|
Một buổi xế
trưa cộng hòa
Một người đàn
ông gõ cửa với những ngón tay buồn
Một người đàn
ông đi bộ với cái đầu nặng một gánh nặng
Một người đàn ông thở dài, tay cầm 1 con chim mynah
Một người đàn
ông đau khổ, run rẩy, từ đầu đến ngón chân
Thì kệ cha hắn
Kẻ cảm ra rằng
thì là,
Thở dài 1 phát
mới sướng làm sao
Có gì ở đó, để hy vọng?
Để giải thích?
Hay để ăn năn, sám hối, rũ tội?
Nhìn hay quên
lãng sẽ gấp lại
Âu lo xốn xang
sẽ giấu và hé lộ
Im lặng mai
phục trong bí mật
Lá xoáy trên
không, một điều bí ẩn
Coi lại cái đầu
của mi đi
Kệ mẹ thằng
chả gõ cửa,
Đi bộ
Thở dài
Đau khổ
Mi cứ ngồi đó,
im như thóc, 1 cục
Trong những
bài thơ kế tiếp nhau mới đây nhất – như “Cuốn sách Tây Tạng”, “Quà
Tặng” và Ghi
chú từ thời Late Qing” – trong đó, chúng được lắp ghép theo kiểu lưỡng
thê [tạm dịch
từ “hybridize”] văn xuôi và thơ vần, cũng như nhiều giọng khác nhau,
những tính
nhạc [musicalities] những dòng tự sự, ông sử dụng những bảng đăng ký
ngôn ngữ
thay đổi [various linguistic registers]. Như thế nào, bằng cách nào,
ông làm quen [relate] với 1 cấu trúc thơ đa tầng, những đáp ứng về mặt
cảm xúc, và
sự diễn tả của nó?
Bai Hua:
Khi còn trẻ
tôi đã mò tới cái ý tưởng thơ “dệt văn xuôi với thơ vần”, nghĩa là,
“tất cả
lẹo tẹo [mingle] thành một”, trộn tất cả những thể, giống, loại ngôn
ngữ vào trong 1 cái lò cừ. Khi bắt đầu viết “An Immortal Companion to
Watercolor” và “Historical
Annals,” tôi khởi sự kiếm ra những cách, những đường hướng để cho giao
hợp cả 1
lô, nào tiểu thuyết nào văn xuôi, nào kịch, và ngay cả thứ báo chí có
tí ti thơ, và hoàn tất cái bản văn liên văn bản này,
với tài năng, mánh mung [skill] và sự ung dung tự tại [ease].
Lẽ tất nhiên cú này
đếch phải do tôi nghĩ ra, những kỹ thuật như thế không "din",
original. Những thử nghiệm với âm thanh, sound, tiếng nói, voice, và sự
hiện diện, presence, định nghĩa
nhiều, thi học đương thời và tiền phong.
Như thế nào tôi làm được cái cú “lò
cừ” này tôi cũng chẳng biết. Tôi làm, như thế đó, với chút cảm quan
chung, và để
mặc cho kỹ thuật, ở cái thế thượng phong nhất của nó, nhập cuộc.
Fiona Sze-Lorrain:
In your most recent
sequenced poems -
such as "The Book of Tibet," "Gift" and "Notes from
the Late Qing'; - that hybridize prose with verse, as well as different
voices,
musicalities and narratives, you employ various linguistic registers.
How do
you relate to such a multi-layered poetic structure, its emotional
responses
and interpretation?
Bai Hua:
When I was
young, I had already come up with this poetic ideal of "weaving prose
with
poetry," that is, "all mingled in one," mingling all linguistic genres
into one melting pot. When I began to write "An Immortal Companion to
Watercolor" and "Historical Annals," I started to find ways to
hybridize the novel, prose, theatre, and even journalism with poetry,
and to achieve
this intertextuality with skill and ease. Of course, such techniques
are not
original. Experiments with sound, voice and presence define much of
contemporary and avant-garde poetics. As to how I would blend all of
these
voices into a melting pot, I, too, don't quite know. I just do so with
a little
common sense, and let the technique function as it best can.
Do you see a poem as an
experience or
as an act?
One can't
be
separated from the other. "Poetry is experience" - this is a
universally-known
dictum from the German poet, Rilke. Even Nabokov who detested Rilke,
also said,
"Poetry is a distant past." But poetry must also be an act - in a
modern sense, and even more so in a post-modern context. If I must
choose
between the two of them, an old poet like me would go for the former.
The One Who
Disappeared
By Charles
Simic
Now that
it’s warm to sit on the porch at night
Someone
happened to remember a neighbor,
Though it had been more than thirty years
Since she went for a little walk after dinner
And never came back to her husband and
children.
No one present could recall much about her,
Except how she’d smile and grow thoughtful
All of a sudden and would not say what about,
When asked, as if she already carried a
secret,
Or was heartbroken that she didn’t have one.
Note: Bài thơ
này, Gấu nhớ là đã chôm, và đã dịch trên TV rồi, nhưng không làm sao
kiếm ra bản
tiếng Mít, chán thế!
Post lại, để mò sau, hà hà!
Trong số báo
có bài thơ, Gấu tình cờ cầm lên, trong khi dọn dẹp mớ sách báo, còn
bài viết,
về cựu binh tìm ra giọng của mình, về thứ văn học chiến tranh, viết bởi
chính
những kẻ cầm súng. Gấu đọc lại số báo là vì bài viết này. Tác giả là
George
Packer. Ông phát giác, cái tinh thần hiện đại của văn học - chủ yếu là
tiếu
lâm, cà chớn, hài, irony, Kundera cũng chỉ ra điều này, trong Những Di
Chúc Bị
Phản Bội - là do những kẻ đếch cầm súng phịa ra:
"Every
war is ironic because every war is worse than expected," Paul Fussell
wrote in 'The Great War and Modern Memory," his classic study of the
English
literature of the First World War. "But the Great War was more ironic
than
any before or since." The ancient verities of honor and glory were
still
standing in 1914 when England's soldier-poets marched off to fight in
France.
Those young men became modem through the experience of trench warfare,
if not
in the forms they used to describe it. It was Yeats, Pound, Eliot, Joyce,
and
Lawrence who invented literary modernism while sitting out the war.
Robert
Graves, Siegfried Sassoon, Edmund Blunden, Isaac Rosenberg, and Wilfred
Owen-who all fought in the trenches and, in the last two cases, died
there-remained tied to the conventions of the nineteenth century while
trying
to convey the unprecedented horror of industrial warfare, a condition
of existence
so murderous and absurd that a romantic or heroic attitude became
impossible.
The essence of modern understanding is irony, Fussell argued, and it
was born
on the Western Front.
Bài viết này, tuyệt lắm. The essence of modern
understanding is irony, Fussell argued, and it
was born
on the Western Front: Cái yếu tính của sự hiểu
biết hiện đại là... cà chớn!
Gửi Osip Mandelstam
Những người sống trong
khùng điên
Họ còn sợ chi?
Sợ sự thuần khiết của trần truồng?
Không, sợ tiếng động
Cái tiếng động đá văng suy tư
Nhà thơ trong giấc mộng tôi
Xuyên qua phương bắc nặng nề
Xuyên qua ấu thơ với ảo giác yếu đuối
Người đã buộc lòng đi đến cõi nhân gian
Hôm nay, một ngày tôi nhẫn
chịu sự kỳ cục của ông
Hôm nay, một ngày tôi nhẫn chịu sự ngây thơ của ông
Hôm nay, tôi làm nổi trội bi kịch của ông
Im lặng đang chỉ rõ
Áng thơ đang đập nhịp, đang tiếc thương
Lưỡi rảnh rang nhuộm lên ngôn từ
Đây cũng là một ngày nào đó trong trí nhớ tôi
Trâu bò đã ngưng cày bừa
Lưỡi hái đã từ bỏ mạng vong
Gió đang cưỡng lại hơi thở
A, lạnh lẽo, mi đang tranh thủ vận chuyển mùa đông
Moscow hồi hộp
Mi siết chặt cây đại phong cầm động lòng người
Chào đón đầy trời hoa tuyết, ngẩng đầu chờ trông
Kìa, coi, nhà thơ đến rồi
Một vong hồn đáng khóc
thương nhất trong đám thi sĩ chúng ta
Ông đang bước tới phía tôi
Tôi bắt đầu thuộc về nơi
này
Tôi bắt đầu chui vô hình hài ông
Phối dựng lại thiên đường tàn khốc của ông
Tôi, một đứa trẻ không lớn nổi của xứ sở khác
Trước tất cả điều này
Những người bên đường chỉ có thể càng lẻ loi hơn.
Bai Hua
Bản của Dã Viên, từ nguyên
tác
Là gì, kẻ sống trong nỗi
sợ khùng điên?
Sự trinh khiết của một xác thân trần trụi?
Không! Những tiếng nói –
Những tiếng nói thoát khỏi tư tưởng
Nhà thơ trong mộng của tôi
Đi qua Xứ Bắc nặng nề
Tuổi thơ hão huyền yếu đuối
Kẻ buộc lòng đến với trần gian này
Hôm nay tôi sẽ cưu mang
tính lập dị của ông
Vác lên vai sự ngây thơ của ông
Đẩy cao lên bi kịch của ông
Im lặng chỉ cho thấy -
Trái tim thơ đang đập, đang nức nở
Một cái lưỡi ngây thơ nhuộm ngôn từ
Đây cũng là
ngày đáng nhớ
Trâu bò
ngưng cày bừa
Những lưỡi hái từ bỏ công việc nặng nhọc
Gió kìm hơi thở của nó
Ôi lạnh lẽo, mi hối hả chuyển mùa đông đi xa
Moscow khắc
khoải
Mi xiết chặt những cây đàn organs nhức nhối
Chờ đợi trước trời tuyết
A, coi kìa, ông ta đây rồi
Một hồn ma bi thương nhất giữa những nhà thơ chúng ta
Ông ta đang bước tới tôi
Tôi bắt đầu
thuộc về đây
Tôi đi vô thân thể của ông
Thay thế thiên đàng độc ác của ông
Tôi - một đứa trẻ ngoại nhân chẳng bao giờ trưởng thành
Truớc những đám đông bên đường này
Chỉ cảm thấy càng thêm cô độc
NQT dịch từ
bản tiếng Anh
A Republican
Afternoon
A man knocks
on the door with sad fingers
A man walks
with a burdened mind
A man sighs,
holding up a mynah bird
A man
suffers, trembling from head to toe
Let him be
so
Who senses
who, what a relief
What is
there to hope for? To explain?
Gaze or oblivion
will fold
Anxiety
hides and veils
Silence
ambushes in secret
Leaves sway
in the air, an enigma
Make up your
mind
Let that man
go on knocking
go on
walking
go on
sighing
go on
suffering
you will
just sit here, motionless
Bai Hua
Một buổi xế
trưa cộng hòa
Một người đàn
ông gõ cửa với những ngón tay buồn
Một người đàn
ông đi bộ với cái đầu nặng một gánh nặng
Một người đàn ông thở dài, tay cầm 1 con chim mynah
Một người đàn
ông đau khổ, run rẩy, từ đầu đến ngón chân
Thì kệ cha hắn
Kẻ cảm ra rằng
thì là,
Thở dài 1 phát
mới sướng làm sao
Có gì ở đó, để hy vọng?
Để giải thích?
Hay để ăn năn, sám hối, rũ tội?
Nhìn hay quên
lãng sẽ gấp lại
Âu lo xốn xang
sẽ giấu và hé lộ
Im lặng mai
phục trong bí mật
Lá xoáy trên
không, một điều bí ẩn
Coi lại cái đầu
của mi đi
Kệ mẹ thằng
chả gõ cửa,
Đi bộ
Thở dài
Đau khổ
Mi cứ ngồi đó,
im như thóc, 1 cục
Trong những
bài thơ kế tiếp nhau mới đây nhất – như “Cuốn sách Tây Tạng”, “Quà
Tặng” và Ghi
chú từ thời Late Qing” – trong đó, chúng được lắp ghép theo kiểu lưỡng
thê [tạm dịch
từ “hybridize”] văn xuôi và thơ vần, cũng như nhiều giọng khác nhau,
những tính
nhạc [musicalities] những dòng tự sự, ông sử dụng những bảng đăng ký
ngôn ngữ
thay đổi [various linguistic registers]. Như thế nào, bằng cách nào,
ông làm quen [relate] với 1 cấu trúc thơ đa tầng, những đáp ứng về mặt
cảm xúc, và
sự diễn tả của nó?
Bai Hua:
Khi còn trẻ
tôi đã mò tới cái ý tưởng thơ “dệt văn xuôi với thơ vần”, nghĩa là,
“tất cả
lẹo tẹo [mingle] thành một”, trộn tất cả những thể, giống, loại ngôn
ngữ vào trong 1 cái lò cừ. Khi bắt đầu viết “An Immortal Companion to
Watercolor” và “Historical
Annals,” tôi khởi sự kiếm ra những cách, những đường hướng để cho giao
hợp cả 1
lô, nào tiểu thuyết nào văn xuôi, nào kịch, và ngay cả thứ báo chí có
tí ti thơ, và hoàn tất cái bản văn liên văn bản này,
với tài năng, mánh mung [skill] và sự ung dung tự tại [ease].
Lẽ tất nhiên cú này
đếch phải do tôi nghĩ ra, những kỹ thuật như thế không "din",
original. Những thử nghiệm với âm thanh, sound, tiếng nói, voice, và sự
hiện diện, presence, định nghĩa
nhiều, thi học đương thời và tiền phong.
Như thế nào tôi làm được cái cú “lò
cừ” này tôi cũng chẳng biết. Tôi làm, như thế đó, với chút cảm quan
chung, và để
mặc cho kỹ thuật, ở cái thế thượng phong nhất của nó, nhập cuộc.
IVAN V. LALÍC
[1931-1996]
Lalic started publishing
in 1952 and his first book, A Child
Once came out in 1955. Since then there have been many more
books of poetry, all highly regarded) which have been translated into
many languages, including English. Most of the poems here are taken from Roll Call of Mirrors, a selection
of Lalic's poems published in 1988. He translated Holderlin, Whitman,
Dickinson, and many other American poets.
Lalic khởi sự
in thơ năm 1952, và tập thơ đầu tay của ông “Đứa bé, Một thời” ra lò
năm 1955. Kể
từ đó, nhiều tập thơ ra đời, tất cả đều được đánh giá cao, và được dịch
ra nhiều
thứ tiếng, trong có tiếng Anh. Hầu hết những bài thơ ở đây là từ Roll Call of Mirrors [tạm dịch, Tiếng gọi
cuộn tròn của những tấm gương], một tuyển tập chọn lọc những bài thơ
của Lalic được
xb năm 1988. Ông dịch Holderlin, Whitman, Dickison, và nhiều nhà thơ
Mẽo khác.
Love in July
I
Open this evening like a
letter,
Its handwriting spotted with blood of birds
Devoured in the bright lava of the afternoon.
Open this evening like a
rose,
1hat dust, that bronze, and that sweat on your skin,
1hat constellation that breathes.
Open this evening like a
letter.
I'm hidden in its handwriting
Like a shadow in the still leaves of a cherry tree,
Or like noon in our blood.
Comes night grown over
with rain and cherries,
And the wavering diamonds of sudden freshness.
Open this evening like a letter.
The date is illegible,
time without beginning,
But the signature is clear:
I love.
II
The taste of the storm in
the stalk of the invisible rose
1hat you twirl absentmindedly between your fingers.
Summer golden and dark.
But there's no wind, and
the rain glitters
On your words like phosphorus
On the seams of the water.
Summer golden and dark.
The lightning that travels
slower than memory
Will never again give us light in this place.
That lightning still
buried in snows and flowers
In its
journey around the year.
The taste of rain on your
lips,
Summer
golden and dark.
Yêu trong Tháng
Bẩy
I
Mở buổi chiều
nay như lá thư
Chữ viết tay
dính máu chim
Bị xâu xé bởi
dung nham sáng ngời của buổi xế trưa
Mở buổi chiều
nay như bông hồng
Bụi này, đồng
này, và mồ hôi này trên da anh
Chòm sao này,
thở
Mở chiều nay
như tờ thư
Tôi giấu mình
trong những hàng chữ viết tay của nó
Như cái bóng
của những chiếc lá cây yên lặng trầm tư của một cây anh đào
Hay như buổi trưa trong máu của chúng ta.
Đêm tới, lớn
dần lên cùng với mưa và anh đào
Và những viên
kim cương chập chờn của cái mát lạnh bất thần
Mở chiều nay
như lá thư
Ngày mấy, đọc
không ra, thời gian không bắt đầu
Nhưng chữ ký
thì thật rõ:
Tôi yêu
II
Mùi vị của trận
bão ở trong cái cuống của bông hồng vô hình
Em loay
hoay, xoay xoay, một cách lơ đãng, trong những ngón tay của em
Mùa hạ, vàng,
và tối.
Nhưng không
có gió, và mưa lấp lánh
Trên những từ
của em, như lân tinh
Trên những vệt
nước
Hạ, vàng, và
tối.
Ánh sáng, đi
lang thang, với tốc độ chậm hơn hồi nhớ
Sẽ chẳng để
cho chúng ta tí nào, ở nơi chốn này
Ánh sáng
đó,
vẫn bị lấp vùi trong tuyết và hoa
Trong chuyến
lữ của nó trong năm
Vị mưa trên
môi em
Hạ vàng và tối
Gió Nói
While
working on "In the Qing Dynasty" and "Cloud Diviner," I
came across a review essay entitled "Toward a Writerly Poetry" by
Chinese critic and poet, Zang Di. A seminal study that situates
post-Misty
poets in the historical context of the modern Chinese poetry, it first
appeared
in 1993, a time when most attention was still centered around the Misty
poetry aesthetics.
In his observations about post-Misty poetry, Zang Di cited Bai Hua's
work:
On the
subject of writing, post-Misty poets are conscious that, in all
likelihood,
they will never reach consensus on the issues of tradition and
criticism. For
this reason, they have adopted a nihilistic attitude in public, but in
their writing
they are in fact able to clearly delineate the tradition they
face. (... )
In
Roland
Barthes' words, as cited by Todorov: outstanding poetry is "that which
possesses superior expression without entering the personal ... It is
secret
while being open." Based on this criterion, two important post-Misty
poets
are exemplary: Bai Hua and Zhai Yongming. They display a genius in
handling the
relationship between the special characteristic of the tradition
without
antecedents of writing modern poetry and traditional poetry. Their
writing is
not simply a product of a consciousness of style but manifests an even
greater
comprehension of the essence of modern poetry.
***
In his early
twenties, Bai Hua felt enlightened by Baudelaire, who declared that
Nature is a
temple, and that any perceived world is a metaphor for the self. He
read T.S.
Eliot and Mandelstam voraciously, and saw poetry as a sacred duty. If a
poet is
indeed a priest, a seer, am I as courageous as Mandelstam? Conflicted
with this
question when working overnight on "To Osip Mandelstam," Bai Hua came
close to a heartbreaking but earnest I am not.
***
Is summer
far, as if free.
Once a
memory this among many, wind gathers, a swallow
will return.
Paris, July
2010
Fiona Sze-Lorrain:
A Prelude to Bai Hua’s Lyricism
Nhà Thơ Già
Hành khúc
mùa xuân, những tình cảm đồng quê
Trong 10
ngày anh trở về, trở thành năm bó
Anh nói vẫn
còn một câu thơ hành hạ anh
Không phải,
cái nút áo hành hạ anh
Tóc bù xù,
như quê nhà
Phì lũ lại
loay hoay với mặt bàn
Văn chương,
văn chương uể oải
Quê nhà, quê
nhà tài tử của anh ta
Tuy nhiên
anh lầu bầu
Văn chương đơn giản, vì
trần trụi
Chính vì thế quê nhà phải xuất cảng nó
Hồi ức
Ở bao lơn một
buổi xuân sớm tôi nhớ
Đêm xuân
1986
Đi bộ với em
trong con phố tĩnh
Tới rạng đông
Tôi mơ tưởng
tương lai
Tôi đang viết
một bài thơ cho em
Mớ tóc bồng
bềnh của tôi mới mong manh làm sao
Gió làm ấm bộ
mặt hoảng sợ của tôi
Bộ mặt này,
một cảnh sắc ấm, mệt mỏi
Bạc vô dụng
trong hồi ức
Số mệnh nhẹ,
ngây thơ
Đêm xuân trắng
của một năm nữa
Tôi quyết định
buông xuôi
Tôi quyết định
thoát
Trong khi
loay hoay làm việc với "In the Qing Dynasty" và
"Cloud Diviner,"
tôi vớ được 1 bài tiểu luận “Về thơ của nhà văn” - tạm
dịch cái tít “Toward a Writerly Poetry” - của phê bình gia và thi sĩ Tẫu, Zang Di. Một
nghiên cứu phôi thai nhắm xác định vị trí những nhà thơ hậu Hũ Nút,
hậu-Sương mù
trong nội dung lịch sử của thơ ca Tẫu hiện đại. Xuất hiện lần đầu tiên
vào năm
1993, khi sự chú tâm nhất, dành cho trường phái thơ Sương Mù, là về
tính mỹ học
của nó.
Zang Di trích
dẫn Bai Hua:
Về đề tài viết,
những nhà thơ hậu-Sương mù ý thức rằng, nói chung, họ không
làm sao đạt được đồng thuận về những giải pháp của truyền thống và phê
bình. Vì
lý do đó, họ chọn một thái độ hư vô trong công chúng, nhưng trong cái
viết của họ, thực sự
mà nói, họ vờ truyền thống, đếch thèm để ý đến nó.
Trong từ ngữ
của Roland Barthes, như Todorov trích dẫn, hiểu thơ là ‘sở hữu diễn đạt
bảnh nhất
mà không đi vào cá nhân… Nó là bí ẩn trong khi mở toang.” Nếu như thế,
Bai Hua
và Zhai Yongming đúng là hai khuôn mẫu. Họ là bậc thầy trong cách ứng
xử liên hệ
giữa tính cách đặc biệt của truyền thống không có tiền lệ, tiền thân –
không có
đàn anh, đếch cần sư phụ - trong làm thơ hiện đại, và thơ ca truyền
thống. Thơ
của họ không giản dị là sản phẩm của một ý thức về văn phong nhưng còn
là tuyên
ngôn của một cảm thông lớn lao hơn về yếu tính của thơ hiện đại
Gió Nói
Gấu đã từng đọc,
và dịch thơ Bai Hua, vậy mà đếch nhớ, tếu thế.
Bài thơ còn
được một vì thân hữu ban cho nó 1 vị trí thật xứng đáng trên trang của
bà:
THƠ MỖI NGÀY
Bài “Vài Kỷ
Niệm”, đọc lại, sao lại nhớ bữa ngồi với Hải Âu, cà phê Starbucks,
Little
Saigon, lạ thế.
Do you see a
poem as an experience or as an act?
One can't be
separated from the other. "Poetry is experience" - this is a
universally-known
dictum from the German poet, Rilke. Even Nabokov who detested Rilke,
also said,
"Poetry is a distant past." But poetry must also be an act - in a
modern sense, and even more so in a post-modern context. If I must
choose
between the two of them, an old poet like me would go for the former.
Bạn coi một
bài thơ, như là 1 kinh nghiệm hay như 1 hành động?
Khó mà tách
ra được. “Thơ là kinh nghiệm”, Rilke phán. Ngay cả Nabokov, vốn ghét
Rilke, cũng
lầu bầu, “Thơ là quá khứ xa”. Nhưng thơ phải là 1 hành động – theo
nghĩa hiện
đại, và hơn thế nữa, trong nội dung hậu hiện đại. Nếu phải chọn giữa
hai thứ đó,
một tên thi sĩ già như tôi, sẽ chọn, kinh nghiệm.
Nhạt nhòa, nhạt nhòa….
Bầu trời chào đón chúng ta, Xuân sớm, Hè sớm
Vào lúc rạng đông, tòa nhà này, căn phòng này
Nàng
Không thể để một trái tim vui vô một bi khúc
Ngày, đêm, lâu lâu nàng hỏi:
Lúc em chết thì em sẽ như thế nào?
Trái tim thế giới là ngọn đèn trong kẽ gió, run rẩy trong tai ương -
hơn cả con
rùa bập bềnh trong nước
Ghi chú:
Một con sâu nhỏ nhìn ngón tay của bạn như một phong cảnh rộng
Nhạt nhòa, nhạt nhòa….
Hãy để trái tim của chúng ta ở trong ngôi đền
November 29, 2010
Gửi Osip
Mandelstam
Những người
sống trong khùng điên
Họ còn sợ
chi?
Sợ sự thuần
khiết của trần truồng?
Không, sợ tiếng
động
Cái tiếng động
đá văng suy tư
Nhà thơ
trong giấc mộng tôi
Xuyên qua
phương bắc nặng nề
Xuyên qua ấu
thơ với ảo giác yếu đuối
Người đã buộc
lòng đi đến cõi nhân gian
Hôm nay, một
ngày tôi nhẫn chịu sự kỳ cục của ông
Hôm nay, một
ngày tôi nhẫn chịu sự ngây thơ của ông
Hôm nay, tôi
làm nổi trội bi kịch của ông
Im lặng đang
chỉ rõ
Áng thơ đang
đập nhịp, đang tiếc thương
Lưỡi rảnh
rang nhuộm lên ngôn từ
Đây cũng là
một ngày nào đó trong trí nhớ tôi
Trâu bò đã
ngưng cày bừa
Lưỡi hái đã
từ bỏ mạng vong
Gió đang cưỡng
lại hơi thở
A, lạnh lẽo,
mi đang tranh thủ vận chuyển mùa đông
Moscow hồi hộp
Mi siết chặt
cây đại phong cầm động lòng người
Chào đón đầy
trời hoa tuyết, ngẩng đầu chờ trông
Kìa, coi,
nhà thơ đến rồi
Một vong hồn
đáng khóc thương nhất trong đám thi sĩ chúng ta
Ông đang bước
tới phía tôi
Tôi bắt đầu
thuộc về nơi này
Tôi bắt đầu
chui vô hình hài ông
Phối dựng lại
thiên đường tàn khốc của ông
Tôi, một đứa
trẻ không lớn nổi của xứ sở khác
Trước tất cả
điều này
Những người
bên đường chỉ có thể càng lẻ loi hơn.
Bai Hua
Bản của Dã
Viên, từ nguyên tác
Là gì, kẻ sống
trong nỗi sợ khùng điên?
Sự trinh khiết
của một xác thân trần trụi?
Không! Những
tiếng nói –
Những tiếng
nói thoát khỏi tư tưởng
Nhà thơ
trong mộng của tôi
Đi qua Xứ Bắc
nặng nề
Tuổi thơ hão
huyền yếu đuối
Kẻ buộc lòng
đến với trần gian này
Hôm nay tôi
sẽ cưu mang tính lập dị của ông
Vác lên vai
sự ngây thơ của ông
Đẩy cao lên bi kịch của ông
Im lặng chỉ cho thấy -
Trái tim thơ đang đập, đang nức nở
Một cái lưỡi ngây thơ nhuộm ngôn từ
Đây cũng là
ngày đáng nhớ
Trâu bò
ngưng cày bừa
Những lưỡi hái từ bỏ công việc nặng nhọc
Gió kìm hơi thở của nó
Ôi lạnh lẽo, mi hối hả chuyển mùa đông đi xa
Moscow khắc
khoải
Mi xiết chặt những cây đàn organs nhức nhối
Chờ đợi trước trời tuyết
A, coi kìa, ông ta đây rồi
Một hồn ma bi thương nhất giữa những nhà thơ chúng ta
Ông ta đang bước tới tôi
Tôi bắt đầu
thuộc về đây
Tôi đi vô thân thể của ông
Thay thế thiên đàng độc ác của ông
Tôi - một đứa trẻ ngoại nhân chẳng bao giờ trưởng thành
Truớc những đám đông bên đường này
Chỉ cảm thấy càng thêm cô độc
NQT dịch từ
bản tiếng Anh
In one of
his essays Brodsky calls Mandelstam a poet of culture. Brodsky was
himself a
poet of culture, and most likely that is why he created in harmony with
the
deepest current of his century, in which man, threatened with
extinction,
discovered his past as a never-ending labyrinth. Penetrating into the
bowels of
the labyrinth, we discover that whatever has survived from the past is
the
result of the principle of differentiation based on hierarchy.
Mandelstam in
the Gulag, insane and looking for food in a garbage pile, is the
reality of
tyranny and degradation condemned to extinction. Mandelstam reciting
his poetry
to a couple of his fellow prisoners is a lofty moment, which endures.
Milosz
Trong một tiểu
luận, Brodsky gọi Mandelstam là nhà thơ văn hóa. Brodsky, chính ông,
cũng là một
nhà thơ văn hóa, và có thể chính vì thế mà ông trước tác hài hòa với
dòng sâu
thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị de dọa bởi sự tuyệt giống
người, đã
khám phá ra quá khứ của nó, như là một mê cung chẳng hề tận cùng. Nhập
vào lòng
mê cung, chúng ta khám phá ra một điều, là, bất cứ cái chi, nếu mà sống
sót từ
quá khứ, thì đều là hệ quả của nguyên lý ‘mày khác tao, tao khác nó, nó
khác
mày’, tức nguyên lý dựa trên đẳng cấp, tôn ti trật tự, không phải cứ
xoa đầu
hay nâng bi ông tiên chỉ, ông Trùm văn nghệ, thì là bằng vai vế với họ,
thí dụ
vậy.
Mandelstam,
khi ở trong Gulag, điên khùng, và tìm kiếm đồ ăn trong đống rác, là
thực tại về
bạo tàn, thoái hoá đưa đến huỷ diệt. Nhà thơ đọc thơ của mình cho bạn
tù, là một
khoảnh khắc thăng hoa hoài hoài.
Gió Nói.
Tác
giả: Bá Hoa.
Gấu chưa từng biết đến nhà thơ này. Nhưng cầm nó lên 1 phát, đọc
loáng thoáng, đây là nhà thơ đại diện cho trường phái hậu –Hũ nút của
thập
niên 1980, [the central figure of the post-Obcure (or post-“Misty”)
poetry movement,
nhà thơ ảnh hưởng nhất đương thời Tẫu, sư phụ là Osip Mandelstam, thì
quá đỗi ngỡ ngàng,
bèn bệ về.
As a representative
figure of the
post-"Misty" poets, what are your thoughts about the tides of poetry
and artistic search in the present-day China?
Là
người đại diện cho
dòng thơ hậu-Sương Mù, ông nghĩ gì về những ngọn triều thơ ca, và cái
sự tìm tòi nghệ thuật, ngày này ở TQ?
When a tide
is over, one will become a tradition. When one becomes a tradition, he
or she will also open up a new tide. This dialectic simply means: the
more you pursue the art that impassions you, the more you will find
yourself right at the source of a tide.
Khi ngọn triều qua
đi, thi sĩ trở thành truyền thống. Khi đó, anh ta lại mở ra một con
nước mới.
The question of gendering
in poetics - particularly in a masculine broth such as the contemporary
Chinese poetry scene - can be a delicate and complex issue. How does
the poet's gender politicize his or her work?
It will be quite an effort for me to explain my
thoughts about "men who
are overly feminine and women who are overly masculine" ... Life always
carries a pure yearning that resists death. Poetry begins from this
intense yearning. Its value is defined by the lofty yet irreplaceable
luxury of ideals; it nourishes highly neuropathic but beautiful souls.
In general, I am a little dubious as to whether the real masculine sex
can truly and fully understand poetry, though I have never doubted if
women or men with feminine qualities can do so. (Most male poets
possess feminine traits. Brodsky once said, "I am even more feminine
than Tsvetaeva.") Coupled with their solitude, idleness, frailness and
sensitivities, women indulge naturally in poetry.
Hoàng hôn
Cho tôi khu
rừng tôi đi qua
Cho tôi cuốn
sử
Cái chết tới
và đi, trơ trọi
Quyền năng của
nó, khảm trong tôi
Tiếng tim đập
chạy qua những cái bóng chậm
Một con chim
vô tư
Bay lên bầu
trời vô tư
Gió có một lối
đi lang thang
Thịt nhạt nhòa,
rã ra theo cùng với ngày và đêm
Một vài cái
tên lại trẻ lại
Mùa hè trong
mộng bắt đầu tàn úa
Một cái tai
im lặng lắng nghe một nhân vật
Sống 1 thế kỷ
như là 1 ngày
Vĩnh cửu hóa
khoảnh khắc này
Làm ơn cho tôi
khu rừng tôi đi qua
Cho tôi cuốn
sử học
Khi thơ tự
do mới ra đời, bị coi là hũ nút. Như 1 tiếng thở, đi trước thời của
mình, những
năm tháng chiến tranh sau đó, làm cho nó rõ ra, GCC đã từng viết về thơ
của ông,
từ những năm 1970.
Có gì đó tương tự giữa ông, và Bá Hoa, như những dòng sau đây
cho thấy.
Fiona Sze-Lorrain
[người dịch thơ của Bá Hoa qua tiếng Anh): Ông được biết rộng rãi như
là 1 nhà
thơ trữ tình, a lyrical poet, và đã coi (claimed) cái bí hiểm, the
mysterious,
và cái không thể giải thích, the inexplicable, như 1 là hiện hữu sống
động, a vital
presence, trong thơ. Liệu ông có cảm thấy rằng, sự chân thực tình cảm
có thể hòa
giải với hàm hồ [Do you feel that emotional honesty should and can be
compromise for ambiguity]?
Bá Hoa:Với câu
hỏi này, tôi cũng có những ý nghĩ hàm hồ [I have mixed feelings about
this
question]. Liệu có thể sự chân thực đơn
giản được hoà gải bằng sự hàm hồ? [Can sincere honesty be compromised
by
ambiguity?] Tôi nghĩ đến Ezra Pound, “Kỹ thuật là thử nghiệm của sự
thành thực”,
“Technique is the test of sincerity”. Tôi tin tưởng, chừng nào nhà thơ
còn làm
chủ kỹ thuật thơ của mình, thì sự thành thực tình cảm của anh ta sẽ
không thể bị
hòa giải bởi biểu hiện, diễn đạt. I believe as long as a poet maters
his poetic
techniques well, his emotional honesty will not be compromised by
expression. Một
bài thơ tốt sẽ chứa đựng cả hai, sự thành thực tình cảm và sự làm chủ
kỹ thuật.
Trèo lên cây
bưởi hái hoa
Tôi nhận được
thư của một người bạn yêu thơ - vừa thương vừa giận tôi lắm - trách móc
và đòi
tôi ít nhất hãy tự giảng lấy một bài thơ của mình để độc giả có thể
theo dõi nổi
mình. Hằng ngày tôi bắt gặp những câu hỏi tương tự như: “Thơ viết cái
gì? Đọc
không làm sao hiểu nổi”, ở những người bạn mới gặp lần đầu, những học
sinh rất
thân của tôi.
Tất nhiên là
tôi không thể nào chối một phần cái sự “tối tăm” của thơ tự do. Vì như
tôi đã
có dịp trình bày: bản vị của một bài thơ tự do không nằm trên mỗi câu
như ở thơ
cũ (chữ cũ gồm cả cho thơ mới) mà đặt trên mỗi từ khúc. Đừng tìm ý
nghĩa và tiết
điệu của bài thơ theo mỗi câu mà hãy nắm trọn từng từ khúc một. Mỗi từ
khúc là
một toàn thể về ý nghĩa cũng như tiết điệu ở đấy người làm thơ liên kết
những lớp
hình ảnh xô đến - để diễn một ý lớn và một điệu trọn vẹn. Chính ở chỗ
này - người
làm thơ mở cửa tâm hồn tiếp đón rất nhiều hình ảnh cho một từ khúc -
khiến
thoáng ngó người đọc cảm thấy ý tưởng bị ngắt quãng vì những hình ảnh
đứng bên
nhau với cái lướt mắt sơ sài tưởng không liên lạc gì với nhau. Cho nên
người đọc
phải tìm được sự thống nhất khăng khít của những hình ảnh ấy.
Nguyên tắc
chính của thơ tự do là tránh giảng giải phân trần, bài thơ tự nói bằng
hình ảnh.
Tôi nhớ rằng
trong một buổi nói chuyện về thơ tự do tại Câu Lạc Bộ Văn Nghệ năm kia,
tôi đã
trình bày “sự khó hiểu” trong thi văn không có gì mới lạ và đặc sắc. Có
những
câu thơ cổ đã rất quen với mọi người - ai cũng tưởng hiểu - nhưng khi
cần giảng
rõ thì thật là vất vả. Thói quen đã làm cho những câu thơ ấy thâm nhập
với
chúng ta. Thơ tự do cũng đòi hỏi cái thời gian được làm quen cần thiết.
Cũng trong
buổi nói chuyện ấy, tôi có nhắc đến những câu ca dao sau này:
Trèo lên cây
bưởi hái hoa
Bước xuống vườn
cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân
nở ra xanh biếc
Em đã có chồng
anh tiếc lắm thay!
để chứng tỏ
trong vài trường hợp, ca dao cũng liên kết những hình ảnh theo cách “tự
do”.
Trong bốn câu thơ ấy, ý tưởng như đứt quãng chỉ câu thứ 4 rõ nghĩa còn
ba câu trên
mơ hồ gần như không liên lạc với câu dưới.
Tôi được một
thính giả góp ý kiến rằng bài ca dao ấy chẳng có gì lạ, nó thuộc thể
hứng. Hứng
chỉ là một tên gọi không giảng được ý nghĩa nào. Ngoài hai thể phú và
tỉ rõ
ràng, người ta sẽ gọi là những những bài ca dao không tìm thấy sự liên
lạc giữa
các phần tử của bài. Phần thừa ấy gọi là hứng:
Trên trời có
đám mây xanh
Ở giữa mây
trắng chung quanh mây vàng.
Ước gì anh lấy
được nàng,
Để anh mua gạch
Bát Tràng về xây…
Hứng: câu trả
lời thật tiện lợi và lười biếng.
Trèo lên cây
bưởi hái hoa
Bước xuống vườn
cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân
nở ra xanh biếc,
Em đã có chồng
anh tiếc lắm thay!
- Ba đồng một
mớ trầu cay,
Sao anh chẳng
hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em
đã có chồng,
Như chim vào
lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu,
biết đâu mà gỡ?
Chim vào lồng
biết thuở nào ra?
Tôi không chịu
đứng lại ở chữ hứng vô nghĩa. Tôi tìm giải nghĩa cái hứng ấy của mọi
bài ca dao
- sự liên kết hình ảnh - cũng như mỗi bài thơ tự đo [sic] có ý nghĩa
của nó
không phải chắp nối bậy bạ tùy “hứng” mà thành.
*
Lần thứ nhất
tôi mang bài ca dao này giảng ở một lớp học đông và ồn ào giữa đường
phố Sài
gòn - cái lớp học tôi đã gọi là “giấc mơ của tôi” vì mỗi lần bước ra
khỏi lớp,
tôi như vừa thoát khỏi giấc ngủ mệt nhọc và không ngó nhận được một
khuôn mặt học
sinh nào. Vận dụng hết sức cái trực giác sáng tạo, tôi chỉ mơ hồ cảm
rằng hình
như ba câu thơ đầu ám chỉ vẻ đẹp của người đàn bà:
Trèo lên cây
bưởi hái hoa
Bước xuống
vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân
nở ra xanh biếc…
Hoa bưởi trắng
gợi đến mớ tóc xõa dài thơm đang hong nắng. Nụ tầm xuân đã nở còn xanh
như
duyên dáng người gái vừa trở thành thiếu phụ.
Rồi tôi mang
bài ca dao ra khỏi thành phố, ở trong một căn lớp gỗ, cửa sổ mở dài
trên con lạch
đầy nước, bờ bên kia nhà ẩn sau những lớp cây hoang. Vào một buổi sáng
mát,
không khí êm tĩnh, tiếng nước đổ ào ào bên kia bờ - người ta tắm về sớm
- tiếng
búa gõ trên sắt của công việc, chỉ có tiếng nói của tôi, tôi khám phá
được một
bài thơ.
Trước hết trở
về với ý toàn bài: câu chuyện trao đổi giữa một người con trai chưa vợ
và một
người con gái đã có chồng. Chúng ta hãy đặt câu hỏi này: câu chuyện như
thế phải
xảy ra ở chỗ nào? Ở nơi có mặt người thứ ba hẳn là không thể được. Bởi
vậy
không gian của câu chuyện tâm tình không thể là trên con đường làng
hoặc ngoài
đồng vắng, ý vị câu chuyện sẽ thô tục bao nhiêu.
Trèo lên cây
bưởi hái hoa
Bước xuống
vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân
nở ra xanh biếc
Ấn định
khung cảnh cho cuộc gặp gỡ thoáng qua này. Đó là hai người hàng xóm
cạnh nhau
hai khoảng vườn nhà cách nhau bằng hàng dậu thưa. Người con trai trèo
lên cây để
ngắt hoa bưởi - cử chỉ bâng quơ những trữ tình - để tiện ngó sang vườn
bên ở đấy
thoáng bóng người ao ước. Rồi chàng bước xuống tiến đến bên dậu hái nụ
tầm xuân
- cử chỉ bâng quơ thứ hai vẫn chẳng kém trữ tình - và cất tiếng:
Nụ tầm xuân
nở ra xanh biếc
Em đã có chồng
anh tiếc lắm thay!
Người hàng
xóm cũ đã lấy chồng, được ngày về thăm mẹ - phải hiểu như thế để giữ
cái thanh
sạch thơ mộng của mối tình - trả lời:
Ba đồng một
mớ trầu cay,
Sao anh chẳng
hỏi những ngày còn không?
Nghĩa là còn
con gái, nàng cũng đã để mắt xanh vào người hàng xóm mà thuở ấy chàng
vô tình.
Bây giờ chàng biết đến thì đã muộn.
Nỗi trắc trở
chua xót ngừng lại giữa chừng:
Cá cắn câu
biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng
biết thuở nào ra.
Hai câu bảy
cuối cùng lửng lơ, câu chuyện bỏ dở. Có lẽ thoáng đâu nàng sợ bóng
người thứ
ba. Nàng trở vào nhà chưa kịp hết lời, nhưng mối tình ngang trái đã
chấm hết.
Vì chiều nay hay mai nàng đã quay về nhà mình - nhà chồng - ở làng xa,
cách những
“bốn quả đồi” những “ba ngọn suối” những “đôi cánh rừng” và biết bao
nhiêu cánh
đồng.
Bao giờ người
con trai gặp được cô hàng xóm về thăm nhà lần nữa? Và rồi chàng quên
dần câu
chuyện cũ dù hoa bưởi thơm nở trắng và nụ tầm xuân xanh biếc còn kia.
*
Tôi muốn xin
các bạn một thái độ thưởng ngoạn nghệ thuật cần thiết: tâm hồn mở rộng,
hoàn
toàn tự do, tránh bỏ mọi thiên kiến. Tôi muốn mời các bạn quay trở về
với những
gì quen thuộc nhất để tìm thấy những điều chứa dấu [sic] mới lạ và tìm
vào những
nơi lạ lùng để bắt gặp những điều gần gũi thân mật.
Trên trời có
đám mây xanh
Ở giữa mây
trắng chung quanh mây vàng.
Phải chăng
người con trai đã nhìn vào đôi mắt trong suốt của người đẹp phân biệt
mầu mây
trời, để ao ước… có phải đôi mắt ấy đẹp quá - đẹp muốn chết người -
không các bạn?
Chớ rửa lông
mày chết cá ao anh
Mọi thế giới
nghệ thuật đều mở cửa với các bạn những người đi vào bằng tất cả tâm
hồn tự do
trong sáng.
(tạp chí Sáng Tạo số 7,
tháng Tư 1956, tr. 21-24)
|
|