|
April 3, 2014
30.4.2014
(1)
Những kẻ sành
điệu.
Note: Bài dưới đây, đầu
tháng lòi ra. Đúng tháng Tư mới tếu chứ!
Charles
Simic, Poet Laureate, nhà thơ với vòng nguyệt quế, ["nhà thơ nhà nước",
với thế giới CS], đã gọi cảm giác ‘gai gai’ như thế, là "sành điệu"!
Hy sinh đã
đau đớn rồi, hy sinh để góp phần dựng nên cái nhà Mít đàng hoàng, đâu
chẳng thấy,
mà chỉ thấy cỗ máy toàn trị, lại càng đau đớn, và hàng năm tưởng niệm
thì lại vừa
đau lại vừa nhục!
Chúng ta là những kẻ sành điệu về cái sự độc ác!
Connoisseurs
of Cruelty, Những kẻ sành điệu về sự độc ác là tên bài viết của
nhà thơ Simic,
khi điểm một số sách mới ra lò viết về Bosnia trên tờ NYRB, số đề ngày
12 Tháng
Ba, 2009. Trong số đó, có cuốn của Wojciech Tochman, và cái tên của
cuốn sách của
ông miêu tả đúng cái tình trạng gai gai của chúng ta, nhưng ông gọi là,
"Như ăn sỏi, ăn đá: Sống sót Quá khứ Bosnia" [Like Eating a Stone:
Surviving the Past in Bosnia, by Wojciech Tochman, Antonia Lloy-Jones
dịch từ
tiếng Ba Lan, nhà xb Atlas, 141p, $20.00]
Chúng ta
cũng đang sống sót Quá Khứ Cuộc Chiến Thần Kỳ. "Chúng ta" cũng cảm thấy
gai gai,
như ăn sỏi ăn đá, mỗi lần tưởng niệm một liệt sĩ nằm xuống vì nghĩa cả,
như
Dương Thị Xuân Quý, như Đặng Thuỳ Trâm, thí dụ.
Nhưng chắc
chắn đếch có tên sĩ quan Ngụy, là thằng em trai của Gấu, trong số những
kẻ được
vinh danh, tưởng niệm, ở cả hai bên Quốc Cộng!
Gấu đếch cho
phép!
Walter
Benjamin coi Herodote là người kể chuyện đầu tiên của người Hy Lạp, và
một
trong câu chuyện ông kể, là về một vì vua Hy Lạp bị kẻ thù bắt, và làm
nhục bằng
cách bắt nhà vua đứng nhìn cuộc diễu hành của kẻ thắng trận, và trong
số những
tù nhân lũ lượt đi qua, có cô con gái của nhà vua. Dân chúng nhìn thấy
công
chúa bị làm nhục ồ lên khóc, nhưng nhà vua tỉnh bơ, và chỉ bật khóc,
khi thấy
người hầu già trong số những tù nhân. Ngài bật khóc, vò tai, đấm đầu tỏ
ra hết
sức đau lòng.
Walter
Benjamin giải thích, câu chuyện kể chỉ mở ra, bằng chi tiết mới mẻ đó,
nó chỉ
trở nên sống động, đúng vào có cái chi tiết lạ thường đó, thấy con gái
bị làm
nhục, không khóc, mà thấy người hầu bị hành hạ thì bật lên khóc.
Montaigne, qua Benjamin kể
lại, khi được hỏi, trả lời: Khi nỗi đau thật
đầy,
thì chỉ cần một giọt nước là làm tràn ly.
Nhưng, theo Benjamin, người ta có thể
giải thích, nỗi đau công chúa bị làm nhục là nỗi đau riêng, của hoàng
gia. Hay,
nỗi đau tự chứa trong nó, và chỉ bùng ra, vào lúc ‘détente’ [relax].
Nhìn thấy
người hầu già là lúc xả ra, xì ra, của nỗi đau.
*
Gấu này lèm
bèm, lăng ba vi bộ chán chê, chỉ để nói, có lẽ đã đến lúc détente rồi.
Cứ gân cổ
lên hoài, niệt sĩ, niệt sĩ, không có gì quí hơn độc nập tự do, chưa
chán sao?
Ba mươi năm
mới có ngày nay, vui sao nước mắt lại trào. Trào vãi ra rồi, ‘détente’
là… dzừa!
Khi cơn đau
lên đầy, là thuyền đã ra khơi.
Note: Đọc lại
bài cũ, nhờ server đầu tháng lòi ra, cùng lúc, đọc bài sau đây, của 1
trong “Ba
Lan Tam Kiệt”, và bèn “liên tưởng”, thi sĩ BMQ/Orpheus, thay vì tham dự
lễ vinh danh và tưởng niệm cái con mẹ gì đó, bèn làm 1 chuyến ngao du
địa ngục,
tìm phu nhân, nhà văn- liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý/Eurydice, và trở về
lại dương
thế, cùng lúc, khám phá ra 1 thứ thơ mới cho xứ Mít:
Thơ của phản ảnh và bóng đen.
Orpheus comes into the light of day. He with joyful pride that he has
experienced a revelation and discovered new kind of literature, called,
from
now on, the poetry of reflection and darkness.
II
THE GODS OF
THE COPYBOOK HEADINGS
H.E.O
To Kasia
DO WE HAVE
to? asks Eurydice. Hermes smiles, he is silent. As they walk, darkness
parts
before them and immediately closes after them. They pass through
countless
gates.
-Is it necessary?
asks Eurydice. Orpheus is
old, I won't live with him much longer. I have forgotten the herbs I
used for
his throat which was sore from singing. I have forgotten what it is to
get up
at dawn. Or what a man wants when he touches my belly.
-Your memory will
come back, Hermes says,
gently and without conviction.
-You want to
cheer me up, says Eurydice.
The road goes uphill, it is not a road but
an obedient parting of cliffs. Flints smell like dried lightning. The
small
pebbles underfoot have completely forgotten the sea.
-Does he see us?
Eurydice asks with
concern.
With a motion of
his head, Hermes denies
it.
-I see his back.
Always, when I was alive,
I was moved by a man's back; it is helpless. But I don't feel this any
longer.
Tenderness-what is tenderness?
-The joy of
touch, Hermes answers, a kind
of lower ecstasy.
-My fingers are
no longer alive, complains
Eurydice. I couldn't a needle or remove a mote from the eye of someone
I
loved.
One more turn and the descent begins.
Darkness, as if slanted, leaning over another deeper darkness.
-Eurydice, Hermes
says in a low voice, I
will reveal the secret of fate. Orpheus will soon die in suspicious
circumstances. You will be free and take as husband a healthy athlete
with
shoulders like the branches an oak. He will be a young man, without
imagination, wise enough not to desire unattainable things. You can't
imagine
how invigorating it will be after a life with a talented crybaby.
-I think,
Eurydice says quickly, they would
stone me to death rather than permit a second marriage. I will become a
national widow, an advertisement for faithfulness and poetry. They will
put me
on a cliff where I am supposed to mutter inspired prophecies, or
imprison me in
a temple which amounts to the same thing. Then I will die for a second
time.
How does one die a second time? I hope it isn't as painful and
difficult as the
first.
Orpheus hears all
of this through the
pouring darkness. For the first time he admires Eurydice's wisdom. Is
it really
necessary to die in order become an adult?
A basalt
landscape opens before him, as stately as a burnt forest, motionless as
the eye
of a volcano or the inside of thick matter. Azure of night burnt by
nothingness.
I sang dawns
the coronations of the sun
the journey
of colors from morning to evening
but I forgot
about you
eternal
night
Orpheus suddenly turns toward the shadows
of Eurydice and Hermes and shouts in rapture-I've found it! The shadows
disappear. Orpheus comes into the light of day. He bursts with joyful
pride
that he
has experienced a revelation and discovered new kind of literature,
called,
from now on, the poetry of reflection and darkness.
Zbigniew
Herbert: The Collected Prose
1948-1998
Eurydice,
Hermes thầm thì nói, ta sẽ bật mí phần số của mi. Orpheus chẳng mấy
chốc sẽ chết
trong những hoàn cảnh ám muội. Mi sẽ được tự do, và sẽ có 1 ông chồng
khoẻ mạnh,
một lực sĩ vai rộng như cánh phản. Một người đàn ông trẻ, không tưởng
tượng, “liên
tưởng” cái con mẹ gì hết, khôn như 1 tên Bắc Kít, hay tệ lắm, thì cũng
đủ để mà
không ao ước những điều quá tầm tay, đếch sờ tới được. Mi không thể nào
tưởng
tượng ra được cuộc đời sẽ đẹp, sẽ cường tráng, sẽ sướng điên lên như
thế nào,
sau khi vớ phải 1 thằng chồng chỉ biết vòi.
-Chúng sẽ không
cho tôi lấy chồng lần nữa đâu. Chúng sẽ ném đá tôi cho tới chết. Tôi sẽ
trở thành
một góa phụ quốc gia, một “dấu ấn” của trung kiên và thi ca. Chúng sẽ
đẩy tôi tới
mỏm đá, ở đó, tôi sẽ thì thầm những điều tiên tri hứng khởi, hay bỏ tù
tôi, vì một
điều cũng như thế. Và rồi tôi sẽ chết một lần thứ nhì.
Như thế nào, chết
lần thứ nhì? Tôi hy vọng nó không đến nỗi đau đớn và khó khăn như lần
đầu.
Orpheus nghe
tất cả những lời nói đó qua bóng tối dày đặc cứ thế tuôn trào. Lần đầu
tiên,
anh cảm phục sự khôn ngoan, thông thái của Eurydice.
Liệu có cần phải
chết đi để
trở thành một người lớn?
Đường
ra trận
mùa này đẹp lắm
Không
có gì quý hơn Độc lập, Tự do!
Ta
vượt Trường Sơn cùng tiếng gọi Bác Hồ
Ta dấn bước như chính lòng ta gọi
Trăm dốc nghìn đèo không rời đích Tự do
Ta
ca ngợi những buổi bình minh
Mặt trời chân lý chiếu qua tim
Ta
quên Em của Ta,
Đêm Dịu Hiền
Đêm Vĩnh Cửu
Orpheus bất
thình lình quay về phía những cái bóng của Eurydice và Hermes, và sảng
khoái la
lên - Ta kiếm thấy rồi!
Những cái bóng
biến mất.
Orpheus trở
về với ánh sáng ban ngày. Anh bật ra niềm tự hào, hãnh diện, sung
sướng, rằng thì
là mình đã trải qua mặc khải, và đã khám phá ra một thứ văn chương mới,
được gọi
là, kể từ giờ này, thơ của phản chiếu và của bóng đêm
Tuyệt tác thế giới
Cassandra,
nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, được thần Apollo ban cho tài tiên
tri, nhưng
do từ chối tình yêu của Apollo nên bị thần trù eỏ, mi tiên tri, nhưng
đếch ai
tin điều mi tiên tri.
Trong bi kịch Agamemnon
của Aeschylus, Cassandra cảnh cáo đám Mít Miền Nam, đừng rước Yankee
mũi tẹt vô,
đừng đuổi Yankee mũi lõ. Đếch ai nghe. Thế là mất mẹ Miền Nam. Đến lúc
đó, lời
tiên tri mới thành hiện thực!
Hà, hà!
Nhưng ít người
biết số phận của Cassandra, sau khi thành Troy bị mất. Em bị Yankee mũi
tẹt bắt,
hãm hiếp, và trao cho Víp Va Ka, Trùm VC nằm vùng, làm bồ nhí. Nhưng em
bị ám
sát, và thê thảm là, em nhìn thấy trước tất cả những điều này!
Hà, hà!
Văn
hải ngoại, thời còn Mai Thảo
Tuần báo Nghệ Thuật hồi mồ ma VNCH
PXA vs Graham Greene
Russia The Wild East
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
27.3.2014
Thơ Dã Viên
Points
of
Departure
‘A Place in
the Country,’ by W. G. Sebald
Six loosely linked essays
from the author “whose only homeland was on the
page.”
Tác phẩm
mới xb của W.G. Sebald: "Một Chỗ Trong Một Xứ Sở": Sáu tiểu
luận nối kết lỏng lẻo, của một tác giả mà “quê hương chỉ có ở trên
trang giấy”
He wrote in
German, but was a “German writer” in the same way that Alfred Döblin,
Hermann
Broch and Stefan Zweig were “Jewish writers”: tragically and by
accident.
Ông
viết bằng tiếng Đức, nhưng là một “nhà văn Đức”, theo kiểu của
những nhà
văn Alfred Döblin, Hermann Broch and Stefan Zweig là “nhà văn Do Thái”:
bi thảm
và do tai nạn.
The book’s finest essay
concerns its earliest figure, Jean-Jacques
Rousseau. Its opening resembles a Sebald novel, with the author hiking
up the
Schattenrain in September 1965, and glimpsing Île St. Pierre, which,
Sebald
notes, Rousseau had visited in September 1765, after having been forced
out of
Paris with the banning of his books “Émile” and “The Social Contract,”
and
exiled from Geneva in a campaign masterminded by a resentful Voltaire.
Sebald
combines an account of his sojourn with Rousseau’s, and of the
philosopher’s
subsequent travails — getting tossed out of Switzerland, and even his
own
grave: In 1794, Rousseau, dead for 16 years, is exhumed by
revolutionists and
entombed in the Panthéon, in a procession “led by a captain of the
United
States Navy bearing the banner of the stars and stripes and followed by
two
standard-bearers carrying the tricolore and the colors of the Republic
of
Geneva.”
Bài tiểu luận
bảnh nhất thì lèm bèm về một khuôn mặt sớm sủa nhất của cuốn sách, J.J.
Rousseau. Cú mở ra thì giống như của một cuốn tiểu thuyết của Sebald,
với hình ảnh
tác giả leo lên Schattenrain, September 1965, nhìn xuống hòn đảo Île St. Pierre. Như Sebald cho biết,
Rousseau đã
từng thăm viếng nơi này, sau khi bị tống ra khỏi Paris, cùng với việc
sách của ông - “Émile” và “The Social
Contract” - bị biếm, và sau
đó là lưu vong, trong 1 chiến dịch “bỉ ổi”, cầm đầu bởi 1 Voltaire “bực
bội”.
Sebald trộn cuộc viếng thăm của ông, với của Rousseau, và với 1 số tác
phẩm của
vị triết gia Tẩy này, bị truy bức bật ra khỏi Thụy Sĩ, và, bật ra khỏi
ngôi mộ
của chính mình: Vào năm 1794, Rousseau, chết đã được 16 năm, được các
“biệt
kích văn nghệ” mang danh những nhà “cách mạng”, đào ra khỏi mộ, mang
cái xác vô
Điện Chư Thần, trong 1 nghi lễ, dẫn đầu bởi 1 vị Đại Uý Hải Quân Mẽo
[Mẽo nhe -
dám xẩy ra, trong tương lai, biệt kích VC mang xác nhà thơ Mít chôn ở
Mẽo, thí
dụ, về Xứ Mít, như lần đưa vô Văn Miếu, mấy năm trước đây], mang băng
rôn Cờ Sao
Sọc, tiếp theo sau, là cờ tam tài của Tẩy, và cờ CH Geneva!
30.4.2014
Lapham's Revolutions
Hiệu quả
chính của 1 cuộc cách mạng thứ thiệt có lẽ là, nó quét sạch những thứ
con người
rác rưởi, những kẻ không biết cả đến cái chuyện, ao ước mong ước nó ra
làm
sao, và đưa tới tiền phương những con người với sự thèm khát không bao
giờ hết thèm:
Hành động, quyền lực và tất cả những gì mà thế giới phải dâng hiến cho
họ.
The main
effect of a real revolution is perhaps that it sweeps away those who do
not
know how to wish, and bring to the front men with insatiable appetites
for
action, power, and all that the world has to offer.
Eric Hoffer,
1955
[Mất
appétit là mất tất cả! Hà,
hà!]
Đám con cháu cách mạng thì
bao giờ cũng vô ơn, và cách mạng phải biết ơn, nó là như thế.
The children
of the revolution are always ungrateful, and the revolution must be
grateful
that it is so.
Ursula K. Le
Guin, 1983.
Bạn có thể dùng
câu trên, để trả lời nhà văn, cha đẻ ra quái vật Núp, xưa rồi, và mới
đây, Hội
Nhà Thổ, khi ông ta chửi đám Mít trẻ ở trong nuớc là vô cảm cái con mẹ
gì.
Trên
net cũng có 1 em du học người Nhật, viết thư ngỏ gửi Mít trẻ, đất nước
các bạn
thì giầu có mà các bạn thì không ngoan.
Hay như 1 cái thư mà GCC nhận được từ 1
bạn học cũ, khen 1 bài viết của 1 em ở Hà Nội, viết về hiện tượng vô
cảm ở xứ Mít, tuyệt cú mèo!
TV sẽ thu
gom và làm thành 1 trang “vô cảm”.
Theo GCC nhảm
hết.
Cái gốc của vô cảm là hậu quả tất yếu của cuộc chiến Mít, khi Thiên Sứ
biến
thành Quỉ Đỏ.
Tưởng là sẽ có 1 cái nhà Mít to đùng, hoá ra có 1 lũ Bọ.
Có đất nước
nào, dân tộc nào mà đến cả Thượng Đế, trước khi ngủ còn mong, ngủ dậy,
biến
thành…. Mít?
Có thứ trẻ nào, nhỏ máu đầu ngón tay, viết đơn tình nguyện xẻ dọc
Trường Sơn đi kíu nước?
Đâu chỉ vài người,
mà vài thế hệ?
The
French in Indochina
When
the battle's lost and won
Tây mũi lõ ở Đông Dương
Khi
trận đánh thua và thắng
*
Valley of Death: The
Tragedy at Dien Bien Phu That Led America into the Vietnam War.
Thung Lũng Tử Thần: Bi kịch Điện Biên Phủ khiến Mẽo vô nước Mít
By Ted Morgan. Random House; 752 pages; $35. Presidio Press
Cú
này, thật, và cú
đầu độc tù Phú Lợi,
giả, đưa đến cuộc chiến thần thánh chống
Mẽo cứu nước
DBP là
một tiền đồn cô quạnh ở
vùng núi Việt Nam,
một xứ sở thuộc địa của Tây, nơi lính Tẩy đụng độ với Việt Minh, không
phải thứ du kích đói rách mà
là một đội quân được trang bị bằng những vũ khí mới tinh, mới ra lò,
bởi TQ, ngay
vào đầu thập niên 1950. Vào mùa Xuân 1954, khi đám đầu sỏ Đông Tây –
Dulles,
Eden, Molotov, Chu Ân Lai - gặp nhau ở Geneva, để quyết định tương lai
Đông
Dương thuộc Pháp, thì 10 ngàn lính Tẩy dồn thành một cục tại DBP, để
nhử Việt
Minh mò tới quần thảo.
Hầu hết
đám lính không phải
Tẩy chính cống, mà là Algerians, Ma rốc, Phi châu, Việt… gian, cùng với
một dúm
tinh nhuệ Tây nhẩy dù. Còn có bốn tiểu đoàn Lê Dương, sĩ quan Tây,
nhưng binh lính
hầu hết thì là Đức, rất nhiều trong số đó là những kẻ sống sót tại mặt
trận
Nga. Còn có một đàn bướm di động nữa, vừa là bướm vừa là y tá!
*
Bức điện tín
của Phạm Xuân Ẩn, chấm dứt cuộc chiến, hối thúc Bắc Việt đừng lo lắng
chi hết về
cái chuyện Yanke mũi lõ trở lại Việt Nam, nhờ vậy mà BV bỏ ngỏ Miền Bắc
thúc
quân ào ào, thần tốc dượt tông tông Thiệu bỏ chạy có cờ, không kịp mang
theo ấn
tín, cây gậy đả cẩu, và như thế, tất nhiên đâu có thì giờ mang theo 17
tấn
vàng, vậy mà ông mang tiếng cho tới khi me-xừ Oánh lên tiếng, không
phải ổng,
mà là VC chia nhau!
PXA không thể
ngờ, không phải Yankee mũi lõ, mà là Tầu Phù đã chiếm Bắc Bộ Phủ từ hồi
nảo hồi
nào, từ đầu thập niên 1950, rồi!
Bây giờ đọc
mấy anh VC chửi Tẫu như điên, Gấu thấy nực cười. Không có Tẫu, làm sao
có chiến
thắng 30 Tháng Tư, thống nhất đất nước, VC Bắc Kít làm chủ? Khi nó
trang bị anh
bộ đội Cụ Hồ, đến cái lông chim, cũng “made in China”, sao không chống?
Đâu phải Bác
Hồ không cảnh cáo chuyện này: Ta thà ngửi
cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu
cả đời
Cũng PXA, trấn an chủ
Mẽo Time, làm gì có
chuyện đó, trong khi tờ Le Monde
bị Xịa lừa, đi trang
nhất, Mặt
Trận Giải Phóng họp báo ở Tây Ninh, tuyên bố ly khai với Miền Bắc: Sau
1975, quả
có chuyện này, mấy anh VC miệt vườn lập câu lạc bộ, đếch thèm chơi với
Yankee mũi
tẹt nữa!
Tờ TLS
số 19 Tháng Ba, 2010,
trong bài đọc những lá thư của Sylva Beach, The Letters of Sylvia Beach,
Columbia University Press, một nữ thi sĩ,
và là chủ nhân một tiệm sách, còn là nhà xb, tuy bé con, nhưng hết sức
nổi tiếng Shakespeare and Company, đã từng xb
cuốn sách mang đến đủ thứ chuyện bực mình, và danh vọng cho chủ nhân,
tác phẩm Ulysses của James
Joyce.
Khi Nazi chiếm đóng Paris, bà nhất quyết
bám trụ, bà gốc Mẽo, và một bữa có một viên sĩ quan cao cấp Đức ghé
tiệm, nói
tiếng Anh như gió, speaking perfect English, hỏi mua cuốn Finnegans Wake, của
Joyce, bản độc nhất bầy trên cửa kính. Beach nói, sách bầy nhưng không
bán, và sau đó, lấy nó ra khỏi quầy.
Chừng hai tuần sau, viên sĩ
quan trở lại.
-Cuốn sách đâu?
-Tôi bỏ nó đi rồi.
Điên lên vì giận, viên sĩ quan nói,
ta sẽ cho người tịch thu hết của cải, sách báo của mi, nội trong ngày
hôm nay.
Vài giờ sau, bà cho đóng thùng
sách báo, bỏ biển tên tiệm, tên chủ tiệm. Người Đức không lấy được
cuốn sách, nhưng
bỏ tù được chủ tiệm. Beach trải qua 6 tháng trong trại tù ở Vittel,
chung với đám
Do Thái đang chờ tống đi Lò Thiêu.
Bà kể chuyện Hemingway giải phóng Paris, con phố
Odéon nơi có
tiệm sách của bà, và vị anh hùng Chuông
nguyện hồn ai nhảy ra khỏi chiếc xe Jeep
cùng những đệ tử, leo lên mái nhà, truy diệt mấy tên bắn sẻ Đức
Sylvia Beach được coi là bà mụ
của chủ nghĩa Hiện đại.
As for
me, I prefer to
smell French shit for five years, rather than Chinese shit for the rest
of my
life.
Ta thà ngửi
cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu
cả đời
Di chúc
Bác Hồ
Don't you realize what it means if the
Chinese stay?
... The last time the Chinese came, they stayed one thousand years!
The French are foreigners . . . Colonialism is dying
out. Nothing will be able to withstand world pressure for
independence. They may stay for a while, but they will have to go
because the
white man is finished in Asia. But if
the
Chinese stay now, they will never leave.
As for me, I prefer to smell French shit for five
years, rather than Chinese shit for the rest of my life.
Tháng
Ba, 1946, năm năm trước khi Greene tới Việt Nam,
Ho [HCM]
ký hòa ước với Tây, thừa nhận, sự ra đi của họ để lại một khoảng trống.
Viễn
ảnh một Việt Nam
độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, do Tây nhử, làm Ho khoái. Ông chửi
đám bộ hạ
phò Tầu:
Mấy bồ có hiểu nghĩa là gì, chuyện đám Tầu ở lại? Lần
chót tụi nó ở một ngàn năm! Tây dù sao cũng mũi lõ, họ có thể ở một
thời gian,
và rồi sẽ cút, vì tụi da trắng hết thời ở Á Châu rồi. Ta thà ngửi cứt
Tây năm
năm còn hơn ngửi cứt Tầu cả đời!
Norman
Sherry: Tiểu sử Greene,
chương 24: Bonjour
Vietnam [Sherry trích câu này từ Hồ Sơ Ngũ Giác Đài, The Pentagon
Papers, Senator Gravel Edition, vol 1, Beacon Press, 1979,
trang 49-50]
Cái
đoạn gạch đít trên, được Tô Hoài, diễn tả, trong
Bút Ký, qua những lời tố cáo Việt Minh bắt tay với Tây, của một nhân
vật Hà Nội
của ông, trong không khí thủ đô tưng bừng, hăm hở vô Nam:
Chúng
ta còn ở Hà Nội làm gì? Để đến khi họ chiến thắng
trở về thì chúng ta được góp vào cái đuôi người , chảy đi xem duyệt
binh chăng?
Không Hà nội không ai nghĩ như thế. Đời đương lên và
đẹp vô cùng đẹp. Chiều nay, gã bạn hoạ sĩ gác trên đã nhờ người đi hỏi
han hộ
xem ở “trong ấy” có cần người vẽ thì đễ gã vào.
Hà Nội bây giờ thế cả. Cái quê yêu quí nhất của người
ta bây giờ là ở đâu trong đất nước có kẻ dám phá cuộc cách mạng. Buổi
chiều
cuối năm này, chúng tôi nhớ Nam
bộ, cái quê một lúc, cái quê muôn đời đương rừng rực máu. Chúng ta và
các anh.
Gã đi rồi.
*
Bố có một mơ ước. Mơ ước này
tôi nghe thường
xuyên trong những bữa cơm tối lúc tôi còn nhỏ, khi bố còn làm ở công ty
điện
lực Hà Nội. Mà không, tôi đã nghe nó từ trước đó, suốt những năm tôi
còn nằm
cũi và bố mới ở chiến trường miền Nam về. Sau gần một năm nằm
dưỡng thương
ở chiến trường Nam Lào toàn rừng khộp và nắng, bố hành quân ghép với
các đơn vị
khác vào đến Đà Lạt; lần đầu tiên bố nhìn thấy những đồi thông xanh và
những
thung lũng đầy hoa. Bố bảo khi nào để dành được nhiều tiền, bố sẽ vào
Đà Lạt
mua một miếng đất, xây một cái nhà nhỏ và làm trang trại trồng rau
xanh. Khí
hậu Đà Lạt tốt, bệnh xoang và khớp bắt nguồn từ những năm nằm rừng của
bố có
thể không cần chữa cũng sẽ tự khỏi.
Hơn 20 năm
qua, lúc nào bố cũng chỉ có một
mơ ước như thế. Bây giờ, cái ước mơ ấy dồn cả vào gốc đậu ván bố trồng
ở hiên sau.
Cây đậu ván leo từ tầng một lên sân thượng; hoa đậu ván nở suốt mùa
đông, tím
ngắt cả ba tầng nhà. Hôm tôi mới về, bố cầm rổ cho tôi và Tu Ti nhặt
những quả
đậu ván già trên sân thượng để luộc. Bố lại nói bố muốn có một trang
trại trong
miền Nam – không cần Đà Lạt vì đất Đà Lạt bây giờ đắt quá, chỉ cần chỗ
nào đó ở
đồng bằng sông Cửu Long, rẻ thôi, miễn là ấm áp. Chỉ cần vào đó trồng
trọt thì
tự khắc bệnh xoang, rồi bệnh khớp, rồi bệnh tiền đình sẽ khỏi hẳn. Có
thể bố sẽ
lại nghe lại được.
Bố ạ, con tốt
nghiệp đi làm bên đó, con sẽ
để giành tiền cho bố mua đất trong Nam.
Phan
Việt: Những ngày ở Việt Nam.
*
Gấu
đọc Tô Hoài rất sớm, và giấc mộng, sẽ có
ngày tới được nước Nam Kỳ, là do đọc ông mà có.
Khi còn ở xứ Bắc, mỗi lần đói, mỗi lần rét, mỗi lần ăn miếng ăn, ăn
thêm một
câu nói, là giấc mơ sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ lại trỗi dậy.
Cho tới khi tới được nước Nam
Kỳ.
Tưởng thỏa mãn, mà thoả mãn thực, nhưng, oái oăm thay, một nước Nam Kỳ
khác
xuất hiện!
Lúc thì ở nơi BHD, và cái nước Nam Kỳ lần này, khốn nạn thay, lại chính
là cái
xứ Bắc Kỳ mà Gấu đã bỏ chạy!
*
Cũng
vẫn giấc mơ đó, hiện giờ,
ở những người con dân xứ Mít, tìm đủ mọi cách chạy trốn đất nước, dù có
phải
bán mình cho Mafia Đỏ.
Interview: Gao
Xingjian
V/v viết như là một cách để
kiếm sống
Trông vào viết để có miếng ăn
ư? Tôi nghĩ, tốt nhất, nên bỏ cái ý nghĩ đó đi. Đây là kinh nghiệm của
riêng tôi.
Lý do tôi viết – ‘văn chương lạnh’ – tôi gọi như vậy - bởi vì nó không
liên
quan tới thị trường. Đây là một yêu cầu nội tại. Chỉ khi nào bị thúc
bách thì tôi
mới cầm lên cây viết. Không phải để bán sách. Có thị trường sách, và
chúng ta
không chống đối chuyện khuyến mãi sách, bởi vì có thứ văn hóa tiêu thụ.
Nhưng
chúng ta đừng lẫn lộn hai thứ đó. Nhà văn phải thật là rạch ròi về
đường ranh
giữa sự tiêu thụ văn hóa, cultural consumption, và văn chương nghiêm
túc. Liệu
anh ta viết cho sự tiêu thụ của người khác hay là viết cho chính anh
ta? Theo cái
nhìn của tôi, văn chương nghiêm túc được viết dính cứng vào với mình,
serious
literary writing is inherent written for oneself. Chính là vì viết cho
chính mình
như thế mà chúng ta mới đạt tới được cái chân thực của cuộc đời, và nhờ
đó mà có
một cái gì có giá trị để mà cống hiến cho độc giả. Cũng vậy, là với
những từ,
những con chữ. Khi độc giả đọc chúng, họ cũng có thể kinh nghiệm chúng.
Điều này
“chuyển hóa” người đánh dấu, [This ‘transcends’ the marker]. Descartes nói, “Tôi suy tư vậy tôi hiện hữu”.
Với nhà văn, điều này không có nghĩa, “Tôi trình bầy chính tôi, vậy tôi
hiện hữu
[‘I express myself therefore I am']," nhưng mà là, “Tôi viết, vậy tôi
hiện hữu”.
Bằng viết, anh ta không còn sống trong mù lòa, ngớ ngẩn, mà trong sự
sáng suốt
của tâm hồn. Tự thân, kinh nghiệm tự hiểu mình và xác nhận giá trị
những gì
viết ra - xẩy ra trong khi viết – thì cũng là khẳng định giá trị của
nhà văn và
điều này đủ là một phần thưởng rồi.
Văn
hải ngoại, thời còn Mai Thảo
V/v Mai Thảo
viết về NDT
Có vài chi
tiết sai. Vì NDT còn sống, GCC viết ra đây những gì Gấu biết, nếu cần
anh còn
có thể đính chính.
NDT làm cho
DPT/Sài Gòn như 1 freelance, như “từ” bây giờ gọi. Có thể anh là nhân
viên khế
ước. Gấu chẳng bao giờ hỏi, nhưng đoán thế. Không thể có chuyện biệt
phái.
Chứng cớ là có lần anh bị Quân Cảnh tó vì trốn động viên, đưa vô Trung
Tâm
Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, ở Quang Trung. GCC
có lên thăm anh những ngày anh nằm ở đây, có lần đi cùng với Võ Đại
Tôn, cũng bạn
NDT. Sau đó, nhờ Nguyễn Mạnh Côn can thiệp, anh được tha, nhưng phải về
làm tờ “Hoa
Tình Thương”, do mấy bà Tuớng Tá đứng làm chủ xị, để thổi hứng chiến
đấu chống
VC vào quân đội VNCH. Gấu nhớ là có lần cũng đóng góp bài.
Vào lúc anh bị bắt, Gấu có
hơi ngạc nhiên, hỏi bà xã của anh, khi anh
vừa bị bắt và
còn nằm
ở đồn Quân Cảnh, bị bắt hả, đi lính thì đi lính chứ sợ gì, thì cũng vô
Thủ Đức,
rồi ra trường làm 1 tên sĩ quan VNCH, bảnh tỏng, có gì đâu mà sợ. Bà
bật cười,
chồng tui đâu có tí bằng cấp nào như anh mà đi trường sĩ quan Thủ Đức!
Viết lại ở
đây, là vì bà xã anh rất quí Gấu, trong số bè bạn của anh. Sau xẩy
chuyện, là
do chuyện khác.
Lỗi về phần gia đình của GCC, nhưng hai bên hết còn liên lạc.
NDT viết trước
đám HPA, NQT, NDD, DPQ. Anh đã nổi tiếng, và là 1 trong những người
chọn bài
cho tờ Văn. Khi HPA học sư phạm Đà Lạt, ra trường,
về Sài Gòn, chính GCC giới thiệu anh với NDT, và từ đó, anh viết cho Văn.
Anh chẳng hề có ý làm mới tiểu thuyết,
theo kiểu "tiểu thuyết mới" của Tẩy. Thành ra không hề có cái chuyện,
trong đám
tiểu thuyết mới, anh bảnh nhất, như MT phán.
Nói cho rõ,
chứ chẳng hề có tí đôi co.
Hà, hà!
NDT gặp MT
là mày tao, còn Gấu, đâu dám, vì ông là bạn của TTT, anh của Gấu, vì
Gấu chơi với
ông em của TTT.
Cách viết của đám có tên chung là tiểu thuyết mới Mít, khác hẳn
nhau, đó là điều giống đám tiểu thuyết mới Tẩy. Có chung bảng hiệu mà
chẳng ai
viết giống ai. NDT viết văn ẻo lả, nhẹ nhàng, hình như có lần Gấu nghe
MT khen,
như những giọt mưa gặp gió nhẹ, bay nghiêng nghiêng.
Gấu đâu viết thứ văn đó.
HPA lại càng không.
Cái vụ MT
không ưa Gấu là có thể, ông biết, Gấu không đọc được ông!
Có đọc, khi
còn đi học, Quá mê Chúc Thư Đỉnh Trời, như mê Dòng Sông
Định Mệnh
của DQS.
Đúng khi đọc được văn Tây, của, thí dụ Camus, Sartre, là bèn hết mê!
Một
phần là do khiếu thưởng ngoạn thay đổi, một phần do thách đố, cho chính
mình, phải làm
sao cắt
nghĩa được cuộc chiến. Bởi thế mà đọc Lukacs, vưỡn thí dụ.
V/v bằng cấp.
Gấu chỉ có cái Tú tài 2. Toán nhe. Đậu xong Tú Tài là đói rã cổ họng.
Gấu xin ý
kiến ông anh, ông phán, nhà nghèo, học tới đó được rồi, kiếm cái gì
làm, vừa
làm vừa học. Gấu bèn nộp đơn thi vô Bưu Điện, đúng lúc đó, vừa mới
thành lập. Gấu
học trước đám bạn bè như HPA, NDD, NXH, Thầy Đạo, Thầy Quân. Họ học,
khi có cái
gọi là động viên, rớt là đi lính. Chính vì thế, anh nào cũng học Triết,
thứ dễ
nhất. Đó là sự thực. Gấu ra trường, học hàm thụ, lấy cái chứng chỉ Dự
Bị Triết,
tính chơi cái cử nhân, dễ ợt, cứ cua Thầy sao, trả bài Thầy, là đậu.
Nhưng vô
chứng chỉ Triết Tây, gặp ngay NVT, bèn trở lui. Đó cũng là sự thực. Ông
này, đi
đâu cũng "thằng đó học tui". Nghe quê 1 cục. Bèn bye Văn Khoa. Vả
chăng cái bằng Bưu Điện của Gấu có giá hơn cử nhân Triết nhiều. Nó cần
đủ thứ
tri thức, chưa kể thực hành. Khác hẳn những thứ bằng khác, chỉ có phần
tri, mà
không có phần hành.
Mấy ông bạn của Gấu, đậu xong, ra trường xong đi dậy học, có ông nào
cầm đến cuốn
sách triết nữa đâu. Nếu có cầm thì cũng để “ta đây, thầy triết”. Trong
khi Gấu
đọc, 1 thứ triết khác, nhờ thế sau này, vẫn tiếp tục đọc, viết được.
Nếu không học Bưu Điện, là chẳng thể nào quen Cao Bồi, thí dụ. Chẳng hề
biết gì
về cuộc chiến cả.
Làn Sóng Mới
& Tiểu Thuyết Mới
Sau “Hiroshima Tình Tôi”,
Alain Resnais chuyển thể tiểu thuyết của Duras, bọn chúng ta,
những tiểu thuyết gia khác, phải làm gì?
Paris Match 6
& 12 Mars 2014
PXA vs Graham Greene
“An’s story
strikes me as something right out of Graham Greene,” said David
Halberstam, who
was friends with An when he was a New
York Times reporter in Vietnam. “It broaches all the fundamental
questions.
What is loyalty? What is patriotism? What is the truth? Who are you
when you’re
telling these truths? There was an ambivalence to An that’s almost
impossible
for us to imagine. In looking back, I see he was a man split right down
the
middle.”
Nguồn: Blog Du
mục Da vàng
Đây là cách
nhìn của tụi ký giả Mỹ, khi nhìn PXA: Qua Greene.
Bởi là vì mấy anh này, anh
nào cũng
muốn có 1 Người Mỹ Trầm Lặng,
riêng cho mình.
Với Ẩn không hề
có cái chuyện nứt ra làm đôi, ở ngay giữa, như thế.
Nếu có, là anh đã bỏ chạy về
phía những kẻ bại trận, là 1 Miền Nam, trong có lũ Ngụy rồi.
Suốt đời, Ẩn có
bao giờ ân hận như Víp Va Ka, thí dụ, qua câu than, 1 triệu người vui,
1 triệu
người buồn?
Luôn nói sự thực? Một điệp
viên thứ thực, làm sao nói sự thực? Time, trong bài
viết ai điếu Ẩn, đã giải
thích ý nghĩa của từ “sự thực”, trong trường hợp Ẩn: anh ta không thả
vịt cồ. Không phao tin nhảm.
Cái sự kiện
xẻ làm đôi, ngay ở giữa đó, là con quỉ của tên gián điệp, như Steiner,
trong bài
viết “Điệp Viên của Chúa”, “God’s Spies” vinh danh Greene, khi đọc The Human
Factor:
“Incipient duality is the
agent’s demon”
[Tính cách nhị phân mới chớm -
một thứ ung thư mới chớm - là con quỉ của tên điệp viên].
Malraux cũng nhận ra
chân lý này, với 1 tiểu thuyết gia.
TTT mê Malraux, bèn chôm
luôn, ra cái tít "Nỗi
Chết Không Rời", tên 1 bài viết của ông, sau bị TPG, hay Thế Uyên,
chôm, như trong thư viết cho "đảo xa" cho biết, và trích câu của
Malraux, để vinh danh Thầy, và cũng để cho biết
nguồn:
…. như cục ung thư, sống với nỗi chết âm ấm ở trong lòng bàn
tay,... comme
un cancer, vivre avec cette tièdeur de mort dans la main.
Ẩn đâu phải
tiểu thuyết gia. Ông làm điệp viên như tên Mít gốc Bắc Kít, ái quốc,
mong muốn đuổi
thực dân Pháp, rồi Mỹ, thống nhất đất nước, qui về 1 mối, có gì mà phân
đôi?
Nếu
ông có căn bịnh ung thư đó, thì đã khác rồi.
Bởi thế mà sau 30 Tháng Tư, ông bị
Bắc Kít đem về Bắc, cho đi cải tạo.
Chúng sợ ông bị căn bịnh ung thư này!
Hà, hà!
Nhưng, phải
là Brodsky, khi vinh danh Kinh Cầu, mới
nói hết ý về cái sự xẻ ra làm đôi này:
Nó là con vai rớt, phân biệt
con người bình
thường, với 1 nhà văn.
Một con người bình thường, khi gặp thảm họa, là chịu đựng,
là đau khổ…
Nhà văn, khác. Nó cũng chịu đựng như bất cứ con người, nhưng hở 1 tí,
là bèn cố né qua 1 bên, để quan sát và khi có dịp là bèn viết, là bèn
mần thơ!
Brodsky: Với tôi, tính
kinh điển, thực tại thực, the main
thing, của Kinh Cầu [thơ Akhmatova],
là đề tài về sự xẻ đôi, về sự bất lực của nhà thơ không có được một
phản ứng
toàn vẹn [trước thực tại]. Akhmatova mô tả những kinh hồn thất đảm,
những ghê
rợn của Đại Khủng Bố của Stalin. Nhưng cùng một lúc, bà nói hoài hoài
về cái
tâm trạng mấp mé biến thành khùng của mình....
Brodsky. For me the main
thing in Requiem is the theme
of splitting, the theme
of the authors inability to have an adequate reaction. Akhmatova
describes in
Requiem all the horrors of Stalin's "great terror," but at the same
time she is constantly talking about how close she is to madness. Do
you
remember?
Already
madness dips its wing
And casts a shade across my heart,
And pours for me a fiery wine
Luring me to the valley dark.
I realize
that to this madness
The victory I must yield,
Listening closely to my own
Delirium, however strange.
Khùng điên dang rộng cánh
Trải dài bóng qua trái tim tôi
Đổ rượu nồng cho tôi
Lùa tôi xuống thung lũng tối
Tôi nhận ra, đối với điên
khùng này,
Là chiến thắng mà tôi phải trao nhường cho nó.
Trong khi lắng nghe, thật cận kề,
Cơn hoảng loạn của chính mình
Mới lạ lùng làm sao!
Khổ thơ sau có lẽ là tuyệt
vời nhất của tất cả Kinh Cầu.
Hai dòng chót nói sự
thực lớn lao nhất. Akhmatova diễn tả tâm trạng của thi sĩ, khi nhìn
mọi chuyện
xẩy ra cho bà, như thể, bà đứng qua một bên, Với nhà thơ, sự kiện, viết
ra,
cũng quan trọng như, sự kiện, diễn tả nó: Nhà thơ bắt đầu trù ẻo mình:
Anh là
thằng điên khùng. Mi là một thứ quái vật chi, tại sao mi thản nhiên
nhìn những
sự ghê rợn như thế diễn ra trước mặt, như thể nó chẳng liên quan mắc
mớ gì tới
mi?
Volkov: Chuyện trò với Brodsky (1)
PXA hẳn là biết
trước số phận của ông, và của cuốn viết về ông, của Bass. Địa ngục chật
cứng lũ
VC loi nhoi, với đủ thứ tội, đâu có chỗ cho ông, như chính ông nói với
Bass.
Chúng không ưa tôi, nhưng tôi không làm gì để chúng khép tội, làm
thịt
tôi. Cũng vẫn ông nói.
Số phận Võ tướng quân đâu có khác. Tên y tá dạo
sợ còn
không biết Ẩn là ai nữa. Trong khi đó, người dân Miền Nam không bỏ 1
ai, đó là
điều chúng ta ngày càng tự hào, hãnh diện, như 1 đền bù tinh thần, cho
những
đau thương, tổn thất cùng với những ngày 30 Tháng Tư sắp tới.
Russia The Wild East
Đi tìm phê
bình gia Mít
Ukraine
Trong bài viết
“Phát Xít, Nga và Ukraine”, Snyder nói ra cái điều mà GCC lèm bèm hoài,
chính
Cái Ác Á Châu đã làm cho nhân dân của nó hướng về Âu Châu, được coi như
thiên
đàng đếch có Cái Ác Á Châu. Trong ao ước gia nhập Liên Minh Âu Châu của
nhân
dân Ukraine, có giấc mơ đó, và chính nó, mới là giấc mơ ra khỏi luỹ tre
làng,
khi đám trẻ Bắc Kít xẻ dọc Trường Sơn kíu nước.
Có hai thế lực đối đầu
nhau tại
Ukraine: Liên Minh Á(c) Châu, và Liên Minh Âu Châu:
The future
of this protest movement will be decided by Ukrainians. And yet it
began with
the hope that Ukraine could one day join the European Union, an
aspiration that
for many Ukrainians means something like the rule of law, the absence
of fear,
the end of corruption, the social welfare state, and free markets
without
intimidation from syndicates controlled by the president.
The course
of the protest has very much been influenced by the presence of a rival
project, based in Moscow, called the Eurasian Union.
Đây là 1 bài
viết tuyệt vời - trên NYRB, TV bèn bệ về, sợ tờ báo không cho đọc free
- lạ làm
sao, đúng y chang “bước đi lịch sử” của trang Tin Văn, hà, hà: Vạch rõ
ra Cái
Ác Bắc Kít mới là nguồn cơn của cuộc chiến Mít!
Bài của Anne
Applebaum, cái tít, là cũng nói ý đó: Russia Will Never Be Like Us
We’ve spent
20 years trying to make it a Western country. Bad idea.
Bài này được
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch, đăng trên Blog SCN:
Nga sẽ chẳng
bao giờ giống chúng ta
Chúng
ta mất
20 năm gắng biến Nga thành một nước phương Tây. Vô ích.
Từ “bad idea”, dịch là “vô
ích”, tuyệt.
Làm bật ra câu thật xưa,
“Đông là Đông, Tây là Tây”, mà đến bây giờ Gấu mới hiểu,
hai bên khác nhau chỉ vì 1 chữ Ác.
Theo
Tolstaya, chính cái phần dã man của Á Châu, được trục lên, từ những
tầng sâu
hoang vắng của lịch sử miền đất này, và được sử dụng như những chuồi,
những rễ,
thành phần nồng cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đây là Con Quỉ Á Châu,
so với
Con Quỉ Âu Châu, là Hitler và đám Nazi.
Nơi người chết
mỉm cười
Tatyana
Tolstaya, trong một bài người viết tình cờ đọc đã lâu, khi còn ở Trại
Cấm, và
chỉ được đọc qua bản dịch, Những Thời Ăn Thịt Người (đăng trên tờ Thế
Kỷ 21),
cho rằng, chủ nghĩa Cộng-sản không phải từ trên trời rớt xuống, cái tư
duy
chuyên chế không phải do Xô-viết bịa đặt ra, mà đã nhô lên từ những
tầng sâu
hoang vắng của lịch sử Nga. Người dân Nga, dưới thời Ivan Bạo Chúa, đã
từng bảo
nhau, người Nga không ăn, mà ăn thịt lẫn nhau. Chính cái phần Á-châu
man rợ đó
đã được đưa lên làm giai cấp nồng cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bà
khẳng định,
nếu không có sự yểm trợ của nhân dân Nga, chế độ Stalin không thể sống
dai như
thế. Pushkin đã từng van vái: Lạy Trời đừng bao giờ phải chứng kiến một
cuộc
cách mạng Nga!
Bây giờ đọc
lại Phan Khôi, liệu chúng ta có thể hiểu ông nhiều hơn, khi không giản
lược câu
chuyện ông kể, về Cỏ Cụ Hồ, chỉ là một cách xả xú báp của một vị thâm
nho, trước
chế độ độc tài, theo suy nghĩ châm biếm, hài hước là khí giới của kẻ
yếu thế.
Trong Nhân Văn Giai Phẩm, ông kể chuyện Điện Biên, và sự xuất hiện một
thứ cỏ tại
vùng này. Cỏ nở hoa, "không thể ngửi được". Người Miền Bắc gọi là hoa
cứt lợn (heo). Nhưng người dân Điện Biên vì thấy cỏ xuất hiện cùng lúc
với quân
đội Cộng Sản, nên gọi là Cỏ Cụ Hồ.
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
|
|