|
Hugh Van Es
SÁCH MỚI TRẦN MỘNG TÚ
Trân
Trọng
Giới Thiệu Hai Tác Phẩm Mới của Trần Mộng Tú
*
Trần
Mộng Tú
Giọt Mưa
Trời Khóc
*
Nến Muộn
1, 2
Đọc Cô Rơm
Bình
Thuỷ 1969
Còn lại gì?
Cái còn lại, với
"Cô Tú", hay Cô Rơm ngày nào, có lẽ những giọt mắt của 1969, nhưng phải
đợi đến 1998, mới có dịp đổ xuống: Nước mắt của bao nhiêu năm
tụ lại
một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây
giờ nứt
ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ.
Mộ Tuyết
1967
Gấu Em mất
1967, trước Mậu
Thân một năm. Khi đó, chiến tranh chưa đến nỗi khốc liệt. Nó lại thuộc
tiểu đoàn bảo vệ phi trường Sóc Trăng, nên việc đưa xác về Sài Gòn
cũng dễ dàng hơn so với trường hợp Cô Tú.
Nhưng những giọt nước mắt của
Gấu thì đổ xuống tại một trại tị nạn Thái Lan, khi biết chắc rằng,
cuộc đời của gia đình Gấu đã sang một trang khác, chắc là tốt đẹp hơn,
và không một thằng VC nào nhìn thấy Gấu khóc hết.
Bây giờ thì tha hồ mà khóc, hình như lúc đó Gấu đã nghĩ như vậy.
Trang
TMT
1, 2
Trường hợp Lê
Công Định
Trên blog của
Đông A, viết: Hôm nay đọc The New
Yorker thấy
bài thơ A
dream của Jorge Luis Borges, qua bản dịch của Suzanne Jill Levine.
Tôi thấy
thích bài thơ này và thử dịch ra tiếng Việt. Công nhận, The New
Yorker
đưa bài thơ này rất hợp thời. Không rõ Borges sáng tác bài thơ này
vào năm
nào. Thẩm mỹ về chuỗi vô tận, A trong A trong A ... rất hợp với tư duy
phương
Đông, không có khởi đầu và không có kết thúc, và con người chỉ còn có
thể bất lực
mà thôi. Nhưng thực ra các chuỗi vô tận không hẳn đã là vô tận. Chúng
có một giới
hạn, giống như nghịch lý Achilles đuổi rùa của Hy Lạp cổ đại. Cái giới
hạn đấy
là lúc con người có thể đọc được những gì mà những người tù đã viết ra.
Khó
hiểu,
là cái mẩu Gấu gạch đít.
Hợp thời?
“Y’ muốn nói về cái vụ Gấu "áp dụng thông
minh và thiên tài" bài thơ của Borges vào trường hợp LCD? (1)
*
(1) Tình cờ, vớ được bài
thơ của Borges, đăng trên The New
Yorker, July 6, 2009, cũng
ứng vào LCD:
Poetry
A Dream
by Jorge Luis Borges
July 6, 2009
In a deserted place in Iran
there is a
not very tall stone tower that has neither door nor window. In the only
room
(with a dirt floor and shaped like a circle) there is a wooden table
and a
bench. In that circular cell, a man who looks like me is writing in
letters I
cannot understand a long poem about a man who in another circular cell
is
writing a poem about a man who in another circular cell . . . The
process never
ends and no one will be able to read what the prisoners write.
(Translated,
from the
Spanish, by Suzanne Jill Levine.)
No one will be able
to read what the prisoners write.... Chẳng
ai biết tù nhân LCD viết cái đéo gì. Còn cái mà ông đọc, ở trên một tấm
bảng, ở bên ngoài camera của Cớm VC. Bên cạnh tấm bảng, một tay Cớm
đang kề dao vô cổ vợ con ông!
*
Soi vầng trán cháu
ngoan Bác
Hồ thành phố mang tên Bác, thấy tương lai của đất nưóc.
Víp Va Ka đã từng tiên tri như
vậy.
Khi LCD bị bắt, Gấu bỗng nhớ lời tiên tri của Víp, và bèn giơ cả hai
tay lên
trời, mà rằng, quẻ bói của Víp đã ứng nghiệm. Những đứa trẻ sinh cùng
với “Cách
Mạng 30 Tháng Tư”, quả đã nên người, và đều đi tù, thí dụ như LCD, và
mới đây
nhất, là Nguyễn Tiến Trung.
NTT, do không
mắc míu gia đình, nên không “sao vụt tắt” được. Bà mẹ phán mới bảnh, và
chỉ chửi
Cớm VC, chúng thính hơi quá: “Không quá bất ngờ, nhưng chúng tôi
cũng
không nghĩ là lại quá nhanh như vậy. Trung mới được loại ngũ
từ
chiều tối hôm trước, ở nhà có một đêm, chưa nói được chuyện
gì với
nhau nhiều.” BBC
Câu nói
của bà mẹ, xem ra thật
nhẹ nhàng, nhưng là lời thóa mạ nặng nề nhất, dành cho Cớm VC, và Nhà
Nước
VC.
Quái quỉ làm sao, Gấu lại nhớ
đến anh chàng sĩ quan Đạo, trong một truyện dài bỏ dở của TTT. Đây có
lẽ là
chuyện thực, đã từng xẩy ra, bởi vì Đạo, là từ sĩ quan Vũ Đạo Ánh, bạn
thời Hà Nội,
của ông [nhân vật Thạch cũng là từ Vũ Đạo Ánh, tuy có phần của chính
tác giả ở
trong đó]. VDA sau tử trận tại BD, và, vì là người được đề tặng
cuốn
BL, người nhà đã chôn một cuốn BL cùng với ông.
Đạo đã từng đóng quân tại một
vùng bất an, và trong vùng có một tay biệt động chuyên làm thịt binh sĩ
VNCH, và những người dân có cảm tình với chế độ. Hành vi của y xuất quỉ
nhập thần, và Đạo thề sẽ làm thịt được tay serial killer này. Tay này
có một cô bồ, hay vợ, và lâu lâu, nhớ quá, bò về.
Bữa đó, Đạo và đệ tử
nằm ngoài, cho anh ta thoải mái một đêm bên người thân, tới sáng, khi
anh
ta ló đầu ra, mới nổ súng.
Có
thể, để
tránh cái cảnh nhìn thấy NNT xuất hiện trên youtube, cả bố mẹ lẫn người
yêu của
anh đều lên tiếng OK, chấp nhận thương đau, hành động quyết liệt này
cũng là để
ngăn chặn mọi toan tính làm nhục anh, của VC.
Sao chính phủ không cách
chức nhân dân
Cái đề tài “thay
đổi nhân dân” này, tưởng như mới, nhưng thật xưa cũ, đã từng thực sự
xẩy ra,
tại Liên Xô, vừa là thiên đường vừa là cái nôi của chủ nghĩa xã hội. Lê
nin đã
từng thực hiện cả một trận đói để làm cỏ cả một dân tộc, đúng như ao
ước của
Gorky (1)
Gấu cũng đã từng khốn khổ khốn
nạn, với vấn nạn này, khi chứng kiến những vụ làm cỏ nhân dân, đúng như
ý muốn của Gorky:
Đưa hết cái đám dân ngu cu đen Bắc Kít vô chiến trường Miền Nam.
Thực hiện
cú Mậu Thân, làm cỏ hết đám VC miệt vườn.
Khi cướp được Miền Nam, làm liên
tiếp mấy cú, đánh tư sản, đưa dân thành phố đi khu Kinh Tế Mới, tống vô
tù mút
mùa sĩ quan, công chức cao cấp VNCH….
Tuy nhiên, đằng sau, bên
dưới những cái khốn kiếp đó, thì lại là giấc mơ đổi đời của cả một miền
đất.
Giấc mơ tuyệt vời này bù trừ tất cả, nếu, Gấu lập lại, nếu, VC Miền Bắc
thực tâm
giải phóng Miền Nam,
thống nhất đất nước.
Giấc mơ từ ngàn đời của dân Mít, đã bị cái lũ Yankee
mũi tẹt làm nát tan, khi chúng lóa mắt trước của cải Miền Nam, và đầu
hàng cứt
Mẽo bỏ lại khi bỏ chạy, là cái mà chúng khinh bỉ gọi là phồn vinh giả
tạo!
(1)
Gorky đi thăm tù Gulag
Maxim
Gorky - bậc thày của
nền văn học Nga Xô viết
Nếu bạn
tò mò một chút, chắc
là nhận ra, trong hầu hết những hồi ký của đám biệt động thành sống sót
trong
vụ Tết Mậu Thân, đều có chi tiết này: họ đều được dặn dò, hãy quyết tử,
hãy bám
trụ, đừng rút lui, đừng đầu hàng, sẽ có đại quân tiếp viện.
Nhưng, như "lịch
sử" cho thấy, làm gì có đại quân tiếp viện.
Hai Lúa có đọc đâu đó, rằng
thì là, vụ Tết Mậu Thân là một cú nướng người anh em giải phóng, của VC
miền
bắc. Có thể như vậy.
Nhưng, những nông dân miền
bắc, những trai làng, liệu chính họ, cũng bị nướng? Và đó là lý do thực
sự của
cuộc chiến: Huỷ sạch, tẩy sạch đám nông dân ngu đần, để có giai cấp
mới, con
người mới?
Chuyện đã từng xẩy ra, tại
Liên Xô, cái nôi của Cách Mạng Vô Sản.
"Bởi vì đối với Stalin,
như Khrushchev cho chúng ta biết, nông dân chỉ là cặn bã, và đám cặn bã
này, là
90% dân chúng Nga."
"Nhà nhân bản [The
humane] Maxime Gorky, vào năm 1922, đã diễn tả niềm ao ước của ông,
'đám dân
chúng không văn hoá, ngu đần, huênh hoang, bốc phét, ở trong những làng
mạc
Nga, sẽ chết sạch, tất cả cái đám dân ngu cu đen đáng khiếp, đáng sợ
này.... và
một giống mới, có học, biết đường hơn thiệt, có nghị lực, sẽ thế chỗ.'"
"Ao ước của ông đã được
Stalin ngó xuống, chấp thuận, và biến thành hiện thực."
D.M. Thomas: Solzhenitsyn,
thế kỷ trong ta. Chương 9: Một Con Sói đối với Con Người. Sự ngu xuẩn
của cuộc
sống làng xã [The idiocy of village life... Karl Marx]
D.M.
Thomas cho rằng sự
chuyển hoá từ Christ qua Demon, [ông viết, Christ và Devil đổi chỗ cho
nhau],
Kẻ Cứu Rỗi thành Quỉ Sứ, đã xẩy ra vào thời kỳ đầu Cách Mạng Vô Sản ở
Nga, và
được khắc họa, bằng những tác phẩm văn học, như "Demons" của Pushkin,
"Twelve" của Blok (1), và Bài Thơ Không Có Anh Hùng, "Poem
Without a Hero", của Akhmatova. Trong khi tại Việt Nam,
vào lúc
kết thúc cuộc chiến. Sau một đêm 30 Tháng Tư, ngủ dậy, thay vì thấy một
cái nhà
Việt Nam to đẹp hơn, một con người Việt Nam hạnh phúc hơn, thanh thản
hơn, thì
chỉ có một con bọ. Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn thấy sự chuyển hóa này qua
con quỉ
chuồng heo [cũng một hình tượng văn học khác, từ Kafka, trong Y Sĩ Đồng
Quê],
biến thành con bọ phố phường.
(1) Năm 1918, Blok xuất bản trường thi 12 Vệ
Binh Đỏ, thô bạo và hung dữ, chỉ với một ước muốn trả thù tụi trưởng
giả, đi
giữa cơn bão tuyết trên đường phố Petrograd,
cướp và giết, được dẫn dắt bởi một sức mạnh vô hình. Ở đoạn thơ cuối,
bóng dáng
Jesus Christ xuất hiện trong bộ đồ trắng dẫn đầu đám người hung bạo.
Blok coi việc
Bôn-sê-vích nắm quyền, được "chúc phúc" bởi Chúa.
Nơi Người Chết Mỉm Cười.
D.M. Thomas
viết,
... đằng sau 12 Vệ Binh Đỏ là một con chó đói - hình ảnh cựu thế giới,
trước
khi có Cách Mạng Vô Sản. Đám vệ binh đỏ tính thọc cho con chó một mũi
lê, nhưng
quay qua chú ý tới lá cờ đỏ mờ mờ hiện ra trong màn tuyết dầy đặc.
Người cầm lá
cờ, dẫn đầu đám giết người, bước như bay trên mặt tuyết đó, là...
Chúa
Giê Su.
Gorky và Trùm Mật Vụ Nga
Trận đói của Lenin, 1933: The Terror-Famine,
cướp đi, theo Amis [trích dẫn Grossman], chừng 5 triệu người ở Ukraine,
2 triệu ở Kuban, Don, Volga, và Kazakhstan, và đây có lẽ là mùa gặt
được mùa nhất tại Liên Xô.
Con số người chết do trận đói năm Ất Dậu, do Nhật gây nên, và do nhử Mẽo vô Việt Nam,
cũng đâu có nhằm nhò gì, theo cái kiểu tính toán của Stalin:
Cái chết của một người thì bi thương, cái chết của một triệu người chỉ
là thống kê.
[The death of one person is tragic, the death of a million is a mere
'statistic']
*
Sở dĩ hai ông bạn vàng Edmund Wilson và Nabokov cắt bào đoạn nghĩa, là
do Lenin gây nên. Để đáp lễ Wilson phạng mình, Nabokov đã lịch sự nghĩ
rằng, bạn hiền của ta, do không hiểu thực tại Bolshevik, nên cũng không
thể nào hiểu được lời sỉ nhục.
[Nabokov is bearing in mind that Wilson, not understanding the
Bolshevik reality, does not understand the insult].
Thật đúng là hòn đất ném đi, cục vàng ném lại!
[Gấu nhớ nằm lòng câu trên, mỗi khi mài dao kéo, sửa soạn đưa lên bàn
mổ, những bạn hiền văn chương của mình!]
*
Thê thảm nhất, là, cuộc chiến Việt Nam không thể nào tránh
được. Như Cách Mạng Nga, cũng không thể nào tránh được!
Pushkin chẳng đã từng van vái, Lạy Trời đừng bao giờ bắt con phải chứng
kiến một cuộc cách mạng Nga!
Dọn
Bức hình trên, từ cuốn Koba
The Dread, của Martin Amis, nhà văn Tây phương đầu tiên viết về Gulag,
theo
Anne Applebaum. Đọc Solz, thì cũng nên đọc thêm Amis, nhất là cuốn Nhà
Hội.
Một tuyệt tác viết về
Gulag.Tay điểm sách trên tờ TLS, đọc Nhà Hội, mà ngửi ra được cái mùi
của
Gulag, thế mới thần sầu.
Amis nhận xét về sự khác biệt
giữa Cái Ác Nazi với Cái Ác Đỏ:
Chủ nghĩa Nazi không huỷ diệt
xã hội dân sự. Chủ nghĩa Bolshevism hủy diệt xã hội dân sự. Đó là một
trong
những lý do cho thấy "phép lạ" của sự hồi phục của nước Đức. Stalin
không huỷ diệt xã hội dân sự. Lenin huỷ diệt xã hội dân sự.
*
Đọc, Gấu nhận ra, điều này
quá đúng với Việt Nam
sau 1975. Sự huỷ diệt xã hội dân sự bắt đầu cùng với chiến thắng của VC.
Chính vì lý do này, sẽ chẳng
thể nào có sự hồi phục.
*
Chủ nghĩa Bolshevism có thể
xuất cảng được, và sản xuất ra những hiệu quả gần như là đồng nhất với
nguyên
bản, ở khắp nơi. Chủ nghĩa Nazi không thể sao chép. So sánh với nó,
những nhà
nước phát xít khác chỉ là trò tài tử.
Amis: Koba The Dread
Chuyện
ông nhà văn hải ngoại LC
giơ tay đầu hàng, ngưng viết về tù cải tạo, vì không thể viết hay hơn
BNT khiến Gấu hơi bị ngạc nhiên.
Hai ông đi tù khác
nhau, một ông là sĩ quan Ngụy, một ông chắc đã từng là đảng viên, đi
tù vì bị
Đảng nghi ngờ lòng trung thành, hẳn thế?
V/v ông LC nói “không thể
nào viết hay hơn” ông BNT.
Gấu cũng đồng ý, không có ai
có thể viết hay hơn BNT, với tác phẩm để đời CKN2000. Đó là một cuốn
tiểu thuyết "trác tuyệt."
Nhưng, cái khốn nạn nhục nhã
của CKN2000, chính vì nó trác tuyệt, không thể có ai viết hay hơn!
Cuốn tiểu thuyết, một cách nào
đó, đụng vô một vấn đề căng nhất, về sáng tạo. Vấn nạn này, Adorno đặt
ra,
qui về câu sau đây, mà Gấu đã từng nhắc tới, khi viết về CKN2000:
Hãy coi chừng! Ngay cả nỗi
đau lớn, khi được đưa vào thành tứ thơ, khổ thơ, phổ thành vần thành
điệu, thì
vẫn làm cho hiện tượng kia [Cái Đại Ác, Cái Ác Bắc Kít, Na Zít…], có
thêm sự
huyền nhiệm, về một điều có thể chấp nhận được – a mystery of
acceptability –
(Phỏng vấn G. Steiner).
Đây cũng là vấn nạn mà Kinh Cầu của
Akhmatova nêu lên, như Brodsky nhận định về nó...
Brodsky. For me the
main
thing in Requiem is the theme
of splitting, the theme of the authors
inability
to have an adequate reaction. Akhmatova describes in Requiem all the
horrors of
Stalin's "great terror," but at the same time she is constantly
talking about how close she is to madness. Do you remember?
Already madness dips
its wing
And casts a shade
across my heart,
And pours for me a
fiery wine
Luring me to the valley
dark.
I
realize that to this madness
The victory I must yield,
Listening closely to my own
Delirium, however strange.
Với
tôi, đề tài chính của
Kinh Cầu, là về sự nứt nẻ, phân rẽ, [thân này ví xẻ làm đôi được], về
sự không làm
sao có được một phản ứng đầy đủ của những tác giả khi đứng trước hoàn
cảnh. Akhmatova, trong Kinh Cầu,
miêu tả tất cả những
điều khủng khiếp, ghê rợn của ‘khủng bố lớn’, của Stalin, nhưng cùng
lúc, bà hoài
huỷ nói về tình trạng mấp mé bờ điên khùng, hoảng loạn. Bạn nhớ không?
Already madness dips
its wing
And casts a shade
across my heart,
And pours for me a
fiery wine
Luring me to the valley
dark.
Khùng điên dang rộng cánh
Trải dài bóng qua trái tim tôi
Đổ rượu nồng cho tôi
Lùa tôi xuống thung lũng tối
I realize that to this
madness
The victory I must yield,
Listening closely to my
own
Delirium, however
strange.
Tôi nhận ra, đối với điên khùng
này,
là chiến thắng mà tôi phải
trao nhường cho nó.
Trong khi lắng nghe, thật cận
kề,
cơn hoảng loạn của chính mình
Mới lạ lùng làm sao!
(1) Trên talawas, có một đấng dịch:
Cơn điên dại
đã dang cánh
Phủ bóng lên nửa trái
tim tôi.
Cho tôi rượu nồng để uống,
Và kéo
tôi xuống thung lũng tối đen.
Đó cũng là lúc tôi
nhận ra,
Trong
khi lắng nghe
cơn mê sảng xa lạ của mình,
Rằng
tôi phải trao chiến thắng
Cho
nó.
Không
hiểu nửa trái tim,
là, sao?
Tại sao nửa?
Nửa nào, còn nửa... kia, đâu? (1)
Bạn văn VC, rành tiếng Nga, coi lại
nguyên tác, khai cái ngu cho Gấu giùm. Đa tạ. NQT
(1) Ui chao lại
"hoài nhớ", một nửa linh hồn chót đem bán rao tại... chợ cá eBay! NQT
*
Brodsky phán, khổ
thơ sau có lẽ là tuyệt
vời nhất của tất cả Kinh Cầu.
Hai dòng chót [Listening closely to
my own/Delirium,
however strange] nói sự thực lớn lao
nhất.
Akhamatova diễn tả tâm trạng của thi sĩ, khi nhìn mọi chuyện xẩy ra cho
bà, như
thể, bà đứng qua một bên. Với nhà thơ, sự kiện, viết ra, cũng quan
trọng như,
sự kiện, diễn tả nó: Nhà thơ bắt đầu trù ẻo mình: Mi là kẻ điên khùng.
Mi là
một thứ quái vật chi, tại sao mi thản nhiên nhìn những sự ghê rợn như
thế diễn
ra trước mặt, như thể nó chẳng liên quan mắc mớ gì tới mi?
Volkov:
Chuyện
trò với Brodsky
Note: Nếu hiểu theo
cách hiểu của Brodsky, thì bản dịch trên talawas, không đạt.
Czeslaw Milosz
có một bài viết thật tuyệt về Simone Weil, in trong "To Begin Where I
Am": Sự quan trọng của Simone Weil. Tin
Văn sẽ post và cố gắng dịch bài
này gửi tới độc giả.
Gấu biết
đến Milosz, là qua tờ Partisan Review. Có thể nói, tất cả những tác giả
từng ăn bả CS, Gấu biết, là nhờ
tờ báo khuynh
tả này. Cũng tiếc, đám Yankee mũi tẹt,
chẳng hề biết gì về họ. Chúng, cho đến giờ này, vẫn còn tấm tắc, nắc
nỏm, tâm đắc… với những vần thơ của Mai a
cốp
ki, của Ê
ren bua, trong khi , Mai a, có thể do xấu hổ nhục nhã, và ân hận, vì
những vần
thơ của mình, đã tự tử bằng súng lục, còn Ê ren bua thì than, ta đã
sống đời ta
như là một con chó!
THE IMPORTANCE OF SIMONE WElL
Sự quan trọng của Simone Weil
Nước
Pháp dâng tặng một món
quà hiếm cho thế giới đương đại, ở nơi con người, là Simone Weil. Sự
hiển hiện
ra một nhà văn như thế, ở trong thế kỷ 20 đúng là ngược với tất cả
những qui
luật của xác xuất, tuy nhiên những điều không chắc, chưa chắc, vẫn xẩy
ra.
*
The
great mistake of
the Marxists and of the whole of the nineteenth century was to think
that by
walking straight ahead one would rise into the air."
Simone Weil
"Lầm lẫn lớn nhất của những người Mác xít và trọn thế kỷ 20 là đã nghĩ
rằng, cứ bước thẳng tới, là có thể bay lên trời!"
Mấy anh VC chẳng đã từng bốc phét, với sức người sỏi đá cũng thành cơm!
*
In
1938 Simone Weil, to use her words, was "captured by Christ."
Nobody has the right to present her biography as a pious story of
conversion.
We know the pattern: the more violence the turn, the more complete the
negation, the better for educational purposes. In her case, one should
not use
the term "conversion”. She says she had never believed before that such
a
personal contact with God, was possible. But she says through all her
conscious
life her attitude had been Christian " I quote: "One can be obedient
to God only if one receives orders. How did it happen that I received
orders in
my early youth when I professed atheism?" I quote again: "Religion,
in so far at, source of consolation, is a hindrance to true faith: in
this
sense atheism is a purification. I have to be atheistic with the part
of myself
which is not for God. Among those men in whom the supernatural part has
not
been awakened, the atheists are right and the believers wrong."
The unique place of Simone
Weil in the modern world is due to the perfect continuity of her
thought.
Unlike those who have to reject their past when they become Christians,
she
developed her ideas from before 1938 even further, introducing more
order into
them, thanks to the new light. Those ideas concerned history, Marxism,
science.
Violent
in her judgments and
uncompromising, Simone Weil was, at least by temperament, an
Albigensian, a
Cathar; this is the key to her thought. She drew extreme conclusions
from the
Platonic current in Christianity. Here we touch perhaps upon hidden
ties
between her and Albert Camus. The first work by Camus was his
university dissertation
on Saint
Augustine.
Camus, in my opinion, was also a Cathar, a pure one, and if he rejected
God it
was out of love for God because he was not able to justify Him. The
last novel
written by Camus, The Fall, is
nothing else but a treatise on Grace - absent grace -though it is also
a
satire: the talkative hero, Jean-Baptiste Clamence, who reverses the
words of
Jesus and instead of "Judge not and ye shall not be judged" gives the
advice "Judge, and ye shall not be judged," could be, I have reasons
to suspect, Jean-Paul Sartre.
A few years ago I spent many
afternoons in her family's apartment overlooking the Luxembourg Gardens-at
her table covered with ink stains from her pen-talking to her mother, a
wonderful
woman in her eighties. Albert Camus took refuge in that apartment the
day he
received the Nobel Prize and was hunted by photographers and
journalists.
Milosz
Trong
Tản Mạn về Phim và Những ngày ở Sài Gòn, nhân thiên hạ
đang bàn về cuốn phim Mê Thảo, từ Chùa Đàn của Nguyễn Tuân mà ra, tôi
có “liều
lĩnh” coi Chùa Đàn, gồm ba phần, mang trong nó thai đố mà con nhân sư
đã đặt ra
cho Oedipe: con vật nào buổi sáng đi bốn chân, buổi trưa hai, buổi
chiều ba. Thật
thú vị, mới đây thôi, đọc Adam Zagajewski trong bài tưởng niệm nhà thơ
Milosz vừa
mới mất trên tờ Điểm Sách Nữu Ước, số đề ngày 23 tháng Chín 2004, Trí
Tuệ và
Bông Hồng, ông cũng coi cuộc đời của Milosz gồm ba giai đoạn, có thể
coi như
câu trả lời cho thai đố mà con nhân sư đặt ra cho thế kỷ 20.
*
Trong Native
Realm chúng ta thấy có những chương về lịch sử, và luôn cả, kinh tế,
như thể
Milosz muốn nói, tôi sẽ chỉ ra cho bạn thấy, là, thơ có thể được làm từ
không-thơ [nonpoetry], là, tứ thơ mạnh là nhờ được nuôi dưỡng tẩm bổ
bởi những
thức ăn của trần gian, chứ không phải do chúi mãi vào vùng nội tại, cõi
riêng
tư. Không bay bổng, cũng không “bỏ chạy” như là Đảng buộc tội, nhưng
thẩm thấu,
đó là phương pháp của Milosz. Không thẩm thấu khô khan nghèo nàn
[sterile], giống
như người ta tiêm nước biển ở bệnh viện, không khách quan, không bắt
chước –
ngươi ta làm thì mình cũng làm như vậy. Nhưng đây là một phương pháp
thẩm thấu
cá nhân, và theo một nghĩa nào đó, nó mang tính đạo hạnh, tới mức có
thể coi
đây là một phương pháp tu thân, tu đạo, bởi vì thơ là nhắm tới hiểu cái
không
thể hiểu, một phương pháp tri hành mà tôi muốn gọi là “nhân văn, nhân
bản”
[humanistic], nhưng từ này đã bị người đời quá lạm dụng ở trong những
sảnh đường
đại học, nên nó đã bị tổn thương, hư hại.
*
Ông là nhà thơ của thông minh lớn và
tuyệt cảm lớn [a poet of ‘great intelligence and great ecstasy’]; thơ
của ông sẽ
không thể sống sót nếu thiếu hai món này. Thiếu thông minh, là sẽ rớt
vào trò
cãi tay đôi với một trong những đối thủ này nọ, rồi cứ thế mà tủn mủn,
tàn tạ
đi [bởi vì, những con quỉ của thế kỷ 20 này, chúng đâu có thiếu khả
năng biện
chứng, chẳng những thế, chúng còn tự hào về những “biện chứng pháp” duy
này duy
nọ…]. Thiếu tuyệt cảm, làm sao vươn tới được những
ngọn đỉnh trời? Thiếu nó, là sẽ chỉ suốt đời
làm một anh ký giả tuyệt vời! Ông tự gọi mình là một tay bi quan tuyệt
cảm
[ecstatic pessimist], nhưng chúng ta cũng sẽ vấp vào những hòn đảo nho
nhỏ của
sự tuyệt cảm mà Bergson coi đây là dấu
hiệu khi chạm tới được một sự thực nội tại.
Vào thời đại của Beckett, một nhà văn lớn lao,
dí dỏm, và cũng rất ư là sầu muộn, Milosz bảo vệ chiều hướng tông giáo
của kinh
nghiệm của chúng ta, bảo vệ quyền được vuơn tới cõi vô cùng của chúng
ta. Bức
điện tín của Nietzsche, thông báo cho những con người ở Âu Châu, rằng
Thượng Đế
đã chết, bức điện đã tới tay Milosz, nhưng ông không từ chối ký nhận,
và cứ thế
gửi trả cho người gửi.
Tôi không
tin tưởng, rằng Milosz – như ông thường gọi mình như vậy – là một tay
Manichaean. Về tất cả những chuyện này, tuy nhiên, tôi nhìn thấy ở
trong thơ
ông, một sự gần gụi rất đặc thù, mà cũng rất hứng khởi, giữa tư tưởng
và hình ảnh,
giữa tranh luận và nhiệt tình, giữa thiên nhiên vùng California và ý
thức hệ của
thế kỷ 20, giữa quan sát và giao giảng sự thực. Milosz cũng còn là một
nhà thơ
chính trị lớn: những gì ông viết ra về sự huỷ diệt những người Do Thái,
sẽ còn
hoài, và không chỉ còn hoài ở trong những tài liệu, những tuyển tập
dành cho
sinh viên. Trong những năm thê thảm nhất của chủ nghĩa Stalin những
sinh viên đọc
Luận về Đạo Đức, Cách Ở Đời của ông [Treatise on Morals, 1948], giống
như một
triết gia La Mã, Boethius, của những ngày này. Ông không im tiếng, khi
xẩy ra
phong trào bài Do Thái vào năm 1968, đây đúng là một nỗi nhục cho báo
chí Ba
Lan, và một số người thuộc tầng lớp trí thức. Sự hiện hữu của những từ
ngữ
trong sạch của Milosz, đã và sẽ luôn luôn vẫn là một ân huệ, một lợi
ích, cho độc
giả Ba Lan, kiệt quệ vì sự tàn bạo của chủ nghĩa Stalin, tả tơi sau
thời gian
dài sống dưới sự thử thách của chủ nghĩa Cộng Sản, sự lỗ mãng thô bỉ
của [cái gọi
là] nền dân chủ của Nhân Dân. Nhưng có lẽ, ý nghĩa sâu xa nhất của thái
độ
chính trị của Milosz thì nằm ở một nơi nào đó; theo gót những bước chân
của
Simone Weil vĩ đại, ông mở ra cho mình một kiểu suy nghĩ, nối liền đam
mê siêu
hình với sự nhủ lòng, trước số phận của một con người bình thường. Và
còn điều
này, trong một thế kỷ mà những nhà tư tưởng tông giáo và những nhà văn
thường
được coi thuộc cánh hữu [thí dụ như Eliot], trong khi những nhà hoạt
động xã hội
bị thường bị coi là vô thần, một khuôn mẫu như là Milosz có một ý nghĩa
thật là
lớn lao, và sẽ tiếp tục phục vụ chúng ta rất nhiều trong tương lai.
Lưới
khuya,
hồn ốc lạc thiên đường
Quít làm, Cam chịu
[Lịch sử]
V/v Các nhà
văn Tây phương thèm được bách hại, đi
tù, để… viết văn.
CKN2000
là câu trả lời cho vấn nạn trên.
Nhưng đẩy đến tận cùng,
lòi ra câu hỏi: Tại sao chế độ toàn trị rất sợ, và rất nể nhà văn?
Gấu đã từng
nghe rất nhiều giai thoại, huyền thoại về cây ba tong của Bố Già Nhà
Văn Nguyễn
Tuân.
*
Một trong những
khác biệt rõ rệt giữa chủ nghĩa Phát xít và chủ nghĩa Cộng sản: Phát
Xít không
gợi hứng cho một nghệ phẩm vĩ đại nào. Nó chẳng lôi kéo được một nhà
văn hạng
nhất vào quĩ đạo của nó, ngoại lệ may ra có trường hợp Montherlant.
(Erza Pound
không phải là Phát Xít; ông sử dụng những cơ hội và cờ biển của nó cho
chủ thuyết
kinh tế kỳ quặc của mình.) Ngược lại, chủ nghĩa Cộng sản đã là một sức
mạnh
trung tâm trong rất nhiều tuyệt phẩm của văn học hiện đại; và kinh
nghiệm riêng
của từng người, khi tiếp cận chủ nghĩa Cộng sản, đã ảnh hưởng, về ý
thức, cũng
như là về nghiệp văn, ở nhiều nhà văn lớn của thời đại chúng ta.
Tại
sao có sự
khác biệt này? Chẳng nghi ngờ chi, chủ nghĩa Phát-xít quá đê hèn, chẳng
thể tác
động tới lòng nhân hậu, vị tha, của trí tưởng tượng, vốn rất cần cho
nghệ thuật
văn chương. Cộng sản ngay cả khi đã trở thành nọc độc, nó vẫn là một
huyền thoại
về tương lai, một viễn ảnh giầu có về nhân cách, đạo đức. Phát Xít là
luật tối
hậu của đám côn đồ; chủ nghĩa Cộng sản thất bại bởi vì nó muốn áp đặt
lên cái
đa dạng mong manh của nhân tính, và đưa ra một lý tưởng nhân tạo [đó
là] từ chối
cái con người, là mình, vì mục đích lịch sử. Phát xít khủng bố thông
qua sự
khinh miệt con người; Cộng sản khủng bố bằng cách đưa bổng tít con
người khỏi
cõi sai lầm riêng tư, tham vọng riêng tư, tình yêu riêng tư, mà chúng
ta gọi là
tự do.
Còn
một khác
biệt đặc thù hơn nữa. Hitler và Goebbels là những đại gia về ngôn từ,
nhưng họ
đều coi thường đời sống tinh thần. Những người Cộng sản, trái lại, ngay
từ phút
đầu tiên, đã có một ý thức về những giá trị của trí thức, nghệ thuật.
Trong
Marx và Engels, điều này thật hiển nhiên. Họ là những nhà trí thức đến
tận
xương tận tuỷ. Lênin coi nghệ thuật là món quà vô giá để chống lại nỗi
sợ hãi.
Ông run sợ, lẩn tránh nó, thừa nhận những quyền năng u tối, mê hoặc của
những
gì dễ nhào nặn, và hình thức âm nhạc, thay vì trí thức thuần lý.
Trotsky là một
tay văn nghệ (littérateur), theo một nghĩa rạng rỡ nhất của từ này.
Ngay dưới
thời Stalin, nhà văn và những tác phẩm văn học giữ một vai trò sinh
động trong
chiến lược Cộng sản. Nhà văn bị bách hại, bị hành quyết chính bởi vì
văn chương
được coi là sức mạnh quan trọng, đầy tiềm năng nguy hiểm. Đây là điểm
quyết định.
Văn chương được đề cao, coi trọng, tuy theo một đường hướng độc ác, ghê
rợn, hiển
nhiên là do sự bất tín nhiệm vào nó, của Stalin. Tới thời kỳ băng tan,
vai trò
nhà văn trong xã hội Xô-viết lại một lần nữa trở nên khúc mắc, và mang
tính vấn
nạn. Khó mà có thể tin được một điều, một nhà nước Phát-xít bị chao
đảo, vì một
cuốn sách nhỏ nhoi; nhưng Bác sĩ Zhivago đã là một trong những cơn
khủng hoảng
lớn lao trong cuộc sống gần đây của giới trí thức tại nước Nga Cộng sản.
Do
trực
giác, hoặc do suy nghiệm, nhà văn luôn nhận ra vai trò đặc biệt của họ
trong ý
thức hệ Cộng sản. Họ nghiêm trọng với chủ nghĩa Cộng sản, bởi vì nó
nghiêm trọng
với họ. Từ đó, một lịch sử những liên hệ giữa chủ nghĩa Cộng sản và văn
chương
hiện đại, là lịch sử của cả hai, với những sự vị nể bắt buộc phải có.
Steiner Nhà
văn và chủ nghĩa
Cộng Sản
Tuy nhiên, Gấu có câu trả lời của Gấu, nhân nghe tiếng ba tong
của Nguyễn Tuân, và nhân đọc CKN2000.
Chính chúng, tiếng ba tong của Nguyễn Tuân, và cái trác tuyệt của
CKN2000, biện minh cho cái ác của chế độ.
Mi nói văn học Miền
Nam của mi bảnh, có tay nào như Nguyễn Tuân không?
Văn học tù sau 1975, có tay nào như BNT không?
Thảo nào, LC giơ tay đầu hàng!
*
Ce
n'est pas parce qu'il
m'est devenu difficile d'être un etre humain que je suis devenu un être
inhumain.
Finalement, la seule chose
qui me distingue des gens parmi lesquels mes jours s' écoulent, c' est
une
inquiétude qui oscille, tantôt plus forte, tantôt moins forte. Mais en
tout cas
c'est une inquiétude sociale, et
non métaphysique. Ce qui m' accable ce
n' est
pas I'Etre ou le Néant ou Dieu ou l' Absence de Dieu, c'est uniquement
la
société: car c'est elle, et elle seule, qui est cause de mon
déséquilibre
existentiel auquel je tente d' opposer ma marche droite. Elle et elle seule m'
a dérobé
ma confiance dans le monde. L' affliction métaphysique est un souci
élegant, de
très haut standing. Qu' elle reste l' affaire de ceux qui savent depuis
toujours qui ils sont et ce qu'ils sont, pourquoi ils le sont et qu'ils
peuvent
le rester. Je la leur concède volontiers - et je ne m' en sens pas plus
misérable
devant eux.
Dans ma tentative opiniatre
de sonder la condition profonde de la victime, dans le conflit qui m'
oppose à la
nécessité et à l'impossibilité d'être juif, je crois avoir appris que
les prétentions
et les exigences qui sont devenues les nôtres sont de nature physique
et
sociale. Qu'une telle expérience m'a rendu inapte à toute spéculation
profonde
et élevée, je le sais
bien. Qu'elle m'ait offert plus d'atouts pour connaitre et reconnaitre
la réaliée,
tel est mon espoir.
Jean
Améry, "Ông Thánh của Lò
Thiêu" như ‘nick’ mà Kertesz ban cho ông, kết thúc cuốn "Vượt quá
tội ác và hình phạt: Khảo luận để vượt lên cái không thể vượt được.
Par-delà le
crime et le châtiment. Essai pour surmonter l'insurmontable", Actes
Sud, 1995, bằng
những dòng trên đây. Lược dịch:
Không phải vì thật
khó khăn cho tôi, để trở thành một con người, mà tôi trở thành một
'không phải
con người', một tên vô nhân tính, bại hoại.
Cái
điều độc nhất
phân biệt tôi, với những người chung quanh, là một âu lo; nó chao đảo,
lắc lư,
nó lúc thật mạnh, lúc bớt mạnh. Nhưng, đây là một âu lo xã hội, không
phải siêu
hình, Điều hành hạ tôi, làm phiền tôi, thì không phải là Hữu Thể hay Hư
Vô, Thượng
Đế hay Vắng Bóng Thượng Đế, nhưng mà là xã hội, đúng nó. Chính nó, chỉ
có nó, là
nguồn cơn gây ra sự bất thăng bằng về cuộc sống của tôi. Nó tước đoạt
của tôi
niềm tin vào cái thế giới này.
Đọc
những dòng trên,
rồi đọc những lời trần tình của BNT, về sự cam chịu lịch sử của ông, và
cái điều
ông viết, là viết về những kẻ cam chịu lịch sử như ông, và điều ông cám
ơn nhà
nước đã đưa ông đi tù, đã pha lê hoá xã hội Miền Bắc, để có được chiến
thắng... thành thực mà nói, Gấu tôi không làm sao hiểu được.
PAR-DELÀ LE CRIME ET LE
CHÂTIMENT
ESSAI POUR SURMONTER
L'INSURMONTABLE
Comment "penser" Auschwitz
quand on en réchappa? Que faire du ressentiment
? L'esprit peut-il sortir indemne de la confrontation avec l'univers
concentrationnaire? La foi est-elle indispensable à l'âme révoltée ?
En
1943, Jean Amery fut torturé par la Gestapo pour son activité dans la
Résistance
beige, puis déporté à Auschwitz parce que juif. Au long des pages de
cet Essai pour surmonter l'insurmontable, l'écrivain
autrichien explore avec lucidité ce que l'univers concentrationnaire
lui a
enseigné sur la condition de tout homme meurtri par une réalité
monstrueuse. Ce
livre "sur les frontieres de l'esprit" est la manifestation éclatante
d'un esprit sans frontieres, d'un humaniste rayonnant.
Né en 7972 a Vienne,
Hanns Maier - qui prit en 7955 Ie
nom de Jean Améry - étudia la littérature et la philosoophie. En 7938,
il émigra
en Belgique. Après la guerre et sa déportation, il retourna a Bruxelles
et se
consacra à une oeuvre critique et littéraire d'une véhémence et d'une
élégance
remarquables, couronnée par
de
nombreux prix. Il s'est donné la mort en 7978 a Salzbourg.
Kỷ
niệm, kỷ niệm
|