*

1




















 
 

Chuyện Tình Đặc Biệt Giáng Sinh:

Anh Môn


Cali Nov 2012 With HA

Anh Môn

Trong Sổ Tay, NB, dưới cái tít “Halo and Horn” [nghĩa của cụm từ này cũng giống như “pro & contra” của Sến Cô Nương, “halo”, chào mừng, “horn”, cái sừng, để đâm cho mi 1 phát!] của tờ TLS, số Jan 4, 2013, điểm những nhân vật văn chương xuất hiện theo dòng thời gian, JC [người phụ trách] viết, thì cũng là 1 cách để đánh giá, ai còn ai mất [chìm vào quên lãng đúng hơn], và nếu 2012 là năm tưởng niệm John Cheever, vẫn ngon cơm [GCC không hề biết đến ông này], và sự mất giá của Lawrence Durrell [ông này thì lại rất rành, BHD chẳng đã mang 1 cuốn của ông đến tặng Gấu đúng ngày sinh nhật, lần thứ 30 mà cũng là lần thứ nhất, sau khi thoát chết vì mìn VC, cùng với lời đề tặng, bằng tiếng Tẩy, "Je serai ta femme", và, em quên béng liền sau đó, cả Gấu lẫn lời đề tặng], và phán, 1 năm ủ ê, và phán tiếp, năm tới 2013, chắc là khá hơn.
Quả thế, 1913 là năm Albert Camus ra đời.
Cho tới nay, chàng vẫn là số 1, a great force in world literature một “thế lực” lớn -
từ này thuổng của 1 thi sĩ - trong văn chương thế giới, một “haloed figure” so với đồng hương, kẻ thù của chàng, a horned counterpart, là Sartre. Cả hai đều rành nhiều môn võ công giang hồ, viết giả tưởng, kịch, triết, và báo chí, [cả hai đều còn là editor]. Sự nổi danh dài dài của Camus là nhờ giả tưởng, và trong khi Satre vưỡn được coi là triết gia, thì Camus, "thôi rồi, anh ơi".
 “Hồi này, bạn có đọc Kẻ Nổi Loạn của ông ta không”? JC đặt câu hỏi cho độc giả, và tự trả lời, "cuốn này đúng là second-hand patchwork, đồ bá láp. Và nếu bạn ý muốn phản biện, thì chúng tôi, TLS, sẽ rất hân hạnh!"
Vẫn theo JC, những tiểu luận đầu tay của Camus có vẻ như bị lơ là, bỏ qua, chúng thật chói sáng, và là những tác phẩm suy tư, meditative works, về Algeria, và được xb tại đây vào thập niên 1930. Hai tác phẩm [thần sầu], Noces [Mít, tờ Văn trước 1975, Trần Thiện Đạo, hình như vậy, dịch là Giao Cảm] và L’Envers et l’endro
it, [hình như cũng đã được tờ Văn dịch, Bề mặt và bề trái], cả hai đều bị chế ngự [dominated] bởi mặt trời. Nhưng cái chói sáng nhất của chúng đối với độc giả, vẫn theo JC, là sự thông minh ở tác phẩm đầu tay của 1 kẻ tập tành viết, the debutant’s intelligence.

Và, bây giờ, tới lượt Le Grand Meaulnes & Yvonne de Quiévrecourt, và Sad Seagull & GNV, "chói sáng" cùng với năm 2013!

*

Kẻ nào viết rõ ràng thì có độc giả. Kẻ nào viết hũ nút thì có thợ “còm”.
Hand-made gift from TV Reader
Tks. NQT

Henri Alain-Fournier là tiền thân của Camus, trong vai trò người hùng của tuổi trẻ.

Cuốn Anh Môn xb năm 1913:

Mặc dù nổi tiếng như thế đó, Anh Môn, 100 tuổi tính đến năm nay, 2013, là 1 tuyệt tác đang gặp hiểm nguy, bị tiêu trầm, chìm vào quên lãng. Du khách hành hương viếng thăm căn nhà thời ấu thơ của Alain Fournier, gần Lộ Đức, ngày càng mỏng dính [thưa thớt, nếu biết tiếng Mít, dịch từ “thin” của tiếng Hồng Mao].
Những ngày này độc giả Anh, Mẽo thường chọn tiểu thuyết Tẩy, thứ có mùi triết Tẩy, hiện sinh hiện xiếc, [thí dụ, đến ngay Cô Tư, miệt vườn Cà Mâu xứ Mít, mà văn còn có mùi hiện sinh - cái gì ở giữa hai ngón cái - nữa là!]
Một thập niên trước đây, Tobias Hill ghi nhận, sách sống sót nhờ một hệ thống rỉ tai bằng tiếng Tầu, “a barely audible system of Chinese whispers”.
Tại sao nhiều độc giả Anh lại hờ hững với cuốn sách, được một số những nhà văn thuộc loại số 1, được kính trọng, nể vì của Ăng Lê, trân trọng, và có ông còn nhận tác giả của nó, là Thầy của mình, như Fowles?
Và, với những độc giả coi Anh Môn như sách gối đầu giường, thì là do đâu?
Do cách viết, do văn phong, giản dị, "viết như không viết"?
Một câu chuyện tình thời mới lớn không làm sao quên được, mang chất hoài cổ, lãng mạn, vãi linh hồn?
Với những fans khác, tình tiết ly kỳ, tính thơ của ngôn ngữ?
Rất nhiều độc giả bị hớp hồn bởi cái gọi là “buồn vào hồn không tên”, một nỗi u hoài, bi ai, toát ra từ một thứ thơ xuôi, như 1 nhà phê bình nhận xét, “như sương mù bên trên bãi tha ma”.
Một phần, còn do cuộc đời của chính tác giả, một cuộc đời lãng mạn, và cái chết trẻ của ông, và câu chuyện về người đàn bà đã gợi hứng cho ông.
*

-Em tìm để từ biệt anh. Oanh ngừng đợi phản ứng của Kiệt - Trước khi không còn được gặp anh, em muốn...
Kiệt lặng người....
TTT: MCNK

There is among all your memories one which has now been lost beyond recall.
J.L. Borges: Limits
Trong tất cả hồi ức của mi, có một, mất tăm, tích, không làm sao nhớ lại được.

Gấu không làm sao nhớ lại được khuôn mặt của Sad Seagull, sáng bữa đó, ở quán cà phê Starbucks, hay ở 1 quán ăn ở Quận Cam, buổi chiều hôm đó.
Tính ghé tiệm sách, nhưng em đổi ý.
Khi ăn xong, anh cũng không còn nhớ, ăn món gì, em nhìn trời, nhìn đồng hồ, nói trễ quá, phải trả xe cho người bạn….

To love a scene so much and yet to miss someone so essential to it was doubly heartbreaking
Damned to Fame, the Life of Samuel Beckett

Bây giờ thì GNV hiểu ra tình cảnh đưa đến ý định chấm dứt đời mình ở bên ngoài Phước Lộc Thọ, buổi chiều hôm đó.

Đó là do yêu quá yêu cái cảnh buổi sáng ngồi cà phê Starbucks với Sad Seagull, và nhớ đến phát khùng Sad Seagull mà hình ảnh của cô đóng chặt vĩnh viễn vào cái buổi sáng lần đầu tiên gặp mặt đó, và như câu phán ở trên, nỗi đau như được nhân gấp đôi lên, và càng thêm chán chường những ngày còn lại, quá vô vị, nhàm chán…

Buổi sáng hôm đó, em lo hết. Tất tả đi kiếm chỗ ngồi, sau cùng kiếm được 1 cái bàn ở ngoài trời, thật gió, thật lạnh [Cali mấy bữa đó, lạnh sợ còn hơn cả Canada!], rồi tất tả xếp hàng mua cà phê, tất tả bưng ra, Gấu già ngồi 1 chỗ, chẳng làm gì hết, ngắm em tất tả…. Em chừa cái ghế có cái cột che gió cho Gấu già, ngồi kể chuyện tuổi thơ của em, Gấu lắng nghe, thật cảm động, đến quên cả cái chuyện em rét run, anh chàng Mít, cũng đứng tuổi, ngồi bàn kế, thừa cơ em đứng dậy, bèn kéo cái ghế của em vào 1 chỗ khuất gió, rồi gật gù nhìn Gấu thông cảm, ra ý, đúng ra mi phải làm việc đó, nhưng thôi già rồi, ta làm giùm!

Những cuộc tình rồi cũng tới, làm sao không. Chàng có 1, dài và ồn, với 1 em thợ may. Một, với 1 bà hàng xóm. Em tỏ tình trước, bằng cách ném 1 cánh diều, một con nhạn, hay 1 “bản tin” [chữ của băng Hậu Vệ], từ cửa sổ nhà nàng bay qua, và đậu ngay trước mặt chàng, nơi hành lang. Chồng nàng biết được, hăm làm thịt tình địch.
Nhưng làm sao so được với thánh nữ...  Sad Seagull! Với nàng, chàng biết, phải có những cử chỉ, hành động lớn lao, vĩ đại nhất mới hy vọng “thắng cuộc” [chữ này thuổng của tà lọt Osin]. Cuối năm 1912, chàng khệ nệ mang bức thư tình đem dâng cho người đàn bà đã hành hạ chàng 7 năm trời: Em cho anh độc nhất 1 con đường để đến với em, và đó là con đường văn chương: Mi phải trở thành… Gấu Nhà Văn, được toàn thể người đời biết tới! Một cuốn “tỉu thết” dài đang hoàn tất, viết về Em, chỉ về Em, người mà anh chỉ nhìn thấy ở trong những giấc mơ, chỉ được gặp 1 lần độc nhất ở Quận Cam, sẽ ra đời vào Mùa Xuân này!
Sự thực, tham vọng trở thành Gấu Nhà Văn thì không bật ra từ cú sét đánh bên ngoài tòa Đại Lâu Đài – cho dù dữ dội cỡ nào – nhưng chúng được nung nấu nhiều năm trước đó, trong căn nhà trường học của ông bố, nơi chàng và cô em/bà chị cùng quần thảo mớ sách, cuốn nào cuốn nấy đều quăn góc chẳng khác chi “tai chó”, và chúng đều là phần thưởng học sinh giỏi của cả hai. Nhưng cho dù vậy, Anh Môn, cuốn tiểu thuyết được trình làng vào Mùa Thu năm sau, quả là có hình bóng của…  Hải Âu Buồn, là trái tim của nó.

Đoạn trên, Gấu Cà Chớn dịch từ bài viết của The Economist.
Bạn phải nghe chính chàng, Alain Fournier/GNV nói về Anh Môn/Sống và Đọc MCNK ở Quận Cam, thì mới càng thêm cảm khái.
Hà hà!

*

Trong bài viết The Lost Domaine of Alain-Fournier, 1986, được in trong Wormholes, [Lỗ Giun, 1 từ của giới khoa học thiên văn, theo kiểu Lỗ Đen, Big Bang...] Fowles trích thư của Alain-Fournier, viết cho bạn mình là Rivière, vào năm 1910, “Tớ đang viết 1 cuốn tiểu thuyết hoang đường dựa trên 1 em có thực. Cái này đem sức mạnh đến cho cái kia” [Nguyên văn: that he was “working on the imaginary, fantastic part of my book and on the simply humane one. Each gives me strength for the other”].

Bài của Fowles cũng thần sầu. Gấu Cà Chớn sẽ giới thiệu, cùng loạt bài viết về Sad Seagull.

Trong bài viết của Fowles, chúng ta biết thêm 1 chi tiết, chàng và nàng đi dạo dọc sông Seine chừng 1 tiếng đồng hồ!
Nàng rất thông cảm với cú sét đánh trúng ngay chàng, nhưng nói, vô hy vọng, rằng, chúng ta cư xử như hai đứa con nít, "behaving like children".

Nhưng, "như 1 đứa con nít”, chính là mục đích viết văn của Alain-Fournier, [và của Gấu Cà Chớn, tất nhiên], vì vẫn theo Fowles, trong bài viết đã dẫn:
… "behaving like children" was ominously close to Fournier's own view of why wanted to write: to convey the vivid and magical innocence of the child’s perception of life, to arrest the past.

Miền Đã Mất

Viết, nếu bạn phải, bởi vì bạn cảm thấy thích viết; chớ khi nào, bởi vì bạn cảm thấy phải viết [never because you feel you ought to write].
Đừng bao giờ viết vì bị bản năng nóng, hot instinct, cắn vào đít, vào tay, vào chỗ ấy..., gây ngứa, bắt phải viết. Bạn chỉ có thể viết do kinh nghiệm lạnh, by cold experience. Đó là lý do nhiều tiểu thuyết gia phải đợi qua bốn bó, [after the age of forty], mới gãi bật ra được tất cả những tác phẩm bảnh của họ [do all their best work].

Nhớ chưa, đừng viết vì ngứa. (1)
Bởi vì, có khi ngứa là do di chứng của giang mai, cũng nên!
Hà, hà!

(1)

Lại có ông, cứ mong được người đời phỏng vấn, để giơ hai tay lên trời, ngửa cổ than: đây là nghiệp của tôi.
Ông khác thì nói: tôi mà không viết thì ngứa không chịu được.
Ôi ngứa thì gãi, nghiệp thì đi cúng giải oan, đi chùa bố thí cho hết nghiệp.

*

Scott Fitzgerald ra đời lúc 3:30 pm, ngày 24 Tháng Chín, 1896, tại 481 Laurel Av, thành phố S. Paul, Minnesota. St Paul là nơi TTT rời Quận Cam, để sống, và để được chôn tại đó, [TTT mất ngày 22 tháng Ba 2006, hưởng thọ 70 tuổi. Fitz mất vì đau tim, khi mới 44 tuổi].
Theo Gấu Cà Chớn, TTT hẳn có đọc Tender Is the Night, "Cuộc Tình Bỏ Đi", của Fitz, trước khi viết MCNK. Đọc tóm tắt sau đây về Tender, thì chúng ta có thể tưởng tượng ra, nếu ở cái nền của Tender, là xã hội Mẽo, thì với MCNK, là cuộc chiến Mít:

Tender is the Night was published on 12 April 1934, and the first printing (7,600 copies) sold out, as did two more, totaling an additional 8,000 copies. The novel reached the middle of the bestseller lists for two months, but earned its author only about $5,000, which did not relieve his debts. It is remarkable that, with the tragic conditions of Zelda's confinement, his own ill health and alcohol dependency, he was able to continue writing stories and short essays. The reviews of the novel were mixed: because of the passage of so many years since the publication of Gatsby, expectations ran high for the new work. But most critics felt that there were structural weaknesses in the novel: Rosemary Hoyt's point of view in the opening is not sustained throughout the novel. The chronology seemed confusing to some, and many agreed that there was insufficient cause for Dick Diver's deterioration. But, once again, critics whom Fitzgerald respected recognized the brilliance of his work. As he had with Gatsby, Gilbert Seldes praised the novel unreservedly; Fitzgerald, he wrote, 'has stepped again to his natural place at the head of the American writers of our time' (New York Evening journal, 12 April 1934, Critical Reputation, p. 86).
Burton Rascoe, in Esquire, called it Fitzgerald's 'maturest' novel, his 'rich, Celtic, romantic imagination' having been 'subjected to the discipline of reflection and selection' (Critical Reputation, p. 86). Robert Benchley, an old friend, called it 'a beautiful piece of work', and said that he hadn't had a book take hold of him in that way for years (Correspondence, p. 358). Zelda praised the book too as a 'tragic and poetic personal drama against the background of the times we matured in' (Correspondence, p. 353).
Fitzgerald later revised the novel to make the chronology clearer, but the response when it was published after his death was mixed, many feeling that the earlier version was superior.

Tender is the Night is the story of Dick Diver, a young psychiatrist, who is seduced by the loveliness of the wealthy young Nicole Warren, whom he has been hired to treat. Eventually they marry, and Dick becomes part of the Warren establishment, used and ultimately discarded by Nicole after she has been cured and the Warren family no longer needs his services. But the bare outline of the story cannot describe the power of the novel: a picture of expatriate Americans and the wealth that ultimately corrupts; an examination of America and its history; and a poignant tale of loss, particularly moving in its reflection of the Fitzgerald’s own lives. The novel achieves a genuinely tragic dimension as it traces the decline of Dick Diver, which affectingly mirrors Fitzgerald's sense of his own eroded hopes.
[Penguin Books]

*

*

Chân dung tự họa, self-portrait, by Zelda,"Đảo Xa", [bà vợ khùng] của Fitz "Cuộc tình bỏ đi" là câu chuyện của Dick Diver, 1 bác sĩ tâm thần, trẻ, bị quyến rũ bởi sự cô đơn của một cô gái nhà giầu Nicole mà anh được mướn để trị bịnh cho ẻn. Sau đó, họ lấy nhau, và Dick trở thành 1 món đồ trong cơ ngơi nhà vợ, được sử dụng, và sau cùng bị đá đít, khi bên vợ đếch cần đến anh nữa.
Nhưng 1 tóm tắt trần trụi như thế đếch nói được cái gì về “sức mạnh” [đừng lầm với từ “thế lực” của 1 thi sĩ] của cuốn tiểu thuyết: 1 bức tranh về đám Mẽo lưu đầy, xa xứ, và của cải sau cùng làm hư ruỗng họ, một cái nhìn chăm soi vào nước Mẽo và lịch sử của nó, một câu chuyện nhức nhối về mất mát, và đặc biệt là rất ư thương cảm, phản chiếu cuộc đời của chính gia đình Fitz.
Cuốn tiểu thuyết đạt đến đỉnh cao chói lọi của nó, khi vẽ lại cuộc “vấp ngã” [thuổng của thi sĩ dởm NHT] của Dick Diver, và với nó, là cảm quan của riêng Fitz, về hy vọng và cứu chuộc.
Ui chao, thê lương thật, nhưng làm sao so được với cái chết của trung uý Kiệt, bị chính 1 sĩ quan VNCH làm thịt, vì tưởng là VC!