*

 



“An’s story strikes me as something right out of Graham Greene,” said David Halberstam, who was friends with An when he was a New York Times reporter in Vietnam. “It broaches all the fundamental questions. What is loyalty? What is patriotism? What is the truth? Who are you when you’re telling these truths? There was an ambivalence to An that’s almost impossible for us to imagine. In looking back, I see he was a man split right down the middle.”

Nguồn: Blog Du mục Da vàng

Đây là cách nhìn của tụi ký giả Mỹ, khi nhìn PXA: Qua Greene.

Bởi là vì mấy anh này, anh nào cũng muốn có 1 Người Mỹ Trầm Lặng, riêng cho mình.

Với Ẩn không hề có cái chuyện nứt ra làm đôi, ở ngay giữa, như thế.
Nếu có, là anh đã bỏ chạy về phía những kẻ bại trận, là 1 Miền Nam, trong có lũ Ngụy rồi.
Suốt đời, Ẩn có bao giờ ân hận như Víp Va Ka, thí dụ, qua câu than, 1 triệu người vui, 1 triệu người buồn?

Luôn nói sự thực? Một điệp viên thứ thực, làm sao nói sự thực? Time, trong bài viết ai điếu Ẩn, đã giải thích ý nghĩa của từ “sự thực”, trong trường hợp Ẩn: anh ta không thả vịt cồ. Không phao tin nhảm.

Cái sự kiện xẻ làm đôi, ngay ở giữa đó, là con quỉ của tên gián điệp, như Steiner, trong bài viết “Điệp Viên của Chúa”, “God’s Spies” vinh danh Greene, khi đọc The Human Factor:

“Incipient duality is the agent’s demon”
[Tính cách nhị phân mới chớm - một thứ ung thư mới chớm - là con quỉ của tên điệp viên].

Malraux cũng nhận ra chân lý này, với 1 tiểu thuyết gia.

TTT mê Malraux, bèn chôm luôn, ra cái tít "Nỗi Chết Không Rời", tên 1 bài viết của ông, sau bị TPG, hay Thế Uyên, chôm, như trong thư viết cho "đảo xa" cho biết, và trích câu của Malraux, để vinh danh Thầy, và cũng để cho biết nguồn:
…. như cục ung thư, sống với nỗi chết âm ấm ở trong lòng bàn tay,...  comme un cancer, vivre avec cette tièdeur de mort dans la main.

Ẩn đâu phải tiểu thuyết gia. Ông làm điệp viên như tên Mít gốc Bắc Kít, ái quốc, mong muốn đuổi thực dân Pháp, rồi Mỹ, thống nhất đất nước, qui về 1 mối, có gì mà phân đôi?
Nếu ông có căn bịnh ung thư đó, thì đã khác rồi.
Bởi thế mà sau 30 Tháng Tư, ông bị Bắc Kít đem về Bắc, cho đi cải tạo.
Chúng sợ ông bị căn bịnh ung thư này!

Hà, hà!

Nhưng, phải là Brodsky, khi vinh danh Kinh Cầu, mới nói hết ý về cái sự xẻ ra làm đôi này:
Nó là con vai rớt, phân biệt con người bình thường, với 1 nhà văn.
Một con người bình thường, khi gặp thảm họa, là chịu đựng, là đau khổ…
Nhà văn, khác. Nó cũng chịu đựng như bất cứ con người, nhưng hở 1 tí, là bèn cố né qua 1 bên, để quan sát và khi có dịp là bèn viết, là bèn mần thơ!

Brodsky: Với tôi, tính kinh điển, thực tại thực, the main thing, của Kinh Cầu [thơ Akhmatova], là đề tài về sự xẻ đôi, về sự bất lực của nhà thơ không có được một phản ứng toàn vẹn [trước thực tại]. Akhmatova mô tả những kinh hồn thất đảm, những ghê rợn của Đại Khủng Bố của Stalin. Nhưng cùng một lúc, bà nói hoài hoài về cái tâm trạng mấp mé biến thành khùng của mình....

Brodsky. For me the main thing in Requiem is the theme of splitting, the theme of the authors inability to have an adequate reaction. Akhmatova describes in Requiem all the horrors of Stalin's "great terror," but at the same time she is constantly talking about how close she is to madness. Do you remember?

   Already madness dips its wing
   And casts a shade across my heart,
   And pours for me a fiery wine
   Luring me to the valley dark.

   I realize that to this madness
   The victory I must yield,
   Listening closely to my own
   Delirium, however strange.

Khùng điên dang rộng cánh
Trải dài bóng qua trái tim tôi
Đổ rượu nồng cho tôi
Lùa tôi xuống thung lũng tối

Tôi nhận ra, đối với điên khùng này,
Là chiến thắng mà tôi phải trao nhường cho nó.
Trong khi lắng nghe, thật cận kề,
Cơn hoảng loạn của chính mình
Mới lạ lùng làm sao!

Khổ thơ sau có lẽ là tuyệt vời nhất của tất cả Kinh Cầu. Hai dòng chót nói sự thực lớn lao nhất. Akhmatova diễn tả tâm trạng của thi sĩ, khi nhìn mọi chuyện xẩy ra cho bà, như thể, bà đứng qua một bên, Với nhà thơ, sự kiện, viết ra, cũng quan trọng như, sự kiện, diễn tả nó: Nhà thơ bắt đầu trù ẻo mình: Anh là thằng điên khùng. Mi là một thứ quái vật chi, tại sao mi thản nhiên nhìn những sự ghê rợn như thế diễn ra trước mặt, như thể nó chẳng liên quan mắc mớ gì tới mi?
Volkov: Chuyện trò với Brodsky  (1)

PXA hẳn là biết trước số phận của ông, và của cuốn viết về ông, của Bass. Địa ngục chật cứng lũ VC loi nhoi, với đủ thứ tội, đâu có chỗ cho ông, như chính ông nói với Bass. Chúng không ưa tôi, nhưng tôi không làm gì để chúng khép tội, làm thịt tôi. Cũng vẫn ông nói.
Số phận Võ tướng quân đâu có khác. Tên y tá dạo sợ còn không biết Ẩn là ai nữa. Trong khi đó, người dân Miền Nam không bỏ 1 ai, đó là điều chúng ta ngày càng tự hào, hãnh diện, như 1 đền bù tinh thần, cho những đau thương, tổn thất cùng với những ngày 30 Tháng Tư sắp tới.

PXA & Greene

*

*

Phạm Xuân Ẩn (tiếp)

Cuốn sách xuất sắc nhất về Phạm Xuân Ẩn cho tới thời điểm này là của Thomas Bass, The Spy Who Loved Us. The Vietnam War and Pham Xuan An's Dangerous Game; để xuất hiện ở Việt Nam, cuốn sách đã phải mang cái tên lệch đi, Điệp viên Z21, Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ.
Perfect Spy chứa đựng câu chuyện mà Phạm Xuân Ẩn muốn có; là một cuốn tiểu sử "chính thức", tác giả Larry Berman đã được Phạm Xuân Ẩn cung cấp một version "kiểu Phạm Xuân Ẩn" (kiểu Phạm Xuân Ẩn có lẽ then chốt nhất nằm ở chỗ: lúc nào cũng nói sự thật; kể cả khi cùng một lúc gửi báo cáo về Bắc Việt và viết bài cho Time, với cả hai bên Phạm Xuân Ẩn đều nói sự thật), một version hoàn hảo, nhưng đầy "mất mát". Trong những thứ quá mức phức tạp, hướng đến bức tranh chung hoàn hảo là một cách tốt nhất để hứng lấy những thất thoát to lớn.
Thomas Bass từng nhiều lúc không được phép gặp Phạm Xuân Ẩn, chắc hẳn vì Phạm Xuân Ẩn cũng nhận ra cách tiếp cận của Bass khác của Berman, version về cuộc đời ông sẽ không "hoàn hảo" như ông có thể làm được với Berman; trong cuốn sách, Bass cũng mấy lần ám chỉ Phạm Xuân Ẩn hoàn toàn hiểu cuộc chơi của mình với Bass, biết rằng đây sẽ là một câu chuyện "từ bên trong". Sự dai dẳng đầy tinh thần báo chí của Thomas Bass trong cuộc "đeo bám" Phạm Xuân Ẩn thật là đáng nói, đeo bám gần ở ngôi nhà lúc nào cũng loạn xạ tiếng chim hót, và cả đeo bám xa, với những chuyến đi, chẳng hạn như ra Côn Đảo.
Bass đặc biệt để ý đến những khoảnh khắc biến đổi của Phạm Xuân Ẩn, và luôn luôn tìm cách nắm bắt con người của Phạm Xuân Ẩn vào những lúc không ngờ nhất (ví dụ lúc Phạm Xuân Ẩn đứng trước bàn thờ); làm điều này hẳn là không dễ, vì Phạm Xuân Ẩn có một nguyên tắc trò chơi không hề đơn giản: không hề giả vờ hay đóng vai, mà thật như thế.
"Tôi tự hỏi hay là ánh mắt trách móc của người cha cũng làm cho ông thấy ngột ngạt khó thở" (tr.47).

Thomas Bass đặc biệt xuất sắc ở hai chỗ: tìm cách gắn kết Phạm Xuân Ẩn với một con người cũng hết sức phức tạp, không thể nắm bắt, là Graham Greene (Phạm Xuân Ẩn chưa từng gặp Greene, chỉ vài lần nhìn thấy Greene, và Phạm Xuân Ẩn cũng là chứng nhân tận mắt vụ nổ giữa trung tâm Sài Gòn, sự kiện xuất hiện trong The Quiet American).
Điều thứ hai là Bass đã phân tích rất thấu đáo Phạm Xuân Ẩn thời nhỏ và thời trẻ, với vai trò của những người gần gũi như ông thầy Trương Vĩnh Khánh, để chỉ ra một thay đổi về hệ hình ở người Việt Nam: lớp người trước Phạm Xuân Ẩn học qua Tàu để hiểu Pháp, yêu quý nhiều giá trị của Pháp để rồi đánh người Pháp, còn giờ đây là chuyện học từ người Pháp để hiểu người Mỹ, yêu quý nhiều giá trị của Mỹ để rồi đánh người Mỹ.
"Gia đình tôi lúc nào cũng có tinh thần yêu nước với khát vọng đánh đuổi người Pháp ra khỏi Việt Nam" (tr.37) (thế mà người cha của Phạm Xuân Ẩn lại là một công chức của nhà nước thuộc địa Pháp, một người vẽ bản đồ; kỹ năng bản đồ sau này sẽ giúp ích rất nhiều cho Phạm Xuân Ẩn).
"Ông Khánh và cậu học trò của mình dành hàng giờ trao đổi những câu chuyện đùa cợt và tếu táo về việc huấn luyện trong tương lai để Phạm Xuân Ẩn trở thành một tay gangster Mỹ" (tr.63).
Thomas Bass còn nhìn ra hình ảnh Tom Sawyer ở Phạm Xuân Ẩn hồi bé. Theo tôi, đây là một so sánh rất xuất sắc. Tom Sawyer và Tarzan lồng trong hình ảnh Phạm Xuân Ẩn, điều này giải thích cho rất nhiều điều, nhất là về khí chất một con người.

Rốt cuộc, trong ba cuốn sách quan trọng về Phạm Xuân Ẩn, cuốn của Berman, cuốn của Bass, và tiểu thuyết Thời gian của người của Nguyễn Khải (Phạm Xuân Ẩn là nhân vật Quân trong đó), cách tiếp cận của Nguyễn Khải lại là dở nhất: nổi bật trong cái nhìn của Nguyễn Khải là cơ chế này: khi người ta phải đóng giả cái gì đó quá nhiều, quá lâu, thì cái đóng giả như trở thành thực, bản ngã thật rất khó xuất hiện trở lại; hình như điều này chẳng có chút ăn nhậu nào tới Phạm Xuân Ẩn.

Blog NL

Cái chuyện móc PXA với Greene, theo Gấu, cực nhảm, vì chẳng có gì giống nhau giữa họ. Nguyên uỷ của nó, là ở trong cái đầu tụi báo chí Mẽo, khi tới Sài Gòn tên nào cũng lận lưng 1 cuốn Người Mẽo Trầm Lặng của Greene, như Norman Sherry, tác giả bộ sách khổng lồ tiểu sử của G. Greene, nhận xét, nên trông gà hóa cuốc.
Mấy tay này, kể cả Bass, theo Gấu không đọc nổi Greene. Ở cái phần sâu thẳm của ông - như là 1 tiểu thuyết gia. Ông làm gián điệp, để phục vụ nữ hoàng Anh, nước Anh, nhưng đó chỉ là mặt nổi của vấn đề. Mặt chìm mới ghê: Ông làm gián điệp để hiểu con người. Khác hẳn PXA, đâu phải tiểu thuyết gia con mẹ gì, đâu có vấn đề “con người” gì với Cao Bồi, theo tính cách...  tiểu thuyết gia?

*

“Tôi phải kiếm cho ra một tôn giáo”, Graham Greene nói, “để đo lường cái phần quỉ ma ở nơi tôi”.

Một thách đố như vậy đã đặt Greene vào cái thế của một “tiểu thuyết gia Ky tô giáo” – ông rất ghét định nghĩa này - đúng như viễn tượng về ông: trước khi chọn Chúa Ky Tô, như là một thế giá cao cả nhất, thì ông, trước hết, còn là một con người bị ám ảnh bới chính cái nấc thang thế giá đó.  Không nhà văn nào của thế kỷ 20 này có thể so với ông, người muốn đi tới cùng trong cõi nhân sinh nhỏ xíu - ấy là nói về chuyện so sánh giữa con người với con người, và có thể, với Chúa nữa. Trong khi những tiểu thuyết gia thuộc loại tầm tầm mày mò, dị mọ những đòn phép nhằm phân biệt thằng cha này tốt, thằng cha kia xấu, Greene là bậc thầy của sự tách biệt đa tầng, dị dạng, khi xoáy vào những đường ranh thật là mỏng manh phân chia, giữa thế nào là quỉ ma thế nào là độc địa, thế nào là bất tương thân, thế nào là ngu si đần độn chứa đầy ác tâm. Những con người của ông loay hoay xoay sở bên trong cái khuôn mẫu đạo đức rất ư là chi ly. Sa sẩy, là từng bước chân, là từng lỡ bộ. Sai một ly đi một dặm. Thành thử vô phương, làm người tốt [to be good] ở nơi Greene. Nhưng có hàng triệu triệu cách, để đỡ tồi tệ hơn, ít hoặc nhiều.
Khía cạnh hiện thực mang tính đạo hạnh chi ly tỉ mỉ đó, ở  Greene, thường không được người đọc để ý, thay vì vậy, là những mầu sắc “baroque” – trò truy hoan thẳng thừng, thú du lịch, cái lối viết nhà báo – những dấu ấn khiến ông được coi là đồng hội đồng thuyền với những tay phiêu lưu như Erskine Childers, Len Deighton, Alec Waugh, John Le Carré.
Chắc chắn rồi, Greene phải được coi như là một người viết quan tâm tới dòng văn chương điệp viên, tình báo –  chú thiếu niên Greene ngày nào đã từng thử làm người hùng máu lạnh, qua trò chơi chết người Russian roulette. Tuy nhiên, người đọc đừng quên rằng, trên giá sách của ông, còn có sự ngự trị của, thí dụ như, Henry James. Hơn thế nữa, Greene quả thực là một điệp viên nhị trùng, theo đúng nghĩa đen của từ này.

“Thượng Đế ở trong những chi tiết”, Ruth Franklin, trên báo Người Nữu Ước số đề ngày 4 tháng Mười - điểm cuốn thứ ba và nhân đó toàn bộ ba cuốn, tiểu sử Greene, của Sherry - và cùng lúc tưởng niệm một trăm năm ngày sinh của Greene, cũng đã nhắc tới một chủ nghĩa hiện thực mang chất Ky Tô Giáo của Greene, và cho rằng, khổ tâm số một của Greene - như là một tay Ky Tô - đó là: ông nghi ngờ khả năng yêu Chúa của chính ông [he doubted his own ability to love God], và nếu thiếu nó, là không thể làm cú nhẩy chót vào lòng Ngài, để dâng hết mình cho Ngài, rằng con xin đầu hàng! Cú đầu hàng vô điều kiện cần thiết để biến một tay tổ sư tội lỗi là Greene, trở thành ông thánh Greene!
 Nhưng chính sự thất bại của một ông tổ sư tội lỗi - không thể nào thành Thánh được - đã biến ông thành một tiểu thuyết gia bậc thầy. Hơn thế nữa, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, mỗi lần ông đưa cái mũi vào một mảnh đất khốn khổ khốn nạn, là y như rằng, ở đó có vấn đề, và vẫn còn có vấn đề. Thí dụ như trong Người Mỹ Trầm Lặng, ông đã ngửi ra được rằng, hoà bình không có nghĩa là thanh bình, ở một cõi nhân gian nhỏ xíu của những tên mít đặc, mít ướt, mít mật, mít cà chớn… đó!
Source

Đọc, chỉ 1 khúc trên, là thấy, Ẩn khác Greene.

Còn cái gọi sự thực, "Ẩn luôn nói sự thực", cũng cực nhảm. Gấu đã từng gặp ông, đã từng có thời có thể coi như là bạn của ông.
Ông là người rất kín đáo, rất ít nói. Cảm giác đầu tiên gặp, là tay này, giả như có sự thực, thì cũng giấu thật kỹ, khó mà ai biết được. 

Cựu chủ viết về nhân viên cũ.

(1) DIED. Pham Xuan An, 79, Viet Cong colonel who worked during the Vietnam War as a highly respected journalist for TIME while spying for the communists—a double life kept secret until the mid-'80s; in Ho Chi Minh City. The first Vietnamese to become a staff correspondent for a U.S. news outlet, An said he was an "honest reporter" who did not spread misinformation. From his unique perch at TIME's Saigon bureau, the popular, plugged-in An was able to achieve feats for both sides, alerting the Viet Cong to the impending buildup of U.S. troops in the mid-'60s and secretly arranging for the release of American journalist Robert Sam Anson, captured in Cambodia by the Khmer Rouge.

[Tạm dịch: Từ trần. Phạm Xuân Ẩn, 79 tuổi, đại tá Việt Cộng, trong chiến tranh Việt Nam, là một ký giả rất được kính trọng của tờ Time, cùng lúc còn làm công tác gián điệp cho Cộng Sản - một cuộc sống kép được giữ kín cho tới giữa thập niên 1980, tại Thành Phồ Hồ Chí Minh. Người Việt Nam đầu tiên trở thành nhân viên chính thức, cho một tờ báo lớn của Mỹ, tại một trụ sở ở nước ngoài của nó. Ẩn nói, ông phục vụ như là một "thông tín viên lương thiện", theo nghĩa, không phao tin dởm. Giống như một con cú, đậu chót vót trên cao, từ vị trí độc nhất của mình ở tòa soạn báo Time, con người bình dân, giao thiệp rộng rãi, nằm vùng là Ẩn đó có thể hoàn thành những kỳ công cho cả hai bên, trong đó có việc báo động cho VC về những cuộc điều động quân đội Hoa Kỳ trong thời gian giữa thập niên 1960, và, bí mật dàn xếp với lực lượng Khờ Me Đỏ, để họ thả ký giả Mỹ Robert Sam Anson, bị bắt tại Cambodia.]

Như thế, sự thực với PXA, có nghĩa là, “không loan tin dởm”. Không tung vịt cồ.
Cuộc chiến Mít bùng nổ với cú vịt cồ, đầu độc tù VC tại Phú Lợi. Mấy tên tù VC tham ăn, trúng thực, Diệm cho xe cứu thương đưa vô bịnh viện rửa ruột, VC hô hoán Diệm đầu độc tù, và thành lập MTGP, mở ra cuộc chiến giữa Miền Nam với Miền Nam, đếch có Bắc Kít nhe.
Xịa phịa ra cú MTGP ly khai Bắc Kít, cả báo chí thế giới mắc bẫy, PXA không, tất nhiên!

Cái tệ hại nhất của Cao Bồi, là ông không thể yêu Miền Nam, như… Greene được, thế mới nhảm, như khi Greene phán, khi cái mũ tai bèo rớt xuống là phải chạy ngay về phía “những kẻ thua cuộc”.
Suốt 1 đời, PXA chỉ biết có xứ Bắc Kít của ông, thế mới lại càng nhảm.

*

The Human Factor, which didn't even have a title, hung like a dead albatross round my neck. My imagination seemed as dead as the bird. And yet there were some good things in the twenty thousand words which I had written - I liked especially the shooting party at C's country house. The memory of it nagged me. I couldn't settle to any other work, and so reluctantly and doubtfully I took the novel up again, telling myself that the Philby affair belonged now sufficiently to the past. Perhaps the hypocrisy of our relations with South Africa nagged me on to work too.

The Human Factor [Yếu tố người] không có được, ngay cả một cái tít. Nó lủng lẳng ở cổ tôi, như một con chim hải âu chết. Sự tưởng tượng của tôi cũng chết như chim. Tuy nhiên, có vài điều đường được ở trong mớ hai chục ngàn con chữ mà tôi đã đổ ra đó - tôi mê cái bữa tiệc săn bắn ở căn nhà đồng quê của C. Hồi nhớ của tôi về nó làm phiền tôi. Tôi không thể làm được chuyện khác, thế là vừa ngần ngại vừa hồ nghi, tôi lại lôi nó ra, tự bảo mình, cái vụ Philby thì cũng xưa rồi Diễm ơi. Có lẽ, cái tính đạo đức giả trong những liên hệ với Nam Phi cũng làm phiền và khiến tôi không thể nhả ra.
*

"The novelist’s station" he [Greene] insists "is on the ambiguous borderline"; a writer, like a double agent, “must be able to cross over, to change sides at the drop of a hat”.
Cái trạm sở của tiểu thuyết gia thì ở vùng biên cương mù mờ; nhà văn, thì cũng một thứ gián điệp hai mang, nhưng 'phải dám vượt lằn ranh, đổi bên liền lập tức khi cái nón [tai bèo] vừa rớt xuống'. Graham Greene

*
Loyalty breeds treachery.
Trung thành sinh ra phản bội
Peter Kemp: The Human Factor, Introduction
*
Trung thành sinh ra phản bội.
Mấy ông nhà văn VC không thể nào hiểu ra điều này.

Nguyễn Khải có thể đã mơ hồ hiểu ra, khi ông đổi trú sở, bỏ chạy Hà Nội vô Sài Gòn, và nhập ngay vào với cái không khí biên cương mù mờ, và viết được mấy cuốn, nhưng lại chiếu sáng chúng bằng ánh sáng của Đảng. Bằng sự trung thành, đời đời biết ơn Đảng!
Giá mà ông có dũng khí, chắc là đã dám phản bội, và hiểu ra chân lý, phản bội mới đúng là trung thành với Đảng! 

Human kind cannot bear very much reality
Cái thứ người không chịu nổi quá nhiều thực tại

T.S. Eliot

Theo GCC, Nguyễn Khải viết về PXA hay hơn nhiều, so với anh Mẽo. Trong PXA của NK- trong Thời gian của Người - có giấc mơ lớn của Mít, bị VC cướp đoạt - huỷ diệt đúng hơn. Hậu quả khủng khiếp của nó, là 1 nước Mít như bây giờ.

Ẩn có bao giờ có tí suy tư về “yếu tố người”? 

Sự thực, khó có thể so sánh PXA với Greene.

Một lần Gấu đọc được một câu của Greene. Lạ làm sao, y hệt như ông đoán trước được thái độ của những con người như PXA.

Gấu cố tìm lại nguyên văn câu của ông, nhưng không thể, chỉ nhớ đại khái.

Ông nói, nhà văn, chỉ cần đợi cái mũ vừa rớt xuống, là chạy về phiá những kẻ bại trận, những kẻ thua thiệt.
Câu này, tương tự với câu châm ngôn, phù suy đừng phù thịnh, nhưng đặt nó vào trường hợp cụ thể, con mắt của Greene như nhìn thấu suốt hết những năm tháng liền sau ngày 30 Tháng Tư: Cái nón sắt, sau tới nón tai bèo, tới cờ giải phóng thi nhau rớt xuống.

Ông như biết trước, sẽ chẳng xẩy ra cảnh, chạy về phía những kẻ bại trận. Ông như nhìn ra đời sống khốn nạn sau đó, của những kẻ như PXA: Không làm được cái việc chạy về phía Miền Nam, không được cả hai chủ, chủ cũ chủ mới, tin cậy.
Người ta ngày càng  thấm thiá câu của Greene. Cái bóng của Greene cứ dài mãi ra. Rợp Bóng Greene, như một nhà văn trong nước đã từng dịch một bài viết về Greene trên tờ Guardian.
Nhưng phải đọc mấy cuốn hồi ký, tự thuật của Greene, mới hiểu được mối tình lớn của ông dành cho Việt Nam.
Cuốn Người Mỹ Trầm Lặng như chịu chung số phận văn học Miền Nam, bị phần thư, và, một con phượng hoàng, từ mớ tro than, tái sinh.
Ông viết, trong Người Mỹ Trầm Lặng, "Phuong," I said – which means Phoenix, but nothing nowadays is fabulous and nothing rises from its ashes. "Phượng", tôi nói, "Phượng có nghĩa là Phượng hoàng, nhưng những ngày này chẳng có chi là huyền hoặc, và chẳng có gì tái sinh từ mớ tro than của loài chim đó"; nhưng chính cuốn sách của ông làm được điều này.

Chỉ nội lòng yêu thương dành cho Miền Nam không thôi, PXA không thể nào so sánh nổi với Greene. NQT


"Người Mẽo trên đường tới Việt Nam đều lận lưng một cuốn Người Mỹ Trầm Lặng. Cuốn sách được coi là rất đáng tin cậy, the most reliable account, về chuyện quái quỉ gì xẩy ra ở đó [what it was like in Viet Nam]: nó còn mang tính tiên tri, [it was also prophetic]. Những người Mẽo sau khi tháo chạy, viết, họ cảm thấy những nhà làm chính trị ở Mẽo đã không chịu lắng nghe Greene."
Norman Sherry: Cuộc đời Greene, Tập III  (1)
*

To Docteur Michel Lechat
Dear Michel,
    I hope you will accept the dedication of this novel which owes any merit it may have to your kindness and patience; the faults, failures and inaccuracies are the author's alone. Dr Colin has borrowed from you his experience of leprosy and nothing else. Dr Colin's leproserie is not your leproserie which now, I fear, has probably ceased to exist. Even geographically it is placed in a region far from Yonda. Every leproserie, of course, has features in common, and from Yonda and other leproseries which I visited in the Congo and the Cameroons I may have taken superficial characteristics. From the fathers of your Mission I have stolen the Superior's cheroots - that is all, and from your Bishop the boat that he was so generous as to lend me for a journey up the Ruki. It would be a waste of time for anyone to try to identify Querry, the Ryckers, Parkinson, Father Thomas - they are formed from the flotsam of thirty years as a novelist. This is not a roman à clef, but an attempt to give dramatic expression to various types of belief, half-belief, and non-belief, in the kind of setting, removed from world-politics and household-preoccupations, where such differences are felt acutely and find expression. This Congo is a region of the mind, and the reader will find no place called Luc on any map, nor did its Governor and Bishop exist in any regional capital.
    You, if anyone, will know how far I have failed in what I attempted. A doctor is not immune from 'the long despair of doing nothing well', the cafard that hangs around a writer's life. I only wish I had dedicated to you a better book in return for the limitless generosity I was shown at Yonda by you and the fathers of the Mission.
Affectionately yours,
Graham Greene 

Trên đây là cái thư gửi vị bác sĩ trại cùi của Greene. [A Burn-Out Case]. Nó có cái gì giống thư mở ra Người Mỹ trầm lặng, có thể chỉ như là một cái cớ, a pretext, để móc tác phẩm của ông vào thực tại, theo nghĩa câu của Hans Andersen, mà Greene cũng mượn, để mở ra tác phẩm The Human Factor của ông, ‘out of reality are our tales of imagination fashioned’: dù tưởng tượng thế nào thì những giả tưởng của chúng ta đều chui ra từ thực tại.
Gấu tôi tự hỏi, tại sao trong nước không mê, và ít ai dịch Greene trong khi ông mê Miền Nam của Mít bội phần, hơn cả… PXA.
Hơn nhiều!
Trong cái thư trên, cái câu Gấu gạch dưới, tuyệt cú mèo, và có thể, lại ‘có thể’, nó giải thích cái mail của vị nữ bác sĩ gửi cho TV: ‘Một vị bác sĩ thì cũng không được miễn nhiễm bởi cái chuyện quá chán chường vì cứ ì ra không làm bất cứ chuyện gì cho ra hồn’.
Đó là cơn “cafard” đeo ngay ở cổ một thằng cầm viết, lẵng nhẵng suốt đời làm khổ nó.

Quân của Nguyễn Khải là nhân vật giả tưởng, từ PXA ra, còn với anh Mẽo, là 1 PXA thực, như anh ta, 1 ký giả thực, mơ làm sao viết được 1 cuốn giống như của Greene. Khó mà so sánh với nhau được.

Sau cuộc chiến, nếu gọi là giả tưởng, thì chỉ có Thời gian của người, Vòng sóng tới vô cùng, Gặp gỡ cuối năm, của Nguyễn Khải, là đọc được, khi Mít vẫn còn ôm ấp giấc mộng lớn. Cũng là thời gian Gấu vừa đào kinh vừa khóc ròng, vừa hát Con Kinh Ta Đào, ở nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi. Rồi tới thời kỳ vỡ mộng, với Đứng Trước Biển, Cù Lao Tràm, rồi tới sám hối, với Đi Tìm 1 Cái Tôi, Ba Người Khác. Với Nỗi Buồn Chiến Tranh, của Bảo Ninh, thì lại có contre-poids, [xài tiếng Tây cho nó bảnh], là Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp. Gấu không đọc được PTH, ngoài Thiên Sứ ra, đọc, vì lầm. Đó là sự thực.

Phạm Xuân Ẩn cũng là chứng nhân tận mắt vụ nổ giữa trung tâm Sài Gòn, sự kiện xuất hiện trong The Quiet American.

Blog NL

Không đúng. Người độc nhất ngồi gần nhất cú nổ ở Catinat, do người của lực lượng thứ ba, là TMT làm, là anh ký giả Hồng Mao ghiền, Fowler. Anh này lúc đó ngồi ở Quán Chùa, có thể đúng cái ghế sau này GCC, cũng ghiền như anh ta, ngồi, như trong “Tiểu sử Greene”, của Sherry, cho biết. Khi phái đoàn làm phim “Người Mẽo trầm lặng” quay cảnh này tại Sài Gòn, thì PXA có ghé coi, và tiện thể tố, Greene là gián điệp! Greene đâu có giấu điều này. Gấu nghi là PXA ghen tài viết văn của Greene. Mày vừa viết văn, vừa làm gián điệp, vừa suýt đợp Nobel.  Bởi thế mới có Nguyễn Khải viết giùm PXA.

Graham Greene

Đúng như Greene nhận xét: Bản chất con người không đen và trắng, mà là đen xám, hay đúng hơn, xám xịt.
[Human nature is not black and white but black and grey].

Chính trong cái bầu khí xám xịt đó, là Sài Gòn thập niên 1950, mà cuộc tình tay ba, trong Người Mỹ Trầm Lặng, với ba đỉnh của nó, được mở ra: tính dễ bị mua chuộc, mà cũng rất ư là thành thực, không mầu mè, của một cô Phượng [với giấc mơ lấy chồng Mẽo, làm dâu Mẽo, hay tệ hại hơn, làm dâu Đài Loan, Đại Hàn… như những cô Phượng hiện nay ở Việt Nam…], tính dãn ra, chẳng còn muốn vướng vào những vấn đề của một xứ xở thuộc địa như Việt Nam, của anh mũi lõ già nghiền thuốc phiện, là Fowler, và sự ngây thơ của một anh Mẽo trẻ tuổi đẹp trai, thiện nguyện viên, hay cố vấn Pyle! Đúng là một tam giác lý tưởng để dựng nên một cuốn tiểu thuyết lý tưởng! Nó làm cho Zadie Smith [trên tờ Guardian] nhớ tới trò chơi “jack straw”, trong đó mỗi người chơi, tới lượt mình, rút một cọng rơm mà không được đụng những cọng rơm còn lại. Tài nghệ của tiểu thuyết gia ở đây, là làm sao cân bằng cả ba, bắt từng nhân vật đối diện với chính mình, và với hai kẻ kia, trong tấn trò đời, với tất cả những lên voi xuống chó, những hy vọng, những thất bại - và nhất là, phải làm sao cho độc giả đừng trông mong có được một nhận định, đánh giá sau cùng, khi gấp sách lại, [và thở phào, rằng, việc đọc của ta như vậy là xong!]. Greene không thích những độc giả của ông có được sự hài lòng, thoải mái, theo nghĩa này: “Khi chúng ta không chắc chắn, như vậy là chúng ta vưỡn còn sống!”
 
Trường hợp Người Mỹ Trầm Lặng, bầu khí mang chất đạo hạnh trong đó được xây dựng từ từng mỗi viên gạch của nó, như Zadie Smith đã nói tới, về một hệ thống đạo đức được so đo đong đếm đến từng chi tiết. Nó làm Zadie Smith nhớ tới Henry James trong tác phẩm Những Người Âu Châu, nhưng có khác, với Greene, câu chuyện không xẩy ra ở trong một căn phòng, mà là ở trận địa. Có gì là chắc chắn khi lọt vào một trận địa. Độc giả, như Greene, bị đẩy vào trong những cuộc tranh chấp dơ dáy, bẩn thỉu, tởm lợm nhất của thế kỷ, thí dụ như cuộc chiến Việt Nam, và rất nhiều cuộc chiến khác, một khi con người vẫn cứ lăn xả vào nhau, chém giết nhau, cho dù những “nghĩa cả” đã trở nên tối mò mò, chẳng ai còn tin tưởng vào chúng nữa. Những nhân vật của Greene làm bật ra sự bất toàn, tính không thể nào xác định được, của cái gọi là đạo đức, đạo hạnh, sự lẫn lộn, chẳng biết đàng nào mà lần, một khi con người sống ở trong một cuộc chiến không [làm sao] chấm dứt. Nhưng, cho dù vậy, tại Việt Nam, trong Người Mỹ Trầm Lặng, Phượng và tay phóng viên Fowler đã tìm được nhau, đúng là một sự chúc phúc, quá mức mong đợi ít ra là đối với Fowler. Đây đúng là một sự cứu nguy vào phút chót, sắp sửa chìm lỉm thì vớ được sợi thừng cứu mạng!

“Tôi là một kẻ có niềm tin lớn lao vào Lò Luyện Ngục”, Greene đã từng trả lời như vậy, trong một cuộc phỏng vấn. “Lò Luyện Ngục, với tôi, là có ý nghĩa…. một khi bị ném vào đó, con người có ấn tượng về sự du di, chuyển động. Tôi không thể nào tin vào Thiên Đàng. Mọi người cứ ỳ ra, ở đó. Đâu còn có điều gì để mà làm nữa!”

Ở Lò Luyện Ngục đó - ở cuộc chiến Việt Nam đó – Fowler vô trước, sau tới anh chàng thiện nguyện, cố vấn Mẽo, đẹp trai, trẻ măng. Anh này tin vào Thiên Đàng. Anh ta tới, được trang bị bằng cả một tự sự lớn [a great narrative], về Việt Nam. Anh ta sẽ bắt ép Việt Nam phải “thích hợp” với nó – Tiền Đồn Chống Cộng cho cả một trái đất sẽ không còn Cộng Sản nữa, thí dụ vậy. Anh ta có một câu chuyện của anh ta về Fowler, và ngược lại, Fowler cũng có một câu chuyện riêng của mình, về tên thực dân mới ngu si đần độn, cứ tưởng mình sẽ đem tự do dân chủ theo kiểu Mẽo đến cho thuộc địa cũ của Tây, và đây là giọng kể chính của cuốn tiểu thuyết. Cả hai tay này lại có những câu chuyện của riêng của họ về Phượng. Chẳng có một câu chuyện nào tin được. Chúng đều được dựng lên, theo yêu cầu của từng cá nhân, cho hợp với vai trò của mình. Greene hiểu rất rõ, những toan tính vị kỷ, nằm nơi đáy sâu con người, sẽ đẩy con người đi tới đâu. Ở trong Người Mỹ Trầm Lặng, những toan tính cá nhân này được hiện rõ ra, trên cái nền chính trị, và cùng với nó, là một xứ sở. Qua Phượng, người đọc cảm thấy, đây là một người đàn bà thực, đang hít thở không khí, không phải là một ý tưởng về một người đàn bà mà Pyle đang chôm từ Fowler.

Gừng càng già càng cay, càng ngày, tính ngây thơ ngốc ngếch, mù tịt về thế giới của anh chàng cố vấn Mẽo Pyle càng nổi lên cùng với cuốn truyện, kể từ khi được xuất bản, đúng như Fowler cảnh cáo anh ta:

“Tôi cầu mong Chúa làm cho anh hiểu được những gì anh đang làm ở đây. Ôi, tôi hiểu rất rõ, những nguyên nhân, những mục đích, những ý hướng tốt đẹp của anh.  Chúng luôn luôn tốt… Tôi chỉ mong, đôi khi anh có được một vài ý hướng xấu, có lẽ anh sẽ hiểu thêm được một tí, về thế thái nhân tình, về con người. Điều này áp dụng luôn cho cả cái xứ Mẽo của anh đấy, Pyle ạ.”

Nhưng theo Zadie Smith [Guardian], Pyle không chịu học. Sau cùng, anh ta cho rằng, niềm tin quan trọng hơn hoà bình, tư tưởng sống động hơn con người. Sự ngây thơ của anh ta, trên bình diện thế giới, chẳng khác gì một thứ chính thống giáo [fundamentalism]. Đọc lại cuốn truyện càng củng cố thêm lên nỗi sợ của  Zadie Simith, về tất cả những me-xừ Pyle trên toàn thế giới. Họ đâu có muốn làm cho chúng ta bị thương tổn. Chúng tôi tới với bạn là do thiện ý, do niềm tin, cơ mà? Nhưng chính những me-xừ Pyle này làm chúng ta đau khổ, làm thương tổn chúng ta. Thành quả lớn lao của Greene ở trong Người Mỹ Trầm Lặng, là cho tên già đểu giả, Fowler, nhân danh “nghĩa cả”, khi chỉ vào đống xác người mà Pyle coi, đó chỉ là biểu tượng. Fowler, và những người như anh ta, đều lý tưởng quá đủ, để mà chứng minh rằng, trên trái đất này, chẳng có một lý tưởng nào xứng đáng để mà lăn xả vào nhau, chém giết lẫn nhau, vì nó. Khi Pyle hỏi Fowler, như vậy, anh tin vào điều chi, “Tôi tin, tin chứ. Tôi tin, mình đang tựa lưng vô tường, và có một họng súng ở đằng kia kìa”. Pyle lắc đầu: “Tôi đâu tính hỏi bạn như vậy”.

Nhưng tác phẩm của Greene là đúng như vậy đó. Ông mang tới cho người đọc, một hy vọng, thứ hy vọng mà một người quan sát viên dán mắt vào sự kiện đem lại cho chúng ta. Theo nghĩa đó, Greene là tay ký giả bậc thầy. Ông dâng hiến cho chúng ta những chi tiết, và những chi tiết chính chúng, sẽ chiến đấu, trong một cuộc chiến đấu nhằm chống lại những thùng rỗng kêu to, nói rõ hơn, những ý nghĩ, tư tuởng lớn lao, nhưng vô ngã, vô vị, vô hình, vô ảnh, như của Pyle.

Ruth Franklin trên tờ Người Nữu Ước, tìm ra, Thượng Đế là ở trong những chi tiết, ngược hẳn với Zadie Smith, trên tờ Guardian, bà thấy Ma Quỉ ở trong những chi tiết, khi đọc Greene. Nhưng bà thêm vô, cứu chuộc cũng là từ đó.
Và có thể, đó cũng là của Greene, như ông từng có lần cầu nguyện, “Một vài người trong chúng ta có thiên hướng tin yêu Chúa. Một vài người khác, có thiên hướng tin yêu con người. Cầu xin làm sao thiên hướng của tôi đừng bị phí phạm”.
Cầu sao được vậy.
Nó quả đã không bị phí phạm.

NQT

Jackstraws

My shadow and your shadow on the wall
Caught with arms raised
In display of exaggerated alarm,
Now that even a whisper, even a breath
Will upset the remaining straws
Still standing on the table 

In the circle of yellow lamplight,
These few roof-beams and columns
Of what could be a Mogul Emperor's palace.
The Prince chews his long nails,
The Princess lowers her green eyelids.
They both smoke too much,
Never go to bed before daybreak.

Charles Simic: Jackstraws

Jack·straw: Trò chơi rút 1 cọng rơm trong 1 bó, làm sao không đụng tới những cọng còn lại [a game in which a set of straws or thin strips is let fall in a heap with each player in turn trying to remove one at a time without disturbing the rest]

Rút cọng rơm

Bóng của GNV và của BHD thì ở trên tường
Xoắn vào nhau, bốn cánh tay dâng cao
Trong cái thế báo động hơi bị thái quá,
Và bây giờ, chỉ cần một lời thì thầm,
Có khi chỉ một hơi thở thật nhẹ
Cũng đủ làm bực mình cả đám còn lại
Vẫn đứng trên mặt bàn 

Trong cái vòng tròn ánh sáng đèn màu vàng
Vài cây xà, cây cột
Của cái có thể là Cung Ðiện của Hoàng Ðế Mogul.
GNV cắn móng tay dài thòng,
BHD rủ cặp mí mắt xanh.
Cả hai đều hút thuốc lá nhiều quá,
Chẳng bao giờ chịu đi ngủ trước khi đêm qua.

A Burn-Out Case

*

Trong một vài đường hướng, đây là một cuốn sách tuyệt hảo đối với tôi - mặc dù đề tài và sự quan tâm của nó, thì rõ ràng thuộc về một cõi không tuyệt hảo. Tôi đọc nó, lần đầu khi còn trẻ, dân Ky tô, lớn lên ở Phi Châu, vào lúc mà trại cùi còn phổ thông. Tôi còn nhớ, lần viếng thăm cùng với mẹ tôi, một trại cùi như thế, được mấy bà sơ chăm sóc, tại Ntakataka, nơi hồ Lake Malawi. Và tôi sợ đến mất vía bởi cái sự cử động dịu dàng đến trở thành như không có, của những người cùi bị bịnh ăn mất hết cánh tay, y hệt như được miêu tả ở trong cuốn tiểu thuyết: “Deo Gratias gõ cửa. Querry nghe tiếng cào cào cánh cửa của cái phần còn lại của cánh tay. Một xô nước treo lủng lẳng ở cổ tay giống như một cái áo khoác, treo ở cái núm trong tủ áo”.

Vào cái lúc tôi đọc nó, thì tôi đang phải chiến đấu, như những người trẻ, hay già, phải chiến đấu, và cũng không phải chỉ ở Phi Châu, với những đòi hỏi về một niềm tin, khi mà niềm tin này thì thực là "vô ích, vô hại, vô dụng, vô can…", tại một nơi chốn, bất cứ một nơi chốn, bị tai ương, bệnh tật, và cái chết nhòm nhỏ, đánh hơi, quấy rầy, không phút nào nhả ra.
Thành thử câu chuyện của Greene về một gã Querry, một tay kiến trúc sư bảnh tỏng, tới xứ Công Gô, chỉ để chạy trốn, và tìm ra một thế giới, và có thể, Chúa bắt kịp anh ta đúng ở đó, một câu chuyện như thế, làm tôi quan tâm.

Trong một vài đường hướng, cuốn tiểu thuyết có thể được đọc như một cuộc điều tra, về niềm tin hậu-Ky tô, một toan tính để nhìn coi xem, cái gì dấy lên từ tro than của thế kỷ trứ danh về cái sự độc ác của nó…
Ui chao, bạn đọc có thể mô phỏng đoạn trên, và đi một đường “bốc thúi” trang Tin Văn:
Trong một vài đường hướng, trang Tin Văn có thể được đọc như là "… niềm tin hậu chiến Mít, một cái gì dấy lên từ tro than của cuộc chiến trứ danh vì Cái Ác Bắc Kít của nó."!
Nhưng, biết đâu đấy, Ky Tô giáo đang lâm đại nạn tại nước Mít, là cũng ứng vào cuộc "điều tra" này, của trang Tin Văn?


Time's publetter [?] celebrated his decision to stay and published a picture of him standing on a now deserted street smoking a cigarette and looking pugnacious.
Time tán dương quyết định ở lại của Phạm Xuân Ẩn và đăng hình ông, với vẻ mặt căng thẳng, đứng hút thuốc lá giữa con phố hoang vắng của Sài Gòn.
Tuyệt cú mèo! Thành phố này giờ này thuộc về ta, vị thần Janus hai mặt!
Ẩn hả, nhớ chứ!
*

Cái hỏng của 1 nhân vật như là Quân, so với những PXA thực, từ 1 ông Bass, Yankee mũi lõ, có thể là do Quân đếch biết mẹ gì về CS, hay về văn học, để biến thành 1 thứ nhân vật tiểu thuyết, như 1 Victor Serge, tác giả của Trường hợp đồng chí Tulayev.
 “Nói cho cùng, sau hết, có 1 thứ như là sự thực”, “After all, there is such a thing as truth”, Susan Sontag trích dẫn, trong bài viết Không thể lụi tàn: Trường hợp đồng chí Victor Serge.

PXA gia nhập CS, như 1 anh Mít ái quốc, với giấc mộng đuổi Pháp ra khỏi xứ Mít, giản dị chỉ có vậy. Làm sao thành nhân vật tiểu thuyết bảnh cho được.

Cú ngửa tay xin tiền bạn cũ của PXA phải nói là cú tối tối độc, bởi vì, với cái tội để mất Miền Nam, rồi để mất cả nước, rồi đẩy cả nước xuống biển, rồi đẩy cả nước vô cơn băng hoại không làm sao ra thoát [Gấu tin là vô phương!], biến cả thế giới thành bãi đánh hàng nữa chứ!, tất tất tật đổ vào đầu PXA, khi ông đánh bức điện mở cửa Sài Gòn: Yankee mũi lõ chạy có cờ rồi, chúng không có lý do nào để trở lại nữa, Yankee mũi tẹt vô mau lên!
Không có bức điện của PXA, có thể tình hình khác đi.
Hơn ai hết, là một tổ sư cớm nằm vùng, như con cú từ trên cao nhìn xuống, ông quá rành điều này, như Ngọa Long ngày nào nằm khểnh trong lều tranh, mà biết thiên hạ sẽ phân ba.
PXA biết, nhưng không biết, cái không thể nào biết: Ông xa Đất Bắc lâu quá, đã mấy đời rồi, ăn cơm Miền Nam, ị ra cứt Miền Nam cũng đã mấy đời rồi, trong cứt không còn một tí Bắc Kít nào hết, nhưng trái tim ông hoàn toàn là Bắt Kít, một thứ Bắc Kít tuyệt vời, từ đó, là cái chân lý tuyệt vời, thống nhất đất nước, biến cả nước thành một Miền Nam tuyệt vời.
Trong ông Cái Ác Bắc Kít kể như không còn.
Vào những giờ phút cuối cùng, ông đi không được, là vì những chuyện đó, chắc chắn như vậy. (a)