà quê, cù lần, một con người của thiên nhiên, như thế, nổi hứng lên,
đòi cho
hắn ta cái quyền, có cái phần của mình, ở trong một thành phố? Một thảm
kịch:
Thành phố sẽ tóm lấy, bóp nghẹt, đè nát, hủy diệt anh ta. Đây là đề tài
của cuốn
tiểu thuyết đẹp nhất, bảnh nhất của Camus: Kẻ Xa Lạ, The Outsider.
Vargas
Llosa
Camus @ Combat
Orwell
Gốc Tẩy
ORWELL'S
ALBUM
He didn't
manage his life very well a certain Eric Blair
on every picture his face is
extraordinarily melancholy.
A top student at Eton-Oxford-then colonial service
during
which he cut the sum total of elephants by one.
He was witness to the hanging
of some unruly Burmese
and described it in detail. War in Spain with the
anarchs.
There's a picture: fighters in front of the Lenin barracks
in the
background he stands too tall and entirely alone.
Sadly
there's no photo of his period of poverty studies
in Paris and
London. A gap allowing for speculation.
And then
finally late fame-more than that-wealth:
we see him
with dog and grandson. Two pretty wives
a country
house in Banhil where he lies under a stone.
Not one holiday
snapshot-tennis shoes a sunlit yacht
the courting
of amusement. Good. Luckily no photo
of him in
hospital. The bed. The white flag of a towel
held to a
bleeding mouth. But he will never surrender.
And he goes
off like a pendulum patient and suffering
to a certain
encounter.
Zbigniew
Herbert: The Collected Poems
Album của
Orwell
Ông ta không
biết làm cho thật bảnh, đời của mình, cái tay Eric Blair nào đó này
Ấy là vì nhìn
mọi bức hình, mặt ông buồn thiu.
Sinh viên số
1 Eton-Oxford
Rồi thì phục
vụ ở thuộc địa
Trong thời
gian này, ông làm thịt 1 con voi, khiến tổng số voi bị thiến mất 1
con.
Ông còn
chứng kiến tận mắt lũ mũi lõ Hồng Mao treo cổ
những tên Miến cô lô nhần dám chống
lại mẫu quốc,
và miêu tả thực là tỉ mỉ thú vui này.
Chiến tranh
Tây Bán Nhà với đám vô chính phủ
Có bức hình
này trông cũng thú: những chiến sĩ trước những doanh trại Lenin,
Ở phía sau, ông
đứng, cao lêu khêu, và mới cô đơn làm sao.
Hơi có tí buồn,
là không có tấm hình nào thời gian ông sống khốn khó,
khi đi học ở Paris, và
London.
Một khoảng
trống, tha hồ mà đoán mò.
Và sau
cùng, vinh quang
muộn - hơn cả thế nữa – giàu sang:
chúng ta nhìn thấy ông ta, với,
nào chó, nào cháu trai.
Hai bà vợ đẹp, một căn nhà đồng quê ở Banhil nơi ông nằm
dưới 1 hòn đá.
Không thấy bức
nào - dã ngoại, pinic, ngày nghỉ -
những đôi giày tennis, một du thuyền sáng choang ánh mặt trời, rong
buồm mua lấy 1 ngày vui, kiểu đó.
Thì cũng tốt thôi.
May quá, đếch có tấm nào khi ông nằm nhà thương.
Trên giường.
Một cái khăn trắng giống như 1 lá cờ ở miệng, ngăn thổ máu.
Nhưng ông sẽ chẳng
bao giờ đầu hàng.
Và ông đi, như quả lắc, nhẫn nại và đau khổ, cho một
cuộc gặp gỡ nào đó.
Của [Kẻ] Hiếm!
Orwell Gốc Tẩy
Cách nhau
10 tuổi, những
cả hai cùng chết ở cái tuổi 46, họ có quá “một”, những
nét giống nhau. Thuộc địa,
trước tiên. Một ông sinh ở Ấn, rồi phục vụ Nữ Hoàng Anh trong ngành Cớm
tại Miến.
Một ông trải qua tuổi thơ và tuổi mới lớn ở Algérie. Trở thành ký giả,
trải qua
cực tả [chủ nghĩa xã hội cách mạng với Orwell, cộng sản với Camus], cả
hai cùng
ngộ ra, và cùng tố cáo cái gọi là sự "vô nhân kìm kẹp con người của tả
phái toàn trị", như Ian Brunskill viết
trên tờ Thời Báo Luân Đôn
trong 1 bài viết nhan đề là "Orwell Gốc Tẩy". Nếu kẻ này, kẻ
kia ,thì đều mềm lòng trước những tư tưởng trừu tượng, cả hai đều dám
thí mạng
cùi vì một nghĩa cả; một, trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, một trong
Kháng Chiến.
Cả hai đều ho lao, và Orwell ngỏm vì nó.
Tới đó là chấm
dứt. Gia đình Camus, cực nghèo, chàng khố rách áo ôm, mẹ mù chữ, đi ở
đợ, làm mướn, trong khi
Orwell, thuộc tầng lớp trung lưu, cuộc sống dễ dãi, thoải mái. Chàng
được gia đình
cho học Eton, trường college bảnh nhất
Ăng Lê. Nếu cả hai đều nuôi dưỡng lòng ân hận về môi trường sống của
mình, thì mỗi
bên 1 kiểu; với Orwell, là thứ “tình cảm sâu xa về 1 lưu đày nội”, từ
của Alain
Vircondelet, trong 1 cuốn tiểu sử mới đây về Camus [“Albert Camus, đứa
con trai
của Alger”, nhà xb Fayard, 2010], trong khi Orwell, là 1 hình ảnh vuông
vắn, với
những tư tưởng trong sáng, rạch ròi, một vì quan tuyên cáo, trong cuộc
chiến chống
lại chủ nghĩa đế quốc, và sự bất công dưới mọi hình thức, một thành
viên của 1
chủ nghĩa xã hội chống-toàn trị. Camus tạo đủ thứ kẻ thù, từ bốn phương
tám hướng,
trong khi loay hoay, hì hục cố vạch ra 1 con đường thứ ba, giữa tả và
hữu, từ
chối chấp nhận 1 sự độc lập của Algérie, theo cái kiểu, tất yếu phải
như thế, và
xác định vị
Books,
Avril
2011
Camus:
Một
chuyện tình
Sau bao nhiêu năm trời,
tôi muốn tìm hiểu tại làm sao mà tôi say mê hắn ta đến
như thế
Orwell Gốc Tẩy
Cách nhau 10 tuổi, những
cả hai cùng chết ở cái tuổi 46, họ có quá “một”, những
nét giống nhau. Thuộc địa,
trước tiên. Một ông sinh ở Ấn, rồi phục vụ Nữ Hoàng Anh trong ngành Cớm
tại Miến.
Một ông trải qua tuổi thơ và tuổi mới lớn ở Algérie. Trở thành ký giả,
trải qua
cực tả [chủ nghĩa xã hội cách mạng với Orwell, cộng sản với Camus], cả
hai cùng
ngộ ra, và cùng tố cáo cái gọi là sự "vô nhân kìm kẹp con người của tả
phái toàn trị", như Ian Brunskill viết
trên tờ Thời Báo Luân Đôn
trong 1 bài viết nhan đề là "Orwell Gốc Tẩy". Nếu kẻ này, kẻ
kia ,thì đều mềm lòng trước những tư tưởng trừu tượng, cả hai đều dám
thí mạng
cùi vì một nghĩa cả; một, trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, một trong
Kháng Chiến.
Cả hai đều ho lao, và Orwell ngỏm vì nó.
“Người Đầu
Tiên”, tác phẩm tự thuật dở dang của Camus, lên phim.
C’est la
philosophie… Chính triết học là vấn đề của
tác phẩm chẳng bao giờ xác quyết, lúc nào cũng ngất ngư con tầu đi, à
jamais
indécise. Dưới hình tượng của 1 người đàn ông, trên đe dưới búa, bởi
bạo
lực (chủ
nghĩa khủng bố và chủ nghĩa thực dân thuộc địa) quá thông minh để mà
chọn bên,
và, quá rộng lượng để mà "không thể không đau khổ", bởi những khổ đau
đếch dành cho mình,
Camus chứng minh, chớ bao giờ khởi từ tuyệt đối để mà tạo mẫu, đóng
khuôn, nhào
nặn thực tại, nhưng mà là, “dựa vào cái thực để mà tìm ra hướng đi,
trong 1 trận
đánh hoài hoài, về phía chân lý”.
Trăm Năm
Camus
“Người Đầu
Tiên”, tác phẩm tự thuật dở dang của Camus, lên phim.
C'EST L’HISTOIRE
D'UN HOMME DONT LA MÈRE ne sait pas lire et dont le père, mort à 29
ans, est à
jamais le cadet: « Et le flot de tendresse et de pitié qui d'un coup
vint lui
emplir le cceur n'était pas le mouvement d'âme qui porte le fils vers
le souvenir
du pere disparu, mais la compassion bouleversée qu'un homme fait res
sent
devant l'enfant injustement assassiné ... »
Alger, aout
1957. L'écrivain Jacques Cormery rend visite à sa mère dans une ville
en guerre
et retrouve, au hasard des rues que le sang n'a pas encore défigurées,
le souvenir
de son enfance misérable mais heureuse (“Si c'est nous les pauvres,
alors tout
va bien”, dit-il). Telle est la trame du Premier
Homme d'Albert Camus, un livre condamné à l'esquisse, c'est-à-dire
à
l'essentiel, par l'accident qui couta la
vie à son auteur, et dont Gianni Amelio a tiré un film absolument
magnifique.
Certains
acteurs incarnent un personage avec une telle évidence qu'il semble
impossible,
après coup, de lui avoir donné un autre visage. Il faudra qu'on s'y
fasse :
n'en déplaise à 'imagination, Cormery ressemble désormais a Jacques
Gamblin
comme Madame Bovary ressemble (depuis toujours) à Isabelle Huppert.
Nicolas Giraud
honore de son sourire la personne de l'oncle Etienne (ou Ernest) que
son
idiotie préserve de l'imbécillité de son temps. Denis Podalydes se
glisse à
merveille dans la peau de l'instituteur qui, attentif au génie d'un
petit garcon,
transforme son existence en destin. Ulla Baugué réssuscite une
grand-mère
affectueuse et autoritaire, dont le fouet, precepteur involontaire,
apprend à
sa victime que la violence est une limite. Maya Sansa puis Catherine
Sola
donnent un visage impassible à une mère illettrée dont le silence
énorrne
enseigne l'amour, le courage et la mesure au bambin qui n'oublie rien.
«Il ne faut
pas croire, dit Maeterlinck, que la parole serve jamais aux
communications véritables
entre les êtres. Dès que nous avons vraiment quelque chose à dire, nous
sommes
obligés de nous taire ... » Car le silence n'est pas l'absence de bruit
mais
l'absence de parole, le retour à l'immediat, le clairon d'une nature «
noire de
soleil » qui n'est pas là pour nous faire plaisir, mais qu'il faut
aimer pour
ne pas sacrifier le réel à l'idée qu'on s'en fait. Homme libre,
toujours tu chériras
ta mère.
C'est de
philosophie qu'il est question dans cette oeuvre à jamais indécise.
Sous la
figure d'un homme aux prises avec deux formes aigues de la violence
(terrorisme
et colonialisme), trop intelligent pour choisir son camp et trop
génereux pour
ne pas souffrir des douleurs qui lui sont épargnées, Camus (dé)montre
qu'il ne
faut pas partir de l'absolu pour modeler la réalite, mais « s'appuyer
sur le réel
pour s'acheminer dans un combat perpétuel vers la vérité» et que seule
une pensée
des limites, qui préfère l'homme de chair à l'homme abstrait, est
susceptible
d'améliorer le monde. Mais il arrive, pour le meilleur, que la
philosophie
rende les armes et s'incline devant la littérature ou le cinéma. Aucune
théorie,
si mesurée soit-elle, n'arrive à la cheville d'un père en larmes don’t
l'enfant
vient de naitre et qui sursaute au bruit du tonnerre, ou d'une mère qui
tressaille à chaque coup que recoit son fils. Silence. lci-bas, tout
est dit .•
Sinh thời,
khi còn tờ Sáng Tạo, và, khi Camus mất vì tai nạn xe hơi, TTT đã đi 1
đường phê bình, thật
là nặng nề, thái độ lưng chừng, ở giữa, của Kẻ Trung Thực, Le Juste,
của Camus,
và đóng lại bằng hình ảnh cũng thật dữ dằn chẳng kém, rằng, cái chết
[vì tai nạn] đã đóng
chặt Camus ở trong quá khứ.
Hóa ra không
phải như thế.
Vargas Llosa cũng đã từng nghĩ như TTT về Camus, nhưng cuối đời, nhận
ra mình
sai, ông đã viết 1 bài thật là tuyệt vời về Camus, để tạ lỗi. (1)
Và cái thái
độ luỡng lự của Camus, được vinh danh thật là tuyệt vời, ở đây, khi
"điện ảnh làm văn chương", "quand le cinéma fait de la littérature":
C’est la
philosophie… Chính triết học là vấn đề của
tác phẩm chẳng bao giờ xác quyết, lúc nào cũng ngất ngư con tầu đi, à
jamais
indécise. Dưới hình tượng của 1 người đàn ông, trên đe dưới búa, bởi
bạo
lực (chủ
nghĩa khủng bố và chủ nghĩa thực dân thuộc địa) quá thông minh để mà
chọn bên,
và, quá rộng lượng để mà "không thể không đau khổ", bởi những khổ đau
đếch dành cho mình,
Camus chứng minh, chớ bao giờ khởi từ tuyệt đối để mà tạo mẫu, đóng
khuôn, nhào
nặn thực tại, nhưng mà là, “dựa vào cái thực để mà tìm ra hướng đi,
trong 1 trận
đánh hoài hoài, về phía chân lý”.
Albert Camus và đạo đức
học của những giới hạn
Hai mươi năm trước đây, Albert
Camus là một tác giả thời thượng;
những kịch phẩm, tiểu luận và tiểu thuyết của ông giúp những người trẻ
tuổi,
sống. Vào lúc đó, bị ảnh hưởng Sartre, say mê những tư tưởng của ông
ta, tôi
đọc Camus mới ngán ngẩm làm sao, và nhiều khi còn bực bội về cái gọi là
chất
trữ tình làm ra vẻ trí thức của ông!
Sau đó, khi tác phẩm di cảo của ông, Sổ Ghi [Notebooks], được
xb, vào
năm 1962 và 1964, tôi bèn đi vài đường tạp ghi, bằng một giọng văn tầm
phào, bố
lếu bố láo, phiến diện, tôi chụp cho cái xác của ông một cái nón mầu
‘xám chưa
đủ xám’[a ‘premature greyness’]. Dựa vào thái độ của ông trước thảm
kịch
Algeria - một vị trí mà tôi thật sự chẳng hiểu cái chó gì, hò theo
những kẻ
thù, đối thủ của ông, không chịu đọc thẳng ông, tôi tự cho phép mình vẽ
ra một
hình ảnh tiếu lâm về ông, một kẻ công chính, một ông bình vôi, the lay
saint,
mà những đệ tử của ông để lên bệ thờ và cứ thế xì xụp!
Tôi đếch thèm đọc ông, cho mãi tới mấy tháng trước đây, may mắn làm
sao, trong
khi theo dõi một vụ khủng bố tấn công ở Lima [ở Sài Gòn, do tay khủng
bố VC nằm
vùng DH, cũng một đệ tử của ông, thực hiện! Hà, hà!]… . tôi lại mở ra Kẻ
Nổi
Loạn, một tiểu luận của ông về bạo động trong lịch sử mà tôi đã
quên mẹ nó
từ lâu (hay, chẳng bao giờ hiểu được).
Ui chao, đúng là một mặc khải.
Found in
Translation: Simon Willis applauds a new version of Albert Camus's most
confrontational novel...
From
INTELLIGENT LIFE magazine,
September/October
2012
Author
ALBERT CAMUS
English
title THE OUTSIDER
Original
title L'ETRANGER (1942)
Original
language FRENCH
Translator
SANDRA SMITH
Existentialism
had its great theorist in Sartre and its great novelist in Camus, and
this is
still the book students turn to when they need a fix of
me-against-them. That's
partly because Camus looked worth emulating—a rakish romantic to
Sartre's
goggle-eyed nymphomaniac—and partly because as a novel "The Outsider"
is an attractive mix of pith and mystery. It has had several
translators since
Stuart Gilbert, who gave us the first English version in 1946. His
opening line
was "Mother died today", and as other translators followed suit it
began to look indelible. But this new translation, by Sandra Smith,
differs
from the first word. The question it asks is how to talk when we talk
about
mothers.
She opens
with "My mother died today", a small change which signals that
Meursault, Camus's narrator and one of fiction's coldest fish, might
not be
quite as cold as usual. Throughout the rest of the novel, he refers to
"mama" instead of "mother". This isn't just a question of
what the French word maman means. After he shoots an Arab on the beach,
Meursault's fate in court rests largely on the question of whether or
not he
loved his mum. He won't give anything away, which is where both his
problem and
his heroism lie. In 1955 Camus described Meursault as a man who refuses
to play
the game—a refusal which, as the terms get more affectionate, feels
more
potent.
This version
doesn't have quite the terse elegance of earlier translations, but with
a few
deft choices, Sandra Smith has made the battle lines between Meursault
and the
world starker. She's given a subtle twist to an old story.
Simon Willis
is apps editor of Intelligent Life
The Outsider
Penguin, out now
"Bữa
nay mẹ tôi mất"
(Aujourd’hui
maman est morte).
Maman tiếng Tẩy, trong câu mở
ra Kẻ Xa Lạ, "Bữa nay mẹ
tôi mất" dịch sang tiếng Hồng Mao, sao?
Tiếng
Mít, thì xừ Tẩy mũi tẹt TTD phán, phải dịch “Mẹ”, không được dịch
“Mẹ
tôi”.
Bi giờ bản dịch mới nhất tiếng Anh, phán, phải dịch “My mother”,
thay vì “Mother”.
Trần Thiện Đạo
giải thích:
Đây là
mấy
câu độc thoại nội tâm mở màn cho thiên truyện, Albert Camus đã dụng
công dùng từ
maman hàm nghĩa má, mẹ, mợ, me, u... nói thầm trong bụng nhơn vật. Chớ
không
phát thành tiếng để gởi tới một đối tượng nào chung quanh, nên nó tuyệt
nhiên
không mang ý nghĩa "một từ gọi mẹ thân thiết" (Trần Hinh) hay một
"cách nói theo thói quen" (Dương Tường): té ra hai ông đã tranh cãi
nhau trên một cái cớ hão huyền.
Thành ra khi
Dương Tường chuyển chữ maman thành mẹ tôi thì ngay từ đầu đã trật đường
và sai
hướng rồi. Chữ tôi kèm theo chữ mẹ ở đây tự dưng biến nó thành lời khai
mào cho
một câu chuyện thuật lại cho người khác nghe, chớ không còn là suy nghĩ
trong đầu
nhơn vật nữa. Xóa mất tánh cách độc thoại nội tâm cốt yếu. Như vậy là
bóp méo
văn Pháp của tác giả. (1)
Lire:
Heidegger đã
ca ngợi tác phẩm của ông, khỏi phải lèm bèm thêm. Nhưng ra thế nào, nàm
sao mà 1 triết gia bảnh tỏng như ông ta mà lầm lạc như thế, và đem thân
phò
Hitler? Đúng là 1 lời thú nhận sự bất lực về mặt triết học!
Paul Ricoeur:
Văn hoá như
tôi biết được, chưa hề ngăn ngừa, phòng chống sự man rợ. Một xứ sở với
1 nền
văn minh đỉnh cao chói lọi như Đức, vậy mà ngập chìm trong tủi nhục, và
đó là 1
thí dụ nhức nhối, đau thương. Nhưng tôi chưa bao giờ buộc tội
Heidegger, như là
1 triết gia. Chỉ điều này, triết học của ông không sản sinh ra cả đạo
đức lẫn
chính trị, và gây ra ở trong ông ta, vào một thời kỳ, sự hồ nghi trí
thức, và
điều này được biểu lộ ra bằng sự bất lực của ông khi không thể tiếp tục
Hữu thể
và Thời gian, một thứ khoảng trống tư biện, mà ông ta nghĩ rằng,
có thể làm đầy
bằng hình tượng một con người coi mình như là vĩ nhân của lịch sử, cha
già của
dân tộc. Chính vào lúc đó, ông bị trúng bả Quốc Xã. Nhưng hãy minh bạch
1 điều,
Hữu thể và Thời gian không phải là 1 cuốn sách Nazi, nó là, và
đây là sự khác
biệt rất ư khác biệt, một tác phẩm không phòng vệ chống chủ nghĩa Nazi.
Trong
khi đó, Karl Jaspers, ông ta không ngã gục như Heidegger, là bởi vì
triết học của
ông sản sinh ra một nền đạo hạnh và chính trị học.

2013
cũng là kỷ niệm 100 năm năm sinh của Paul Ricoeur.
Tờ Le
Monde Dossiers & Documents Tháng Ba 2013, ra số đặc biệt về ông
và cùng
với ông, là đề tài hồi nhớ, lịch sử, và quên lãng, như tên 1 tác phẩm
của ông [La Mémoire, L’Histoire, l’Oubli, Seuil,
2000): Với Paul Ricoeur, sự kiện, một xã hội ‘triền miên nổi giận với
chính nó’
làm tê liệt việc chép sử.
Câu
văn "thần
sầu" của Gấu Cà Chớn, trong Bụi, “nước mắt cũng có hạn, nơi nào
đổ ra nhiều thì
nơi khác dè sẻn lại”, cũng là câu của Paul Ricoeur phán, về hồi nhớ,
trong bài tiếng
Tẩy trên. Paul Ricoeur thú nhận, ông rất bực vì tình hình đáng ngại,
chỗ này nhớ
nhiều, chỗ khác thì lại ít quá [“l’inquiétante spectacle que donne le
trop mémoire ici, le trop d’oubli
ailleurs”].
Cái tít bài
viết mới thú: Khai thông hồi ức Lò Thiêu bằng lãng quên!
Câu phán về
“thời của chúng ta” mà chẳng thú sao: Ôm diết lấy bất hạnh cá biệt,
đóng băng
trong cái trò nạn nhân hóa - tớ là nạn
nhân của CS, thí dụ - đến nỗi đếch thèm nhìn đến khổ đau của những
người khác.
Bài viết cảnh
cáo, coi chừng Lò Thiêu chiếm trọn không gian cảm thông của chúng ta
[La Shoah
tendreait à occuper l'espace compassionnel disponible]
Đây cũng là
lời cảnh cáo của 1 vị thân hữu của TV, coi chừng THNM, nhìn đâu cũng
thấy… VC!
Hà, hà!

Paul
Ricoeur: Temps & Récits [Thời gian & Những chuyện kể]
Paul Ricoeur
tra hỏi thời gian mà đằng sau nó là cái chết. Thời gian tạo vóc dáng
nhờ dòng kể,
và mọi lịch sử thì ở trong dạng kể, nếu không, nó hết là lịch sử và bị
xã hội học
đợp [résorberer: tiêu tan]
(1913 -2013)

Camus sait
que le problème
algérien est plus complexe
que ne l'imagine un intellectuel dans son bureau parisien. Le
colonialisme est
à abattre, pas les Blancs parce qu'ils sont blancs.
Citations célèbres de
Camus:
«Je ne connais qu'un seul
devoir: celui d'aimer.»
« N' attendez pas le Jugement dernier: il a lieu tous
les jours.»
« Il n’y a pas de honte à préférer le bonheur.»
« Si l'homme échoue à concilier la justice et la
liberté, alors il échoue à tout.»
«La vraie générosité envers l'avenir consiste à tout
donner au présent.»
Camus phán:
Tớ
biết, chỉ 1 bổn phận:
Iêu!
Đừng
đợi Ngày Phán Xét, nó xẩy ra mỗi ngày.
Chẳng
xấu hổ gì khi khoái hạnh phúc.
Nếu
mi thất bại không làm sao cho công lý bắt tay được với tự do, mi
thất bại tất
cả.
Cái
lòng đại lượng thực sự của chúng ta đối với tương lai, đó là, "cho"
hết ngày
hôm nay.
(1913 -2013)
Albert Camus
và đạo đức học của
những giới
hạn
Ở trong
những tác phẩm sau này
của Camus, phong cảnh – và trên tất cả, phong cảnh quê ta, miền đất
thiên đàng Địa
Trung Hải của ông - vưỡn hiện diện, thường như là, một ham muốn tàn
khốc, an
atrocious desire, hay một hoài nhớ khủng khiếp, đến trở thành khốn khổ,
khốn nạn,
rất ư là hơi bị thảm hại [y chang Gấu, những ngày sắp lìa đời!], a
terrible
nostalgia: Marthe và bà mẹ của cô, những tên trộm cướp và những tên sát
nhân
trong Ngộ Nhận, làm thịt du
khách trong quán trọ, để có một ngày, có đủ vốn liếng,
tậu được một căn nhà bên bờ biển [Ui chao, chẳng lẽ đây là giấc đại
mộng của những
anh nhà quê Bắc Kít, những anh Cu Sài, xẻ dọc Trường Sơn,
hy vọng vô
được nước Xề Gòn, kiếm tí chiến lợi phẩm, về làng cũ, xây cái nhà gạch
nho nhỏ,
sửa sang phần mộ cho ông cụ, cưới một em ở Xóm Đoài, Xứ Đoài mây trắng
lắm?],
và cái anh chàng Tướng Về Hưu, Jean Baptiste Clemence, sau khi xây dựng
xong Địa
Ngục, bèn đi vào miền Sa Đọa, The
Fall, tên một tác phẩm của Camus, sám hối, và
trong một khoảnh khắc trầm thống, rống lên như một con quỉ, Quỉ Bắc
Kít, trong
một cuộc độc thoại nội tâm: “Ôi, mặt trời Bắc Kịt, ôi bãi biển Đồ Sơn,
ôi những
hòn đảo Hạ Long của những trận gió thương mại, ôi những hồi ức của thuở
thanh
niên, chúng mới làm cho đám Bắc Kít chúng ta chán chường làm sao!”
[‘Oh, sun,
beaches, islands of trade winds, memories of youth that make us
despair’]: Ở
Camus, cái đẹp và cái ấm mà con người được thừa hưởng từ thiên nhiên
không
chỉ thỏa mãn nỗi thèm khát của cơ thể, mà còn là một thứ thánh dược
thanh tẩy
tâm hồn!
Những con đường
đưa cá nhân đến tội ác / đưa
xã hội
đến cách mạng, là như nhau.
(Camus, Thèse sur Dostoevsky:
Les mêmes chemins qui
mènent l’individu au crime mènent la société à la révolution).
Đúng là 1
câu văn tiên tri về cái xứ Bắc Kít quê hương của Gấu ngày nào.
Tks. NQT
C'était un
Orwell méditerranean
Một tên
Orwell của Địa Trung Hải
“Il
y a la beauté et il y a les humiliés.”
Có cái đẹp và có những người bị sỉ nhục.
Ui chao sao
mà đúng y chang tình cảnh Mít, trước và sau Anus Mundi [hậu
môn của thế giới]
Trước, cả
nhân loại nằm mơ ngủ dậy, biến thành Mít.
Sau, Mít, có nghĩa là, bị sỉ nhục!
Là
hậu môn của cả thế giới!
Trăm Năm
Camus
Được mến mộ nhất trong
những tác giả Pháp, năm tới là kỷ niệm 100 năm năm sinh của Camus. Trên
tờ Books, là 1 bài điểm cuốn
sách về Camus, của Michel Onfray. Người điểm cho thấy 1 Camus gần gụi
với Orwell hơn, không hẳn bê tha, libertine, như Onfray nghĩ.
Một bài viết tuyệt vời về Camus. TV thể nào cũng chôm, và sẽ cố gắng
giới thiệu với quí vị độc giả bản tiếng Mít!
On rapproche souvent
Camus et George Orwell. Au-delà de quelques caractéristiques
anecdotiques (Camus et Orwell sont tous les deux morts à 47 ans, ils
ont également souffert de la tuberculose), les deux hommes partagent de
nombreux traits et leur univers de valeurs est le même. Tenant
fortement à quelques principes fondamentaux avec lesquels ils ne
transigeaient pas, l'un et l'autre ont payé de leur personne pour
défendre leurs convictions (Camus dans la presse clandestine, Orwell
dans les rangs des combatants républicains lors de la guerre
d'Espagne). Tous deux ont dénonce le totalitarisme sous sa forme
communiste autant que fasciste et nazie. Hommes de gauche tous les
deux, ils ont vertement critique la gauche et se sont fait attaquer par
elle avec férocité. Et ils mettaient l'un comme l'autre un point
d'honneur à ecrire une langue simple et comprehensible, exempte de
jargon et de grands mots.
Bien sur, la comparaison ne tient pas jusqu'au bout. Camus était de
toutes ses fibres un homme de la Méditerranée et Orwell profondement
anglais. Orwell provenait de ce qu'il appelait la « lower-upper middle
class » et Camus d'un milieu carrément misérable. Camus était
l'élégance même et Orwell un homme timide et maladroit. Mais c'est le
tableau d'ensemble qui compte. Dans le monde anglo-saxon, Orwell fait
done l'objet du même sentiment unanime de respect dont bénéficie Camus.
On ne s'y attend cependant pas à le voir susciter le genre de passion
qu'éprouvait Elizabeth Hawes pour Camus. Aussi sérieux, honnête, lucide
et courageux qu'Orwell, et écrivant aussi bien, Camus avait en plus
énormement d'allure et les qualités d'un homme du Sud. C'était un
Orwell méditerranean. +
Đối diện lịch sử
Đếch khoái
trừu tượng và cực đoan, Camus bèn kiếm ra một cách, của riêng ông, để
viết về
chính trị:
thoáng, nhã,
cao thượng, và hơi buồn buồn.
Ở Mẽo,
Camus, trước hết, là 1 anh Tẩy; ở Tây, ông, quan trọng hơn hết, là 1
anh chân
đen, tức 1 anh Tây tới thuộc địa, là xứ Algeria, và làm nhà ở đó. Như
một nhà
văn miệt vườn Mississippi, và cùng với người
đó, là 1 căn cước bí ẩn, một "Miền Nam Sâu
Thẳm", thí dụ
với Faulkner, thì với Camus, ông cũng có 1 căn cước thần bí như vậy,
hay, một
quá khứ có thể sử dụng được, một con người “Địa Trung Hải” đã từng ăn
nằm dài
dài với lịch sử biển.
Camus có cái
thứ thần bí đó: Có 1 cái gì “hoang dã” ở nơi ông, nhìn một phát là thấy
liền.
Trong bài viết 1 chú cá âm
ấm, trên, người viết có dùng 1 từ thật là tuyệt, và áp dụng thật là
thú, vào trường hợp của Gấu, khi đọc Camus, hay nói chung, 1 số tác giả
thời mới lớn:
Existentialism had its great theorist in Sartre and its great novelist
in Camus, and this is still the book students turn to when they need a
fix of me-against-them.
Chủ nghĩa
hiện sinh có lý thuyết gia lớn của nó, trong Sartre, và tiểu thuyết gia
lớn, trong Camus, và vẫn là cuốn sách đó [Kẻ Xa Lạ], những sinh viên
viện tới khi họ cần "xác định mình chống lại họ".
Cụm từ “fix of me-against-them”, quá đúng, nếu áp dụng cho Gấu, theo
nghĩa, Gấu đọc họ để hiểu Gấu.
Sartre cũng có 1 câu tương tự ý trên, Gấu đọc thời mới lớn, và bèn nhập
tâm liền tù tì.

Bài dậy
Camus, của ông
thầy GCC, trong cuốn tập của cô học trò, trong Bụi
Vào cái thời ông Tây mũi
tẹt dịch Camus, như máy, khi ngồi tại quán Les
Deux Magots, ở Paris, thì Gấu, tiếng Tây ăn đong, đọc Camus, đọc
Sartre
theo kiểu học đánh vần hồi mới học thuộc bảng chữ cái, và, vớ được hai
câu sau
đây, sướng điên lên được, và có thể nói, cả 1 cõi viết của GNV, sau
này, là từ
hai câu phán kinh hồn bạt viá đó, 1 của Sartre, và 1 của Camus.
Còn câu sau đây, của Camus, GNV
không làm sao
tìm ra được, nó nằm ở đâu, trong những tác phẩm của ông.
Thế rồi GNV lần mò tìm lại hồi ức của mình, và tự hỏi, hay là mi đọc
qua 1 tác
giả khác, khi ông ta trích dẫn Camus ?
Và, nếu như thế, thì có thể, GNV đọc câu của Camus, qua Tam Ích :
Tôi
lớn lên cùng những
người của thế hệ của tôi, trong tiếng trống trận Đệ Nhất Thế Chiến, và
lịch sử,
từ đó, chỉ là sát nhân, bất công và bạo lực.
Còn
câu nữa, của Sartre,
cũng làm Gấu yên tâm, và, bắt đầu viết.
Tại
sao tôi lại sợ hãi 1
thế giới bình thường, giản dị, và đều đặn như thế này ?
Và tôi cảm thấy tôi hết bịnh.
Câu
trên, trong La Nausée.
Thành thử GNV nghĩ, bạn
không cần đọc nhiều, mà chỉ ở trong 1 cái thế hàm mô công, và chờ con
mồi [ở
đây, là 1 câu văn], xuất hiện, và chụp ngay lấy nó !
Thế là thành nhà văn, nhà thơ !
Cả một cõi thơ của GNV, là từ
câu thơ của cô bạn:
Hồn Đông
Phương, thất lạc, Buồn
Tây Phương
Cái tình cảnh xui
khiến Gấu "dám"
cầm cây viết, và ti toe viết, y chang anh chàng Roquentin, ở ngay đầu
cuốn La
Nausée, [đoạn khép lại những trang không ghi ngày tháng, và sau
đó, Nhật Ký bắt
đầu]. Lúc đó là 10.30 tối. Anh chàng đang trong cơn "khủng hoảng hiện
sinh", và, thế rồi, ông ta đây rồi, anh chàng nghe tiếng chân ông Rouen
bước lên cầu thang, cảm thấy an tâm, và tự hỏi, cớ làm sao mà lại sợ
hãi một
thế giới đều đặn như thế? Anh chàng cảm thấy khỏi bịnh, và bắt đầu viết
La
Nausée.
[Le voilà. Eh bien, quand je
l'ai entendu monter l'escalier, ca m'a donné un
petit coup au coeur, tant c'était rassurant: qu'y-a-t-il à craindre
d'un monde
si régulier? Je
crois que je suis guéri.] (1)
Trăm Năm Camus

Kẻ nào
viết
rõ ràng thì có độc giả. Kẻ nào viết hũ nút thì có
thợ “còm”.
Hand-made
gift from TV Reader
Được mê nhất trong số
những nhà văn Tẩy
Note: TV sẽ
đi hai bài trên, nhân năm sắp tới, 2013, năm nay, là kỷ niệm 100 năm
năm sinh của
Camus, 1
trong những ông Thầy của Gấu hồi mới lớn.
Về già, Gấu tự hỏi, giả như
không gặp
ông hồi đó, và những ông như Lukacs, Henri Lefebvre, Koestler.. thì số
phận Gấu
ra sao?
Có thể nói, ông
trời già, chủng cho Gấu, đủ thứ thuốc chủng, ngừa “trùng độc” - chữ này
thuổng
Da Màu, dịch từ “virus” – có sẵn trong máu, là Cái Ác Bắc Kít, nhằm
ngăn ngừa nó
gây họa:
Bò lên rừng phò đao phủ
thủ HPNT!
« Camus paie
pour sa rectitude, sa droiture, la justesse de ses combats, il paie
pour son
honnêteté, sa passion pour la vérité. »
Michel
Onfray
[Camus trả
giá cho tính chính trực, sự cương trực, xác đáng trong những trận đánh
của ông,
ông trả giá cho sự thành thực, lương thiện, cho đam mê sự thực của mình]
Résistant au
mirage du communisme
[Cưỡng lại ảo
vọng Cộng Sản]
Sun, Dec 23,
2012
Thư Chào hỏi
K/G ông Cà
Chớn,
Một mình ông
( là Bắc Kỳ ) mà dám nói thật, nói thẳng trên văn đàn là tôi đã phục
ông rồi,
tôi biết là ông sẽ có nhiều người ghét ông lắm ! Mà ông gan thiệt à
nghe !
Tks again
Best Tết to
U & Family
NQT
Được mến mộ
nhất trong những tác giả Pháp, năm tới là kỷ niệm 100 năm năm sinh của
Camus. Trên
tờ Books, là 1 bài điểm cuốn
sách về Camus, của Michel Onfray. Người điểm cho
thấy 1 Camus gần gụi với Orwell hơn, không hẳn bê tha, libertine, như
Onfray
nghĩ.
Một bài viết tuyệt vời về Camus. TV thể nào cũng chôm, và sẽ cố gắng
giới
thiệu với quí vị độc giả bản tiếng Mít!
On
rapproche souvent Camus et George
Orwell. Au-delà de quelques caractéristiques anecdotiques (Camus et
Orwell sont
tous les deux morts à 47 ans, ils ont également souffert de la
tuberculose),
les deux hommes partagent de nombreux traits et leur univers de valeurs
est le
même. Tenant fortement à quelques principes fondamentaux avec lesquels
ils ne
transigeaient pas, l'un et l'autre ont payé de leur personne pour
défendre
leurs convictions (Camus dans la presse clandestine, Orwell dans les
rangs des combatants
républicains lors de la guerre d'Espagne). Tous
deux ont dénonce le totalitarisme sous sa forme communiste autant que
fasciste
et nazie. Hommes de gauche tous les deux, ils ont vertement critique la
gauche
et se sont fait attaquer par elle avec férocité. Et ils mettaient l'un
comme
l'autre un point d'honneur à ecrire une langue simple et
comprehensible,
exempte de jargon et de grands mots.
Bien sur, la
comparaison ne tient pas jusqu'au bout. Camus était de toutes ses
fibres un
homme de la Méditerranée et Orwell profondement anglais. Orwell
provenait de ce
qu'il appelait la « lower-upper middle
class » et Camus d'un milieu carrément misérable. Camus était
l'élégance même
et Orwell un homme timide et maladroit. Mais c'est le tableau
d'ensemble qui
compte. Dans le monde anglo-saxon, Orwell fait done l'objet du même
sentiment
unanime de respect dont bénéficie Camus. On ne s'y attend cependant pas
à le
voir susciter le genre de passion qu'éprouvait Elizabeth Hawes pour
Camus.
Aussi sérieux, honnête, lucide et courageux qu'Orwell, et écrivant
aussi bien, Camus avait en plus énormement d'allure et les qualités
d'un homme
du Sud. C'était un Orwell méditerranean. +
Đối diện lịch sử
Trong bài viết 1 chú cá âm
ấm, trên, người viết có dùng 1 từ thật là tuyệt,
và áp dụng thật là thú, vào trường hợp của Gấu, khi đọc Camus, hay nói
chung, 1
số tác giả thời mới lớn:
Existentialism had its great theorist in Sartre and its great novelist
in
Camus, and this is still the book students turn to when they need a fix
of
me-against-them.
NQT vs DPQ
Chủ nghĩa hiện sinh có lý
thuyết gia
lớn của nó, trong Sartre, và tiểu thuyết gia lớn, trong Camus, và vẫn
là cuốn
sách đó [Kẻ Xa Lạ], những sinh viên viện tới khi họ cần "xác định mình
chống
lại họ".
Cụm từ “fix of me-against-them”, quá đúng, nếu áp dụng cho Gấu, theo
nghĩa, Gấu
đọc họ để hiểu Gấu.
Sartre cũng có 1 câu tương tự ý trên, Gấu đọc thời mới lớn, và bèn nhập
tâm liền
tù tì.

Bài dậy
Camus, của ông thầy GCC, trong cuốn tập của cô học trò, trong Bụi
|