|
4.1.2014
Chúc
Mừng Năm Mới 2014
Thơ
Mỗi Ngày
OPEN AND
CLOSED SPACES
A man feels
the world with his work like a glove.
He rests for
a while at midday having laid aside
the gloves
on the shelf.
There they
suddenly grow, spread
and black
out the whole house from inside.
The
blacked-out house is away out among the winds of spring.
"Amnesty,"
runs the whisper in the grass: "amnesty."
A boy
sprints with an invisible line slanting up in the sky
where his
wild dream of the future flies like a kite
bigger than
the suburb.
Further
north you can see from a summit the blue endless
carpet of
pine forest
where the
cloud shadows
are standing
still.
No, are
flying.
Tomas
Transtromer: Selected Poems,
ed by Robert Hass
Những không
gian mở và đóng
Người đàn ông cảm
thấy thế giới với tác phẩm của hắn ta như cái bao tay
Hắn nghỉ ngơi
vào lúc trưa và
để cặp bao tay trên giá.
Bất thình lình,
cặp bao tay nở lớn mãi lên, trải dài ra, và
lấy hết mọi ánh sáng trọn căn nhà
từ phía bên trong.
Căn nhà bị
chôm mất điện bèn
"ôi ta buồn ta đi lang thang",
giữa những trận gió mùa xuân.
“Ân xá”, tiếng
thì thào chạy dài giữa đám cỏ: “ân xá”.
Đứa bé chạy một đường dài vô hình
như con dốc nghiêng lên bầu trời
Nơi giấc mộng
hoang dại của nó về tương lai
như một
cánh diều
lớn hơn ngoại ô.
Mãi tít lên
phía bắc bạn có thể nhìn thấy,
từ một đỉnh,
xanh
xanh những mấy ngàn thông
trải dài không dứt, đến tận chân trời,
[Ngàn thông xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý
thiếp ai sầu hơn ai!]
nơi những bóng
mây
đứng sững.
Không. Bay,
bay.
Something Old, Something
New:
Charlotte Mew
New
anthologies of English poetry are not, normally, a reason to get
excited, I
know, even for someone like me who would be apt to pick them up with
some
interest and curiosity. But there is a new anthology of English verse
that I am
actually very excited by. It's the New Penguin Book of English Verse,
edited by
the poetry editor at Faber & Faber (T. S. Eliot's former job) Paul
Keegan,
and it is a book that, if you have any interest in reading poetry, you
are
going to want to own. It's unusual in two ways-first, it is organized
not by
author but by the year in which the poem was published; second, unlike
most of
the anthologies created for use in courses on English literature, this
one
reads through English poetry with a completely fresh eye. There are not
only
delicious poems I hadn't seen before from medieval manuscripts-I am
going to
modernize the spelling in this one from some time between 1300 and 1350-
All night by
the rose, the rose,
All night by
the rose I lay.
Though I
dare not steal the rose,
I bore the
flower away-
Here, from
1916, in the years of American modernism, next to poems by D. H.
Lawrence and
Ezra Pound and H.D., is a piece by Charlotte Mew:
A Quoi Bon Dire
Seventeen
years ago you said
Something
that sounded like Good-bye;
And
everybody thinks that you are dead,
But I.
So I, as I
grow stiff and old,
To this and
that say Good-bye too;
And
everybody sees that I am old
But you.
And one fine
morning in a sunny lane
Some boy and
girl will meet and swear
That nobody
can love their way again
While over
there
You will
have smiled, I shall have tossed your hair.
The next
year T. S. Eliot's "Love Song of J. Alfred Prufrock" would appear and
come in another and more surprising way at the subject of lived and
unlived life. It's fascinating to see, as Keegan allows us to do, the
poems we
know in relation to some of the poems we seem to have forgotten.
Robert Hass: Now & Then
À Quoi Bon
Dire
Lời Nào Em
Không Nói
Mười bảy năm
trước em phán
Có điều gì
nghe như Good-bye
Và mọi người
đều nghĩ, em đi xa
Không phải
em mà là anh.
Và như thế,
anh, ườn mãi ra, già mãi đi.
Uờn như thế,
già như thế, thì cũng là Good-bye.
Và mọi người
thì đều thấy anh già.
Em, vưỡn như ngày nào.
Và một buổi sáng
đẹp trời, nơi con lộ lẻ, nhuộm nắng
Một cô và một
cậu sẽ gặp, và sẽ thề thốt
Rằng loài
người sẽ chẳng còn ai yêu, như là họ yêu nhau
Trong khi đâu
đó, ở đằng xa kia,
Em sẽ mỉm cười,
và anh sẽ đụng nhẹ lên mái tóc em.
*
Đáng lẽ đầu
năm thì bỏ qua, mà đọc bài thơ dịch "A quoi bon dire" ... thì phải ghẹo
ít chữ .
Bài thơ này,
theo như lời giới thiệu :
Here, from
1916, in the years of American modernism, next to poems by D. H.
Lawrence and
Ezra Pound and H.D., is a piece by Charlotte Mew:
Tức là của
bà Charlotte Mew, vậy thì người xưng I ở đây chắc nên cho là phái nữ .
K nghĩ ý nó
như vậy nè :
Mười bảy năm
trước anh nói
gì gì nghe
như thể vĩnh biệt
Và giờ đây mọi
người đều nghĩ, anh chết rồi
Trừ em
Thế rồi, em
càng ngày càng khô, càng lão
Em giờ cũng
nói vĩnh biệt này nọ.
Và ai cũng
thấy rằng em già thật
Trừ anh
Và một buổi
sáng đẹp trời, nơi con lộ lẻ, nhuộm nắng
Một cô và một
cậu sẽ gặp, và sẽ thề thốt
Rằng loài
người sẽ chẳng còn ai yêu, như là họ yêu nhau
Trong khi
đâu đó, ở đằng xa kia,
Anh sẽ mỉm
cười, và em sẽ đùa với mái tóc của anh.
Tks.
Nhân tiện,
chúc Tết Tây K & O luôn.
NQT
.
“‘People
where you live,” the little prince said, “grow five thousand roses in
one
garden… yet they don’t find what they’re looking for…”.
“They don’t
find it,” I answered..
“And yet
what they’re looking for could be found in a single rose, or a little
water…”.
“Of course,”
I answered..
And the
little prince added, “But eyes are blind. You have to look with the
heart.’”.
~ Antoine
de Saint-Exupery, from: 'The Little
Prince'
Người
ở đây trồng
năm ngàn bông hồng trong 1 khoảnh vườn... vậy mà họ đâu tìm thấy cái họ
tìm...
Họ không kiếm thấy thật, GCC
trả lời
Tuy nhiên, điều họ kiếm có
thể tìm thấy ở trong một
bông hồng đơn độc, BHD.
Lẽ dĩ nhiên, GCC trả lời
Nhưng mắt họ mù, phải
nhìn bằng trái tim.
All night by
the rose, the rose,
All night by
the rose I lay.
Though I
dare not steal the rose,
I bore the
flower away-
Suốt đời bên
bông hồng
Đếch dám chôm
Tôi mang nó theo tôi
Đến cõi
khác, đời khác.
Nobel văn chương 2013
Imre
Kertesz par ML (1)
Ông có nhận
được cú đọc nào đáng kể, tôi muốn nói, đam mê đọc, từ một sư phụ nào
không?
Vous n’avez
recu la passion de la lecture de personne?
Đam mê đọc, đọc
phát khùng, phát điên lên, là do những tác phẩm của Thomas Mann, và của
Camus đem
đến cho tôi [gợi lên ở nơi tôi]. Họ là những ông bố văn học của tôi,
hay, như
người ta nói, hai ngôi sao Berger của tôi.
Kafka nữa chứ,
phải không?
[Kafka
aussi?]
Tôi khám phá
ra Kafka hơi muộn, Phải đến năm 1964, như tôi còn nhớ được, tác phẩm
của Kafka
lần đầu tiên ra mắt tại Hung, và là Mẽo, America,
Vụ Án, Le Procès. Dịch được lắm, mãi sau đó, tôi mới được đọc. Thần
sầu,
thiên tài, génial. Không chỉ trong tính đề tài, luận đề, mà còn trong
cách miêu
tả một xen, une scène… Phải can đảm đến khùng điên thì mới dám thuổng
Kafka, il
faut un grand courage pour oser écrire après Kafka, en tout cas.
Trong 1 cuộc
phỏng vấn mới đây, ông [thuổng Sến], phán, tớ rất mừng vì đếch
có tí vay muợn nào tiền chiến, đúng không?
[Cái này dịch
bậy. Nguyên văn: Ông rất mừng vì đếch thuộc về, hay liên hệ. Thời của
những đại
ý thức hệ đã qua rồi. Ông có tiếc nuối điều này? Vous avez déclaré dans
un récent
entretien que vous vous réjouissez d’être sans appartenance. L’époque
des
grandes idéologies est arrivée à son terme. Le regrettez-vous?]
Phải lại bắt
đầu từ khá xa. Trước tiên, phải biết là, sau Auschwitz, thế giới trở
nên khác,
le monde est devenu autre, những bảng luật bị gẫy vụn, les tables de la
loi se
sont brisées. Ông biết câu chuyện 1 thuỷ thủ Hy Lạp, trong lúc loay
hoay cập 1
hòn đảo thì nghe la: Thượng Đế đã chết [On crie que le grand Pan est
mort]. Thế
đó: một nền văn hóa đã chết. Sau Lò Thiêu, không 1 ý thức hệ nào còn có
giá
nữa
[valable].
Sau Lò Thiêu, là phải suy nghĩ khác đi.
Một trong những
cuốn tiểu thuyết của ông có tên là Những kẻ tìm dấu vết, Les Chercheurs de traces.
Liệu bây giờ còn những người tìm dấu vết, so, comparable, với
những
nhân vật của ông?
Một câu hỏi tuyệt. Còn
chứ, chắc chắn [Il y en a, sans doute]
Ông khuyên họ,
sao?
Tôi mới vớ được 1 cuốn
tiểu thuyết mà nữ tác giả sống ở
Mẽo từ lâu, ông chồng là nhà chính trị được nhiều người biết, connu.
Trong
bốn chục năm, bà ta không biết gốc mình là Do Thái, tuy ngửi ra có 1
cái gì đó bị
giấu diếm, che đậy [tout en sentant que quelque chose clochait]. Thế
rồi 1 bữa
có người bất thình lình hỏi bà, "Thế nào sống sót có cực không?"
[Et
comment vous
avez survécu?: Bà sống sót như thế nào?].
Sống sót cái gì chứ?
Thì Lò Thiêu chứ
cái gì.
Bà bèn chạy gặp ông bô bà bô, ngỏ lời trách móc, tại sao
giấu?
Làm Mẽo không thú sao? Để ý làm gì cái quá khứ thê lương đó.
Cô con gái lắc
đầu, nói, bây giờ con mới cảm thấy thực sự là người!
Có 1 điều gì
đó, liên quan tới cái vụ Bắc Kít rất thèm
được là… Ngụy, ở đây!
Gấu đã từng gặp những người
như vậy, và đã từng viết ra điều này, trong 1 truyện ngắn, để coi lại,
trình
cho bà con cùng đọc.
Hà, hà!
Lần Cuối Sài
Gòn
"Sao
không hát cho những người vừa nằm xuống..."
Đã có một thời,
tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng nước mưa, nước
mắt.
Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích. Của cuộc chiến
điêu đứng,
rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống thảm hại, nhàm
chán. Nhớ
những kỷ niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ ngã tư đường Lê Văn Duyệt-Phan Đình
Phùng gần
nhà cô bé, khi chưa có tượng Thích Quảng Đức. Cô bé hớt hải chạy ra,
hớt hải lắc
đầu, rồi lại hớt hải chạy về. Nhớ những ngày nhà cô bé dời lên đường
Gia Long.
Buổi sáng, cô đưa em đi học trường Kiến Thiết gần khu Chợ Đũi, đưa mắt
nhìn người
yêu đang chờ đợi trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu đường. Khi về, cô tha
thẩn giữa
những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu
trên vai
cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.
Nhớ, nhớ..."Nếu
mai không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa...", em tôi vẫn thường
nghêu
ngao một mình trước khi bỏ đi.
Như những lời
chúc dữ, chúng báo trước một Miền Nam mòn mỏi, suy sụp, trước một Miền
Bắc lì lợm,
dai dẳng.
Trong mỗi
chúng ta đều có một Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi khơi cục than hồng của tôi,
để cho
Sài-gòn của bạn sáng ngời.
Buổi sáng cuối
cùng, cùng với Sài-gòn, ngồi một mình trong quán vắng, nghe giọng ca
Thanh Tuyền...
Cũng vẫn giọng hát cũ, bài ca xưa mà sao nghe lòng mình thay đổi. Cảm giác đắng
cay, tủi nhục những ngày tháng Tư nay đã hết hẳn rồi. Người Sài-gòn đọc
trong mắt
kẻ thắng trận nỗi thèm khát, mong sao được là Nguỵ. Giờ này,
tiếng hát như được
cất lên từ đáy mồ biển cả, từ quần đảo ngục tù, như được sống lại từ
một con ngựa
thành Troie mà Cộng sản miền Bắc trong cơn điên cuồng vơ vét đã vô tình
rước về.
Nàng Mỵ Nương đang nhỏ lệ hòa tan bao nỗi tủi hờn của những anh chàng
Trương
Chi suốt đời không biết hát, suốt đời chưa từng được nghe một người hát
cho một
người...
Và tôi bỗng
thấy bớt nhớ Sài-gòn.
*
V/v Lần Cuối
Sài Gòn.
Đây là cái
truyện ngắn đầu tay, của đời thứ nhì, viết ở Trại Tị Nạn Thái Lan, cùng
với Bụi.
Đời thứ nhì, là từ cái
message, trong cuốn video, một cái movie của Nhựt, đúng
hơn, khi đi trên xe đò từ thành phố biên giới Thái Lan, sau khi vượt
sông Mekong,
lên Bangkok, GCC đã từng lèm bèm rồi.
Câu chuyện 1
vệ sĩ, của 1 hoàng hậu hay công chúa, yêu "Người Đẹp", mà đâu dám nói
ra. Một lần
nàng tắm,
đứng hầu từ xa, nàng cởi đôi hài, ném về phía anh vệ sĩ, trước khi bước
vô bồn tắm.
Thế là nhớ hoài, nhớ hoài.
Sau vỡ lở, tuy chẳng được
sơ múi gì, thế là bị chét
bùn đầy người, thành 1 pho tượng, đứng gác nơi vườn vua.
Vưỡn sống nhăn,
dưới lớp bùn!
Thế rồi qua
kiếp thứ nhì, lớp bùn vỡ ra, thành quái nhân, sống giữa thành phố
Tokyo, thời
hiện đại, và trong kiếp mới này, gặp lại 1 em, là công chúa ngày nào,
đầu thai vào kiếp khác, và cuộc tình chấm dứt đúng lúc cô gái cầm đôi
hài,
hàng hiệu
Vulton, ném về phía quái nhân.
Cũng chẳng
sơ múi gì, chẳng biết "hàng có gân" mùi vị ra sao!
Đời
Gấu y
chang!
"Tiền
kiếp của Gấu" thì cũng thê thảm chẳng khác gì Gấu!
Gấu gặp lại
BHD, của đời sau, ở hải ngoại!
Vưỡn cái cảnh
ở bên ngoài trường Đại Học Khoa Học, Sài Gòn, được lập lại!
Khủng nhất là
lần xém chết ở bên ngoài khu PLT, Quận Cam, Tiểu Sài Gòn.
Hà, hà!
Đây cũng là
ý mẩu thơ ở trên:
All night by
the rose, the rose,
All night by
the rose I lay.
Though I
dare not steal the rose,
I bore the
flower away-
Suốt đời bên
bông hồng
Đếch dám chôm
Tôi mang nó theo tôi
Đến cõi
khác, đời khác.
Cô Sáu cười
khẽ nói, "Người khinh bạc như y làm sao gần gũi được?"
Tưởng
niệm Việt Dzũng
Borges
Tám Bó
Ra đường, đi
được vài bước, người đàn ông chợt đứng sững, tự hỏi chính mình, đi ư,
giang hồ
vặt ư? Quận Cam ư, San Diego ư?
Đi xa làm
quái gì cơ chứ? Có ai thèm gặp ta nữa đâu?
Hà, hà!
Daggers
of
Jorge Luis Borges
Akhmatova: Nửa Thế Kỷ Của Tôi
Ray
Trên Blog của
NL, chắc là để “xin lỗi” cái chuyện, chê Carver thậm tệ, có đi bài thật
tuyệt về
ông.
Phải thế chứ.
Thơ của Carver, Gấu cực mê. Milosz cực tài, nhìn ra liền, những bài
thần sầu của
ông.
Một bài thơ
cực ngắn của ông, Gấu quá mê, vì như viết cho.... Gấu:
L'AUTRE VIE
Et
maintenant l'autre vie.
Celle où on
ne fera pas d'erreurs.
Lou LIPSITZ.
Cõi Khác
Nào, bây giờ
là cõi khác
Cõi đếch có
lầm lẫn
Our Top 10 blogposts in
2013. No. 2
Runner
Runner
Note: Nhân
lèm bèm về điểm sách như thế nào, xin giới thiệu bài điểm phim của The Intel, tờ báo của “The
Economist”, để thấy mũi lõ viết ra sao.
Thần sầu!
Tờ này số 1,
đối với riêng Gấu. Gấu mua nó, là vì điểm sách, điểm phim, và ai điếu!
Bạn đọc câu
đóng lại bài viết mà không…. tuyệt sao:
Instead of resenting the
director and the producers, you end
up feeling their pain.
Áp dụng liền vô bài viết
về “Đi tìm phê bình gia Mít”:
Thay vì chửi, đúng là 1 tên "mục hạ vô nhân", bạn cảm ra nỗi đau
của Anh Cu Gấu!
Portrait
Beckett
HOW
BECKETT DID IT
Không bao giờ, chớ khi nào
thỏa hiệp, cấm cái trò ông mất
“củ” kia, thì bà chìa “của” nọ. Quần Estragon tụt dài dài, tụt suốt,
cho tới
khi chấm dứt “Godot”. Hành động và đối thoại của “Play” phải lập lại,
bởi những
nghệ sĩ, diễn viên mà tro than [Lò Thiêu, Lò Cải Tạo] ngập tới tận cổ.
Trọn những
cuốn tiểu thuyết cứ thế mà đi, đếch cần 1 đoạn ngưng, nghỉ, gẫy. Cả
kịch lẫn
tiểu thuyết của Beckett đòi sự chú tâm, xoáy vô, chốt vô… và 1 cái dạ
dày, cho
sự lập lại.
Nhưng thật xứng đáng, chúng ban thưởng cho chúng ta, sự khăng khăng, cố
chấp,
“thua, thua nữa, thua cho bảnh!”
Một ông như
thế, mà quàng với… Thần Tháp Rùa, mơ chuyện mặc áo gấm nhảy xuống sông
thi bơi,
như Thầy Nguyễn Tuân của Mít, mà coi... được
ư?
Cứ mỗi lần
Thầy Phúc viết về 1 đấng Mít, là ông kiếm ra 1 đấng mũi lõ, cho đứng kế.
Mấy dòng thơ
con kóc, cái tên thi sĩ đã nhảm rồi, mặt dày, không có tí cả thẹn,
khiêm tốn, coi
là.... “tứ trụ”, vậy mà còn được Thầy
Phúc hò theo, đúng rồi, tứ trụ, nhưng dư 1 trụ!
Thầy giải
thích, thì cũng lại quàng với 1 cái gì rất thần sầu của người: Ba trụ
Zen!
Cũng đi 1 đường
tiểu chú, chẳng thua gì bạn của Thầy là Thầy Kuốc: "The Three Pillars
of
Zen” – Philip Kapleau
Có điều, Thầy
"quơn", không giải thích, trụ dư là trụ nào.
Chắc là trụ.... giữa!
Dư
trụ này, thì... bỏ mẹ!
Hơn cả Thầy Kuốc, Thầy còn
kèm thêm 1 đường cải lương, sặc mùi nước...
mắt:
“Đúng. Phải
bốc một đám mây trắng kia lau lại lòng mình cho sáng lại trời xanh thì
mới mong
thở hít được hương thơm của trời đất.”
Ui chao, lại
nhớ 1 vị độc giả trong nước, nhỏ nhẹ khuyên Gấu, ông đừng có mục hạ vô
nhân như
thế, khi coi thường thơ của thiên tài NTHL:
Biết đâu đấy, nhờ vậy, cõi thơ Mít
bớt thúi đi.
Bởi vì rõ ràng là NTHL không còn như xưa nữa!
Hà, hà!
Mặc dù chẳng
ai thèm in, bao nhiêu nhà xb chê, khi đến Minuit, tay chủ đọc, mừng
quá, được
in cái này, thì mới đúng là nhà xb thực thụ. Điều này cho thấy, không
phải ai cũng
đọc được, hiểu được Beckett. Ở Việt Nam, đệ tử của Beckett còn là đệ tử
của
Proust, của Butor, nhưng ông này, thực sự cũng đồ dởm, cái dởm này, là
do cái đầu
quá tệ. Ông là bạn quí của Gấu, về phần Gấu mà nói, như đã tường trình
nhiều lần
rồi. Cả băng đảng này, trong có ông cũng chẳng có tay nào ra hồn. Mới
đây thôi,
nhân kỷ niệm Proust, ông ta có múa may vài đường về sư phụ của mình,
đọc
như kít, đúng
là thế.
Do cái đầu, và, còn do không biết viết, cái dạng viết, có tên là phê
bình.
Cõi văn Mít
đang lâm đại họa, là do không có ai viết được điểm sách, phê bình, theo
đúng
nghĩa của nó.
Bất cứ 1 bài điểm sách,
hay phê bình, theo Gấu, phải có
cái mở và
cái đóng.
Mở, là nối nó được với cổ điển, truyền thống, và thường là
bằng 1 hình
ảnh trích dẫn, như là cái mồi, để dụ người đọc, đọc mình, và sau đó,
đọc cuốn sách/tác
giả mà mình điểm/nhắc tới.
Đóng mới ghê: mở ra tương
lai của cây viết mới, và có thể
tương lai của cõi văn Mít, bắt đầu bằng “bây giờ, bây giờ, bây giờ”.
Đây là ý của Tomas Transtromer, trong bài thơ mà Gấu "mượn hoa tiến
Phật", để chào mừng năm
mới, 2014:
DECEMBER EVENING
1972
Here I come, the invisible
man, perhaps employed
by a Great Memory to live right now. And I am driving past
the locked-up white
church-a wooden saint is standing in
there
smiling, helpless, as if they had taken away his glasses.
He is alone. Everything
else is now, now, now. The
law of gravity pressing us
against our work by day and against our beds by night. The war.
Tomas
Transtromer: Selected Poems, ed by Robert Hass
Đâu phải chuyện đùa, "đồ
chơi", "cho xin cái xịp đi".... mà áo thụng vái nhau!
Ba trụ, rồi
bốn trụ!
Đầu năm khai
bút hung hăng quá, chắc là năm nay.... đi!
Note: Cái em
họa mi xứ Huế, cùng tuổi Gấu, hà, hà!
Theo truyền thuyết giang
hồ, MT đã từng mê
tít em này, và đã từng áo thụng tới nhà, xin ba mẹ của em, cho phép xin
bàn
tay của em.
Nghe nói, hai đấng sinh thành của em chê, đũa mốc như mi mà cũng đòi
mâm son ư?
Thứ mi chỉ lấy được ca ve thôi!
Chàng đau quá,
về, để lại cho đời, “Ôm đàn đến giữa đời”!
Cũng quá tuyệt,
phải không?
Lần gặp đầu
Jérôme
Lindon
Một bữa,
năm
1950, một người bạn, Robert Carlier, biểu tôi, ông phải đọc bản thảo
của tay này,
một gã Ái nhĩ lan, viết văn bằng tiếng Tây. Hắn tên là Samuel Beckett.
Sáu nhà
xb đã từ chối. Tôi lúc đó trông coi Nhà
xb Nửa Đêm được hai niên. Vài tuần sau,
nhà xb nhận được ba bản thảo: Molloy,
Malone meurt, L’Innommable, với cái tên tác
giả lạ hoắc nhưng bề ngoài quen thuộc.
Chính là từ
ngày đó mà tôi biết tôi sẽ là nhà xb, thứ
thiệt. C’est de ce jour que j’ai su
que serai peut-être un éditeur, je veux dire un vrai
éditeur. Ngay dòng đầu – “Tôi ở trong căn phòng của mẹ tôi. Tôi
bây giờ sống ở trong căn phòng này. Tôi cũng không biết như thế nào tôi
lại sống
ở trong căn phòng này” – ngay dòng đầu, cái đẹp rã rời, nát tan, la
beauté écrasante,
của bản văn đã hớp hồn tôi. Tôi đọc Molloy
trong mấy tiếng đồng hồ, như chưa từng
đọc 1 cuốn sách…. Một bản thảo chưa từng được in ra, không phải
chỉ chưa được
in ra mà là bị nhiều nhà xb từ chối. Tôi không làm sao tin nổi.
Đũa mốc
& mâm son ở đây, thì cũng giống như đài gương & dấu bèo, là
những tiếng
của dân Bắc, để chỉ hai cái đó đó. Lần Gấu trở về Đất Bắc, nghe mấy
người bà
con kể lại, chúng là những tiếng bà nội của Gấu dùng, để chửi một anh
nhà nghèo,
mê cô con gái của bà, tức bà cô của Gấu.
“Tiền ít mà cũng muốn hít đồ thơm”….
Cái
anh nhà nghèo, sau cũng lấy được bà cô của Gấu, hành hạ tới chỉ, và trả
lời, “mất
tiền mua mâm, thì đâm cho thủng”!
Old dogs
have more dignity
Comfort them
since you pity them
Beckett:
Waiting for Godot (1)
Giả như sau
30 Tháng Tư 1975, chúng ta có cái nhà Mít đàng hoàng, thì không thể nào
có những
tác phẩm như Ba Người Khác
của Tô Hoài, Đi tìm cái tôi đã mất của
Nguyễn Khải, Hồi ký Nguyễn
Đăng
Mạnh, Hồi ký Tô Hải…
Chính nỗi thất
vọng sau 1975, về đất nước, khiến những tác giả đó phải nhìn lại đời
của họ, và
đều nhận ra một điều, họ đều đã phải chịu nhục, chịu khổ, chịu hèn..
với một điều
kiện: giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước cùng xúm nhau lại xây
cái nhà
Mít.
Old dogs
have more dignity, chó già giữ giá, có nhiều phẩm giá..
là theo nghĩa đó.
Chính cái sự
thú nhận tôi là thằng hèn, là "dignity" của họ!
Thành thử
chúng ta không thể có một thái độ nào khác, mà là:
Comfort
them, since you pity them.
[Trong them,
có us. NQT]
(1) Mấy câu
trên, là từ nhật ký của Gấu, những ngày ở trại tị nạn Thái Lan,
1989-1994.
Mấy câu
trong nhật ký những ngày đầu đến Xứ Lạnh, liên quan tới dignity:
The ideal
death takes place amid loved ones
The greatest
dignity to be found in death is the dignity of the life that preceded it
Hope resides
in the meaning of what our lives have been.
Ba câu trên
đều nói về cái nhà Mít sau chiến tranh:
Cái chết lý
tưởng là chết giữa những người thân thương.
Phẩm giá lớn
lao nhất kiếm thấy được ở trong cái chết là phẩm giá cuộc đời trước khi
cái chết
xẩy ra.
Hy vọng thì
nằm ở trong ý nghĩa cuộc sống của chúng ta.
*
Quái thật,
không lẽ lúc nào Gấu cũng bị cuộc chiến nó hành, chỉ trừ những lúc nghĩ
đến một
BHD, hay một cô bạn, hay một cô học trò?
To have seen
nothing or almost nothing except the face of a girl from Buenos Aires,
a face
that doesn't want you to remember.
Borges: Labyrinths Epilogue
Chẳng thèm
nhìn ai, ngoại trừ khuôn mặt BHD, và cô nói, ta cấm mi không được nhớ
tới ta.
*
V/v trong
"them" có "us".
Cái phẩm giá
mà Miền Nam có được, là khi đi tù VC, đi tù cải tạo!
Cái phẩm giá
mà VC có được, là ở trong những hồi ký, những tự vấn, như của Tô Hải.
Có người đặt
vấn đề, tại sao cuối đời, họ mới dám nói ra? Tại sao Víp Va Ka hấp hối
mới dám
xì ra "một triệu người vui nhưng cũng có một triệu người buồn"? Tại
sao "Thượng đế thì cười" với Nguyễn Khải, khi ông sắp sửa đi, tại sao
bánh vẽ Chế Lan Viên....?
Ấy là vì cái
chiến thắng đỉnh cao tuyệt vời quá. Không dễ gì mà thoát ra khỏi cái
bóng của
nó đổ xuống cả nửa hậu thế kỷ!
Và còn kéo
dài qua tân thế kỷ!
Đúng như Trần
Văn Toàn phán, về Hegel: Cái bóng của Hegel phủ kín Marx, và còn kéo
dài ra
mãi!
Chúng ta sở
dĩ để mất Miền Nam vì nghĩ lầm, tưởng bở, anh Yankee mũi tẹt tốt hơn
anh mũi lõ,
một nưóc Mít thống nhất hơn hai nửa nước Mít, thành thử để cái bóng của
Marx phủ
quá xuống cả Đàng Trong!
Nguyễn
Huy Thiệp vs Kurtz
Những Con Quỉ
Nổi Tiếng
Liệu có thể
coi NHT, một hình tượng nổi tiếng, một Kurtz, của Conrad, trong "Trái
Tim của
Bóng Đen"?
Bài viết
này, trên số báo đặc biệt về sự độc ác, Le Magazine Littéraire, Tháng Bẩy
&
Tám 2009, làm nhớ tới một lời tự thú của một nhà văn ra đi từ Miền Bắc:
Tôi lụy
NHT!
Câu nói đó,
phải đọc Trái Tim của Bóng Đen
thì mới ngộ ra được: Tôi luỵ Cái Ác Bắc Kít, mà
nhân vật của NHT làm bật ra.
Liệu có thể
gọi những truyện ngắn của NHT, như là bài tập về cái ác, l'exercice du
mal?
Kurtz trong Trái Tim của Bóng Đen là một hình
tượng về cái ác trong văn
chương. Anh thì quá nổi tiếng, nhưng cũng gây phiền. Nguyên do của nỗi
phiền muộn
này rõ ràng là sự lấp lửng của hai cách nhìn, qua đó, anh lần lượt xuất
hiện,
khi thì là hiện thân của cái ác tuyệt đối, một vết chàm biểu tượng, từ
đó bật
ra cái tít cuốn truyện, khi thì là một cá nhân con người vượt lên trên
cả tốt lẫn
xấu, thiện lẫn ác.
Nhân viên của
một công ty thương mại thuộc địa ở mãi nơi thượng nguồn con sông Congo,
anh thu
thập ngà voi cho công ty giữa đám thổ dân và tỏ ra hết sức cần mẫn, rất
ư là hiệu
quả.
Người kể
chuyện của cuốn truyện phải lái một con thuyền đi tìm gặp Kurtz này, vì
đã lâu,
biệt tin từ anh ta, và nghe nói, anh ta đang bịnh nặng.
Hai tính chất
ở ngay trung tâm nghiên cứu chữa trị lâm sàng, dành cho những vấn đề
đạo đức
trong tất cả những tác phẩm của Conrad, ùa ra cùng với sự xuất hiện của
Kurtz,
cùng với chúng là những phẩm chất bẩm sinh, do là dân Bắc Kít thì là
có, qua những
biểu hiện thật là quái đản của anh ta.
Thứ nhất:
thiếu vắng kiềm chế. Kurtz có những giấc mộng về vinh quang, về Hà Nội
ta ngẩng
đầu hiên ngang ba ngàn năm lịch sử, và về sở hữu toàn thể, cái gì của
ai là của
ta. Những giấc mộng như thế thật dễ dàng biến thành thực tại một khi
một mình
giữa rừng thẳm.
Thứ nhì: một
sự trống rỗng ở phía bên trong: Kurtz thì rỗng, rỗng một cách thê thảm
[hollow
at the core, ui chao, cụm từ này sử dụng để chỉ cái sự ngu si dốt nát
nhưng coi
trời bằng vung của những đấng Yankee mũi tẹt thì thật tuyệt!].
Rỗng đến nỗi,
cái thiên nhiên man rợ vây bủa chung quanh anh ta bèn chiếm lấy anh ta
một cách
dễ dàng, đúng vào lúc anh ta tưởng là làm chủ được nó, tất cả thuộc về
anh ta.
Nói tóm gọn
anh ta không thể tự ngăn cấm mình, giới hạn mình, và cũng không thể tự
chống đỡ,
bảo vệ mình.
Note: Bài viết này, tình
cờ lướt TV, mò ra. Quên chưa dịch!
Trái Tim của
Bóng Đen, sau cùng
là... Hà Nội, qua NHT!
Gấu đã ngộ
ra điều này, khi đọc Conrad, nhưng bài viết chỉ ra một điều tuyệt vời:
Phải là
Conrad, một anh thuỷ thủ, người của biển cả, mới nhìn ra một cõi thối
rữa,
là đất liền, là những đại lục, nhất là Cựu Đại Lục!
« Les affaires terrestres sont un pot-pourri d'événements, de désirs
contradictoires, de motifs inavouables, d'idées fausses, et de
croyances
illusoires. La mer représente un domaine réglé par des devoirs simples,
une
hiérarchie de valeurs clairement définies, la camaraderie et le goût du
travail
bien fait.” »
*
«L'horreur! l'horreur! »
Ghê rợn! Ghê rợn!
Ta là hiện thân của Cái Ác Bắc Kít!
Ta là... Kít!
Cái
ý trên, trong bài viết, còn chỉ ra sự khác biệt giữa Sài Gòn - một bến
cảng -
và Hà Nội, và cái sự kiện, Bắc Kít đổ xô vô Miền Nam, không chỉ để ăn
cướp, mà
còn để... sống sót Cái Ác Bắc Kít nữa!
Đi tìm phê
bình gia Mít
Có 1 cái gì cực kỳ quái
đản ở băng đảng NM này. Lần cả băng kéo xuống ra mắt
sách, Gấu
đang làm thiện nguyện cho Hội Người Việt, lại vừa đậu cái bằng
[licence] bán bảo
hiểm nhân thọ, và có ý “bye bye” mớ chữ, lo kiếm tiền phụ Gấu Cái lo
cho mấy đứa
nhỏ còn kẹt ở Lào. Thành ra khi cái tay dược sĩ trong băng NM, gặp, nhờ
làm MC
ra mắt sách, Gấu nhận lời liền.
Suốt cuộc ra
mắt, kể từ khi cả nhóm kéo xuống, không 1 tên nào gặp Gấu cả. Thì cũng
được đi.
Ra mắt sách
tại một nhà hàng. Trong căn phòng lớn vốn được sử dụng cho những lễ lạc
đại
khái như thế, của nhiều hội đoàn. Phòng ăn tách hẳn ra. Cả đám bèn mướn
phòng
ăn, cho cả đám, ngồi ăn nhậu, nghe bên ngoài Gấu múa may trước thính
giả, cho đến
lúc bế mạc, không một tay nào ló mặt, trước cũng như sau, để cám ơn
Gấu, cũng
như khán thính giả, cũng như những người đứng ra tổ chức.
Sau đó, để
trả ơn, chúng mời Gấu đi dự 1 tiệc nhậu. Gấu đi, chỉ vì 1 thi sĩ trong
băng,
nghe nói là bạn của CTC.
Gặp, chỉ để
hỏi về CTC.
Sau này, anh giới thiệu Gấu viết cho tờ SV, là vậy.
Lần NDN mất,
cả băng Gấu kéo lên Montreal, tá túc nhà thi sĩ.
Chỉ tới lúc ở
tiệm ăn, TC, người có sách được giới thiệu mới lên tiếng, không phải để
cám ơn,
mà hỏi xin bài của Gấu, để làm kỷ niệm.
Cũng thế, là
vụ “mấy lời”. Khi kết thúc 1 cái còm, nhắm Gấu, trên 1 diễn đàn có
nhiều người
đọc, thì tên thi sĩ này ngu đến nỗi, hắn “mấy lời”, đâu chỉ để phủ dụ
Gấu, mà
còn “phủ dụ” tất cả những độc giả của diễn đàn.
Không phải
là “vô học” ư?
NQT
Cái vụ Cũng
Cần Có Nhau, Phóng Bút Phóng Biếc này cũng thật nhảm. Bao nhiêu năm
rồi, đám khốn
này vẫn không hiểu ra là cả 1 lũ bị VC xỏ mũi, lợi dụng diễn đàn, quảng
cáo cho
Mặt Trận Giải Phóng, thứ "đồ chơi" do đám Bắc Bộ Phủ phịa ra dụ khị
đám nằm vùng.
Viết, cần phải viết, nhưng bằng 1 cái nhìn chín chắn, cộng nỗi
đau của bao nhiêu con người Miền Nam.
Đâu phải chuyện "phóng bút"?
Vả chăng, cỡ
thi sĩ dởm, thì cũng chỉ đẻ ra 1 thứ phóng bút. Cũng cần có nhau cái
con mẹ gì,
chứng cớ là vụ bức hình GCC & NVT.
NQT
Có 1 kỷ niệm
thực là thú vị liên quan tới vụ ra mắt sách, và bài viết của Gấu, thổi
“Về Biển
Đông”, ký, viết về vụ ông y sĩ có thời là y sĩ tiền tuyến, tác giả cuốn
"Y Sĩ Tiền
Tuyến", đã từng được giải thưởng Nobel của Diệm, về vụ ông đóng cửa
phòng khám bịnh,
để tham dự công cuộc cứu người vượt biển. Trong số khán thính giả, có
giáo sư ĐKH.
Ông là bạn của ông anh của Gấu, là Hiếu Chân. Không hiểu sao, ông cũng
ghé, và sau đó, tới bắt tay Gấu, khen um lên, bài viết, và
nói.... thực, tôi đã tính
không đi!
Sau thì
quen, có thăm viếng đôi lần. Ông kể, khi mới qua, làm nghề dậy lái xe.
Thì cũng như
Gấu, tính làm nghề bán bảo hiểm.
Cũng đã lâu, có 1 nhà xb trong nước mail cho Gấu,
hỏi thăm về ông, và xin địa chỉ.
Sách của ông, như Gấu biết, đa số, sách dịch, được tái bản khá nhiều ở
trong
nước.
Sự thực, cái
vụ "mấy lời", với 1 diễn đàn văn học nhà nghề, tòa soạn lập tức đục bỏ
cụm từ khiếm nhã này, vì chính họ cũng cảm thấy nhột, khoan nói tới độc
giả. Trừ
trường hợp một em già đời, cực độc như Sến Cô
Nương, khi cho đi 1 cái tít như "Có mấy NQT?"
Gấu quá già đời - hơn cả Sến, tất nhiên, vì sắp ngỏm rồi
- nơi
chốn giang hồ gió tanh mưa máu, làm sao mà có thể bực mình vì 1 tên thi
sĩ dởm.
Đó là sự thực.
Khi còn trẻ
hung hăng con bọ xít, Gấu viết phê bình, điểm sách, thi sĩ NS lúc đó mà không ghê sao, giáo sư, du học từ bên
Tây về, bằng cấp đầy mình, Gấu đi 1 đuờng, nhà văn dễ dãi, sung sướng,
biết khỉ gì
về nỗi đau của Mít, đến chết ông vẫn còn đau, vì đúng quá. Cú viết, cú
điểm nào
cũng gây họa vào mình, gây họa luôn cả cho gia đình, khi ra được hải
ngoại, Gấu
đã tự hứa, sẽ chẳng bao giờ vướng vô cái nghiệp khốn kiếp đó nữa, chỗ
nào, nơi
nào cũng viết, biết đâu làm được điều ngược lại, nối cả 1 cõi văn Mít
hải ngoại thành
1 mối, vá được cái bản đồ xứ Mít rách bươm… vậy mà đâu có làm được,
cuối cùng lại
phải cầm lại cái nick tên sa đích văn nghệ.
Một tên thi sĩ cả 1 đời không làm
được 1 nửa câu thơ đúng là thơ, không lẽ làm Gấu bực mình được ư?
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Cicadas
The hawk, a
little lost,
I thought,
circled over
an azure sea.
The cliffs warmed and grew.
We swam a
long time, buried in the water.
A minibus dropped off mongoloid children
with
pale faces
like
unfinished marble statues.
My skin tasted salty,
I'd become a
rock, a mineral.
We read our hot books lazily.
Resin melted in the pines.
We exist
between the elements,
between fire and sleep.
Pain chases
or outstrips
us.
Adam
Zagajewski
Ve Sầu
Diều hâu, hơi
lạc lõng
Hẳn thế,
Lượn vòng
vòng trên biển xanh.
Vách đá ấm lên,
lớn ra
Đôi ta tắm
thật lâu, chìm trong nước.
Một chiếc xe
mini-bus đổ ra những đứa trẻ bị bịnh
Mặt nhợt nhạt
Như những pho
tượng cẩm thạch chưa hoàn tất
Da Gấu mặn
Gấu biến thành
một hòn đá, một cục khoáng.
Đôi ta đọc
những cuốn sách nóng của chúng ta
một cách lười biếng
Nhựa thông tan
ra trong những thân cây.
Đôi ta hiện
hữu ở giữa những phần tử
Giữa lửa và ngủ
Nỗi đau rượt
đuổi
Hay bỏ xa đôi
ta
Ui chao, quỉ
thế, đọc bài thơ, thì bèn nhớ đến Quán Con
Ve Sầu ở Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao.
Cũng gần nhà
Gấu.
Bạn C, em TTT, mê ăn tối,
và nhìn thiên hạ nhảy đầm ở đây lắm.
Chủ, một anh Tây, [quỉ thế, lại nhớ anh Tây quen Greene, trong Ways of Escape], chiều chiều dạo bộ với
đấng con trai.
NQT
Bạn nhìn bức
hình, thì nhà hàng La Cigale, Con Ve Sầu
ở phía sau lưng bạn. Cà phê Duyên
Anh cũng đâu đó. Rồi “Con Bò Khùng” Crazy Cow
[?], một “snack bar” nổi tiếng
thời Sài Gòn đầy Mẽo. [Hình 1967-68]
as Penguin
republish 75 of Simenon's detective stories, Simon Willis finds the
master of
the genre well served in translation
From
INTELLIGENT LIFE magazine, January/February 2014
ENGLISH
TITLE THE HANGED MAN OF SAINT-PHOLIEN
ORIGINAL
TITLE LE PENDU DE SAINT-PHOLIEN
AUTHOR
GEORGES SIMENON
ORIGINAL
LANGUAGE FRENCH
TRANSLATOR
LINDA COVERDALE
Inspector
Maigret—resolute, taciturn, "a pachyderm plodding inexorably towards
its
goal"—was Simenon's most indelible character, and by far his busiest.
This
was one of ten Maigret books that Simenon wrote in 1931 alone. There
are 75 in
all, now being republished by Penguin at the rate of one a month. He
was a
master of northern-European drear, dusky railway stations and seedy
hotels.
This investigation begins with all three, and a suicide in Holland. He
was also
a master of ambiguity. The suicide may or may not be connected with a
crime,
but either way Maigret's determined suspicions are its proximate cause.
The
story rivets you with its reversals. By the time you get to the climax,
the
line between victim and perpetrator is as foggy as the weather.
Linda
Coverdale's new translation achieves what translations should:
invisibility.
When he was young, Simenon got some advice from an estimable
source—Colette
told him to "cut, cut, cut". His prose, shorn of adjectives and
adverbs, seems in Coverdale's hands to be ageless, and delivers a lot
with a
little. In 138 pages, we move between Bremen, Rheims, Brussels and
Paris, the
internationalism lending glamour to the grit as Maigret sheds light on
a shady
group with a dark secret. As the clues pile up, so does the weight on
Maigret's
shoulders. The novel's clincher, and Simenon's gift, is to wring
sympathy from
the sinister mood, so that the big reveal isn't just about whodunnit
but a
heavy dilemma set up with a light touch.
Kẻ bị treo cổ ở
Saint-Pholien.
GCC chưa đọc cuốn này!
Simenon 1
ông Thầy dạy tiếng Tây, sau thì quá mê. Thời gian vừa mới ra trường,
Diệm còn, hai năm làm chuyên viên sửa
máy tại
Ty Trung Ương Cơ Xưởng VTD Bưu Điện, số 11 Phan Đình Phùng Saigon,
mỗi lần
đi công
tác Đài địa phương, để sửa máy tại chỗ, là phải mang theo 1 cuốn
Simenon! (1)
“Thằng ngu thiên tài” như
1 "Thầy" gọi ông.
Simenon
trả lời The Paris Review
Câu hỏi
chót. Ông có bao giờ bị bực mình vì những lời phê phán của mấy ông phê
bình
gia, và có khi nào sự phê phán của họ khiến ông thay đổi cách viết?
Chẳng
bao giờ có chuyện đó. Tôi rất cứng cựa trong cái việc viết của tôi, và
tôi đi theo đường của tôi. Trong vòng hai mươi năm trời, mấy thằng vỗ
ngực xưng
tên là phê bình đó, chúng chỉ nói, cùng một điều: Đã đến lúc thằng cha
Gấu phải
cho ra đời một cuốn tiểu thuyết tổ chảng, trong đó có chừng hai chục
tới ba chục
nhân vật. Chúng ngu quá không hiểu Gấu chỉ viết Tạp Ghi, viết Tin Văn,
viết
Net… Gấu sẽ chẳng bao giờ viết một cuốn tiểu thuyết lớn. Cuốn tiểu
thuyết lớn của
Gấu, là trang Tin Văn, trên đó khảm tất cả những gì Gấu viết. Ông hiểu
Gấu
chưa?
Hiểu. Nhân tiện, chúc
mừng sinh nhật ông Gấu!
Tks
*
Mi cứ viết ba cái lăng nhăng, nó lậm tới xương, tới
tuỷ, làm độc tới cái phần
ngu ngơ nhất của trái tim của mi rồi, Gấu ơi!
Gấu Cái
*
Vào cái lúc đầu đời, có tác
phẩm, tác giả nào ông mặn?
Có
lẽ
người gây ấn tượng mạnh nhất ở nơi
tôi là Gogol. Và tất nhiên, Dos, nhưng không ghê bằng Gogol.
(1)
Mộ Tuyết
Ba Xuyên, lần
viếng thăm hồi bắt đầu đi làm, những năm tập sự của cuộc đời gã chuyên
viên kỹ
thuật, ngày hai buổi, tại Ty Trung Ương, Cơ Xuởng Vô Tuyến Điện, số 11
đường
Phan Đình Phùng, Sài Gòn; chuyên lo việc sửa chữa, tu bổ máy móc, đồ
dùng kỹ
thuật từ các nơi gửi về; lâu lâu, do nhu cầu công vụ, được biệt phái
tới những
đài địa phương, để giúp đỡ người trưởng đài, thường chỉ là những hiệu
thính
viên, biết sử dụng máy móc, nhưng không biết, và cũng không có phận sự
sửa chữa
khi trục trặc, cần làm gấp tại chỗ, đại loại như máy nhận bỗng yếu, rè,
nhiều tạp
âm, khi nghe được, khi không; máy phát đột nhiên ngưng, không chịu phát
tín hiệu,
không biết vì lý do gì, hoặc bị cháy, nổ, cần gấp một máy khác thay thế
cùng
chuyên viên lắp đặt... Tất cả những công việc như thế thường chỉ mất
một hai
ngày làm, do đó thời gian trù tính cho mỗi chuyến đi thường trên dưới
mười
ngày, nhiều lắm nửa tháng. Trừ những ngày mới tới, bắt tay ngay vô
việc, cặm cụi
lo tìm kiếm, sửa chữa, những ngày còn lại, là để viếng thăm, làm quen
thành phố.
Chính
là nhờ Diệm chết
mà Gấu được chuyển qua bộ phận Quốc Tế, rồi tình cờ run rủi, làm thêm
cho UPI,
quen PXA và một số phóng viên, nhiếp ảnh viên nước ngoài, đời Gấu qua 1
khúc
ngoặt khác hẳn....
|
|