|
Đi tìm phê
bình gia Mít
Ukraine
Trật
tự thế giới mới
Bài trên The Economist, đã
được Blog SCN dịch.
Tin Văn tính dịch, nhưng
lại
khoái bài Phát Xít,
Nga, và Ukraine, của Timothy Snyder trên tờ NYRB hơn.
Bèn đang dịch lai rai.
Bài của Snyder đi
đúng bài bản của trang Tin Văn, tức là có 1 sự khác biệt giữa Cái Ác Á
Châu, và
Cái Ác Âu Châu, và chính vì thế mà lòng dân Ukraine, nhất là giới trẻ
hướng về Âu
Châu, như Snyder viết:
The
future of this protest movement will be decided by Ukrainians. And yet
it began
with the hope that Ukraine could one day join the European Union, an
aspiration
that for many Ukrainians means something like the rule of law, the
absence of
fear, the end of corruption, the social welfare state, and free markets
without
intimidation from syndicates controlled by the president.
Tương
lai của cuộc chống đối này sẽ được quyết định bởi người dân Ukraine.
Tuy nhiên,
nó bắt đầu với niềm hy vọng rằng, xứ Ukraine sẽ có 1 ngày gia nhập Liên
Âu, một
hoài vọng, với nhiều người dân ở đây, có nghĩa là, một điều gì đó như,
sống
bằng, theo luật pháp, hết còn sợ, hết còn tham nhũng, ung thối, một nhà
nước có
chế độ trợ cấp xã hội, và những thị trường tự do không còn bị bàn tay
lông lá của
những băng đảng mafia đằng sau có ông nhà nước độc tài thao túng, và
ông Trùm
đích thực, là Ngài Tổng Thống.
Ở đây, có 1
cái gì tương tự với Cuộc Chiến Mít, và cái gọi là lòng dân Bắc Kít, khi
giới trẻ
của Miền Bắc, chừng vài thế hệ liên tiếp, nhỏ máu đầu ngón tay, viết
đơn tình
nguyện xẻ dọc Trường Sơn kíu nước.
Họ đều mong muốn một cuộc đời khác, vượt ra
khỏi luỹ tre làng, cái đói, cái ác, cái độc, cái rét của 1 xứ Bắc Kít
ngàn đời
Vũ Như
Cẩn.
Đó là phía
"Thiên Sứ" của cuộc chiến Mít.
Phía “Quỉ Sứ”, có thể bắt đầu bằng cảnh
cáo, là câu cách ngôn của dân Nga: “Hãy coi chừng, mi mong ước cái gì.
Không chừng
có được đấy!”
Muốn thống nhất thì có thống nhất. Nhưng thay vì cái nhà bự, thì
là 1 lũ bọ!
Be careful what you
struggle for – you will
problaly get
it
[Russian proverb. D.M Thomas trích dẫn, trong “Tiểu sử Solz, thế kỷ
ở trong
ta"]
Lũ
Bắc Kít
đã chiến đấu, đã muốn, để có được cái nước Mít thê lương như hiện nay.
Cái mà chúng huỷ diệt, không phải là Ngụy, chế độ VNCH, mà 1 Miền Nam,
và cả 1
truyền thống đẹp đẽ của nó, mà chế độ VNCH dựa trên đó.
Graham Greene
cũng đã than giùm dân Mít, khi viết về trận DBP:
The Sinister Spirit
sneered: "It had to
be!"
And again
the Spirit of Pity whispered, "Why?" (1)
(1)
Võ Tướng
Quân, với trận DBP, chấm dứt Cuộc Chiến Mít I
PXA với bức
điện, chấm dứt Cuộc Chiến Mít II.
Cuộc chiến
Mít I chấm dứt đưa đến cuộc di cư khổng lồ.
Bức điện đưa
đến Mít Lưu Vong nơi xứ người
''An's
story
strikes me as something right out of Graham Greene," says David
Halberstam,
who was friends with An when he was a Times
reporter in Vietnam. "It
broaches all the fundamental questions: What is loyalty? What is
patriotism?
What is the truth? Who are you when you're telling these truths?" He
adds,
"There was an ambivalence to An that's almost impossible for us to
imagine.
In looking back, I see he was a man split right down the middle."
Bass: The
Spy Who Loved Us
Chuyện
Ẩn
gây chấn động ở nơi tôi, như một điều gì từ Graham Greene bước thẳng
ra."
David Halberstam nói. Ông là bạn của Ẩn, thời gian ông là phóng viên [Nữu Ước]Thời
Báo [Times] tại Việt Nam. "Nó đụng tới những câu hỏi sinh tử:
Trung thành
là gì? Yêu nước là gì? Sự thực là gì? Anh là ai, khi anh đang nói ra
những sự
thực đó?" Và ông nói thêm, "Có cái điều lập lờ, nước đôi, ở nơi Ẩn,
những con người như chúng ta hầu như không thể tưởng tượng ra nổi. Nhìn
ngoái lại,
tôi thấy một con người nứt ra làm đôi, Ẩn đó". Cao Bồi
The assault began on 13
March
1954, and Dien Bien Phu fell on 7 May, the day before the delegates
turned at last from the question of Korea to the question of
Indo-China.
But General Giap could not be confident that the politicians of the
West, who showed a certain guilt towards the defenders of Dien Bien Phu
while they were discussing at such length the problem of Korea, would
have continued to talk long enough to give him time to reduce Dien Bien
Phu by artillery alone.
So the battle had
to be fought with the maximum of human suffering and loss. M.
Mendes-France, who had succeeded M; Laniel, needed his excuse for
surrendering the north of Vietnam just as General Giap needed his
spectacular victory by frontal assault before the forum of the Powers
to commit Britain and America to a division of the country.
The Sinister Spirit sneered: 'It had to be!'
And again the Spirit of Pity
whispered, 'Why?'
Cuộc tấn
công bắt đầu này 13 Tháng Ba 1954, và DBP thất thủ ngày 7 Tháng Năm,
trước khi
các phái đoàn, sau cùng rời vấn đề Korea qua số phận Đông Dương.
Nhưng Tướng
Giáp không thể yên trí, chính trị gia Tây Phương - vốn cảm thấy có tí
tội đối với
những người chống giữ DBP, khi họ lèm bèm quá lâu về Korea - bi giờ kéo
dài cuộc
cò cưa, đủ thời giờ cho ông, chỉ dùng pháo, đủ san thành bình địa lòng
chảo
DBP.
Và thế là trận
DBP đi vào cuộc nướng người.... Thủ Tướng
Tẩy cần xin lỗi, về cái sự đầu hàng VC Bắc Kít, còn Tướng Giáp, cần
chiến
thắng huy hoàng, trước khi những thế lực Tây Phương kéo Mẽo và Anh vô
bàn hội,
để xẻ thịt xứ Mít.
Con ma nham
hiểm Bắc Kít, Con Quỉ Chuồng Lợn của Kafka, bèn cười khinh bỉ: Phải thế
thôi!
Và Linh Hồn
Trắc Ẩn của một miền đất, bèn thì thầm, Tại sao?
Graham
Greene: Ways of Escape
COMMENT
TERMS OF
CRISIS
Annexation
has an ugly sound, owing to an unhappy past. The term describes, among
other
tragedies, Saddam Hussein's attempt, in 1990, to swallow Kuwait whole,
as the nineteenth
province of Iraq; Indonesia's invasion, in 1975, of East Timor;
Morocco's
absorption, the same year, of Western Sahara; and Israel's declaration,
after
the 1967 war, of East Jerusalem as part of a united capital. The German
word
for it is Anschluss. Like most
coerced unions, annexations come wreathed in clouds of lofty, dishonest
language-key themes are popular will, historic grievance, divine
providence-but
they almost always happen at the end of a gun.
Vladimir Putin's speech at
the Kremlin last week, asking a compliant
Duma to ratify Crimea's self-declared status as a new Russian republic,
was a
memorable example of annexation rhetoric. Putin opened with the baptism
of
Prince Vladimir in ancient Khersones, railed against years of
humiliation by
the West, warned of consequences for unnamed "national traitors"
inside Russia, and moved the audience to tears on behalf of his
people's hearts
and minds, where "Crimea has always been an inseparable part of
Russia." A few of his points had merit: it's true that the United
States,
like other great powers, ignores international laws when they get in
the way,
and it should have been foreseeable that Russia would view the
expansion of
NATO as a challenge to its interests. Other parts of the speech were
blatant
falsehoods- for example, the charge that Russian speaking Ukrainians
were under
threat from hordes of neo- Nazis, and the claim that "Russia's armed
forces never entered Crimea." When Putin thanked his Ukrainian brothers
for refraining from shedding blood, he neglected to mention that they
had been
disarmed by Russian special-forces troops.
The annexation of Crimea
is now what Putin calls "an
accomplished fact." It won't be
undone for a long time, if ever. The referendum was illegal under
Ukrainian and
international law and was held in far from free circumstances, but the
result
probably reflected the majority will. More to the point, the U.S. and
Europe won't
risk the effort to reverse the annexation, because they have minimal
interests
in Crimea, while Russia, with great interests, will risk almost
anything to keep
it. But the fate of the rest of Ukraine and of the other former Soviet
republics, along with the future of relations between Russia and the
West,
remains very much unresolved. Any American policy needs to begin with
an
understanding of what the crisis is and what it isn't.
Ukraine is not
Czechoslovakia. For some American hawks, the year
is always 1938, and Munich and appeasement are routinely invoked
whenever there's
an act of aggression any- where in the world. John McCain and Hillary
Clinton
both pointed to the superficial analogy between Crimea and the
Su-detenland-annexation
in the name of ethnic reunification. Before the referendum,
pro-Ukrainian
protesters in Kiev held up signs depicting Putin with Hitler's black
bangs and toothbrush
mustache. All this inflates Putin's importance far beyond his deserts.
He may want
Russia to lead a new Eurasian Union, but he doesn't dream of world
conquest;
Russia has plenty of nuclear weapons, but its conventional military
forces are
ill prepared for a long occupation of Ukraine. Nor is the crisis a
revival of
the Cold War-a comparison drawn both on the right, by McCain, in a Times
Op-
Ed, and on the left, by Stephen F. Cohen, in The Nation. That
conflict
divided the world into two camps, in a titanic struggle of ideas, with
countless
hot wars fought by proxies of the superpowers. The messy Ukraine crisis
is what
the world looks like when it's not divided into two spheres of control.
Putin
stands for the opposite of a universal ideology; he has become an
arch-nationalist
of a pre-Cold War type, making mystic appeals to motherland and
religion. He loves
to challenge the supposed bullying of the West, but he does so with
scarcely
any support beyond Russia and the twenty million Russian speakers who
live in
former Soviet republics. He was warmly congratulated after the
annexation by
his friend Bashar al-Assad, of Syria, but a United Nations resolution
condemning Russia's actions won the approval of every Security Council
member
except China, which abstained (perhaps thinking of its own separatists
in Tibet),
and Russia itself.
It's essential for the
U.S. and Europe to prevent Putin from going
farther and reversing the hard-won independence of former Soviet
republics.
Moscow is actively trying to destabilize cities in eastern Ukraine,
following
the familiar strategy of whipping up fear and chauvinism among Russian
speakers. The Western countries should use all the non-military tools
at their disposal-money,
diplomacy, political support, trade inducements that build on the
political
accord signed last Friday, poll monitors-to insure that Ukraine doesn't
collapse into chaos before the Presidential elections on May 25th, and
that the
vote is fair. Ukrainian leaders are wisely making space for pro- Russia
politics and promising a degree of federalism under a new government.
Ukrainians shouldn't feel compelled to choose, for the sake of safety
and
identity, between Russia and the West- that's what Putin wants.
A successful election in a
stable Ukraine is half the battle against
Putin's aggression. The other half is deterrence. It would be naive to
take
Putin at his word that Russia has no designs on territory outside
Crimea. He
needs an atmosphere of continuous crisis and grievance to maintain
support at
home, to distract his own public from the corruption, stagnation, and
repression that are his real record as a leader. Deterrence can be
designed to
expose Russia's weakness: non-lethal military aid to Kiev, escalation
of
sanctions against Putin's cronies, and the ultimate threat of
financially
targeting Russia's energy sector. But no strategy will work if the U.
S. and
the European Union don't act together, and America can no longer simply
expect
Europe to follow its lead. That was a different era.
Is all this Barack Obama's
fault, as Republicans in Congress and
former Secretary of State Condoleezza Rice have asserted? It's true
that the
Administration seems caught off guard when- ever a thug somewhere fails
to act
according to international norms. Putin no doubt views the President as
weak,
especially after Obama needed Russia to get him out of a jam of his own
making
over Syria's chemical weapons--and, like any bully, . Putin finds
weakness
provocative. But Crimea was a long time coming. In 2008, when George W.
Bush
was President, Putin, after voicing many
of the resentments that the world heard last week, invaded the Republic
of
Georgia and all but annexed two predominantly Russian-speaking
territories
without even bothering to hold a referendum. An autocrat like Putin
plays his
own game, and always finds his own excuses.
-George
Packer
THE NEW YORKER
MARCH 31, 2014
Note: Bài viết
mới nhất trên “Người Nữu Ước”, về cú "Nối Vòng Tay Nhớn", Anh Cả Bắc
Kít Putin đợp Crimea, “cũng thuộc Nga mà”: “Crimea mãi mãi là một phần
không thể
tách rời Nga.” "Crimea has always been an inseparable part of
Russia."
Ukraine
Phát Xít,
Nga, và Ukraine
Timothy
Snyder
Sinh viên là
những người đầu tiên chống lại chế độ của Tổng Thống Viktor Yanukovych
ở
Maidan, quảng trường trung tâm Kiev, tháng 11 vừa rồi. Họ là những
người dân
Ukraine mất nhiều nhất, những người trẻ tuổi, khinh xuất nghĩ về chính
mình như
những người Âu Châu, và mong ước cho họ một cuộc đời, và một quê hương
Ukraine,
nghĩa là Âu Châu. Rất nhiều trong số họ về mặt chính trị, tả, một số
trong họ,
gốc tả. Sau nhiều năm thương lượng và nhiều tháng hứa hẹn, chính quyền
của họ,
dưới triều Tổng Thống President Yanukovych, vào giờ phút chót, đã thất
bại
trong việc ký kết một hiệp ước thương mại chủ yếu, trọng đại, với Liên
Âu.
Khi cớm tới,
khện sinh viên, vào cuối tháng 11, một nhóm mới, những cựu binh Afghan,
kéo tới
Maidan. Những người đàn ông trung niên, cựu binh sĩ và sĩ quan của Hồng
Quân, rất
nhiều mang sẹo chiến tranh. Họ tới để bảo vệ “những đứa trẻ của họ”,
như họ nói.
Họ không định nói, những đứa con của chính họ; họ muốn nói, cái đẹp
nhất của
tuổi trẻ, niềm tự hào, hãnh diện và tương lai của xứ sở. Sau đám cựu
binh
Afghan, những nhóm khác tới, 10 ngàn, rồi 100 ngàn, không phải chỉ là
những kẻ nghiêng
về Âu Châu, mà là để bảo vệ, “chuyện tử tế”.
Tới Maidan,
nghĩa là gì?
Quảng trường
thì tọa lạc kế bên những tòa nhà lớn, cơ quan, văn phòng của nhà nước,
và bây
giờ là nơi truyền thống để phản đối.
Thú vị là, từ maidan này hiện hữu ở Ukraine, không,
ở Nga, nhưng ngay cả những người Nga cũng sử dụng nó, với những hàm ngụ
đặc biệt
của từ này. Gốc của nó, là từ Arabic, Ả Rập, và có nghĩa là ô vuông,
quảng trường, “square”, một nơi chốn công cộng. Nhưng
bây giờ, từ “maidan” có nghĩa ở trong
tiếng Ukraine như từ “agora” trong tiếng Anh: không chỉ là chợ,
marketplace,
nơi mọi người vô tư tới, gặp… nhưng 1 nơi chốn mọi người gặp nhau để…
lèm bèm
thoải mái, để tạo ra 1 xã hội chính trị. Trong thời gian chống đối, từ
này, tự thân,
biến thành, cử chỉ, hành động chính trị công cộng. Thí dụ, những người
sử dụng
xe cộ của họ, để tổ chức những hành động công cộng, để bảo vệ những
người chống
đối khác, thì được gọi là the “automaidan”.
March 3,
2014
Ukraine
Crisis: Keep Your Eyes on Angela Merkel
Niên Xô [Hà
Lội]: Nhà Nước Ma-Phia
Mấy dòng trên,
là được gợi hứng từ cái tít bài viết của David Remnick:
Bởi vì thật khó mà tìm ra
cái tên, hay bản chất của chế
độ: Độc tài? Chính quyền chuyển tiếp?
Chẳng phải.
Khó, là trước đó chưa có, và hiện nay chỉ có nó, theo tờ Books.
Ngoài cái tên của Remnick, còn 1 cái tên do tờ báo đề nghị: Nền độc tài
của lũ
ba vạ, la dictature des médiocres.
Médiorcre: Xoàng. Tồi.
Học lớp 1, chăn trâu, y tá dạo, làm độc tài thì xoàng
thật.
Nhưng, ở Nga, khác ở xứ Mít, nhà văn đã bắt đầu ngó vào chế độ.
TV sẽ giới thiệu bài viết của số báo trên:
Ce que disent les écrivains. Điều nhà văn nói.
Ukraine
Đi tìm phê
bình gia Mít
Ukraine
Fascism,
Russia, and Ukraine
Timothy Snyder
The students
were the first to protest against the regime of President Viktor
Yanukovych on
the Maidan, the central square in Kiev, last November. These were the
Ukrainians with the most to lose, the young people who unreflectively
thought
of themselves as Europeans and who wished for themselves a life, and a
Ukrainian homeland, that were European. Many of them were politically
on the
left, some of them radically so. After years of negotiation and months
of
promises, their government, under President Yanukovych, had at the last
moment
failed to sign a major trade agreement with the European Union.
When the
riot police came and beat the students in late November, a new group,
the
Afghan veterans, came to the Maidan. These men of middle age, former
soldiers
and officers of the Red Army, many of them bearing the scars of
battlefield
wounds, came to protect “their children,” as they put it. They didn’t
mean
their own sons and daughters: they meant the best of the youth, the
pride and
future of the country. After the Afghan veterans came many others, tens
of
thousands, then hundreds of thousands, now not so much in favor of
Europe but
in defense of decency.
What does it
mean to come to the Maidan? The square is located close to some of the
major
buildings of government, and is now a traditional site of protest.
Interestingly, the word maidan exists in Ukrainian but not in Russian,
but even
people speaking Russian use it because of its special implications. In
origin
it is just the Arabic word for “square,” a public place. But a maidan
now means
in Ukrainian what the Greek word agora means in English: not just a
marketplace
where people happen to meet, but a place where they deliberately meet,
precisely in order to deliberate, to speak, and to create a political
society.
During the protests the word maidan has come to mean the act of public
politics
itself, so that for example people who use their cars to organize
public
actions and protect other protestors are called the automaidan.
The
protesters represent every group of Ukrainian citizens: Russian
speakers and
Ukrainian speakers (although most Ukrainians are bilingual), people
from the
cities and the countryside, people from all regions of the country,
members of
all political parties, the young and the old, Christians, Muslims, and
Jews.
Every major Christian denomination is represented by believers and most
of them
by clergy. The Crimean Tatars march in impressive numbers, and Jewish
leaders
have made a point of supporting the movement. The diversity of the
Maidan is
impressive: the group that monitors hospitals so that the regime cannot
kidnap
the wounded is run by young feminists. An important hotline that
protesters
call when they need help is staffed by LGBT activists.
On January
16, the Ukrainian government, headed by President Yanukovych, tried to
put an
end to Ukrainian civil society. A series of laws passed hastily and
without
following normal procedure did away with freedom of speech and
assembly, and
removed the few remaining checks on executive authority. This was
intended to
turn Ukraine into a dictatorship and to make all participants in the
Maidan, by
then probably numbering in the low millions, into criminals. The result
was
that the protests, until then entirely peaceful, became violent.
Yanukovych
lost support, even in his political base in the southeast, near the
Russian
border.
After weeks
of responding peacefully to arrests and beatings by the riot police,
many Ukrainians
had had enough. A fraction of the protesters, some but by no means all
representatives of the political right and far right, decided to take
the fight
to the police. Among them were members of the far-right party Svoboda
and a new
conglomeration of nationalists who call themselves the Right Sector
(Pravyi
Sektor). Young men, some of them from right-wing groups and others not,
tried
to take by force the public spaces claimed by the riot police. Young
Jewish men
formed their own combat group, or sotnia, to take the fight to the
authorities.
Although
Yanukovych rescinded most of the dictatorship laws, lawless violence by
the
regime, which started in November, continued into February. Members of
the
opposition were shot and killed, or hosed down in freezing temperatures
to die
of hypothermia. Others were tortured and left in the woods to die.
During the
first two weeks of February, the Yanukovych regime sought to restore
some of
the dictatorship laws through decrees, bureaucratic shortcuts, and new
legislation.
On February 18, an announced parliamentary debate on constitutional
reform was
abruptly canceled. Instead, the government sent thousands of riot
police
against the protesters of Kiev. Hundreds of people were wounded by
rubber
bullets, tear gas, and truncheons. Dozens were killed.
The future
of this protest movement will be decided by Ukrainians. And yet it
began with
the hope that Ukraine could one day join the European Union, an
aspiration that
for many Ukrainians means something like the rule of law, the absence
of fear,
the end of corruption, the social welfare state, and free markets
without
intimidation from syndicates controlled by the president.
The course
of the protest has very much been influenced by the presence of a rival
project, based in Moscow, called the Eurasian Union. This is an
international
commercial and political union that does not yet exist but that is to
come into
being in January 2015. The Eurasian Union, unlike the European Union,
is not
based on the principles of the equality and democracy of member states,
the
rule of law, or human rights.
On the
contrary, it is a hierarchical organization, which by its nature seems
unlikely
to admit any members that are democracies with the rule of law and
human
rights. Any democracy within the Eurasian Union would pose a threat to
Putin’s
rule in Russia. Putin wants Ukraine in his Eurasian Union, which means
that
Ukraine must be authoritarian, which means that the Maidan must be
crushed.
The
dictatorship laws of January 16 were obviously based on Russian models,
and
were proposed by Ukrainian legislators with close ties to Moscow. They
seem to
have been Russia’s condition for financial support of the Yanukovych
regime.
Before they were announced, Putin offered Ukraine a large loan and
promised
reductions in the price of Russian natural gas. But in January the
result was
not a capitulation to Russia. The people of the Maidan defended
themselves, and
the protests continue. Where this will lead is anyone’s guess; only the
Kremlin
expresses certainty about what it all means.
The protests
in the Maidan, we are told again and again by Russian propaganda and by
the
Kremlin’s friends in Ukraine, mean the return of National Socialism to
Europe.
The Russian foreign minister, in Munich, lectured the Germans about
their
support of people who salute Hitler. The Russian media continually make
the
claim that the Ukrainians who protest are Nazis. Naturally, it is
important to
be attentive to the far right in Ukrainian politics and history. It is
still a
serious presence today, although less important than the far right in
France,
Austria, or the Netherlands. Yet it is the Ukrainian regime rather than
its
opponents that resorts to anti-Semitism, instructing its riot police
that the
opposition is led by Jews. In other words, the Ukrainian government is
telling
itself that its opponents are Jews and us that its opponents are Nazis.
The strange
thing about the claim from Moscow is the political ideology of those
who make
it. The Eurasian Union is the enemy of the European Union, not just in
strategy
but in ideology. The European Union is based on a historical lesson:
that the
wars of the twentieth century were based on false and dangerous ideas,
National
Socialism and Stalinism, which must be rejected and indeed overcome in
a system
guaranteeing free markets, free movement of people, and the welfare
state.
Eurasianism, by contrast, is presented by its advocates as the opposite
of
liberal democracy.
The Eurasian
ideology draws an entirely different lesson from the twentieth century.
Founded
around 2001 by the Russian political scientist Aleksandr Dugin, it
proposes the
realization of National Bolshevism. Rather than rejecting totalitarian
ideologies, Eurasianism calls upon politicians of the twenty-first
century to
draw what is useful from both fascism and Stalinism. Dugin’s major
work, The
Foundations of Geopolitics, published in 1997, follows closely the
ideas of
Carl Schmitt, the leading Nazi political theorist. Eurasianism is not
only the
ideological source of the Eurasian Union, it is also the creed of a
number of
people in the Putin administration, and the moving force of a rather
active
far-right Russian youth movement. For years Dugin has openly supported
the
division and colonization of Ukraine.
The point
man for Eurasian and Ukrainian policy in the Kremlin is Sergei Glazyev,
an
economist who like Dugin tends to combine radical nationalism with
nostalgia
for Bolshevism. He was a member of the Communist Party and a Communist
deputy
in the Russian parliament before cofounding a far-right party called
Rodina, or
Motherland. In 2005 some of its deputies signed a petition to the
Russian
prosecutor general asking that all Jewish organizations be banned from
Russia.
Later that
year Motherland was banned from taking part in further elections after
complaints that its advertisements incited racial hatred. The most
notorious
showed dark-skinned people eating watermelon and throwing the rinds to
the
ground, then called for Russians to clean up their cities. Glazyev’s
book
Genocide: Russia and the New World Order claims that the sinister
forces of the
“new world order” conspired against Russia in the 1990s to bring about
economic
policies that amounted to “genocide.” This book was published in
English by
Lyndon LaRouche’s magazine Executive Intelligence Review with a preface
by
LaRouche. Today Executive Intelligence Review echoes Kremlin
propaganda,
spreading the word in English that Ukrainian protesters have carried
out a Nazi
coup and started a civil war.
The populist
media campaign for the Eurasian Union is now in the hands of Dmitry
Kiselyov,
the host of the most important talk show in Russia, and since December
also the
director of the state-run Russian media conglomerate designed to form
national
public opinion. Best known for saying that gays who die in car
accidents should
have their hearts cut from their bodies and incinerated, Kiselyov has
taken
Putin’s campaign against gay rights and transformed it into a weapon
against
European integration. Thus when the then German foreign minister, who
is gay,
visited Kiev in December and met with Vitali Klitschko, the heavyweight
champion and opposition politician, Kiselyov dismissed Klitschko as a
gay icon.
According to the Russian foreign minister, the exploitation of sexual
politics
is now to be an open weapon in the struggle against the “decadence” of
the
European Union.
Following
the same strategy, Yanukovych’s government claimed, entirely falsely,
that the
price of closer relations with the European Union was the recognition
of gay
marriage in Ukraine. Kiselyov is quite open about the Russian media
strategy
toward the Maidan: to “apply the correct political technology,” then
“bring it
to the point of overheating” and bring to bear “the magnifying glass of
TV and
the Internet.”
Why exactly
do people with such views think they can call other people fascists?
And why
does anyone on the Western left take them seriously? One line of
reasoning
seems to run like this: the Russians won World War II, and therefore
can be
trusted to spot Nazis. Much is wrong with this. World War II on the
eastern front
was fought chiefly in what was then Soviet Ukraine and Soviet Belarus,
not in
Soviet Russia. Five percent of Russia was occupied by the Germans; all
of
Ukraine was occupied by the Germans. Apart from the Jews, whose
suffering was
by far the worst, the main victims of Nazi policies were not Russians
but
Ukrainians and Belarusians. There was no Russian army fighting in World
War II,
but rather a Soviet Red Army. Its soldiers were disproportionately
Ukrainian,
since it took so many losses in Ukraine and recruited from the local
population. The army group that liberated Auschwitz was called the
First
Ukrainian Front.
The other
source of purported Eurasian moral legitimacy seems to be this: since
the
representatives of the Putin regime only very selectively distanced
themselves
from Stalinism, they are therefore reliable inheritors of Soviet
history, and
should be seen as the automatic opposite of Nazis, and therefore to be
trusted
to oppose the far right.
Again, much
is wrong about this. World War II began with an alliance between Hitler
and
Stalin in 1939. It ended with the Soviet Union expelling surviving Jews
across
its own border into Poland. After the founding of the State of Israel,
Stalin
began associating Soviet Jews with a world capitalist conspiracy, and
undertook
a campaign of arrests, deportations, and murders of leading Jewish
writers.
When he died in 1953 he was preparing a larger campaign against Jews.
After
Stalin’s death communism took on a more and more ethnic coloration,
with people
who wished to revive its glories claiming that its problem was that it
had been
spoiled by Jews. The ethnic purification of the communist legacy is
precisely
the logic of National Bolshevism, which is the foundational ideology of
Eurasianism today. Putin himself is an admirer of the philosopher Ivan
Ilin,
who wanted Russia to be a nationalist dictatorship.
What does it
mean when the wolf cries wolf? Most obviously, propagandists in Moscow
and Kiev
take us for fools—which by many indications is quite justified.
More subtly,
what this campaign does is attempt to reduce the social tensions in a
complex
country to a battle of symbols about the past. Ukraine is not a theater
for the
historical propaganda of others or a puzzle from which pieces can be
removed.
It is a major European country whose citizens have important cultural
and
economic ties with both the European Union and Russia. To set its own
course,
Ukraine needs normal public debate, the restoration of parliamentary
democracy,
and workable relations with all of its neighbors. Ukraine is full of
sophisticated and ambitious people. If people in the West become caught
up in
the question of whether they are largely Nazis or not, then they may
miss the
central issues in the present crisis.
In fact,
Ukrainians are in a struggle against both the concentration of wealth
and the
concentration of armed force in the hands of Viktor Yanukovych and his
close
allies. The protesters might be seen as setting an example of courage
for
Americans of both the left and the right. Ukrainians make real
sacrifices for
the hope of joining the European Union. Might there be something to be
learned
from that among Euroskeptics in London or elsewhere? This is a dialogue
that is
not taking place.
The history
of the Holocaust is part of our own public discourse, our agora, or
maidan. The
current Russian attempt to manipulate the memory of the Holocaust is so
blatant
and cynical that those who are so foolish to fall for it will one day
have to
ask themselves just how, and in the service of what, they have been
taken in.
If fascists take over the mantle of antifascism, the memory of the
Holocaust
will itself be altered. It will be more difficult in the future to
refer to the
Holocaust in the service of any good cause, be it the particular one of
Jewish
history or the general one of human rights.
—February
19, 2014
Tin
Văn scan hai bài trên The Economist liên quan vụ
Ukraine, từ báo giấy.
Jerome
Sessini/Magnum Photos
Wounded
protester, Kiev, Ukraine, February 2014
Người biểu
tình bị thương Kiev, Ukraine, February 2014
Betrayed
Trúng Quả Lừa
Charles
Simic
Every time I
see a large crowd of people on TV or in a newspaper, demonstrating
against some
autocratic government, I have mixed feelings: admiration for their
willingness
and bravery to take a stand, and a foreboding that nothing will come
out of the
effort. This sad conclusion comes from seeing too many worthy causes
and mass movements
fizzle out over the years. But even by that grim reality the defeat of
democracy movements across the Middle East and North Africa, following
protests
that brought out millions of people, is staggering. Not that these were
the
only places where crowds were demanding change. There were mass
demonstrations
in Greece, Bulgaria, Mexico, Brazil, Peru, Spain, Portugal, and many
other
countries, caused by the global economic crisis and governments
instituting
austerity measures, but what has happened in places like Syria and
Egypt and
now Ukraine is more serious, since protesters have questioned the
legitimacy of
the state and made demands for fundamental reform or the overthrow of
the men
and institutions who stand in the way of popular will.
Although most
of us know little about the history and culture of these countries, we
have
seen the faces of protesters, old and young, and from all walks of
life; and
although they may look different than our own compatriots, we can
understand
their anger and disgust with the political system they have been living
under
and their determination and vulnerability as they confront armed
representatives of a corrupt state. How exhilarating it was in 2011 to
see
hundreds of thousands of people pouring into the streets and scaring
the hell
out of those in power. It made me recall the heady days of protests
against the
wars in Vietnam and Iraq, the naïve conviction we had as participants
that our
voices would be heard and would prevail against what seemed to us then,
and proved
subsequently to be, acts of moral and strategic idiocy, leading to
slaughter of
countless of human beings and destruction of their countries.
Nonetheless,
for weeks, and even months, watching the crowds at Tahrir Square and
elsewhere
we were hopeful. Their demands appeared not only reasonable, but
irreversible,
even though there were plenty of signs that those in power intended to
strike
back. I remember, for example, seeing on TV a clip of a demonstration
in
Bahrain, or in some other Gulf State, where the following scene took
place. A
distinguished-looking elderly man in a white suit stepped out of the
crowd of
demonstrators and approached a platoon of armed soldiers with their
rifles
pointed. He was speaking to them calmly when, without any warning, one
of the
soldiers lifted his weapon and shot the man in the head. There was
plenty more
violence everywhere during the months of the so-called Arab Spring, but
what
particularly caught my eye was the brutality the policeman and soldiers
reserved for women and students in the crowd. It would be replayed a
few months
later in the scenes of cops beating and spraying with mace young women
during
the Occupy Wall Street demonstrations in our cities. One could feel the
pleasure that inflicting pain gave these men and the hatred they bore
for these
disobedient children of their fellow citizens, as they worked up a
sweat
kicking and pummeling them.
That’s why
I’m wary of the politicians and op-ed page writers who routinely
express shock
and outrage at the brutal treatment of demonstrators in other parts of
the
world. They never seem to notice how we treat them at home or how our
soldiers
deal with them in the countries we’ve been occupying lately. The
farther away
the injustice is, one might say, the louder their voices are, though
even there
they tend to be selective and preach humanitarian aid only when it
suits our
interests. If the regime doing the beating is one of our allies, not a
peep
will be heard from anyone in Washington. If not, than their usual
advice for
putting a stop to the mistreatment of protesters is military
intervention. To
hear someone like Senator John McCain tell it, all we need to do in
these
countries is drop a lot of bombs and freedom and democracy will emerge
from the
wreckage, as they did, I presume, in Iraq, Afghanistan, and Libya. He
and other
enthusiasts of military interventions have no patience with anyone who
argues
that it’s not up to us to remedy every injustice in the world, or who
points
out that, when we involve ourselves, we end up killing a lot of
innocent people
and unleashing ethnic and religious passions, resulting in local and
regional
chaos we have no way of containing.
It is the
selective morality of our interventionists that offends me. They judge
acts of
violence not by their consequences, but on whether someone else or we
are the
perpetrators—if the acts are done by us they tend to have their full
approval.
Hypocrites who are blind or indifferent to their own country’s
atrocities are
not well suited for playing the part of moral conscience of the world,
especially when their claims to desire democracy in these troubled
countries
has a long and notoriously checkered history. As we have witnessed
again and
again, since we overthrew the elected government in Iran sixty years
ago, the
United States prefers to deal with countries run by autocrats and the
military,
because democracies that genuinely respond to the wishes of voters tend
to be
unpredictable and independent, and therefore are not in sync with our
strategic
and business interests.
What a sigh
of relief for Washington when the Egyptian military overthrew the
democratically elected government! Overnight, the crowds that gathered
at
Tahrir Square were forgotten and the politicians and columnists who
idealized
them the day before fell silent, even as the army and the security
forces
started shooting them in the streets and locking them up by the
thousands. As
the saying goes, we have seen this movie many times before. There are
few
things that never change in this world of ours, but one of them happens
to be
the near certainty that those who raise their voices against injustice
get
betrayed in the end.
March 21,
2014, 9:45 a.m.
Bài viết
này
cũng có thể coi như lời ai điếu cho những kẻ đã tham gia biểu tình
"phản chiến", Mỹ cút, Ngụy nhào, VC Bắc Kít vô lẹ lên, trên đường phố
Sài Gòn ngày nào
Đi tìm phê
bình gia Mít
Thầy Kuốc,
do có đọc điệc gì đâu, toàn phán nhảm. Đây là những vấn đề liên quan
đến chuyên
môn, phải là 1 sử gia, ít ra, thì mới dám đụng vô những vấn đề như vầy.
Điếc đếch sợ
súng. Phán liều lĩnh như thế này, thì đúng là hết thuốc chữa!
Sử gia, ít
ra. Quả đúng như thế. Sử gia, giỏi lắm thì cũng chỉ rành quá khứ, những
gì xẩy
ra rồi. Phải là nhà văn, nhà thơ thì mới tiên đoán ra được chuyện sẽ
xẩy ra.
Làm sao mà lại có 1 ông
như TTT, chưa từng ra nước ngoài, trước 1975, vậy mà tưởng
tượng ra 1 ông Mít bỏ chạy cuộc chiến, để rồi bò về để chết vì đạn của
Ngụy, vì
lầm ông là VC.
Có tên Mít nào làm được chuyện đó chưa, trong đám tinh anh bỏ chạy
bợ đít VC?
TTT không
lên án mấy tên này, mà đưa ra 1 giả thuyết, về 1 cái kết cho cuộc
chiến, đúng
hơn, theo GCC.
Ghê nhất, là
trường hợp Kafka.
Như Frédéric Beigbeder,
phán, Vụ Án còn là một thứ
chuyện
“Liêu Trai” có tính tiên tri (un fantasme prophétique), như rất nhiều
cuốn sách
khác ở trong Bảng Phong Thần Cuối
Cùng. Cuốn tiểu thuyết được in và xuất bản
vào năm 1925, nhưng Kafka đã viết nó mười năm trước, tức là năm 1914,
trước khi
có cuộc cách mạng Nga, Cuộc Đệ Nhất Thế Chiến, chủ nghĩa Quốc Xã Nazi,
chủ
nghĩa Stalin: thế giới được miêu tả ở trong cuốn sách, chưa hiện hữu,
chưa “đi
vào hiện thực”. Vậy mà ông nhìn thấy! Liệu có thể coi ông là Ông Thầy
Bói
Nostradamus của thế kỷ 20?
Không phải vậy: cái thế kỷ có tên là Goulag đó chỉ
là một đứa trẻ ngoan ngoãn tuân theo lời phán bảo của ông thầy của nó,
mà thôi.
Ở đây, là một
giả thuyết, nghe đến rởn tóc gáy lên được, và cũng hoàn toàn có tính
Kafkaien:
Liệu tất cả những trò kinh tởm của thế kỷ: chiến tranh lạnh, những
chuyện đấu tố,
luôn cả bố mẹ, hiện tượng con người có đuôi, lò thiêu, trại tập trung
cải tạo,
Solhzenitsyn, Orwell…. tất cả là đều nảy sinh từ cái đầu của một anh
chàng làm
cho một công ty bảo hiểm ở Prague? Liệu hàng triệu triệu con người chết
đó, là
để chứng minh cho sự có lý, của một cái đầu chứa đầy những ác mộng? (a)
Mới đây nhất,
là trường hợp Ukraine. Cuộc trưng cầu dân ý vừa mới xẩy ra, mà, như 1
bạn đọc chỉ
cho thấy, Adam Zagajewski đã nhìn ra rồi, qua bài thơ post trên Tin Văn
Referendum
Ukraine held
a referendum
on
independence.
It was foggy
in Paris, the weatherman
predicted a
cold and cloudy day.
I was angry
at myself, at my
narrow,
fettered life.
The Seine
was trapped between embankment walls.
Bookstores
showcased
a new
edition of Schopenhauer's
Douleurs du
monde.
Parisians
wandered through the city
hidden in
warm loden coats.
Fog
infiltrated lips and lungs
as if the
air were sobbing,
going on
about itself, about the cold dawn,
how long the
night is,
and how
ruthless stars can be.
I took a bus
toward the Bastille,
razed two
hundred years ago,
and tried to
read poems
but didn't
understand a thing.
What comes
after will be invisible
and easy.
Whatever is
hesitates between irony
and fear.
Whatever
survives will be blue
as a
guillotine's eye.
Adam
Zagajewski: Myticism for Beginners
Trưng cần
dân ý
Ukraine tổ
chức trưng cầu dân ý
về độc lập
Paris sương
mù. Nhà khí tượng tiên đoán,
một ngày lạnh
và có mây.
Tôi bực với
chính tôi
Bực cái đời
của tôi, sao chật hẹp, sao trói buộc
Con sông
Seine thì bị mắc bẫy giữa những bức tường “embankment”
Mấy tiệm
sách khoe ấn bản mới “Những nỗi đau của thế giới, của Schopenhauer”.
Đám “Pa ri
diêng” lang thang trên những phố phá của họ,
giấu mình
trong những chiếc áo ấm.
Sương mù
chui vô môi, chui vô phổi,
như thể
không gian đang xụt xùi,
lèm bèm về
chính nó, về buổi sáng sớm lạnh,
về đêm chưa
qua mà trời cũng chưa vội sáng,
về những
ngôi sao, chúng có thể tàn nhẫn tới mức nào.
Tôi chơi 1
đường xe buýt tới ngục Bastille,
cháy rực hai
trăm năm trước đây.
và cố đọc
thơ
nhưng đếch
hiểu cái chó gì.
Chuyện xẩy
ra sau đó thì sẽ vô hình,
và dễ dãi.
Bất cứ gì gì
thì ngần ngại giữa khôi hài
và sợ hãi
Bất cứ gì gì
sống sót thì sẽ xanh
như mắt máy
chém.
Note: Người
rành về cú Ukraine, theo GCC, có vẻ là Do Kh, trên FB của anh. Nhưng,
như… GCC,
anh cũng chỉ đưa ra info, links.... Bạn đọc, đọc, rồi quyết định/tiên
đoán cho
riêng mình,1 kết thúc, 1 ngõ ra cho cuộc khủng hoảng.
Riêng TV, sẽ chuyển ngữ bài của Người Kinh Tế, “Một trật tự thế
giới mới”:
The new world order. The post-Soviet world order was far from perfect,
but
Vladimir Putin's idea for replacing it is much worse.
Cái trật tự thế giới hậu-Xô Viết thì khó mà hoàn hảo được, nhưng ý nghĩ
thay thế nó, của Putin, thì còn tệ hại hơn nhiều.
Tại LHQ, ĐS
Mỹ Samantha Power tiến đến chửi ĐS Nga Churkin, "Đừng có quên Nga là
nước
thua chứ không phải là nước thắng và phải tuân thủ Mỹ", nắm lấy tay ông
này khiến ông phải giật ra và bảo "đừng có văng nước bọt vào tôi"
:-)))
https://www.youtube.com/watch?v=rnnI13Ynh0Y
Do Khiem FB
DS Mẽo tại
LHQ, Samantha Power, là tác giả cuốn “Một vấn đề từ Địa Ngục", "A
Problem
from Hell" (2002), TV đã giới thiệu.
Putin’s
Counter-Revolution
Cú
Phản Cách Mạng của Putin
James
Meek
reports from Ukraine
Đi tìm phê
bình gia Mít
Ví dụ, năm
1956, hàng ngàn dân chúng, đặc biệt là giới sinh viên và trí thức, biểu
tình
trên các đường phố ở Budapest để chống lại một số chính sách của chính
phủ
Hungary. Một số sinh viên bị bắn chết. Làn sóng công phẫn trào lên, dân
chúng
khắp nơi lại ào ào xuống đường biểu tình. Đầu tháng 11, Liên Xô tràn
quân qua
biên giới Hungary để trấn áp những người biểu tình, giúp chính phủ cộng
sản độc
tài tại Hungary khôi phục lại quyền lực. Hơn 2000 người Hungary bị giết
chết.
Khoảng 200.000 người phải chạy ra nước ngoài tị nạn. Trước biến cố ấy,
Mỹ làm
được gì? Tổng thống Dwight Eisenhower chỉ làm được một việc duy nhất là
tố cáo
những hành động trấn áp dã man của Liên Xô trước Liên Hiệp Quốc. Hết.
NHQ
Trên TV đã từng
giới thiệu 1 số bài viết, cũng đã lâu lắm rồi, về cuộc cách mạng
Budapest mà phải
bao nhiêu năm sau, nhân loại mới nhìn ra thành quả của nó: Không có nó,
là
Stalin đã nhuộm đỏ cả Âu Châu rồi.
Ngay khi nó
vừa mới xẩy ra là nhà thơ TTT đã đi 1 đường chào mừng, trước cả thế
giới!
Thầy Kuốc,
do có đọc điệc gì đâu, toàn phán nhảm. Đây là những vấn đề liên quan
đến chuyên
môn, phải là 1 sử gia, ít ra, thì mới dám đụng vô những vấn đề như vầy.
Điếc đếch sợ
súng. Phán liều lĩnh như thế này, thì đúng là hết thuốc chữa!
NQT
Tưởng Niệm Cách Mạng Hung
Có thể nhìn
thẳng vào cái chết, với hy vọng.
"It is
possible to face death with hope"
Phải đợi
một
nửa thế kỷ, nhân loại mới tìm ra tên của nó:
Một cuộc
cách mạng đạo đức.
[Bìa báo Tin
Nhanh, L'Express Inter, số đề ngày 19-25 Tháng Mười, 2006].
Trước biến cố ấy, Mỹ làm được gì? Tổng
thống Dwight Eisenhower chỉ
làm được một việc duy nhất là tố cáo những hành động trấn áp dã man của
Liên Xô
trước Liên Hiệp Quốc. Hết.
NHQ
Thầy Kuốc muốn Mẽo làm được gì?
Tổng Thống Mẽo thì là cái đéo gì ở
đây? Không lẽ ông ta cho lính Mẽo can thiệp vô Hung? Thầy chưa từng
nghe 1 tên
Bộ Trưởng Ngoại Giao Mẽo, James Baker, hình như vậy, (1) trả lời Thầy
ư:
Đếch có 1
con chó Mẽo nào kẹt ở đó hết!
Tố cáo Mẽo,
như trên, thì đúng là quá ngây thơ, và còn vọng ngoại.
Miền Nam cũng nghĩ như
thế, nên mới mất nước. Mẽo đời nào bỏ Miền Nam. Nhưng chúng bỏ, vì
chúng phải
nghĩ đến chúng trước đã.
Có khi chúng, ở đây, chỉ là một người: Nixon bỏ Miền
Nam để có được cái ghế Tổng Thống.
(1)
Viên bộ trưởng
ngoại giao Mỹ, James Baker, đã diễn tả thật là tuyệt vời, cái tính
"thực tế"
của chính sách trên, qua câu nói, khi xẩy ra những vụ nhổ cỏ thì phải
nhổ cả gốc,
làm sạch những sắc dân khác (ethnic cleaning) ở Bosnia: "Chẳng có một
con
chó Mỹ nào bị kẹt ở đó." (We don’t have a dog in this fight: Chúng ta
không có một con chó nào ở trong trận đánh này).
Bây giờ thì
khác. Khi Nga tấn công và chiếm đóng bán đảo Crimea của Ukraine, phản
ứng của Mỹ
khác hẳn. Vẫn không động binh. Nhưng cũng không phải chỉ đánh bằng võ
mồm. Tổng
thống Barack Obama tận dụng một thứ vũ khí mới, thứ vũ khí phi quân sự
(nonmilitary): kinh tế. Có thể nói, từ thời đệ nhị thế chiến đến nay,
trong tổng
số 12 tổng thống Mỹ đương đầu với những thử thách xuất phát từ Liên Xô
và sau
đó, Nga, Obama là một trong những người đầu tiên sử dụng vũ khí ấy.
NHQ
Chính trị thế
kỷ 21. Kinh thế.
Tình hình
Crimée, cho tới bi giờ, cũng chưa ai biết nó sẽ ra sao. Thầy Kuốc cứ
làm như
Obama nắm được tẩy của Putin, với vũ khí “kinh t[h]ế”.
Bài mới nhất,
trên tờ Obs, tuần lễ 20-26 Mars, 2014, thì coi như đây là chiến thắng
tạm
[trompe-l’oeil, đánh lừa con mắt], của Putin, khi cho biết, với người
dân
Crimée, đa số, nhất là giới trẻ, mừng quá, khi gia nhập Nga, tiền lương
cao
hơn, hưu nhiều hơn, hệ thống giáo dục ngon hơn. Còn tờ “Điểm Sách
London”, 20
March, 2014, trong bài viết "Putin's Counter-Revolution", James Meek
tường trình tại chỗ, thì coi đây là cú phản cách mạng của Putin, và cho
rằng có
1 quãng cách, giữa lớp trẻ, và lớp già, ở Ukraine. Giống như tại Việt
Nam, lớp
trẻ, không biết 1 tí gì về tội ác, mà chỉ biết thành quả của VC, rất
tức giận
khi có những tên phản động chống lại nhà nước, như mấy bloggers mới bị
nhà nước
VC tống vô tù. Tờ “Người Nữu Ước” thì nói tới vũ khí kinh t[h]ế của
Putin,
hơi đốt
[Ông ta có 1 thứ vũ khí không qui ước, unconventional weapon, trong kho
của
mình: vast supplies of natural gas]. Tờ này vờ luôn vũ khí "kinh t[h]ế"
của Obama!
Thầy Kuốc
đâu có đọc, mà làm sao…. đọc?
Thầy không hề biết,
thí dụ,
bài thơ của TTT, đừng nói gì những báo chí của tụi mũi lõ!
*
Riêng với
Thanh Tâm Tuyền, bài thơ Budapest mà tôi đọc được, đã trụ lại trong tôi
suốt từ
bấy đến nay. Biến cố bi thảm ở Budapest năm 1956 mà truyền thông khắp
thế giới
đã nói đến rất nhiều bằng những từ ngữ rất mạnh mẽ, thì nhà thơ của
chúng ta đã
chỉ dùng hình ảnh của đôi trẻ để mô tả cuộc đàn áp dã man tàn nhẫn đó.
Mấy câu
thơ giản dị đã gây xúc động và còn lại mãi trong lòng người thưởng
ngoạn. Xin đừng
hỏi tôi bài thơ ấy hay ở chỗ nào. Chịu. Xin chịu. Tôi không có may mắn
được đào
tạo về những lý sự thế nào là hay thế nào là không hay và điều đó cũng
đã thành
thói quen trong tôi. Cho nên tôi chỉ cần thấy được cái nào hay là đủ.
Rồi về
sau, nhiều lúc, nhiều nơi (kể cả ở nhà tù) tôi đã gặp nhiều người cũng
rất
thích bài thơ đó. Có ai đó đọc lên một câu liền có người khác phụ họa
theo, chứng
tỏ bài thơ rất phổ biến.
“Hãy cho tôi
khóc bằng mắt em,
Những cuộc
tình duyên Budapest
Hãy cho tôi
chết bằng da em,
Dưới dây
xích chiến xa tội nghiệp…”
Thảo Trường:
Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
Thanh Tâm
Tuyền,
Thanh Tâm
Tuyền,
Thanh Tâm
Tuyền. (1)
Những bình
luận hay nhất, về đủ thứ vấn đề, cả về văn học, với GCC, là của tờ
“Người Kinh
Tế”. Tất nhiên, với tình hình Crimea, thì cũng thế. Số mới nhất có tới
mấy bài
viết về cơn khủng hoảng này: Dilomacy after Crimea: The new world
order. The
Crimea Crisis: Responding to Mr. Putin. Violence in Crimea. Thường là
Gấu bỏ
qua, chỉ đọc mấy bài điểm sách, hay mục do tay Prospero giữ, 1 thứ tạp
ghi cực
cao về văn học. Nhân cú “kinh thế” của Thầy Kuốc, bèn ghé mắt đọc sơ sơ
cho biết!
Tin Văn post
bài trên “Người Kinh Tế”, để chứng minh Obama quá ẹ. Mi không hành động
bi giờ
là sau này phải trả giá. Chẳng thấy khen Tông Tông Da Đen về vũ khí
"kinh t[h]ế"
của Người.
Điểm của Người sa sút thê thảm, ảnh hưởng đến Đảng của Người, không
lẽ Thầy Kuốc không biết?
The new world order
The
post-Soviet world order was far from perfect, but Vladimir Putin's idea
for
replacing it is much worse.
IN PEOPLE'S
hearts and minds," Vladimir Putin told Russia's parliament this week,
"Crimea
has always been an inseparable part of Russia." He annexed the
peninsula
with dazzling speed and efficiency, backed by a crushing majority in a
referendum (see page 22). He calls it a victory for order and
legitimacy and a
blow against Western meddling. The reality is that Mr. Putin is a force
for
instability and strife. The founding act of his new order was to redraw
a
frontier using arguments that could be deployed to inflame territorial
disputes
in dozens of places around the world. Even if most Crimeans do want to
join
Russia, the referendum was a farce. Russia's recent conduct is often
framed
narrowly as the start of a new cold war with America. In fact it poses
a
broader threat to countries everywhere because Mr Putin has driven a
tank over
the existing world order.
The embrace of the
motherland
Foreign
policy follows cycles. The Soviet collapse ushered in a decade of
unchallenged
supremacy for the United States and the aggressive assertion of
American
values. But, puffed up by the hubris of George Bush, this "unipolar
world" choked in the dust of Iraq. Since then Barack Obama has tried to
fashion a more collaborative approach, built on a belief that America
can make
common cause with other countries to confront shared problems and
isolate wrongdoers.
This has failed miserably in Syria but shown some signs of working with
Iran. Even
in its gentler form, it is American clout that keeps sea lanes open,
borders
respected and international law broadly observed. To that extent, the
post-Soviet order has meaning.
Mr Putin is
now destroying that. He dresses up his takeover of Crimea in the garb
of
international law, arguing for instance that the ousting of the
government in
Kiev means he is no longer bound by a treaty guaranteeing Ukraine's
borders
that Russia signed in 1994, when Ukraine gave up nuclear weapons. But
international law depends on governments inheriting the rights and
duties of
their predecessors. Similarly, he has invoked the principle that he
must
protect his "compatriots"- meaning anybody he chooses to define as
Russian-wherever they are. Against all evidence, he has denied that the
unbadged troops who took control of Crimea were Russian. That
combination of
protection and subterfuge is a formula for intervention in any country
with a
minority, not just a Russian one.
Brandishing
fabricated accounts of Ukrainian fascists threatening Crimea, he has
defied the
principle that intervention abroad should be a last resort in the face
of
genuine suffering. He cites NATO'S bombing of Kosovo in 1994 as a
precedent, but
that came after terrible violence and exhaustive efforts at the
UN-which Russia
blocked. Even then Kosovo was not, like Crimea, immediately annexed,
but
seceded nine years later.
Mr Putin's
new order, in short, is built on revanchism, a reckless disdain for the
truth
and the twisting of the law to mean whatever suits those in power. That
makes
it no order at all.
Sadly, too
few people understand this. Plenty of countries resent American primacy
and
Western moralising. But they would find Mr Putin's new order far worse.
Small
countries thrive in an open system of rules, albeit imperfect ones. If
might is
right, they have much to fear, especially if they must contend with an
aggressive regional power. Larger countries, especially the new giants
of the
emerging world, face less threat of bullying, but an anarchic,
mistrustful
world would harm them all the same. If international agreements are
robbed of
their meaning, India could more easily be sucked into a clash of arms
with China
over Arunachal Pradesh or Ladakh with Pakistan. If unilateral secession
is
acceptable, Turkey will find it harder to persuade its Kurds that their
future
lies in making peace. Egypt and Saudi Arabia want Iran's regional
ambitions to
be tamped down, not fed by the principle that it can intervene to help
Shia Muslims
across the Middle East.
Even China
should pause. Tactically, Crimea ties it in knots. The precedent of
secession
is anathema, because of Tibet; the principle of unification is
sacrosanct,
because of Taiwan. Strategically, though, China's interests are clear.
For
decades, it has sought to rise peacefully within the system, avoiding
the competition
that an upstart Germany launched against Britain in the 19th century
and which
ended in war. But peace is elusive in Mr Putin's world, because
anything can
become a pretext for action, and any perceived aggression demands a
riposte.
Act now or pay later
For Mr
Obama, this is a defining moment: he must lead, not just co-operate.
But Crimea
should also matter to the rest of the world. Given what is at stake,
the
response has so far been weak and fragmented. China and India have more
or less
stood aside. The West has imposed visa sanctions and frozen a few
Russians'
assets. The targets call this a badge of honor. At the very least, the
measures
must start to exceed expectations. Asset freezes can be powerful,
because, as
the Iran sanctions showed, international finance dreads being caught up
in America's
regulatory machinery. Mr Putin's kleptocratic friends would yelp if
Britain
made London unwelcome to Russian money linked to the regime (see page
25).
France should withhold its arms sales to Russia; and, in case eastern
Ukraine is
next, Germany must be prepared to embargo Russian oil and gas. Planning
should
start right now to lessen Europe's dependence on Russian energy and to
strengthen NATO. Ukraine needs short-term money, to stave off collapse,
and longer-term
reforms, with the help of the IMF, backed by as much outside advice as
the
country will stomach. As a first step, America must immediately pay its
dues to
the fund, which have been blocked by Congress for months. Even if the
West is
prepared to take serious measures against Mr Putin, the world's rising
powers
may not be inclined to condemn him. But instead of acquiescing in his
illegal annexation
of Crimea, they should reflect on what kind of a world order they want
to live
under. Would they prefer one in which states by and large respect
international
agreements and borders? Or one in which words are bent, borders ignored
and
agreements broken at will? •
Tuần rồi, Vladimir
Putin bảo Quốc hội Nga rằng: “Trong tâm tư người dân, Krym mãi là một
phần
không thể tách rời Nga.” Và thế là Putin đã sáp nhập bán đảo Krym vào
Nga với
tốc độ và cách làm hiệu quả đến chóng mặt, với sự hậu thuẫn của đa số
áp đảo
qua trưng cầu dân ý. Putin gọi đó là thắng lợi của trật tự, của chính
danh, và
là một đòn đau đánh vào bàn tay thập thò can thiệp từ phương Tây.
Nhưng, coi vậy mà
không phải vậy, Putin không đại diện cho trật tự mà đại diện cho bất ổn
và đấu
đá. Việc đầu tiên Putin làm để đặt nền móng cho trật tự mới là vẽ lại
đường
biên giới dựa trên những lý lẽ tuỳ tiện, những lý lẽ rất dễ bị lợi dụng
để thổi
bùng ngọn lửa tranh chấp lãnh thổ tại hàng chục nơi khác trên thế giới.
Thêm
nữa, dù hầu hết người Krym muốn theo Nga, cuộc trưng cầu dân ý vừa rồi
cũng chỉ
là một trò hề. Hành xử của Nga gần đây thường được dư luận gán cho một
cách
phiến diện rằng đó là khởi đầu cho một cuộc chiến tranh lạnh mới giữa
Nga và
Mỹ. Thực ra, hành xử đó đặt ra một đe doạ rộng lớn hơn, và là đe doạ
cho bất cứ
quốc gia nào ở bất cứ đâu, vì Putin vừa ngang nhiên lái xe tăng, cán
bừa rồi
ngồi chồm hổm trên trật tự thế giới hiện có.
Đất mẹ xiết vào
lòng
Chính sách đối
ngoại thường đi theo chu kỳ. Chế độ Xô-viết sụp đổ mở đường cho một
thập niên
thống trị vô đối của Mỹ và sự khẳng định rình rang những giá trị Mỹ.
Nhưng thế
giới “duy ngã độc tôn” này, được thổi phồng lên bằng sự ngạo mạn vô lối
của
George Bush, đã phải hụt hơi ngạt thở trong khói bụi từ cuộc chiến
Iraq. Từ đó,
Barack Obama đã tìm cách đưa ra một đường lối đa phương hơn, có người
có ta
hơn, xây dựng trên niềm tin rằng Mỹ có thể đứng chung chiến tuyến với
các nước
khác để đương đầu với những vấn nạn chung và để cùng nhau cô lập kẻ ác.
Đường
lối này thất bại thảm hại tại Syria, nhưng vẫn có dấu hiệu cho thấy
hiệu quả
khi áp dụng tại Iran. Tuy ảnh hưởng đã giảm nhưng phải nói rằng chính
uy thế
của Mỹ đã giúp cho đường hàng hải thế giới vẫn còn thông thoáng, các
biên giới
còn được tôn trọng và luật pháp quốc tế hầu hết được tuân thủ. Xét ở
mức độ đó thì
trật tự hậu Xô-viết rõ là có ý nghĩa của nó.
Nhưng Putin đang
phá huỷ trật tự này. Ông cố khoác cho việc sáp nhập Krym chiếc áo luật
pháp
quốc tế, chẳng hạn như lập luận rằng việc loại bỏ chính quyền ở Kiev
vừa qua
khiến ông không còn bị trói buộc bởi thoả ước đảm bảo sự vẹn toàn lãnh
thổ
Ukraine, một thoả ước Nga đã ký năm 1994 khi Ukraine từ bỏ vũ khí hạt
nhân.
Nhưng luật pháp quốc tế chỉ có nghĩa khi chính quyền đến sau thực thi
những
quyền hạn và trách nhiệm được chính quyền trước trao lại. Chưa hết,
Putin còn
viện dẫn nguyên lý rằng phải bảo vệ “đồng bào” mình – tức tất cả những
ai ông
tự tiện gọi là người Nga – bất chấp họ đang ở đâu. Chưa hết, chứng cớ
một đường
miệng lưỡi một nẻo, Putin còn chối bay chối biến rằng binh lính mang
quân phục
không phù hiệu nắm quyền kiểm soát tại Krym không phải là lính Nga. Sự
kết hợp
quái gở của hai vế, một bảo vệ và một dối trá, quả là thứ công thức phù
thủy dễ
dùng để can thiệp vào bất cứ quốc gia nào có sắc dân thiểu số cư ngụ,
không cứ
là người Nga.
Khi rêu rao những
chuyện ngụy tạo trắng trợn về bọn phát xít ở Ukraine đe doạ Krym, Putin
đã xem
thường nguyên tắc rằng: sự can thiệp ở nước ngoài chỉ nên dùng như biện
pháp
cuối cùng trong trường hợp có đại họa. Putin biện minh bằng cách viện
dẫn vụ
NATO đánh bom Kosovo năm 1999 như tiền lệ. Nhưng cần biết rằng vụ NATO
can
thiệp vào Kosovo chỉ diễn ra sau khi có bạo động dữ dội và Liên Hiệp
Quốc đã
phải bó tay sau bao nhiêu nỗ lực bất thành – và bất thành cũng vì Nga
cản trở.
Ngay cả trong trường hợp này, Kosovo cũng không như Krym bị sáp nhập
lập tức,
Kosovo chín năm sau đó mới ly khai.
Trật tự mới kiểu
Putin, tóm lại, được xây dựng trên chính sách thôn tính phục thù, sự
trắng trợn
xem thường sự thật, và việc bẻ cong luật pháp cho vừa vặn với những gì
kẻ nắm
quyền lực mong muốn. Trật tự kiểu đó có cũng như không.
Buồn thay, quá ít
người hiểu điều này. Rất nhiều quốc gia bực bội với vị thế kẻ cả của Mỹ
và với
Châu Âu thích lên lớp dạy đời. Nhưng rồi họ sẽ thấy trật tự mới kiểu
Putin còn
tệ hại hơn nhiều. Các quốc gia nhỏ chỉ có thể phát triển tốt trong hệ
thống
luật lệ công khai minh bạch dù chưa hoàn hảo. Nếu giờ đây nguyên lý
mạnh được
yếu thua lên ngôi thì họ sẽ có rất nhiều điều phải sợ, nhất là khi phải
đối phó
với một cường quốc khu vực hay gây hấn bắt nạt. Trong khi đó, các quốc
gia lớn
hơn, đặc biệt là các cường quốc đang lên trong thế giới mới, tuy có ít
nguy cơ
bị bắt nạt, nhưng không phải vì thế mà một thế giới vô chính phủ trong
đó không
ai tin ai sẽ không có tác động xấu với họ. Vì nếu ý nghĩa của các thỏa
ước quốc
tế bị chà đạp, thì Ấn Độ chẳng hạn sẽ rất dễ bị cuốn vào cuộc xung đột
vũ trang
với Trung Quốc vì vùng đất tranh chấp Arunachal Pradesh hoặc Ladakh.
Cũng vậy,
nếu việc đơn phương ly khai được chấp nhận dễ dàng, thì Thổ Nhĩ Kỳ
chẳng hạn sẽ
rất khó thuyết phục sắc dân Kurds trong nước mình rằng tương lai của họ
sẽ tốt
hơn khi họ chung tay xây dựng hòa bình. Tương tự, Ai Cập và Ả Rập Saudi
cũng
muốn tham vọng khu vực của Iran bị kiềm chế, chứ không phải được thổi
bùng lên
nhờ nguyên lý cho rằng người ngoài có thể can thiệp để cứu giúp sắc dân
thiểu
số Hồi giáo Shia sống khắp vùng Trung Đông.
Ngay Trung Quốc
cũng cần nghĩ lại. Về mặt chiến thuật, có thể nói Krym đã đưa Trung
Quốc vào
tình thế khó ăn khó nói. Vì một tiền lệ về ly khai sẽ là lời nguyền rủa
đen
đủi, trong khi Trung Quốc hiện có Tây Tạng đang muốn ly khai; ngược
lại, nguyên
lý thống nhất đất nước lại là bất khả xâm phạm, trong khi Trung Quốc
hiện có
Đài Loan chưa thể thống nhất. Tuy vậy, về mặt chiến lược, quyền lợi của
Trung
Quốc rất rõ ràng. Nhiều thập niên qua, Trung Quốc tìm cách trỗi dậy
trong hòa
bình và lặng lẽ, tránh né một cuộc xung đột như nước Đức hung hăng đã
kích hoạt
chống lại nước Anh vào thế kỷ 19 để cuối cùng kết thúc trong chiến
tranh.
Nhưng, hoà bình trong thế giới của Putin lại là điều khó thành, vì bất
cứ thứ
gì cũng có thể trở thành cái cớ để động thủ, và bất cứ sự gây hấn tưởng
tượng
nào cũng có thể dẫn đến một màn phản công.
Hành động trước hay
trả giá sau
Đối với Obama, đây
là giờ phút quyết định: Obama phải thực sự lãnh đạo, thay vì chỉ hợp
tác. Nhưng
Krym không chỉ là việc của Mỹ, mà còn là của cả thế giới. Với những tai
họa
nhãn tiền, phản ứng của các nước đến nay nói chung đều yếu và manh mún.
Trung
Quốc và Ấn Độ hầu như chỉ đứng bên lề. Phương Tây thì áp đặt cấm vận
visa và
phong tỏa tài sản của một số phần tử Nga. Nhưng những phần tử bị nhắm
tới thì
lại coi đó là huy hiệu của danh dự.
Ít nhất, việc trừng
phạt cũng cần bắt đầu cứng rắn hơn, vượt ngoài dự kiến hơn. Phong tỏa
tài sản
có thể tác động mạnh, vì như vụ cấm vận Iran trước đây cho thấy, giới
tài chánh
quốc tế rất sợ dính líu tới guồng máy luật lệ của Mỹ. Cũng vậy, các
quan tham
của Putin sẽ la lối ầm lên nếu nước Anh không cho London nhận đồng tiền
có liên
hệ với chế độ tại Nga. Pháp nên hoãn việc bán vũ khí cho Nga; và trong
trường
hợp phía đông Ukraine là nạn nhân kế tiếp của Nga, thì nước Đức nên sẵn
sàng
cấm vận xăng dầu và khí đốt Nga. Cần lên kế hoạch ngay bây giờ để giảm
mức lệ
thuộc của Châu Âu vào nguồn cung cấp năng lượng từ Nga và để NATO mạnh
hơn.
Trong ngắn hạn,
Ukraine cần nhiều tiền để cứu vãn kinh tế khỏi sụp đổ, và cần nhiều cải
cách
dài hạn với giúp đỡ của IMF, cùng những tư vấn từ nước ngoài mà Ukraine
có thể
chấp nhận được. Để đi bước đầu tiên theo hướng này, Mỹ cần lập tức
thanh toán
các khoản nợ cho IMF, khoản thanh toán đã bị Quốc hội ngăn chặn nhiều
tháng
nay.
Tuy nhiên, dù cho
phương Tây có sẵn sàng dùng những biện pháp cứng rắn chống Putin chăng
nữa thì
những cường quốc đang trỗi dậy vẫn có thể không mấy hứng thú trong việc
lên án
Putin. Nhưng, thay vì im hơi lặng tiếng trước vụ sáp nhập phi pháp
Krym, những
cường quốc đang trỗi dậy kia rất nên suy nghĩ xem họ đang muốn sống
trong một
trật tự thế giới như thế nào. Họ muốn một trật tự trong đó hầu hết các
quốc gia
tôn trọng những thỏa ước quốc tế và biên giới đã vạch? Hay là họ thích
một trật
tự trong đó cam kết bị bẻ cong, biên giới bị xâm phạm và thỏa ước cứ
thích là
xé?
Nguồn:
“The new world order”, The Economist,
số ra
ngày 22/3/2014
Bản tiếng Việt ©
2014 Phan Trinh & pro&contra
Đi tìm phê
bình gia Mít
Ví dụ, năm
1956, hàng ngàn dân chúng, đặc biệt là giới sinh viên và trí thức, biểu
tình
trên các đường phố ở Budapest để chống lại một số chính sách của chính
phủ
Hungary. Một số sinh viên bị bắn chết. Làn sóng công phẫn trào lên, dân
chúng
khắp nơi lại ào ào xuống đường biểu tình. Đầu tháng 11, Liên Xô tràn
quân qua
biên giới Hungary để trấn áp những người biểu tình, giúp chính phủ cộng
sản độc
tài tại Hungary khôi phục lại quyền lực. Hơn 2000 người Hungary bị giết
chết.
Khoảng 200.000 người phải chạy ra nước ngoài tị nạn. Trước biến cố ấy,
Mỹ làm
được gì? Tổng thống Dwight Eisenhower chỉ làm được một việc duy nhất là
tố cáo
những hành động trấn áp dã man của Liên Xô trước Liên Hiệp Quốc. Hết.
NHQ
Trên TV đã từng
giới thiệu 1 số bài viết, cũng đã lâu lắm rồi, về cuộc cách mạng
Budapest mà phải
bao nhiêu năm sau, nhân loại mới nhìn ra thành quả của nó: Không có nó,
là
Stalin đã nhuộm đỏ cả Âu Châu rồi.
Ngay khi nó
vừa mới xẩy ra là nhà thơ TTT đã đi 1 đường chào mừng, trước cả thế
giới!
Thầy Kuốc,
do có đọc điệc gì đâu, toàn phán nhảm. Đây là những vấn đề liên quan
đến chuyên
môn, phải là 1 sử gia, ít ra, thì mới dám đụng vô những vấn đề như vầy.
Điếc đếch sợ
súng. Phán liều lĩnh như thế này, thì đúng là hết thuốc chữa!
NQT
Tưởng Niệm Cách Mạng Hung
Có thể nhìn
thẳng vào cái chết, với hy vọng.
"It is
possible to face death with hope"
Phải đợi một
nửa thế kỷ, nhân loại mới tìm ra tên của nó:
Một cuộc
cách mạng đạo đức.
[Bìa báo Tin
Nhanh, L'Express Inter, số đề ngày 19-25 Tháng Mười, 2006].
Chuyện gì xẩy
ra tại Hung, vào năm 1956?
Đây là tóm tắt
về nó, tại Tây Phương, trích Bách Khoa Toàn Thư Columbia Enclycopedia.
Vào ngày 23
Tháng Mười, 1956, một cuộc cách mạng Chống Cộng của dân chúng, tập
trung tại
Budapest, bùng nổ tại Hungary. Một chính quyền mới được thành lập, dưới
quyền
Imre Nagy, tuyên bố Hungary trung lập, rút ra khỏi Hiệp Ước Warsaw, kêu
gọi LHQ
cứu trợ. Tuy nhiên, Janos Kadar, một trong những bộ trưởng của Nagy,
thành lập
một chính quyền phản cách mạng, và yêu cầu sự giúp đỡ quân sự của Liên
Xô.
Trong cuộc chiến đấu tàn bạo và quyết liệt, lực luợng Xô Viết dẹp tan
cuộc cách
mạng. Nagy và những bộ trưởng của ông bị bắt giữ và sau đó, bị hành
quyết. Chừng
190 ngàn người tị nạn rời bỏ xứ sở, Kadar trở thành thủ tướng, của chế
độ Cộng
Sản.
*
Ở trong căn
phòng của Lukacs, là ở trung tâm trận bão của thế kỷ chúng ta. Ông bị
quản thúc
tại gia, khi tôi tới gặp ông ở Budapest. Tôi thì còn quá trẻ, và sướt
mướt
không thể tin được, và khi tôi phải rời đi, nước mắt tôi ràn rụa: ông
bị quản
thúc tại gia còn tôi thì đi về với an toàn, với tiện nghi ở Princeton
hay bất cứ
một thứ gì. Tôi phải đưa ra một nhận xét nào đó, và sự khinh miệt hằn
trên
khuôn mặt ông. Ông nói, "Bạn chẳng hiểu gì hết, về mọi điều chúng ta
nói.
Trong cái ghế này, chỉ ba mươi phút nữa thôi, sẽ là Kadar," tên độc tài
đã
ra lệnh quản thúc tại gia đối với ông.
"Hắn ta
là sinh viên của tôi. Chúng tôi đã cùng làm việc, qua từng câu, từng
câu, cuốn
Hiện Tượng Luận của Hegel. Bạn không hiểu được đâu."
Thực như vậy,
tôi đã không hiểu, tôi "đã" đã không hiểu. Chỉ mỗi câu chuyện này
không thôi đã cải tạo tôi về cái thế giới mê cung kỳ quái của tầng lớp
trí thức
Mác-xít, và sự độc ác, và tính nghiêm trọng theo đó mọi trò như thế này
diễn
ra.
Steiner trả
lời Paris Review.
Phỏng Vấn
Steiner I
*
Trong những
lỗi lầm của Sartre, có vụ liên quan tới cuộc khởi nghĩa Budapest của
nhân dân
Hungary, vào năm 1956. "Một ô nhục", theo một tác giả trên tờ Le
Monde, vào năm 1996, khi Sartre "chấp thuận" (approuver) chuyện chiến
xa Liên Xô đè bẹp cuộc cách mạng. Trên tờ L’Express số đề ngày
9.11.1956,
Sartre, trong một cuộc phỏng vấn, trước tiên đã "kết án, không chút dè
dặt",
sự can thiệp của Liên Xô vào Hungary, coi đây là "một lỗi lầm không thể
tưởng
tượng được", "một tội ác"… nhưng cần phải đọc hết cuộc phỏng vấn.
Lẽ dĩ nhiên,
quyết định của điện Cẩm Linh là "một lỗi lầm không thể tưởng tượng
được",
nhưng… "tất cả cho thấy rằng, cuộc nổi dậy "có chiều hướng phá huỷ
toàn bộ hạ tầng cơ sở xã hội". Đó là "một tội ác", nhưng…
"trong những nhóm người này, kết hợp nhằm chống lại những người Xô
Viết,
hoặc để đòi hỏi họ ra đi khỏi đất nước Hungary, người ta nhận ra, có
những
thành phần phản động, hoặc bị nước ngoài xúi giục"…. "sự có mặt (chứ
không phải hành động can thiệp thô bạo) của Liên Xô là "một điều cần
thiết"….
Lịch sử sau
đó cho thấy, nhân loại đã biết ơn rất nhiều ở cuộc cách mạng Hungary
vào năm
1956. Chính nhờ nó, mà Liên Xô nhận ra một điều, chuyện nhuộm đỏ cả Âu
Châu, là
một toan tính cần phải "xét lại". Ngay Sartre, trong cuộc phỏng vấn kể
trên cũng phải công nhận, lần đầu tiên có một cuộc cách mạng không mang
mầu đỏ
của phe tả (pour la première fois… nous avons assisté à une révolution
politique qui évoluait à droite).
Tất cả những
khẳng định của Sartre đã được tờ Pravda đăng tải, cộng thêm những lời
ca ngợi
cuộc can thiệp của Hồng Quân, như của Janos Kadar, vào ngày 5 tháng 11.
Một
tháng sau đó, chúng trở thành những lời buộc tội những người cầm đầu
cuộc cách
mạng…
Tin
Văn Vắn 3
Hãy cho anh
khóc bằng mắt em
Những cuộc
tình duyên Budapest
Hãy cho anh
khóc bằng mắt em
Những cuộc
tình duyên Budapest
Anh một trái
tim em một trái tim
Chúng kéo đầy
đường chiến xa đại bác
Hãy cho anh
giận bằng ngực em
Như chúng bắn
lửa thép vào
Môi son họng
súng
Mỗi ngã tư mặt
anh là hàng rào
Hãy cho anh
la bằng cổ em
Trời mai bay
rực rỡ
Chúng nó say
giết người như gạch ngói
Như lòng
chúng ta thèm khát tương lai
Hãy cho anh
run bằng má em
Khi chúng
đóng mọi đường biên giới
Lùa những
ngón tay vào nhau
Thân thể anh
chờ đợi
Hãy cho anh
ngủ bằng trán em
Ðau dấu đạn
Ðêm không
bao giờ không bao giờ đêm
Chúng tấn
công hoài những buổi sáng
Hãy cho anh
chết bằng da em
Trong dây
xích chiến xa tội nghiệp
Anh sẽ sống
bằng hơi thở em
Hỡi những
người kế tiếp
Hãy cho anh
khóc bằng mắt em
Những cuộc
tình duyên Budapest
12-56
Thanh Tâm
Tuyền
Thảo Trường
kể là, đám sĩ quan VNCH, đi tù VC, thơ TTT, mang theo, chỉ một bài này.
Hãy cho
anh khóc bằng mắt em
Note: Trên TLS số 5
Tháng
Chín, 2008, có bài điểm cuốn Một
Ngày Làm Rung Chuyển Thế Giới Cộng Sản.
Tin Văn scan, để
tặng mấy anh
VC nằm vùng Đào Hiếu, Lữ Phương, kèm câu này, trích trong bài điểm": "first
we need to
interrogate Nagy, then we will hang him by the
tongue": “Trước tiên, chúng ta cần tra hỏi Nagy, sau đó treo hắn ta
lên,
bằng cái lưỡi của hắn"
*
HISTORY
By the
tongue
TLADIMIR TISMANEANU
Paul Lendvai
ONE DAY THAT SHOOK THE
COMMUNIST WORLD:
The 1956 Hungarian Uprising
and its legacy 320pp. Princeton
University
Press. £16.95 (US $27.95).
978 0 691 13282 2
The Hungarian-born
Austrian
journalist and historian Paul Lendvai has written a refreshingly
insightful
analysis of the 1956 Hungarian Uprising and its historical
significance. He
offers a fully updated critical discussion of one of the most
exhilarating and
hotly debated events in twentieth-century history. Drawing from
recently
released documents, Lendvai points out that the Hungarian Revolution
was
simultaneously an attempt to get rid of a decrepit Stalinist
dictatorship, and
a war for national liberation. Initially unwillingly, later more
determinedly,
Imre Nagy and his comrades engaged in a radical break not only with an
obsolete
system, but also with the Kremlin's imperialist ambitions.
Lendvai
makes persuasive use
of the treasure of information generated by the Budapest-based
Institute for
the History of the 1956 Revolution. He refers extensively to memoirs of
revolutionaries, as well as to some seminal contributions by Nagy's
biograapher
Janos Rainer and the historian Gyorgy Litvan. Focusing on Nagy's
convoluted
political itinerary, including his decades-long unswerving commitment
to the
Bolshevik cause, as well as his brief yet disturbing collaboration with
the
NKVD during the Great Terror, Lendvai highlights Nagy's slow, but
irreversible
divorce from the criminal practices of Stalinism. Referring to Milovan
Djilas's
illuminating critique of national communism as a historically doomed
effort to
humanize Leninism, Lendvai also shows how the logic of historical
developments
forced Nagy to transcend his initially hesitant and self-limited
reformist
agenda.
For
Lendvai, the Rakosi
regime was by far the most atrocious in Eastern
Europe
both in its cynicism and its terrorist policies. Having chaired the
Presidential Commission for the analysis of the Communist dictatorship
in Romania,
I beg
to differ. I think that Bulgarian and Romanian repressive strategies
were lly
ruthless and destructive. Moreover, during the "New Course" between
1953 and , Nagy encouraged a political and economic relaxation
unthinkable in Romania, Bulgaria
and Albania.
At the same time, I agree that the Rakosi-Gero-Farkas-Revai gang
resorted to
uniquely sadistic and squalid patterns of persecution.
Blending
political history
and personal memoir, Lendvai helps us understand the grandeur
of the Hungarian Revolution. He places
the upheaval within the international context of 1956: attempts by the
West to
engage in negotiation with the USSR as part of the "peaceful
coexistence"; hollow Communist rhetoric followed by no actions; an
American administration for whom Eastern Europe did not really matter;
hot-headed
Radio Free Europe journalists. It also the year of Khrushchev's
iconoclastic “Secret
Speech" which led to the end of the Stalin myth and ushered in an era
of
disillusion among Communists worldwide. It was precisely the split
among
Hungarian Communists and the rebellion of the disenchanted Marxist
intellectuals that led to the extraordinary effervescence during the
months
that preceded the upheaval. The old regime had lost all support even
among once
fanatic Leninists. Many Communists who survived years of jail under
Rakosi
embraced the Revolution's ideals. Some did it wholeheartedly, others
opportunistically. Lendvai examines the case of Janos Kadar, one of the
most
depressing in Eastern Europe's
history. He
documents beyond any doubt Kadar's Judas like role during those fateful
days.
At the same time, it appears that with or without Kadar, the Soviets
had made
up their-mind and were ready to crush the Revolution. Kadar's role was,
however, decisive in having Nagy and his closest associates subjected
to a
frame-up and murdered. It was Kadar, not Khrushchev who engineered the
judicial
assassination in June 1958. Contrasting Kadar and Nagy means exploring
two
political visions within world Communism after Stalin: the astute
opportunist
versus the neo-Marxist idealist. By the end of his life, isolated and
despised,
Kadar lost not only his power, but also his mental sanity. He finished
his days
haunted by the spectre of Nagy, his political nemesis, the man whom he
had
pledged to support during the first days of the Revolution, whom he
betrayed,
and whose life he sacrificed to prevent the political resurrection of
an
embarrassing rival.
During
his "political
asylum" at Snagov, by the lake in Romania, Nagy wrote several
essential political documents (reviewed in the TLS, May 6, 2005). It
was clear
for him that no compromise could be reached with the political thugs
who had
made a martyr out of Hungary.
Gheorghiu-Dej, the Romanian ultra-Stalinist leader, told his fellow
Politburo members
that "first we need to interrogate Nagy, then we will hang him by the
tongue". Among those who participated in the attempt to break Nagy's
political will was Valter Roman, a Transylvanian, Hungarian Jewish
former
Spanish Civil War veteran. The Romanian "comrades" did their utmost
to make Nagy confess that the Revolution was in fact a Western-backed
"counter-revolution".
Lendvai
insists on
the
extraordinary role of the workers' councils during the Revolution and
its aftermath.
He depicts the resistance mounted by these self-organized, spontaneous
networks
of civic initiative as a second revolution. In this respect, his
position converges
with Hannah Arendt's for whom the Hungarian Revolution's main legacy
was precisely
the emergence of the councils as a form of radical, direct democracy.
At the
same time, Lendvai is at his best in detailing some of the most
fascinating
biographies of revolutionaries: from desperate teenagers resisting the
secret
police and Soviet troops on the Corvin passage to the still enigmatic
Jozsef
Dudas, a former Hungarian-Romanian Communist, an anarchist of sorts, a
romantic
adventurer who finished hanged by Kadar's kangaroo justice. The
uprising was
inclusive, democratic and patriotic. Contrary to the Communist
propaganda, the Hungarian
Revolution not only did not engage in anti-Semitism, but, on the
contrary, some
of its most ardent participants were Jewish (including the journalist
Miklos
Gimes, executed together with Nagy in June 1958). With its heroic
dreams and
liberating passion, the Hungarian Revolution was the prelude to the
citizens'
upheaval of 1989.
Bài
thơ Budapest của TTT, lần đầu
tiên ra mắt người đọc hải ngoại, và, cùng lúc, độc
giả ra đi từ Miền Bắc, thời gian Gấu, cùng với cả thế giới, kỷ niệm 40
năm cách
mạng Hung [1956-1996], qua bài viết Tạp Ghi, Hãy cho anh
khóc bằng mắt em, trên báo Văn Học, số tháng Ba, 1997, của
Nguyễn Mộng
Giác
Một thi sĩ ra đi từ Miền Bắc, cho biết, ông cứ nghĩ, của một ông Tây!
Hào khí ngất trời!
Về bài viết,
Gấu chỉ còn nhớ một chi tiết thật thú vị. Điện Cẩm Linh, có lúc đã
tính “đầu hàng” Cách Mạng, và thí cho tay đứng đầu cuộc nổi dậy, Imre
Nagy, chức
Phó Thủ Tướng trong tân chính phủ hòa hợp hòa giải dân tộc.
*
Bất giác lại nhớ đến ngày 30 tháng Tư, chúng mày còn gì đâu mà đòi
chuyện bàn
giao, hoà giải, thành lập tân chính phủ....
Responding
to Mr Putin
KHARKIVAND
KIEV
Russia wants
a divided Ukraine, and despite the promise of the revolution it may
well get
one
VLADIMIR
PUTIN, announcing the annexation of Crimea in the Kremlin's gilded Hall
of St
George, sounded like a victor who felt his place in history secure-
along with
Vladimir I, who adopted Christianity in Crimea, and Catherine the
Great, who
conquered it. Russia's political elite responded with thunderous
standing
ovations and tears and cheers for Russia.
It was the
speech of a man whose ambitions go far beyond grabbing Crimea. But it
was not a
speech preparing the country for a lengthy or costly struggle. As Mr
Putin
pointed out with glee, Crimea was taken "without a single shot".
Fighting against the will of the people is difficult, if not
impossible, he
added.
Mr Putin's
success in taking Crimea demonstrates his strengths-an ability to
appeal to
people's yearning for what they miss about the past, and a skill at
using the
legacies of that past to his own ends. He excels at deepening and
exploiting
existing weaknesses, and there is no shortage of such weaknesses in
Ukraine. Mr
Putin is right in saying that Ukraine's post-Soviet rulers busied
themselves
dividing the spoils, instead of building a state. It is understandable
that he
passes over Russia's persistent willingness to aid and abet them in
their
schemes. But that is precisely what February's Maidan revolution was
about. It
went beyond the overthrow of Viktor Yanukovych, the kleptocrat
president. It
was the birth of a Ukraine that is more than a geographical side-effect
of the
collapse of the Soviet Union, but instead a nation-state with its own
identity-a
nation that has outgrown its old politicians, but has yet to find a
responsible
elite to replace them. The rise in national consciousness can be
observed in a
steady flow of people-including Ukrainians for whom Russian is their
mother
tongue-enlisting as volunteers prepared to fight for their new country.
One of
them, Denis Shevlyakov, a 46-year-old Russian-speaker, says, "I dodged
military service in the Soviet Union; I never thought 1 would volunteer
to
fight for Ukraine." The will of the people Nobody knows what Mr Putin
will
do next. He probably realizes that Kiev, which he refers to as "the
mother
of Russian cities", is lost to him. But he will try to claw back what
he
considers to be part of the "Russian world"-a concept which has no
legal borders. If Ukraine implodes, as in its post-revolutionary
weakness it
might, he will pick off some pieces. The military threat remains. And
at the
very least he will insist on a deep federalization of Ukraine which
would allow
a de facto Russian protectorate in the southern and eastern parts of
the
country, and thus forestall any further movement towards the European
Union.
But Mr Putin's words about the impossibility of fighting the will of
the people
may yet come back to haunt him. Three factors allowed Mr Putin to annex
Crimea
easily and without bloodshed. The first was the power of the Russian
forces
already legitimately stationed in Crimea (it is not only home to
Russia's Black
Sea Fleet-there are several other military bases scattered across the
peninsula);
the second was the approbation of the ethnically and culturally Russian
population in Crimea, which has longed to regain its place as part of
the
Soviet empire. The third was the weakness of the interim government in
Kiev,
which was still being formed when Mr Putin struck. It was unable and
unwilling
to fight back in any way, and relieved to be restrained by Western
leaders
acutely aware that they could not step in to defend Ukraine themselves.
The
Ukrainian troops who defied the Russians in Crimea with dignity, if not
success, are heroes to their fellow countrymen. The government, though,
is seen
as having let them down. This could strengthen the hand of Ukraine's
right-wing
nationalists. Their mainstream party, Svoboda, has been losing support
sharply in
recent months, after a Nazi-style torch procession in January which
appalled
most Maidan supporters, but was a gift to Russian propagandists. Now
thugs from
Svoboda have harassed the head of Ukraine's national television channel
for
broadcasting Mr Putin's speech-providing Russian television with more
useful
footage.
The
government has failed to counter Russian propaganda; for example, the
fact that
many of those gunned down on Independence Square by Mr Yanukovych's
snipers
were from the Russian-speaking east is not widely appreciated. This is
part of
a general failure to bring together the industrial east, where a
nostalgia for
the Soviet Union is still common, and the agricultural west, which is
more
individualistic and more keen on the European Union (see map). It took
Arseny
Yatseniuk, the prime minister, three weeks to make a televised appeal
to the
Russian-speakers in the south and east that reassured them about the
status of
their language and promised more autonomy for local governments. Things
might
have gone much better had the negotiations which produced the
government
included political leaders from the east and south in the first place.
Street
theatre
Russian
forces have been working to drive the different parts of the country
further
apart, using propaganda, agents of influence and provocateurs. Andriy
Parubiy,
a former Maidan leader who now heads Ukraine's National Security and
Defence
Council, says several Russian intelligence officers have been detained
in the
country. But despite some violent clashes in Donetsk and Kharkiv over
the past
week, encroaching on the east would not be as easy as it was in Crimea.
Valery
Khmelko of the Kiev International Institute of Sociology says that
although
people in the south and east of the country favor good relations with
Russia,
some 70 disapprove of Mr Putin being granted the right to use military
force in
Ukraine. The pro-Russian politicians who have emerged there are
marginal
figures who would not be able to control the region even if Moscow were
to move
in and install them as puppets. On the day of the Crime an referendum
pro-Russian separatists staged rallies in Donetsk and Kharkiv calling
for votes
there, too. Neither amounted to much. In Kharkiva couple of thousand
pro-Russian protesters gathered by the statue of Lenin (one of the few
left
standing) and listened to rather elderly activists before unfurling a
vast
Russian flag. The stand-off between the police and pro-Russian
protesters may
have aped Maidan, but it was not part of a mass movement, more a bit of
street
theatre, carefully choreographed for the cameras. By seven o'clock it
was all
over (which did not stop Russian television reporting "ongoing"
troubles
late into the night). Gennady Kernes, Kharkiv's mayor, says the rally
was
"illusion creation" designed as a possible justification for future
action. Russia does not need to move now, he says; it can afford to
wait until
the Ukrainian economy worsens, a process Russia is helping along by
blocking
Ukrainian exports. For his part, Mr Kernes, who has switched sides more
than
once over the past decade, says he recognizes the interim government
and
resents any talk of secession. The government distrusts him, but needs
his
support in the region-an ambiguity reflected in the fact that Mr
Kernes, as the
subject of a criminal investigation, is under night-time house arrest.
One of
the weakest links in the east is Donetsk, a coal-mining region
controlled by
Rinat Akhmetov, Ukraine's richest oligarch and Mr Yanukovych's
long-term political
partner. "He knows that any strong power in Kiev is a threat to him,"
one senior Ukrainian politician says. But he does not want to cede
control over
his region to Mr Putin, either. A federal structure and a fractious
parliamentary republic that would allow him to pull strings from behind
the
stage would suit him much better.
Decentralization
is necessary; there is a consensus in Ukraine about giving more
economic
autonomy to elected mayors. Moving too far down the road to federalism,
though,
would make the desire of many to move the whole country into the
European
mainstream impossible (which is why Mr Putin likes the idea). Using Mr
Yanukovych as a legal instrument, the Kremlin has already refused to
recognize
the elections set for May 25th. If it manages to stop the ballot in the
south
and east of the country, or to cast doubt on 'its results, the new
Ukrainian
president will come to office crippled. If it foments violence, things
could
get very nasty, not least because Ukraine lacks motivated and
professional
security services. The police were, until a few weeks ago, fighting the
people now
in power; they are demoralized and distrusted. Some see them as a
source of
sabotage. Despite the threats, there is a chance that unity will
prevail. For
all its government failings and regional differences, support for
Ukraine's
sovereignty has grown steadily over the past two decades (see chart). A
generation has grown up with it and wants its children to enjoy it. As
Aanatoly
Gritsenko, a former defence minister, says: "We will never agree if we
think of Ukraine as the land of our fathers. But we can easily agree if
we talk
about Ukraine as the land of our children." +
|