Bài viết của Jay
McInernay đăng ngày 6 tháng Tám năm 1989 trên tờ The New York Times về
Raymond Carver. Nhan đề của bài viết là "Raymond Carver: A Still, Small
Voice".
McInernay là tác
giả của Bright Lights, Big City và tác phẩm nổi tiếng
không kém, Story of My Life; McInernay thời trẻ thân cận với
Bret Easton Ellis, hai người thuộc cùng một thế hệ nhà văn Mỹ.
Về Raymond
Carver xem thêm ở
đây và ở
đây.
-----------
Một năm sau khi Raymond
Carver qua đời, cái hình ảnh về ông
cứ không ngừng quay trở lại với tôi là hình ảnh một người nào đó ngả
hẳn sát
vào ông để cố nghe rõ lời ông nói. Vì ông toàn lẩm bẩm. Từng có lần T.
S. Eliot
miêu tả Ezra Pound, mentor của mình, là “người ra sức nói cho một người
điếc đặc
biết là ngôi nhà đang bị cháy.” Cung cách Raymond Carver trái ngược
hẳn. Căn
phòng có đầy khói, lửa đã bén vào những tấm thảm, thì Carver cũng chỉ
hỏi, “Ừm,
hình như ở đây hơi nóng thì phải?” Còn bạn thì ngồi trên ghế, gắng sức
chồm người
về phía ông mà nói, “Ông bảo gì cơ, Ray?” Không bao giờ khăng khăng nói
điều
gì, hiếm khi nào mạnh miệng tuyên bố, ông thật không giống một thầy
giáo. Tôi từng
có lần ngồi nghe Carver trả lời phỏng vấn suốt hai tiếng rưỡi. Nhà văn
điều khiển
cuộc phỏng vấn cứ liên tục đẩy máy ghi âm vào sát ông hơn và cuối cùng
hỏi
Carver là có thể đặt nó lên lòng ông không. Vài hôm sau người phỏng vấn
gọi điện,
gần như tuyệt vọng: gần như không thể nghe rõ giọng của Ray trong máy
ghi âm. Từ
“nói nhỏ” cũng chưa chuẩn để miêu tả cách nói năng của ông; điều này
còn trầm
trọng hơn nữa những lần ông bị đẩy vào địa hạt của những điều khái quát
hay các
mệnh lệnh.
Như tôi đã nói, ông lẩm
bẩm, điều này trước kia dường như chỉ
là một cái tật, tương tự bẻ ngón tay hay rung chân, giờ đây với tôi nó
cho thấy
một sự nhún mình sâu sắc và một niềm tôn trọng đối với ngôn ngữ, gần
như kinh sợ,
một sự phản chiếu cảm quan của ông rằng từ ngữ cần được nâng niu vô
cùng cẩn trọng.
Như thể đại khái không thể nào nói những gì ta muốn nói. Như thể thậm
chí vậy
còn có thể là nguy hiểm. Nghe ông nói về viết văn ở lớp học hay tại
phòng khách
ngôi nhà kiểu Victoria to lớn nơi ông sống cùng Tess Gallagher ở
Syracuse, ta cảm
nhận được một nhà văn yêu kính từ ngữ của các bậc thầy đã trao ngôn ngữ
cho
ông, những bậc thầy đó chú tâm đến việc có thể ông không xứng đáng được
nhận
công cụ ấy. Ta cảm thấy niềm kính trọng ngôn ngữ này - sự nhún mình gần
như
kinh hãi - ở mỗi câu trong tác phẩm của ông.
Việc tiếp xúc với văn
chương Carver hồi đầu thập niên 1970
là một trải nghiệm gây ra nhiều thay đổi cho không ít nhà văn thuộc thế
hệ của
tôi, một trải nghiệm có lẽ tương tự như khi phát hiện những câu văn của
Hemingway trong thập niên 1920. Quả thật, ngôn ngữ của Carver rất giống
ngôn ngữ
của Hemingway - đơn giản và sáng sủa, lặp nhiều, gần với nhịp điệu của
trò chuyện,
cụ thể trong miêu tả đồ vật. Nhưng Carver hoàn toàn thoát khỏi cái tôi
lãng mạn
từng khiến cách viết của Hemingway trở thành một hình mẫu dở tệ cho các
nhà văn
khác vào cuối thế kỷ 20. Những quán cà phê, khách sạn và chiến trường
châu Âu bị
thay thế bởi các khu nhà di động và khu chung cư, những công việc tao
nhã bị
thay thế bởi những thứ nghề nghiệp vô vọng. Lũ cá hồi bơi trong những
lạch nước
của Carver có đủ khả năng trở thành bọn cá đột biến gien do ô nhiễm.
Rượu vang
ngon lành bị thay thế bởi rượu gin rẻ tiền, bản tình ca rượu chè bởi
nỗi cực nhọc
đần độn của thói nghiện rượu toàn thời gian. Một số nhà bình luận thấy
tác phẩm
của ông gây trầm uất vì những lý do ấy. Nhưng với nhiều nhà văn trẻ,
tác phẩm
đó có rất nhiều tính chất giải phóng.
Một khía cạnh trong
những gì cơ hồ Carver nói với chúng ta -
ngay cả với những người chưa từng bao giờ ở trong một xưởng mộc hay một
khu nhà
di động - là văn chương có thể được tạo nên chỉ từ sự quan sát cuộc
sống thực,
bất kỳ đâu và bằng bất kỳ cách nào nó được trải qua, ngay cả khi nó
được trải
qua với một chai ketchup Heinz trên bàn và cái ti vi nhiễu sóng. Điều
này là mới
mẻ vào cái lúc “metafiction” giáo điều đang chiếm thế thượng phong. Ông
là hình
mẫu làm sống dậy cả chủ nghĩa hiện thực lẫn hình thức truyện ngắn.
Mặc dù là thầy giáo
trong phần lớn cuộc đời, Carver chưa bao
giờ cố ý tập hợp quanh mình một đám đệ tử. Nhưng vào thời điểm tôi lai
vãng ở
các trường đại học và trong giới xuất bản New York hồi cuối những năm
70 đầu những
năm 80, không nhà văn nào được bàn đến và được bắt chước nhiều như thế,
bởi các
nhà văn ta hay gặp ở các buổi đọc sách và hội thảo. Có lẽ phải từ khi
Donald
Barthelme bắt đầu in truyện hồi thập niên 60 mới có một nhà văn viết
truyện ngắn
tạo được nhiều ồn ào đến như vậy trong thế giới văn chương.
Vốn đã quy phục Carver
từ trước vì đọc tuyển tập đầu tiên của
ông, Em làm ơn im đi được không?, một
cuốn sách mà chỉ riêng nhan đề thôi cũng đã khiến tôi muốn mua, vài năm
sau đó
tôi đã rất may mắn được gặp ông rồi trở thành sinh viên của ông tại Đại
học
Syracuse hồi đầu những năm 80. Mặc dù trên cả nước có hàng nghìn chương
trình dạy
viết văn, có lẽ người ta vẫn không thể trả lời rốt ráo được rằng có thể
dạy viết
văn hay không. Việc Faulkner và Fitzgerald chưa bao giờ có bằng văn
chương chẳng
nói lên điều gì. Tiểu thuyết gia và nhà văn viết truyện ngắn cũng khoái
ăn như
bất kỳ ai khác, và có xu hướng tìm trợ cấp trong quá trình theo đuổi
sáng tạo của
mình. Với giới nhà văn hồi những năm 20, sống ở Paris thì tiện hơn, còn
trong
những năm 30 thì phải trông chờ vào tiền trợ cấp, và cả một cuộc đổ xô
đi tìm
thành công ở Hollywood. Những năm gần đây, các trường đại học đã trở
thành nguồn
trợ cấp cho các lớp học viết văn.
Bản thân Carver là một
sản phẩm của hệ thống mới này, ông đã
học viết văn tại Writers’ Workshop ở Đại học Iowa và Stanford, rồi sau
đó dạy
viết văn để kiếm sống. Đó là một việc ông làm vì nhu cầu, một vai trò
không khiến
ông cảm thấy thoải mái. Ông làm việc đó để kiếm sống, vì nó dễ hơn
những nghề
khác ông từng làm - làm việc ở một xưởng cưa và một bệnh viện, nhân
viên ở trạm
xăng, nhân viên gác cổng, nhân viên giao hàng, biên tập viên sách giáo
khoa. Tuy
biết ơn cái công việc nhàn nhã này nhưng ông không thực sự hiểu tại sao
những
người có tài viết văn lại nhất thiết phải có năng lực dạy học. Và ông
rất rụt
rè. Lần nào ý nghĩ sắp phải lên lớp cũng làm ông căng thẳng. Những ngày
phải dạy
học ông trở nên bồn chồn, cứ như thể ông là sinh viên đến ngày phải đi
thi.
Giống nhiều nhà văn
giảng dạy ở các trường đại học, Ray được
yêu cầu dạy các giờ Anh ngữ cộng thêm vào các giờ dạy viết văn. Một môn
tên là Hình thức và lý thuyết truyện ngắn, Ray
thừa hưởng từ chương trình học Anh ngữ ở bậc đại học. Phương pháp của
ông tại
các lớp này là mỗi tuần chỉ định một tập truyện ngắn, gồm các tác giả
đương thời
cũng như tác giả thế kỷ 19, cộng với các bản dịch. Flannery O’Connor,
Chekhov,
Ann Beattie, Maupassant, Frank O’Connor, John Cheever, Mary Robinson,
Turgenev
rồi lại Chekhov. (Ông yêu quý các nhà văn Nga thế kỷ 19.) Ray mở đầu
giờ học bằng
một câu kiểu như, “Nào, các bạn, các bạn có thích Eudora Welty không?”
Ông
thích lắng nghe hơn giảng bài, nhưng ông cũng đọc những đoạn văn ông
thích, nói
về những điểm khiến ông yêu quý trong cuốn sách mà ông đã chọn. Ông chú
tâm vào
chi tiết, ở thật sát với văn bản, và rồi sẽ đến lúc ông tỏ ra rất bồn
chồn nói
đến thứ văn chương lay động ông.
Một kỳ học nọ, có một
nghiên cứu sinh tiến sĩ rất hăng hái
vào học trong lớp vốn chủ yếu gồm toàn nhà văn. Hồi ấy, khoa Anh ngữ,
giống nhiều
khoa khác trên cả nước, đã trở thành chiến địa giữa các lý thuyết gia
và các
nhà nhân văn chủ nghĩa, và chủ nghĩa hậu cấu trúc đã phủ bóng nặng nề
lên trường
đại học. Sau vài tuần dự vào sự tiếp cận văn chương tùy hứng và theo
lối ấn tượng
chủ nghĩa của Carver, lý thuyết gia trẻ tuổi đã phản đối mạnh mẽ: “Lớp
học này
tên là Hình thức và lý thuyết truyện ngắn
nhưng chúng ta chỉ làm mỗi một việc là ngồi đây bàn về những cuốn sách.
Hình thức
và lý thuyết ở đâu rồi?”
Ray có vẻ sầu thảm. Ông
gật đầu và hít một hơi thuốc lá rõ
dài. “Câu hỏi hay đấy,” ông đáp. Sau một quãng nghỉ dài, ông nói tiếp,
“tôi
nghĩ trọng tâm ở đây là chúng ta đọc những cuốn sách hay, bàn về chúng…
Rồi các
bạn tự tạo ra lý thuyết cho mình.” Rồi ông mỉm cười.
Cả khi dạy viết văn
cũng thế, Carver rất nhỏ nhẹ. Ông không
nghĩ mình nên làm bất kỳ ai nản chí. Ông bảo ngoài kia đã có đủ sự nản
chí cho
bất kỳ ai đương đầu với mọi bất trắc nỗ lực trở thành nhà văn, và rõ
ràng ông
nói điều đó từ kinh nghiệm riêng. Với Ray, cả phê bình, cũng như văn
chương, là
một hành động đồng cảm, khiến ta nhập vào bên trong người khác. Ông
không thể
hiểu nổi các nhà văn đi viết những bài điểm sách tiêu cực và từng có
lần mắng
tôi vì làm thế. Ông tin hư cấu và thơ là là những hoạt động huynh đệ
với nhau.
Trong số rất ít người Ray ghét ra mặt có một nhà thơ từng từ chối cho
ông vay
50 đô la khi xe ông bị hỏng ở Salt Lake City; hai nhà phê bình từng tấn
công
tác phẩm của ông, và các nhà văn từng tấn công bất kỳ người bạn nào của
ông.
Tinh thần độ lượng với
người khác thật đáng nói ở một người
rụt rè như ông. Ông thường xuyên viết thư trao đổi với hàng chục nhà
văn, sinh
viên và người hâm mộ. Ông viết những lá thư giới thiệu và thư động viên
tinh thần,
giúp người khác tìm việc và kiếm trợ cấp, nhà xuất bản và người đại
diện, đi
cùng bạn bè cần người hỗ trợ đến những cuộc gặp gỡ vì mục đích cai rượu
đầu
tiên của họ.
Một hôm, tôi cự ông vì
đã tỏ ra dễ dãi với một sinh viên mà
tôi nghĩ là viết lách quá tệ, ông bèn kể cho tôi một câu chuyện: trước
đó không
lâu ông làm giám khảo trong một cuộc thi văn chương uy tín. Người chiến
thắng với
số phiếu tuyệt đối, với tác phẩm kể từ đó được ca ngợi rất nhiều, trước
đây từng
là sinh viên của ông, có lẽ là sinh viên kém nhất, ít hứa hẹn nhất mà
ông từng
dạy trong vòng hai mươi năm. “Sẽ ra sao nếu tôi làm cô ấy nản chí?” ông
hỏi.
Câu phê phán nặng nề nhất của ông là: “Tôi nghĩ sẽ là tốt nếu bạn bỏ
lại truyện
này sau lưng.” Tôi cho câu ấy có nghĩa là để đến được Thi Sơn người ta
phải đi
qua một khung cảnh xấu xí. Nếu làm theo đúng ý Carver, hẳn các lớp có
thể do
sinh viên tự quản lý với nhau, nhưng với ông sự tán thưởng của bản thân
ông quá
quý giá, thành thử ông không thể im lặng không nói ra.
Có lần ông ngồi ở lớp
dạy viết văn của mình nghe đọc một
truyện dài, kỳ quặc: như tôi còn nhớ, câu chuyện viết về hai nhân vật
tách biệt,
đưa họ đến với nhau, miêu tả tán tỉnh nhau rồi lấy nhau. Sau một loạt
khởi đầu
hụt họ quyết định cùng nhau mở một quán ăn, những chuẩn bị cho việc ấy
được
miêu tả hết sức chi tiết. Vào ngày khai trương một băng cướp mang súng
tiểu
liên ập vào và giết hết mọi người trong quán. Hết chuyện. Sau khi gần
như mọi
người trong phòng học ngập khói thuốc đã diễn tả sự thất vọng của mình
với cốt
truyện, chúng tôi quay sang Ray. Rõ ràng ông đang hoang mang. Rốt cuộc
ông nói
rất nhỏ, “Chà, thỉnh thoảng một truyện ngắn cũng cần có một khẩu súng
tiểu liên.”
Câu trả lời này có vẻ làm hài lòng cả tác giả lẫn những người cảm thấy
câu chuyện
đã được cứu thoát khỏi vẻ thảm hại của nó.
Vào kỳ học đầu của tôi,
Ray quên mất không cho điểm tôi ở lớp
viết văn. Tôi nói với ông điều đó, và chúng tôi đến văn phòng khoa để
giải quyết.
“Anh đã viết rất hay đấy,” ông nói, và bảo tôi sẽ được điểm A. Tôi thấy
sung sướng,
nhưng bớt sung sướng hẳn khi Ray mở sổ điểm viết chữ A vào bên cạnh tên
tôi, dưới
một cột dày đặc những điểm A. Dường như ai cũng viết hay cả. Trên lớp
ông trân
trọng từng truyện ngắn - đối xử với chúng như với những thực thể sống,
có lẽ chúng
hơi bệnh hoạn, hay nhiều thiếu sót, nhưng là những thứ có thể nuôi
dưỡng và chữa
chạy.
Mặc dù lúc nào Ray cũng
khích lệ, nhưng ông cũng có thể nghiệt
ngã nếu biết người ta trông chờ sự phê bình. Các sinh viên may mắn được
ông đối
xử với các truyện ngắn theo cùng cách ông đối xử với rất nhiều bản nháp
của
chính ông. Các bản thảo được trả về tơi bời với những gạch xóa, những
thay thế
kỹ lưỡng của Carver, dấu chấm hỏi và thắc mắc nguệch ngoạc. Tôi từng
đưa đi đưa
lại cho ông một truyện ngắn đến bảy lần; chắc ông phải bỏ đến 15 hay 20
tiếng đồng
hồ cho nó. Ông là một biên tập viên tỉ mỉ, bị ám. Trong phòng làm việc
của ông,
khi chỉ có hai người, ông hay biến thành một cha rất dữ, giọng ông dần
dà cứng
rắn hẳn lên.
Có lần chúng tôi tranh
luận 10 hay 15 phút về từ “earth” mà
tôi dùng. Carver cảm thấy nên thay bằng từ “ground”, và ông cảm thấy
điều này
đáng để bàn kỹ. Cuộc trò chuyện này là vô giá; tôi thường xuyên nghĩ
đến nó
trong lúc viết. Bản thân Carver sau này cũng lấy nó làm ví dụ trong một
tiểu luận
ông viết cùng năm ấy, bàn về tầm ảnh hưởng của John Gardner, mentor của
ông.
“Ground là ground, ông nói, nó có nghĩa là ground, là bùn, kiểu những
thứ như
thế. Nhưng nếu dùng “earth” thì lại là chuyện khác, nó có những hàm
nghĩa
khác.”
Tiểu thuyết gia John
Gardner là người thầy dạy viết văn đầu
tiên của Ray. Họ gặp nhau tại Chico State College, California, vào thập
niên
1960. Ray bảo cả đời mình khi viết ông luôn luôn cảm thấy có Gardner
nhìn qua
vai mình, đồng tình hoặc không đồng tình với một số từ, mệnh đề và
chiến lược. Phạt
phạm lỗi. Ông bảo một thầy giáo dạy viết văn giỏi là điều gì đó giống
một ý thức
văn chương, một giọng nói phê phán thân tình rót vào tai ta. Tôi biết
ông muốn
nói gì. (Tôi cũng có một ý thức như thế; nó hay nói lẩm bẩm.) Sau gần
hai mươi
năm, Carver gặp lại ông thầy cũ, lúc đó sống và dạy học chỉ cách
Syracuse chưa
đầy một trăm dặm, tại Binghamton, N.Y., và việc Gardner tán thưởng tác
phẩm của
ông có ý nghĩa rất lớn đối với ông. Mùa xuân năm 1982, tôi ghé nhà Ray
vài phút
sau khi ông nghe tin Gardner chết trong một tai nạn xe cộ.
Quẫn trí, ông không thể
ngồi im một chỗ. Chúng tôi đi vòng
vòng quanh nhà và cái sân, vừa đi ông vừa nói về Gardner.
“Hồi ấy tôi còn chẳng
biết một nhà văn thì trông như thế
nào,” Ray nói. “John trông giống một nhà văn. Ông ấy có mái tóc đó, và
ông ấy hay
mặc cái thứ đó, trông giống một cái áo choàng. Tôi đã cố bắt chước dáng
đi của
ông ấy. Ông ấy hay để tôi ngồi viết trong phòng làm việc của ông ấy vì
tôi
không có nổi một nơi nào yên tĩnh. Tôi đã xem đống giấy tờ của ông ấy,
ăn cắp
nhan đề những truyện ngắn của ông ấy để dùng cho những truyện ngắn của
tôi.”
Vậy nên hẳn là ông hiểu
khi tất cả chúng tôi chẳng hề ngượng
ngùng đánh thó từ ông, sinh viên chúng tôi ở Syracuse, Iowa, Stanford
rồi tất cả
những lớp dạy viết văn khác trên toàn quốc, gần như ai ai cũng như thể
viết và
cho in những truyện mang nhan đề của Raymond Carver như “Do You Mind If
I
Smoke?” hay “How About This, Honey?” Chắc chắn ông không khoái trò nhân
bản.
Nhưng ông biết bắt chước là một phần của việc đi tìm giọng riêng.
Tôi gặp Carver ở gần
đoạn khởi đầu của cái mà ông thích gọi
là “cuộc đời thứ hai” của mình, sau khi ông bỏ rượu. Tôi từng nghe
những câu
chuyện về Ray tồi tệ xưa kia, những câu chuyện mà bản thân ông thích
kể. Khi gặp
ông tôi nghĩ về những nhà văn khác như những kẻ điên rực rỡ nốc quá
nhiều rượu,
lái xe quá nhanh và gieo rắc những trang viết xuất chúng của mình dọc
theo con
đường đi tồi tệ. Có lẽ từng có lúc cả ông cũng như thế. Trong tiểu luận
“Fires”
ông viết, “Tôi từng nghĩ nhà văn là những người vào các thứ Bảy không
đến hiệu
giặt.” Hemingway có thể nào bị bắt quả tang đang giặt quần áo không?
Không,
nhưng William Carlos Williams thì có thể. Hoặc giả Chekhov yêu quý của
Carver. Ở
lớp học và trên trang viết, cách nào đó Carver đã mang đến cái tin tốt
lành là
trong vương quốc văn chương có cả màn giặt quần áo.
Không phải là thời ấy
Ray bỏ nhiều thời gian ở hiệu giặt, mặc
dù về cuối cuộc đời đã tốt lành với ông theo cách thức khiến ông dường
như lúc
nào cũng cảm thấy biết ơn. Nhưng biết được rằng máy chữ của một trong
những bậc
thầy của văn xuôi Mỹ đang gõ lách cách ngay trên phố kia, trong khi một
người
hàng xóm dọn đống lá và vài đứa trẻ chơi trò Frisbee còn lũ chó thì
sống cuộc đời
chó của chúng - bản thân nó với tôi đã là một bài học. Dù cho ở trung
tâm công
việc viết văn ẩn trú những bí ẩn đen tối như thế nào, ông vẫn khăng
khăng về
duy nhất một bí mật nghề nghiệp: ta phải sống sót, tìm lấy một chỗ yên
tĩnh mà
làm việc chăm chỉ ngày ngày. Và gặp ông uống cà phê, cùng ông xem một
trận bóng
chày hay một bộ phim ngu ngốc, mường tượng vài huyền thoại nguy hiểm về
cuộc đời
viết lách mà ông không thích giảng - mặc dù đôi lúc ông cũng có giảng,
nếu nghĩ
có thể giúp ích gì đó. Khi chúng tôi bắt đầu thân nhau, ở New York, ông
cảm thấy
mình buộc phải khuyên nhủ tôi, trong một loạt thư tuyệt vời, và một năm
sau đó
tôi chuyển bang để trở thành sinh viên của ông.
Đọc các đối thoại
Plato, ta nhận ra rằng việc Socrates tự hạ
mình là một cái gì đó giống như một mưu mẹo. Tuy nhiên, sự nhún mình
của Ray rất
sâu sắc và không phải ngụy tạo, là một trong những thứ đáng kinh ngạc
nhất ở
ông. Khi hỏi một sinh viên, “Anh nghĩ gì?” thì rõ ràng ông muốn biết
thật. Đây
như thể là một phương pháp sư phạm hiếm hoi và đầy cảm hứng. Những suy
nghĩ
riêng của ông được trình bày cẩn trọng đến mức ta biết được chúng đã
được cân
nhắc nhiều đến thế nào.
Tuy tuyên bố không
thích dạy học nhưng ông đã tạo ra khác biết
rất lớn cho rất nhiều sinh viên. Chắc chắn ông đã làm thay đổi đời tôi
một cách
không thể đảo ngược và tôi cũng từng nghe nhiều người khác nói vậy.
Tôi vẫn dướn về
phía trước, đầu ngả sang một bên để cố nghe
rõ giọng nói của ông.