|
Sept 3, 2013
Hình như cái
miệng giống ông ngoại, chắc sẽ có nhiều bồ hơn ông ngoại.
Độc giả TV
Phúc đáp:
Ôi dào, có
tiếng mà không có miếng. Bồ thì nhiều, nhưng chỉ biết ăn cơm, không
biết ăn phở!
...
“Tả công hữu
kích giang hồ” như thế mà còn than cái gì nữa!
Remembering Seamus Heaney
SCAFFOLDING
Masons, when
they start upon a building,
Are careful
to test out the scaffolding;
Make sure
that planks won't slip at busy points,
Secure all
ladders, tighten bolted joints.
And yet all
this comes down when the job's done
Showing off
walls. of sure and solid stone.
So if, my
dear, there sometimes seem to be
Old bridges
breaking between you and me
Never fear.
We may let the scaffolds fall
Confident
that we have built our wall.
Làm nhà
Tặng bạn,
như một lời tạ lỗi
Những người
thợ khi xây một căn nhà
Thường đắn
đo từng khung cây làm giàn giáo
Sao cho giàn
đừng bung
Ở những nơi
bộn bề công chuyện
Chắt chiu từng
cây thang
Ngại
ngùng từng mối nối
Tất cả bỏ
đi, khi việc xong
Tường đá lộ
ra, uy nghi, sừng sững
Bạn thân ơi,
đôi khi có vẻ
Những cây cầu
ngày xưa gẫy đổ giữa chúng ta
Đừng sợ. Hãy
để cho khung rêu rụng xuống
Tâm đắc
một
điều
Ngôi nhà
của
chúng ta đã làm xong
Note: Tập thơ, thấy ghi
mua ngày 17.01.96. Tìm mãi mới thấy.
Bài thơ trên,
lời tặng, tạ lỗi... liên quan tới cô bạn phù dâu ngày nào. GCC
DIGGING
Between my
finger and my thumb
The squat
pen rests; snug as a gun.
Under my
window, a clean rasping sound
When the
spade sinks into gravelly ground:
My father,
digging. I look down
Till his
straining rump among the flower beds
Bends low,
comes up twenty years away
Stooping in
rhythm through potato drills
Where he was
digging.
The coarse
boot nestled on the lug, the shaft
Against the
inside knee was levered firmly.
He rooted
out tall tops, buried the bright edge deep
To scatter
new potatoes that we picked
Loving their
cool hardness in our hands.
By God, the
old man could handle a spade.
Just like
his old man.
My
grandfather cut more turf in a day
Than any
other man on Toner's bog.
Once I
carried him milk in a bottle
Corked
sloppily with paper. He straightened up
To drink it,
then fell to right away
Nicking
and
slicing neatly, heaving sods
Over his
shoulder, going down and down
For the good
turf. Digging.
The cold
smell of potato mould, the squelch and slap
Of soggy
peat, the curt cuts of an edge
Through
living roots awaken in my head.
But I've no
spade to follow men like them.
Between my
finger and my thumb
The squat
pen rests.
I'll dig
with it.
Remembering
Seamus Heaney
A shy
soul
WHEN Seamus
Heaney began writing poetry, during his years studying to be a
schoolteacher in
the 1960s, he used the pen-name “Incertus”, meaning “uncertain”. Later,
he
would describe himself as “a shy soul fretting and all that”. As an
older man
with an illustrious career behind him his gentle voice could still be
mistaken
for shyness. When I saw him give a lecture at Cambridge University on
the
importance of peaty bogs in his work he stood tall yet slightly stooped
over a
lectern, quietly capturing the audience's attention with his
self-deprecating
dry humour.
Prospero
Vu Lan : Đến những người đã khuất
Cái chủ
đề Vu Lan này lấy từ bài thơ "Năm mới" của Chu Trầm Nguyên Minh, Phan
Ni Tấn phổ nhạc , gởi đến tất cả những người đã nằm xuống, trước cuộc
chiến,
trong cuộc chiến, sau cuộc chiến ..., và nhất là gởi cho anh CTNM,
người đã có
cha, mẹ, anh, chị, em ... đã bỏ anh lại trên đời khi anh còn thơ ấu ,
vì chiến
tranh .
Thơ cũng hay mà nhạc cũng
hay :
http://www.art2all.net/tho/chutramnguyenminh/nammoi_phannitan.html
K
Thơ Mỗi Ngày
Mời
đọc:
Vũ
trụ thơ ( Đặng Tiến)
gọi.
vang một.
thời
như một lần
đã. lỡ
như một lần
đi. xa
lá vàng.
phai não nùng
người xa
hay. ai xa
gió cuốn.
bay từng. lá
đọng lại.
trên mắt. buồn
đôi môi. ai
hờ. hững
tay đong.
đưa ngày. xa
thời gian
có. xóa mờ
lúc ban đầu.
hôn nhau
tay. vội vã.
từng ngón
vũng tình.
yêu trượt. chân
như một lần ở.
lại
như một lần
buông. xuôi
tay chơi
vơi. khoảng không
tiếng. vọng
xa. hững hờ
lạc nhau.
trong quá khứ
vẫn lạc
nhau. ngày mai
còn lại. chỉ
mình. ai
cửa đóng.
không vội. vã
có tìm. được
lúc đầu
những cay.
cay vọng. ngược
cái bóng.
nghiêng vắng. hắt
gọi. vang thời.
bên em
Đài Sử
Thơ gửi bạn quí trong lúc chờ cùng đi xa
First Fig
My candle
burns at both ends;
It will not
last the night
But ah, my
foes and oh my friends -
It gives a
lovely light
Edna St.
Vincent Millay (1892-1950)
Trái Cấm Đầu
Cây nến của
Gấu cháy hai đầu
Làm sao cháy
suốt đêm?
Kẻ thù &
Bạn quí của Gấu ơi
Coi kìa, ngọn
lửa mới đáng yêu làm sao!
Theo
http://en.wikipedia.org thì
Fig :
1. trái fig, một loại giống trái sung rất ngọt khi chín
2. Hoa của cây gai thistle (Scots)
3. Trái cấm mà Adam và Eva ăn, và lấy lá làm áo quần để che đậy thân
thể
Thistle :
1. Loại cây đầy gai, cho hoa đẹp
2. cây gai mà Thượng Đế phạt Adam và Eva phải ăn khi ra khỏi
thiên đường.
First
Fig nằm trong cuốn A Few Figs from
Thistles .
Nói tóm lại thì fig chỉ là fig ! Diễn dịch nó thì tùy người đọc.
Note:
Cái tít “trái cấm đầu” này, là do đọc tiểu sử của nhà thơ mà có được:
Những năm
đầu đời ở Greenwich Village, bà đã có nick là một nhà thơ lang chạ,
lang thang nổi loạn,
a rebel bisexual bohemian. Vào thập niên 1920, là thần tượng của tuổi
trẻ “mèo đêm,
lao vào lửa, em lên anh nhé, mưa không ướt đất, vết thương dậy
thì”, the idol of the "flaming
youth", mà nghe truyền tụng, rất ư mê sex không cần những liên hệ có
nghĩa
[enjoy sex without 'meaningful relationships']. Trong số những văn nhân
thi sĩ
mê nàng có.... VP - ấy chết xin lỗi, nhưng có thể vì lý do này mà VP
chỉ coi văn
chương là “đồ chơi”! - Edmund Wilson, John Peale Bishop và Floyd Dell...
Ghi
chú
trong ngày
The shocking
truth
But why are
audiences increasingly choosing fact over fiction? Perhaps the current
dearth
of realism (endless comic-book sequels and apocalyptic action movies)
is
forcing more discerning viewers to choose authentic storytelling over
spectacular visuals and far-fetched plots. Documentaries such as
“Blackfish”
may also fill a gap in investigative journalism, as fewer newspapers
and
broadcasters invest in long-term projects.
Giả tưởng
không đáng xách dép cho hiện thực: Tại làm sao khán thính giả càng ngày
càng chọn
sự kiện, thay vì giả tưởng?
20.10.2010
Automne
Dans le
brouillard s'en vont
un paysan cagneux
Et son bœuf lentement dans le
brouillard d'automne
Qui cache les hameaux pauvres et vergogneux
Et s'en
allant là-bas le
paysan chantonne
Une chanson d'amour et
d'infidélité
Qui parle d'une bague et d'un
cœur que l'on brise
Oh!
l'automne l'automne a
fait mourir l'été
Dans le brouillard s'en vont
deux silhouettes grises
Apollinaire
Mùa Thu
Trong
sương mù, một người nhà
quê đi, chân liềng khiềng
Và con bò của anh ta lừng khừng đi trong sương
mù mùa thu
Lấp ló trong lớp sương mù là
những thôn xóm nghèo nàn và xấu hổ
Và
trong khi đi như thế, anh
nhà quê ư ử hát
Một bài tình ca và sự không trung
thuỷ
Nói về một cái nhẫn và một trái
tim mà người ta làm tan nát
Ôi mùa
thu, mùa thu làm chết đi
mùa hè
Trong sương mù cập kè hai
cái
bóng xám
AUTUMN
Automne
A bowlegged
peasant and his ox receding
Through the
mist slowly through the mist of autumn
Which hides
the shabby and sordid villages
And out
there as he goes the peasant is singing
A song of
love and infidelity
About a ring
and a heart which someone is breaking
Oh the
autumn the autumn has been the death of summer
In the mist
there are two gray shapes receding
W. S. MERWIN
Ithaca
Camus 100
Orhan Pamuk
tiểu thuyết gia đã rất thành công với Tên
tôi là Đỏ, Pháo đài trắng hay Cuốn
sách đen, nhưng vì là một nhà văn rất tham vọng, “phổ màu” của ông
còn muốn
bao trùm rộng lớn hơn nữa, lên chính trị, hội họa cổ điển, những tản
văn ngắn,
và lên sự đọc.
“Những màu
khác” minh chứng cho tham vọng văn chương Orhan Pamuk. Cuốn sách là sự
nối dài
đầy ngoạn mục, những “ngoại truyện” bổ sung cho các tiểu thuyết của
ông, những
thêm thắt về cảm giác vốn đã huy hoàng trong cuốn hồi ký tuyệt vời Istanbul, và nhất là ở đây, ta được chứng
kiến Pamuk trong tư cách một người đọc cự phách; người đọc ấy hào phóng
dẫn dắt
ta đến với thế giới những tác giả mà ông sùng mộ nhiều chục năm nay:
Camus,
Flaubert, Dostoyevsky, Nabokov… những thế giới của sự đọc ấy mở rộng
nhiều lần
đường biên giới của sự viết ký tên Pamuk.
Blog NL
Khi “Những sắc
màu khác” mới ra lò, TV có đi vài bài, và có ý định đi hết cuốn, nếu
không, thì
những bài liên quan tới xứ Mít, nhưng nhớ là, một “tay nào đó”, hình
như đại diện
cho NN, mail, cho biết đã có bản quyền cuốn sách, cho nên GCC bèn ngưng.
Cách viết
NSMK, theo GCC, là những kinh nghiệm cá nhân, riêng tư, của Pamuk, một
nhà văn
Thổ, khi đọc “thế giới”, trong cái tham vọng vươn ra thế giới, qua
những tác giả
như Dos, Camus… Pamuk có "giấc mơ Thổ" của ông, khi viết Istanbul, và cũng giấc mơ
đó, khi viết NSMK. Độc giả TV có thể nhận ra điều này, khi đọc ông viết
về Dos,
hay về Camus.
Trên tờ TLS
số 21 Tháng Ba, 2008, Christopher de Bellaigue, điểm cuốn "Những mầu
sắc khác", tập
tiểu luận của Pamuk, coi ông là tiểu thuyết gia hơn là tiểu luận gia.
Theo người
viết, Pamuk là một thứ nhà văn hướng nội, introspective writer, mặc dù
dính líu
vô những chuyện chính trị, và từng bị buộc tội "sỉ nhục cộng đồng
Turki". Và có thể nói, toàn bộ tiểu thuyết của ông
tạo nên một trong những tự thuật lằng nhằng,
lẵng nhẵng nhất trong văn chương. [Pamuk is an introspective writer.
Indeed, it
might be said that the sum of his novels constitues one of the most
sustained,
if elliptical, autobiographies in literature].
Về tính lằng
nhằng, lẵng nhẵng, tác giả bài viết kể lại kinh nghiệm viết của Pamuk:
Vào năm
1988, một nhà văn chưa được người đời biết tới tên là Orhan Pamuk đang
phải chiến
đấu, làm thế nào hoàn tất cuốn Cuốn
Sách Đen, cuốn thứ tư và là cuốn tham vọng
nhất của ông cho tới lúc đó. "Trong khi chữ bò mãi ra", Pamuk nhớ lại
trong Những mầu sắc khác,
"cuốn sách dầy mãi lên, thú viết sâu đậm
thêm", nhưng đây đúng là một niềm an ủi nho nhỏ, bởi vì "cuốn tiểu
thuyết nhất định không chịu ngưng"! [the novel refused to end].
Riêng về nhà
văn bắc cầu, người viết nhận xét, trong Những mầu sắc khác, Pamuk để lộ
mình ra
nhiều hơn là ông tưởng. Những mầu
sắc khác cho chúng ta thấy một con người cô
đơn, quyết tâm tự học, thiên về tự tha thứ cho mình, và bịnh hoạn [Other Colors
shows him to be a solitary, determined autodidact, prone to
self-indulgence and
morbidity].
Bài diễn văn
Nobel được in lại trong sách, bắt đầu bằng những lời cảm tạ, vinh danh
ông bố,
chấm dứt bằng liệt kê những lý do khiến ông viết, cho thấy, đây là một
người
nhân bản, human, mâu thuẫn, vị tha, và ích kỷ, đúng như chính tác giả.
Tin Văn đã cống
hiến bản dịch một số bài viết trong cuốn này, thí dụ bài viết về Những Con Quỉ
của Dostoevsky.
Pamuk cũng
coi Dos như là một trong những sư phụ của ông. (a)
Orhan
Pamuk
Phi lý của
Camus ở đâu mà ra?
Sartre mở
ra cuốn “Chủ nghĩa hiện sinh là gì ?” bằng câu của Dos: “Nếu Thượng Đế
không
có, thì mọi chuyện đều được phép”, và coi đây là khởi điểm của chủ
nghĩa hiện
sinh. Từ ý này, Sartre phán, thật hách, như... Nghị Hách: Con người bị
kết án
phải tự do!
Tôi
luôn luôn coi Những Con Quỉ là một cuốn
sách công khai hoá những bí mật nhục nhã mà đám trí thức tiến bộ (những
kẻ sống
xa trung tâm, ở mép bờ của Âu Châu, hục hặc với những giấc mơ Tây
Phương của họ,
và bị hành hạ bởi những hồ nghi của họ về Thượng Đế), mong giấu kín,
chúng ta.
Ui
chao, bạn đọc những dòng trên, song song với những đoạn trong Bếp Lửa, thí dụ đoạn Tâm và Đại cà khịa
với nhau về Dostoevsky, hay Tâm trả lời tay Nhiên, khi qua Bắc Ninh dậy
học tại
một trường đạo...
Cách đọc sách
của Pamuk không phải như là 1 phê bình gia, mà như là 1 tiểu thuyết
gia. Ông đọc
những vị thầy của ông – như là 1 độc giả Thổ - để trở thành 1 nhà văn,
viết từ
miền đất của ông, từ cái đế quốc Thổ hoang tàn đổ nát. Đây là 1 phát
giác rất
quan trọng, “của riêng Gấu”, về ông, ngay khi đọc “Những Sắc Màu Khác”.
Và cách
này, quy về Gấu, nhìn lại những gì Gấu đọc thời mới lớn, thì nó ra nhận
xét này:
Gấu đọc Mác Xít, để cố tìm cách giải thích cuộc chiến Mít, tại sao nó
xẩy ra, và
sau này, từ khi ra được hải ngoại, đọc Lò Thiêu, để hiểu Cái Ác Bắc
Kít, nguồn
cơn của cuộc chiến, không phải chủ nghĩa Mác.
Tôi nhớ là đã tự hỏi chính mình, vào thời
kỳ đó, là, tại sao chẳng có ai nói về những phát giác như thế ở trong
cuốn sách. Nó có quá nhiều điều để nói với chúng tôi về chính thời đại
của chúng tôi, tuy nhiên, trong những sinh hoạt tả phái, [left circles]
điều này [cuốn sách] bị vờ đi, và có thể, vì lý do đó, cho nên, khi tôi
đọc, cuốn sách như nói thầm với tôi, một bí mật.
Pamuk
10 tiếng nói
văn chương ngoại thật bảnh. Trong có hai, Gấu cực khoái, Enrique
Vila-Matas, và
Orhan Pamuk.
Cái nick, tên “Mơ Mộng Lưu
Vong” - le “Rêveur en Exil” - thay vì, "Kẻ mơ mộng đang tỉnh thức", "Le
Rêveur en Éveil, cũng
có thể
ban cho GCC.
Tất nhiên, cả vòng hoa Nobel văn chương, chôm
của GCC:
"who in the quest for the
melancholic soul of his native city
has discovered new symbols for the clash and interlacing of cultures."
"Người mà trong khi tìm kiếm
linh hồn sầu muộn của thành phố quê hương của
mình, đã khám phá ra những biểu tượng mới cho cuộc đụng độ và quấn quít
lấy
nhau của những nền văn hoá."
Vòng hoa trao tặng Pamuk vinh
danh nhà văn Nobel 2006 một cách nào đó, là kết hợp
của hai vòng hoa, của Gấu, tặng Sài Gòn, viết khi ở nhà tù Bangkok và
trại tị nạn
Thái Lan:
Trong những đêm chập chờn mất
ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong
tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo
đường xưa
cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần
đời đó mới
đáng kể...
Nhìn bước đi của thời gian, của
thành phố trong cơn tuyệt vọng chạy đua với chiến
tranh, trong nỗi hối hả đi tìm ông chủ đích thực, sau những ông chủ
thuộc địa,
thực dân cũ, thực dân mới... cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ thù.
Lần Cuối Sài Gòn
Kẻ mơ mộng tỉnh
thức: Từ này, nguyên của Borges.
Trong
"Chuyện Nghề" (The Writer's Apprenticeship), Borges viết:
Nghề văn,
nghề thơ, là một nghề kỳ cục. Chesterton có nói: "Chỉ có một điều cần -
tất
cả mọi điều." Với một nhà văn, tất cả mọi điều là một từ không chỉ có
nghĩa "bao gồm"; phải hiểu theo nghĩa đen của nó. Thí dụ, một nhà văn
cần sự cô đơn, và anh ta được chia phần, của nỗi cô đơn. Anh ta cần
tình yêu,
anh ta được chia, tình yêu, và luôn cả, tình yêu không được chia.
Theo một
nghĩa nào đó, nhà văn là một kẻ mơ-ngày, a day-dreamer, một kẻ sống
cuộc đời
kép. Anh ta bắt đầu viết, bằng cách bắt chước những nhà văn mà anh ta
thích. Đó
là cách nhà văn trở thành chính mình, bằng cách làm mất bản thân - cung
cách kỳ
cục của một cuộc sống kép, sống hết mình trong thực tại này, cùng lúc,
trong thực
tại khác - thực tại mà anh ta sáng tạo ra, thực tại "của những giấc
mơ".Một cuộc
sống
kép, sống hết mình trong thực tại này, và cùng lúc, trong một thực tại
khác...
Một kẻ mơ ngày.... Murakami có lẽ cũng nghĩ như vậy, khi ông cho rằng,
viết, là
một cách mơ mộng, nhưng mà trong tình trạng tỉnh thức, “écrire, c’est
comme
rêver éveillé” (1)
Huế của một
thời
Vô Kỵ giữa chúng ta
Đập
ngăn
Thái Bình Dương
Christa Wolf by
Economist
Yiyun Li
“You
were not who you were, but what you were rationed to be”:
Mi không phải là mi,
mà là kẻ được cái chế độ tem phiếu đó nắn khuôn.
A Crossbreed
I have a
curious animal, half-cat, half-lamb. It is a legacy from my father. But
it only
developed in my time; formerly it was far more lamb than cat. Now it is
both in
about equal parts. From the cat it takes its head and claws, from the
lamb its
size and shape; from both its eyes, which are wild and changing, its
hair,
which is soft, lying close to its body, its movements, which partake
both of
skipping and slinking. Lying on the window-sill in the sun it curls
itself up
in a ball and purrs; out in the meadow it rushes about as if mad and is
scarcely to be caught. It flies from cats and makes to attack lambs. On
moonlight nights its favorite promenade is the tiles. It cannot mew and
it loathes
rats. Beside the hen-coop it can lie for hours in ambush, but it has
never yet
seized an opportunity for murder.
I feed it on milk; that seems to suit it
best. In long draughts it sucks the milk into it through its teeth of a
beast
of prey. Naturally it is a great source of entertainment for children.
Sunday
morning is the visiting hour. I sit with the little beast on my knees,
and the
children of the whole neighborhood stand round me. Then the strangest
questions
are asked, which no human being could answer: Why there is only one
such
animal, why I rather than anybody else should own it, whether there was
ever an
animal like it before and what would happen if it died, whether it
feels
lonely, why it has no children, what it is called, etc.
I never trouble to answer, but confine
myself without further explanation to exhibiting my possession.
Sometimes the
children bring cats with them; once they actually brought two lambs.
But
against all their hopes there was no scene of recognition. The animals
gazed
calmly at each other with their animal eyes, and obviously accepted
their
reciprocal existence as a divine fact.
Sitting on my knees the beast knows neither
fear nor lust of pursuit. Pressed against me it is happiest. It remains
faithful to the family that brought it up. In that there is certainly
no
extraordinary mark of fidelity, but merely the true instinct of an
animal
which, though it has countless step-relations in the world, has perhaps
not a
single blood relation, and to which consequently the protection it has
found
with us is sacred.
Sometimes I cannot help laughing when it
sniffs round me and winds itself between my legs and simply will not be
parted
from me. Not content with being lamb and cat, it almost insists on
being a dog
as well. Once when, as may happen to anyone, I could see no way out of
my
business difficulties and all that depends on such things, and had
resolved to
let everything go, and in this mood was lying in my rocking-chair in my
room,
the beast on my knees, I happened to glance down and saw tears dropping
from
its huge whiskers. Were they mine, or were they the animal's? Had this
cat,
along with the soul of a lamb, the ambitions of a human being? I did
not
inherit much from my father, but this legacy is worth looking at.
It has the restlessness of both beasts,
that of the cat and that of the lamb, diverse as they are. For that
reason its
skin feels too narrow for it. Sometimes it jumps up on the armchair
beside me,
plants its front legs on my shoulder, and puts its muzzle to my ear. It
is as
if it were saying something to me, and as a matter of fact it turns its
head
afterwards and gazes in my face to see the impression its communication
has
made. And to oblige it I behave as if I had understood and nod. Then it
jumps
to the floor and dances about with joy.
Perhaps the knife of the butcher would be a
release for this animal; but as it is a legacy I must deny it that. So
it must
wait until the breath voluntarily leaves its body, even though it
sometimes
gazes at me with a look of human understanding, challenging me to do
the thing
of which both of us are thinking.
FRANZ KAFKA: Description
of a Struggle (Translated from the
German by Tania and James Stern)
Jorge Luis
Borges: The Book of Imaginary Beings
I have a
curious animal, half-cat, half-lamb. It is a legacy from my father: Tôi
có 1
con vật kỳ kỳ, nửa mèo, nửa cừu. Nó là gia tài để lại của ông già của
tôi
Không phải
ngẫu nhiên mà Gregor Samsa thức giấc như là một con bọ ở trong nhà bố
mẹ, mà
không ở một nơi nào khác, và cái con vật khác thường nửa mèo nửa cừu
đó, là thừa
hưởng từ người cha.
Walter
Benjamin
Một chuyến
đi
Perhaps the
knife of the butcher would be a release for this animal; but as it is a
legacy
I must deny it that. So it must wait until the breath voluntarily
leaves its
body, even though it sometimes gazes at me with a look of human
understanding,
challenging me to do the thing of which both of us are thinking.
Có lẽ con dao của tên đồ tể là 1 giải thoát cho con vật, nhưng tớ đếch
chịu như
thế, đối với gia tài của bố tớ để lại cho tớ. Vậy là phải đợi cho đến
khi hơi thở
cuối cùng hắt ra từ con vật khốn khổ khốn nạn, mặc dù đôi lúc, con vật
nhìn tớ
với cái nhìn thông cảm của 1 con người, ra ý thách tớ, mi làm cái
việc đó đi,
cái việc mà cả hai đều đang nghĩ tới đó!
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
Brodsky nói
về thành phố quê hương của ông:
Petersburg đẻ
ra một nền văn chương được đánh dấu bởi sự "âu lo, như thể nó được viết
ra
từ mép bờ trái đất. Và nếu có thể đưa ra một quan niệm chung, một âm
điệu nào
đó, thì đó là sự vong thân".
Câu này cũng
có thể áp dụng cho TTT, và Hà Nội của ông.
*
Một lần nào đó chú đã nói rằng văn phải
được chở bằng thơ. N cũng nghĩ thế. Những tác phẩm lý sự sắc sảo và quá
bám vào hiện thực đang diễn ra thường hấp dẫn người đọc kinh khủng vào
lúc đó, nhưng khi hiện thực đã là 'khác' và khi sự tò mò của người đọc
về những ám chỉ, hoặc cao quý hơn: nhu cầu phát huy trí thông minh cùng
tác giả của họ được thỏa mãn thì tác phẩm sẽ bị để lên giá.
Thư độc giả
*
Cần
phân biệt, thơ khác, trữ tình khác.
Cái
gọi là thơ, poétique, ở trong văn, nó ở dạng rất thô, tức là thi ảnh,
image poétique, theo như định nghĩa của Bachelard.
Còn trữ tình,
lyrique, nói nôm na, là mùi mẫn, cụp lạc, vãi lệ, thứ văn chương mà Bùi
Giáng đã từng diễn tả: Em chưa đái mà hồn anh đã ướt!
Cũng
ý đó, Kundera viện dẫn Kafka:
Con
tim khô héo luôn ngụy trang bằng thứ văn phong ướt đẫm tình cảm.
[Sécheresse
du coeur dissimulée derrière un style débordant de sentiments].
Thí
dụ, câu này, của nhà phê bình BVP:
Có
sự trộn lẫn của thực tại với hồi ức, của cuộc đời hằn xé với những mộng
tưởng thanh xuân. Có nắng mưa, gió sóng, cùng những bụi bặm, náo động
của cuộc đời. Nhưng cũng có, trong những dòng văn chân thật ấy, những
khoảng thinh lặng cần thiết và ấm áp của tình người.
Nguồn
Hay những câu văn
kiểu "Ra biển gọi thầm" của THT, thí dụ.
*
Toni
Morrison, khi trả lời phỏng vấn The Paris Review, cho biết, bà rất ghét
bị coi là “nhà văn thơ”, a ‘poetic writer’. Theo người phỏng vấn, có vẻ
như bà nghĩ rằng, khi chú tâm đến chất trữ tình ở trong văn của bà là
coi nhẹ tài năng của bà, và tước đoạt ở truyện của bà sức mạnh, quyền
năng, và sự ròn rã, cộng hưởng của chúng, their resonance.
Như
là một trong một số ít những tiểu thuyết gia mà tác phẩm được cả giới
hàn lâm lẫn độc giả bình thường tán thưởng, bà tự cho mình sự khiêm
nhường: chọn lựa những lời khen tặng. Bà không từ chối sự sắp xếp, và
thích được coi là một nhà văn nữ da đen, a “black woman writer”. Khả
năng của bà, trong việc biến đổi, những cá nhân thành những sức mạnh,
những phong cách riêng thành những điều không thể tránh được, đã khiến
có những nhà phê bình gọi bà là ”D.H. Lawrence của tâm linh đen” [of
the black psyche].
*
Kiệt
Tấn có kể, trên talawas, lần VP qua thăm Paris, ông có hỏi ông tiên chỉ
về trường hợp TTT, và VP phán, TTT thành công như là nhà văn, không
phải nhà thơ.
Bản thân TTT, qua bài viết của Ninh Hạ, cũng trên talawas, cho biết,
thời gian cùng đi tù, NH có hỏi, và TTT cho biết, ông làm thơ thoải mái
hơn viết truyện.
*
Văn TTT, nếu được mến mộ, theo Gấu, chính là ở chất thơ
của nó. Và cái sự ông không thích viết truyện, cho thấy, ông không
có được tài năng và quyền năng như là một tiểu thuyết
gia, như Morrison. TTT viết nhiều văn xuôi, nhưng sự thực,
chúng đều không phải là tiểu thuyết, trừ cuốn Một Chủ Nhật Khác.
Cái hỏng của Bếp Lửa, nói lên
sự không thoải mái của TTT, khi viết 'tiểu thuyết', như chính ông xác
nhận: Trong nhiều năm sau khi quyển sách này được xuất bản, dường như
tôi đã hì hục viết một BẾP LỬA khác. Mỗi lần sửa lỗi ấn loát để cho tái
bản, tôi đều muốn viết lại nó. Kể cả bây giờ, sau mười bẩy năm.
Gấu Cà
Chớn vs Du Tử Cà
Những người
đã chết đều có thật
Tuesday,
June 21, 2005
Câu thơ trên,
là của "Ông Số 1". "Ông số 2" bèn chôm, làm của ông.
“Nhân
Dụng” là còn có ý đó, mi là thứ mà để ta chôm, ta sử dụng. "Dụng nhân,
chôm của
nhân", như... dụng mộc!
Ông chê thơ
của bạn ông là Du Tử Cà, bài thơ đó, ai làm mà chẳng làm được.
Gấu quê quá, bèn đứng
về phe bạn Cà của mình, đi 1 bài, chửi cả băng, cả 1 bộ lạc Cờ Lăng.
Ai ngờ bạn
quí của Gấu đếch đứng về phe với Gấu, ông đi 1 "trường thiên tụng ca"
thi sĩ "Hai
Hòn Bi"!
Chán thế!
Tính viết “tởm
thế”, nhưng nặng quá!
Hà, hà!
GCC bị cú này
1 lần rồi. Khi Người Vịt đăng hình GCC ghé thăm, uý lạo, 1 vị bạn quen,
ngạc
nhiên quá đỗi, tụi khốn đó không bao giờ làm chuyện đăng hình như thế,
nhất là
hình anh!
Thế rồi 1 vị bạn khác, đề nghị GCC làm ơn bỏ cái “sự cố” đó đi, nhất
là delete tên cái ông nhận xét như thế về băng Cờ Lăng!
Phiền cho tôi
lắm lắm đấy!
Chán thế!
NT vs VC
St-Petersburg
Rodion R. Raskolnikov
Origin:
Fyodor Dostoyevsky's 1866 novel, Crime
and Punishment
From Dante's
Inferno, where hell seems a good deal
more interesting than heaven, to Milton's Paradise
Lost, where Satan gets all the best lines, to Shakespeare's Othello, where
Iago's intrigues are more compelling than Othello's virtues, writers
have
learned fiction's dark secret: the allure of evil trumps the banality
of good.
Yet in Fyodor Dostoyevsky's Crime and
Punishment, the author passes rapidly over his main character's
evil deeds-the
pointless murders of an innocent old woman and her half-sister-to
explore their
psychological consequences.
Dostoyevsky understood punishment not as a
concept
but as bitterly lived experience. A parlor radical in his youth, he was
arrested, along with dozens of utopian associates who questioned the
regime of Czar
Nicholas I, and put through a mind-bending form of psychological
torture: he
was convicted of treason, sentenced to death, blindfolded and put in
front of a
firing squad-only to be given a reprieve at the last moment and
sentenced to
four years of exile in a Siberian prison camp.
The author's years in
chains
deepened and darkened his view of the human condition and inspired his
creation
of Raskolnikov, the impoverished former student whose love of
idealistic
concepts outpaces his love for the messy realities of human life and
leads him
to justify his murders as an expression of his self-declared
superiority over
the common man. In Raskolnikov, Dostoyevsky traced the chilling
trajectory of
the sort of evil that begins with grandiose visions of the superhuman,
only to
end in the death camps of Hitler's Germany, the gulag of Stalin's
Russia and
the horrors of the Great Cultural Revolution of Mao's China. The guilty
young
man is the dark prophet of the 20th century's false gods.
Time: The
100 most influential people who never lived, 100 người ảnh hưởng nhất
chưa hề sống.
GCC đọc Tội
Ác đúng thời mới lớn, quen BHD, khi chờ Em,
trong 1 quán cà
phê túi của Sài Gòn, cùng những tác giả của thời mới lớn như
Sartre, với Buồn Nôn, Camus
với Kẻ Xa Lạ, Faulkner, và
những tác giả Mác xít như Henri
Lefebvre, Lukacs..
Cùng với những
cuộc phiêu lưu của những tác phẩm lớn ở trong tôi, Sài-gòn trở thành
một sân khấu
cho tôi đóng vai những nhân vật-nhà văn. Thành phố thân yêu, một buổi
sáng đẹp
trời bỗng nhường cho một St. Petersbourg thời Dostoievsky với những cầu
thang
âm u, và cậu sinh viên, trong một góc bàn tại một tiệm cà phê Tầu nơi
Ngã Sáu,
một mình đi lại trong giấc mơ vĩ đại, biến đổi thế giới, làm lại loài
người.
|
|