|
14.8.2014
Summer
2010
Thơ
Mỗi Ngày
THE BLACK
SHIP
In his dream
Cifar heard the shouts
and the
conch hooting in the fog
at dawn. He
looked at the ship
motionless
not rocking
among the waves.
-If you hear
in the dark
core
of the night
when the sea
is high
shouts
asking
the way to
the harbor
come about
hard
and get out
of there.
Silhouetted
on the spray
hull dark
and rotted away
(Sailor!
they shouted)
the rigging
in tatters
swinging and
the sails
black and in
rags
(Sailor!)
Cifar stood
up and clung to the mast.
-If the moon
shines on
their faces
with the
long beards
if they say
to you
-Sailor,
where are we headed.
If they beg
you:
-Sailor,
show me
the way to
the harbor!
come about
hard
and get out
of there.
A long
time
they have been sailing.
Centuries
they have been voyaging in the dream.
They are
your own questions
lost in
time.
1980s, preceding
poems are from
Cantos de
Cifar
[Translated
by W.S. Merwin]
Con tàu đen
Trong cơn mơ
Cifar nghe những tiếng la hét
Và tiếng tù
và nơi vùng sương mù
Vào lúc bình
minh
Anh nhìn con
tầu
chết sững giữa những con sóng
-Nếu mi nghe
Từ cõi sâu tối
của đêm đen
Nơi biển cao
Những tiếng
la hét yêu cầu chỉ đường về bến cảng
Hãy cố mà
thoát ra khỏi nơi đó
Bóng rọi trên
bụi nước
Một khối, tối,
mục, rữa
[Thuỷ thủ,
chúng la thét]
Buồm cột tơi
tả
(Thuỷ thủ!)
Cifar đứng lên
và bám vào cột buồm
-Nếu mặt trăng
chiếu trên mặt họ
Râu tóc dài
thòng
Nếu họ nói với
mi:
-Thủy thủ,
chúng ta đang hướng về nơi nào
Nếu họ năn nỉ
mi:
Thuỷ thủ, chỉ
cho chúng ta
Đường về cảng
Hãy cố ra khỏi
nơi đó
Họ dong buồm
từ bao giờ, từ rất lâu
Hàng hàng thế
kỷ họ dong buồm phiêu lưu trong giấc mơ
Họ là những
câu hỏi của chính mi
Mất theo dòng
thời gian
For the Very Soul of Me
At the close of a
sweltering night,
I found him at the entrance
Of a bank building made of blue glass,
Crumpled on his side, naked,
Shielding his crotch with both hands,
The missing one, missed by
no one,
As all the truly destitute are,
His rags rolled up into a pillow,
His mouth open as if he were dead,
Or recalling some debauchery.
Insomnia and the heat
drove me out early,
Made me turn down one street
Instead of another and saw him
Stretched there, crusted with dirt,
His feet bruised and swollen.
The lone yellow cab idled
at the light
With windows down, the sleepy driver
Threw him a glance, shook his head
And drove down the deserted avenue
The rising sun had made beautiful.
Charles Simic [from Night
Pinic]
Cho linh hồn rất linh hồn của GCC
Vào một đêm ngột ngạt, cận
sáng
Gấu kiếm thấy nó ở lối vô
Một tòa nhà ngân hàng làm bằng kiếng màu xanh
Méo mó, trần truồng
Hai tay che cái chạc
Kẻ thiếu nhớ chẳng ai thèm
thiếu nhớ
Như mọi điều đáng thiếu nhớ
Mớ rẻ rách quần áo, xoắn lại làm cái gối
Miệng toác hoác như chết rồi
Hay nhớ lại một sa đọa, trụy lạc nào đó
Mất ngủ và cái nóng khiến
Gấu mò ra đường sớm
Thay vì chọn con phố này, thì con phố kia
Và thế là, Gấu nhìn thấy nó, cái rất linh hồn tội nghiệp của Gấu Cà Chớn
Nằm 1 đống, bụi đường nghẹt họng
Chân thâm tím, sưng phồng
Cái tắc xi màu vàng, đơn
độc, ngồi rồi, dưới ánh đèn
Cửa kính kéo xuống, anh tài xế buồn ngủ
Ném 1 cái nhìn, lắc 1 cái đầu
Rồi chạy xuống con phố hoang
Mặt trời lên, con phố mới đẹp làm sao.
Le
poète de la honte et de la culpabilité
Thi sĩ
của sự
tủi hổ và phạm tội
« Franz
Kafka, écrit George Steiner, vécut l'expérience du pêché originel [ ...
].
Seule une petite poignée d'êtres humains ont experimenté dans leur vie
la
conviction et les conséquences de l'état d'êtres déchus. Comme Pascal
ou Soren
Kierkegaard, [ ... ] Kafka traversa des heures, peut-être des jours au
cours
desquels il identifia sa vie personnelle avec un pêché existentiel
indescriptible. Être vivant, donner la vie, c'était pêcher. » Le sens
kafkaien
de la honte n'a pas été mieux analysé: « Soixante-dix ans après sa
mort, écrivit
John Updike dans sa préface de 1995 aux “OEuvres completes”, Kafka
incarne un
aspect de l'état d'esprit propre à la modernité : un sentiment
d'anxiété et de
haine dont l'origine ne peut être définie et qui ne peut être apaisé. »
Le
sentiment de honte comme un aspect de l'état d'esprit propre à la
modernité ...
Si vous êtes,
comme K. dans Le Chateau, un «
imposteur » prétendant être quelqu'un d'autre, dissimulant votre visage
au
monde derrière un masque, vous connaitrez peut-être le sentiment de
honte et même
de culpabilité. K. ne ressent pas de la honte ou de la culpabilité, car
il
s'est convaincu lui-rnême, avant d'en convaincre les autres, qu'il
était
vraiment et avait toujours été un «arpenteur », K. était passé maitre
dans
l'art de l'aveuglement sur soi, mais pas Kafka. Ainsi, quel est
l'embarras qui
a pèse sur lui et l'a conduit a reprendre Ou
bien ... ou bien?
Steiner
viết, "Kafka sống cái kinh nghiệm tội tổ tông, chỉ 1 dúm người kinh
nghiệm trong
cuộc đời họ, niềm tin và những hậu quả, của tình trạng, bị phế thải, bị
hoang
hóa. Như Pascal hay Soren Kierkegaard […] Kafka trải qua hàng giờ đồng
hồ, có
thể nhiều ngày, qua đó, ông đồng nhất cuộc đời riêng tư, cá nhân của
mình với cái
tội hiện sinh không làm sao diễn tả ra được. Sống ở trên đời, sinh con
đẻ cái, ăn
ngủ đụ ị… là.. có tội, tội hiện sinh”.
Ý nghĩa "Kafkaen", của tủi hổ, được
John
Updike diễn tả bằng những dòng tuyệt vời sau đây, trong bài tựa cho
“Toàn Tập
Tác Phẩm” của ông, 1995, bẩy chục năm sau khi ông mất:
Kafka nhập thân
1 sắc thái
của tình trạng tinh thần, y chang cái thứ tinh thần đặc dị, của riêng,
của cái
gọi là tinh thần hiện đại - hiện đại tính: một tình cảm âu lo, sao
xuyến, và thù
hằn, mà nguồn gốc không làm sao định nghĩa, và không làm sao làm cho nó
dịu đi được”.
Tình
cảm tủi hổ, nhục nhã là của riêng, đặc dị, “bản năng gốc” của hiện đại
tính!
Tuyệt!
Nếu
bạn, như K. trong Lâu Đài, một tên "bợm" giả làm
1 người khác, giấu mặt bạn, trước mọi người, đằng sau cái mặt nạ, bạn
có thể
cảm nhận ra được cái tình cảm tủi hổ, và luôn cả, phạm tội... K. là bậc
thầy
trong cái trò đánh lừa mình, mù lòa về mình, nhưng Kafka, không. Chính
là trong
cái bực bội như thế, ông bèn lôi Ou
bien... ou bien ra đọc lại.
Con chim giận dữ
Một con kên kên đợp chân
tôi. Nó xé giầy vớ thành từng miểng; bây giờ tới cẳng. Nó đợp, xỉa tới
tấp, lâu lâu lại lượn vòng, và đợp tiếp. Một vị lữ hành phong nhã đi
qua, nhìn ngắm một lúc, rồi hỏi tôi, tại làm sao mà đau khổ như thế vì
con kên kên. “Tôi làm sao bây giờ?” “Khi con vật bay tới tấn công, lẽ
dĩ nhiên tôi cố đuổi nó đi, tôi còn tính bóp cổ nó nữa, nhưng loài thú
này khoẻ lắm, nó chồm tới, tính đợp vô mặt tôi, và tôi đành hy sinh cặp
giò. Bây giờ nó xé nát ra từng mảnh rồi.”
“Lạ thật, để cho 1 con vật hành hạ như thế”, vị phong nhã nói. “Chỉ 1
phát là rồi thôi”. “Thiệt ư?” “Làm ơn, làm đi”. “Rất hân hạnh”, vị
phong nhã trả lời, “Tôi chỉ cần về nhà lấy cây ‘sọt-gân’. Bạn có thể
đợi chừng nửa tiếng, nhe?” “Tôi không chắc có qua nổi con trăng nửa giờ
không,” tôi cố nén đau trả lời vị phong nhã. Và rồi tôi gật đầu cam
chịu, ”Thì cũng đành thôi, làm ơn làm đi” “Được lắm”, “Tôi sẽ làm nhanh
chừng nào tốt chừng đó”. Trong khi chúng tôi trao đổi thì con kên kên
lắng nghe, mắt đảo qua đảo lại giữa hai chúng tôi. Lúc này thì tôi biết
rõ, nó hiểu hết mọi chuyện; nó thu cánh, lui lại lấy đà, và rồi, như 1
dũng sĩ ném lao, nó thúc cái mỏ vô miệng tôi thật sâu, thật sâu. Té
ngửa ra sau, tôi cảm thấy khuây khoả khi con vật chìm mãi sâu vào trong
máu tôi, và máu tôi cứ thế tràn ra, lấp đầy mọi hố thẳm, mọi bến bờ.
Kafka: The Vulture (1)
The Poetic
Torture-House of Language
Căn nhà tra
tấn thơ của ngôn ngữ
Một khi viết
“Lời Thưa”, thì cũng phải nghĩ rằng, tương tự, bất cứ 1 cái blog nào
đó, của ai
đó, cũng có một “Lời Thưa” như vậy.
Đây là sự
lương thiện tri thức. TV bị khá nhiều người, như HN, nổi tiếng còn hơn
HN, thản
nhiên làm như HN, có ông còn viết hẳn ra rằng, đọc ở đâu đó, đếch thèm
nhắc đến
TV!
Trường hợp
ông bạn thi sĩ của Gấu, Joseph Huỳnh Văn, trước 1975, đếch thèm viết
cho báo
nào, trừ tờ báo do anh làm tổng thư ký, vậy mà 1 ông đại thi sĩ, chôm
thơ của
anh trên TV, do GCC lôi từ hồi ức, những lần ngồi cùng anh, ở 1 quán cà
phê bên
đường của Sài Gòn, nhưng đại thi sĩ viết, đọc ở đâu đó, ở Thời
Tập, của VL, hình như vậy!
Gấu đâu cần,
nhưng một khi làm như thế, thì văn chương của họ cũng chỉ tới mức như
thế!
Cái đó mới bỏ
mẹ cả 1 cõi văn Mít.
Cả một bầy, có thằng nào viết ra hồn đâu!
Chán thế!
V/v: Cả 1 bầy, không
tên
nào
viết ra hồn….
Bèn post bài này,
ngắn ngủn, để... tự an ủi!
Reading
Upward
Tim Parks
“Frankly, I don’t mind
what they’re reading,
Twilight, Harry Potter, whatever. So long as they are reading something
there’s
at least a chance that one day they’ll move on to something better.”
How many
times have we heard this opinion expressed? Needless to say the
sentiment comes
along with the regret that people are reading less and less these days
and the
notion of a hierarchy of writing with the likes of Joyce and Nabokov at
the top
and Fifty Shades of Grey at the bottom. Between the two it is assumed
that
there is a kind of neo-Platonic stairway, such that from the bottom one
can
pass by stages to the top, a sort of optimistic inversion of the lament
that
soft porn will lead you to hard and anyone smoking marijuana is
irredeemably
destined to descend through coke and crack to heroin. The user, that
is, is
always drawn to a more intense form of the same species of experience.
August 11,
2014, 2:55 p.m.
Đọc ngược
lên
Thành thật mà nói, Gấu đếch cần biết bạn đọc cái chó gì, thằng chó nào.
Một khi
mà bạn đọc 1 cái gì đó, sẽ lòi ra cái ý tưởng đẹp đẽ này, thể nào cũng
có ngày
bạn vớ được 1 cái gì “ra hồn”!
Vẫn chuyện đọc
cao ngược lên, bây giờ là viết cao lên:
Italo Calvino at home in
Paris in 1984. Photograph: Ulf
Andersen/Getty Images
A brief
survey of the short story: Italo Calvino
In a lecture
delivered in New York in the spring of 1983, Italo Calvino remarked
that
"most of the books I have written and those I intend to write originate
from the thought that it will be impossible for me to write a book of
that
kind: when I have convinced myself that such a book is completely
beyond my
capacities of temperament or skill, I sit down and start writing it".
Mấy cái tôi
viết, hoặc tính viết, luôn khởi từ ý nghĩ, thứ nhà văn cà mèng như
mình, làm
sao viết nổi thứ đó!
Cái tay đại
thi sĩ, chôm thơ "bạn của Gấu", từ trang "TV của Gấu" -
không phải thứ thơ đã được in ra giấy, mà là từ hồi ức của Gấu, khi
ngồi với bạn,
được bạn đọc cho nghe - hồi mới ra hải ngoại, hăm hở với giấc mơ vá
bướm Mít
rách bươm, lần ra sách đầu tiên, tuy chẳng quen, Gấu cũng tìm cách xin
địa chỉ,
qua 1 trang bạn, rồi gửi sách tặng.
Tếu thế.
Bài về Italo
Calvino, trên, đọc thú lắm. TV sẽ lai rai viết tiếp về ông, cộng với
những gì đã
viết/biết về ông trên trang TV. Có mấy bài trong cuốn Tại sao đọc cổ điển của ông,
thật thần sầu, thí dụ bài viết về Chekhov, về Pasternak, GCC hăm he
trình làng
hoài, mà cứ quên hoài, hà, hà!
Pasternak là
1 trong những nhà văn mở ra giấc mộng nhà văn Mít của Gấu. Đó là thời
gian đọc Bác sĩ Zhivago cùng với bà cụ TTT, khi được
ông em nhà thơ đưa về nhà giới thiệu. Bài điểm sách đầu tiên của Gấu,
cuốn Sau Cơn Mưa, của Lý Hoàng Phong, anh ruột
Quách Thoại, là được gợi hứng từ Dr. Zhivago.
Đó là thời gian TTT cộng tác với tờ Dân Chủ, bèn kêu Gấu viết điểm sách
cho tờ
này.
Bạn còn nhớ tờ Dân Chủ chứ? Đó là nơi MT gặp TTT, và lầm bạn mình với 1
tay thợ sắp chữ, và tay này hỗn đến mức dám hỏi xin MT 1 điếu thuốc lá!
V/v “lương thiện
tri thức”. Gấu Cà Chớn có cảm tưởng, Bắc Kít, ra đi sau ngày thống nhất
đất nước,
không nắm được ý nghĩa của nhóm từ này. Đám Bi Bi Xèo, thí dụ, đại diện
cho không
chỉ 1 mà cả 2 đất nước, Mít và Hồng Mao, khi Solz, chết, đi 1 đường ai
điếu, gọi
“Quần Đảo”, “lệch pha” thành “Bán Đảo” Gulag. Gấu chỉ, sửa, nhưng
"quơn" cám ơn!
Ngài VTH, khi chạy được
ra hải
ngoại, khi được hỏi, nghĩ gì về dòng văn chương hải ngoại Mít, đã hết
sức ngạc
nhiên, hất hàm hỏi lại, có cái thứ đó ư?
Nhưng, chính Người, chôm mẹ
cái tít “Darkness
at Noon” của Koestler, làm tên cho tác phẩm “để đời” của Người!
Rồi cái chuyện
đám VC trong nước chôm văn học Miền Nam về làm của mình, thì ê hề, có
tên nào
hiểu được cụm từ trên đâu?
Thầy Kuốc, đòi phen viết
tên tác giả mũi lõ, sai, Gấu
chỉ ra, len lén sửa, không cám ơn, ừ "thôi thì thôi", nhưng lúc nào
cũng “đau đáu”,
sống như thế nào là sống…. trí thức!
Chính ngay đấng
HN, khi len lén sửa, “quy tụ” thành “hội tụ”, cũng đâu cám ơn gì… Gấu Cà Chớn?
Trong khi Gấu,
bị độc giả TV "mắng" yêu, sao Gấu hay “xin lỗi” như thế!
Cửa Đóng
Viết
Ngày
Ghi chú về 1 giọng văn: Naipaul
Typical sentence
Easier to pick two of them. What’s most typical is the
way one sentence qualifies another. “The country was a tyranny. But in
those days not many people minded.” (“A Way in the World”, 1994.)
Câu văn điển hình:
Dễ kiếm hai câu, điển hình nhất, là cái cách mà câu này
nêu phẩm chất câu kia:
"Xứ sở thì là bạo chúa. Nhưng những ngày này, ít ai "ke" chuyện này!"
Naipaul rất
tởm cái gọi là quê hương là chùm kế ngọt của ông. Khi được hỏi, giá như
mà ông
không chạy trốn được quê hương [Trinidad] của mình, thì sao, ông phán,
chắc nịch,
thì tao tự tử chứ sao nữa! (1)
Tuyệt.
(1)
INTERVIEWER
Do you ever wonder what
would have become of you if you had stayed in Trinidad?
NAIPAUL
I would have killed
myself. A friend of mine did-out of stress, I think. He was a boy of
mixed race. A lovely boy, and very bright. It was a great waste.
Sir V.S.
Naipaul (1932- ): Nobel văn chương 2001
“Con người
và nhà văn là một. Đây là phát giác lớn lao nhất của nhà văn. Phải mất
thời
gian – và biết bao là chữ viết! – mới nhập một được như vậy.”
(Man and writer were the same
person. But that
is a writer’s greatest discovery. It took time – and how much writing!
– to arrive
at that synthesis)
V.S. Naipaul, “The Enigma of
Arrival”
Trong bài tiểu luận “Lời
mở đầu cho một Tự thuật”
(“Prologue to an Autobiography”), V.S. Naipaul kể về những di dân Ấn độ
ở
Trinidad. Do muốn thoát ra khỏi vùng Bắc Ấn nghèo xơ nghèo xác của thế
kỷ 19, họ
“đăng ký” làm công nhân xuất khẩu, tới một thuộc địa khác của Anh quốc
là
Trinidad. Rất nhiều người bị quyến rũ bởi những lời hứa hẹn, về một
miếng đất cắm
dùi sau khi hết hợp đồng, hay một chuyến trở về quê hương miễn phí, để
xum họp
với gia đình. Nhưng đã ra đi thì khó mà trở lại. Và Trinidad tràn ngập
những di
dân Ấn, không nhà cửa, không mảy may hy vọng trở về.
Vào năm
1931, con tầu SS Ganges đã đưa một ngàn di dân về Ấn. Năm sau, trở lại
Trinidad, nó chỉ kiếm được một ngàn, trong số hàng ngàn con người không
nhà nói
trên. Ngỡ ngàng hơn, khi con tầu tới cảng Calcutta, bến tầu tràn ngập
những con
người qui cố hương chuyến đầu: họ muốn trở lại Trinidad, bởi vì bất cứ
thứ gì họ
nhìn thấy ở quê nhà, dù một tí một tẹo, đều chứng tỏ một điều: đây
không phải
thực mà là mộng.
Ác mộng.
“Em ra đi
nơi này vẫn thế”. Ngày nay, du khách ghé thăm Bắc Ấn, nơi những di dân
đợt đầu
tiên tới Trinidad để lại sau họ, nó chẳng khác gì ngày xa xưa, nghĩa là
vẫn
nghèo nàn xơ xác, vẫn những con đường đầy bụi, những túp lều tranh vách
đất, lụp
xụp, những đứa trẻ rách rưới, ngoài cánh đồng cũng vẫn cảnh người cày
thay
trâu… Từ vùng đất đó, ông nội của Naipaul đã được mang tới Trinidad,
khi còn là
một đứa bé, vào năm 1880. Tại đây, những di dân người Ấn túm tụm với
nhau, tạo
thành một cộng đồng khốn khó. Vào năm 1906, Seepersad, cha của Naipaul,
và bà mẹ,
sau khi đã hoàn tất thủ tục hồi hương, đúng lúc tính bước chân xuống
tầu, cậu
bé Seepersad bỗng hoảng sợ mất vía, trốn vào một xó cầu tiêu công cộng,
len lén
nhìn ra biển, cho tới khi bà mẹ thay đổi quyết định.
Duyên Văn
1 2
Chính là nỗi đau
nhức trí thức thuộc địa, chính nỗi chết không rời đó, tẩm thấm mãi vào
mình, khiến cho Naipaul có được sự can đảm để làm một điều thật là giản
dị: “Tôi gọi tên em cho đỡ nhớ”.
Em ở đây, là đường
phố Port of Spain, thủ phủ
Trinidad. Khó khăn, ngại ngùng, và
bực bội – dám nhắc đến tên em – mãi sau này, sau sáu năm chẳng có chút
kết quả ở Anh Quốc, vẫn đọng ở nơi ông, ngay cả khi Naipaul bắt đầu tìm
cách cho mình thoát ra khỏi truyền thống chính quốc Âu Châu, và tìm
được can đảm để viết về Port of Spain như ông biết về nó. Phố Miguel (1959), cuốn sách đầu
tiên của ông được xuất bản, là từ quãng đời trẻ con của ông ở Port of
Spain, nhưng ở trong đó, ông đơn giản và bỏ qua rất nhiều kinh nghiệm.
Hồi ức của những nhân vật tới “từ một thời nhức nhối. Nhưng không phải
như là tôi đã nhớ. Những hoàn cảnh của gia đình tôi quá hỗn độn; tôi tự
nhủ, tốt hơn hết, đừng ngoáy sâu vào đó."
Mother Teresa
The Moment: Calcutta, India, 1980
Hà Nội Gió. TMT
Thu 2014
Tựa hồn những năm xưa
The
Necessity of Loneliness
Một lần trốn vé xe, tôi cùng
một thằng bé đánh giầy ngồi ở cuối tầu, nơi dùng để nối hai toa xe lại
với nhau. Thằng bé đánh giầy nói, nó thường ngồi như vậy, ngay cả khi
có tiền mua vé. Hôm đó trời lạnh, tôi đội một chiếc béret dạ đen, một
tay nắm vào thanh sắt, một tay cầm cặp sách vở. Thằng bé đánh giầy đầu
tóc bù xù, tay cầm hộp đồ nghề, tay cầm khúc bánh mì nhai ngồm ngoàm.
Những người đi đường nhìn chúng tôi với vẻ buồn cười, ngạc nhiên. Lúc
đầu tôi rất sợ, nhưng dần dần cảm thấy thích thú. Bỗng nhiên, không
hiểu sao, tôi nhớ lại được một đoạn nhạc tôi đã quên từ lâu, và tôi hát
nho nhỏ, đầu lắc lư theo điệu nhạc. Thằng bé đánh giầy nhìn tôi cười
ngặt nghẽo. Tôi tức giận, hát thật lớn, vừa hát vừa đập vào thành xe ầm
ầm. Bỗng tôi cảm thấy đầu lành lạnh. Tôi ngửng lên, và thấy người soát
vé đang giận dữ nhìn tôi, tay cầm chiếc mũ dạ. Thằng bé đánh giầy vẫn
tiếp tục cười, tôi ngưng hát, và ngưng đập vào thành xe. Cuối cùng
không biết nghĩ sao, người soát vé vứt chiếc dạ xuống đường. Xe lúc đó
đang chạy nhanh. Tôi cúi nhìn xuống con đường nhựa chạy vùn vụt, tôi sợ
hãi không dám nhảy xuống. Tôi chợt nghĩ tới đến cha tôi. Tôi nhìn thằng
bé đánh giầy ra vẻ cầu cứu. Nó nhẩy xuống, nhặt chiếc mũ dạ, đội lên
đầu, rồi nhìn tôi nhe răng cười, tỏ vẻ chế nhạo. Sau đó, tôi thỉnh
thoảng gặp thằng bé đánh giầy quanh quẩn tại khu tôi ở, đầu đội chiếc
mũ dạ của tôi. Mỗi lần thoáng thấy nó, là tôi vội vã lẩn tránh, chỉ sợ
nó nhận ra tôi. (1)
Đọc cọp Bếp Lửa
trên vỉa hè Sài Gòn, thời 1950's
Vạn sự là do cái
duyên
Những Con Dã
Tràng.
Truyện
ngắn đầu tay của Gấu đã được hình thành như thế nào.
Thất Hiền
I’ve never
understood why people consider youth a time of freedom and joy. It’s
probably
because they have forgotten their own.
—Margaret
Atwood, 1976
Tôi chẳng
làm sao hiểu nổi, tại làm sao mà người ta cứ thổi tuổi trẻ, như là
quãng đời của tự
do và niềm vui. Có lẽ bởi là vì họ quên mẹ mất tuổi trẻ của chính họ
rồi.
Tao năm nay
20 tuổi, và tao không cho phép bất cứ ai được nói đó là tuổi đẹp nhất
trong đời
1 người.
"J'avais
vingt ans, je ne permettrai à personne de dire que c'est le plus bel
age de la
vie."
Paul Nizan: Aden
Arabie.
Tôi còn
trong ký ức mấy câu thơ Thanh Tâm Tuyền :
Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông
Mà
lòng mình phơi trên kè đá
Chiều
không xanh không tím không hồng
Những
ống khói tàu mệt lả
Ngày ấy, tôi cứ lẩm nhẩm những câu thơ
có hình ảnh tuyệt vời này và không làm sao quên câu nói của nhân vật
trong truyện
ngắn Dọc Đường : “Tôi lỡ độ đường”.
Bây giờ đây
tôi có thể nói được câu nào khác hơn những câu ấy?
CTC 6-2014
10.8.2014
16.8.2009
SN/GCC
Thơ
Mỗi Ngày
SEND ME A
LEAF
Send me a
leaf, but from a little tree
That grows
no nearer your house
Than half an
hour away. For then
You will
have to walk, you will get strong and I
Shall thank
you for the pretty leaf
- Bertolt
Brecht
(Translated
from the German, by David Constantine.)
The New
Yorker, August 11 & 18, 2014
A
21st-century “Seagull"
Fitting
tribute to Chekhov’s work of grand gestures and missed connections
Aug 9th 2014
| From the print edition
ANTON
CHEKHOV knew he was doing something different with “The Seagull”. “I
sin
frightfully against the conventions of the stage,” he told a friend
while the
play was still a work in progress. The drama, such as it is, involves
the love
triangles and familial tussles of a multi-generational gathering in the
Russian
countryside—with, as Chekhov observed, “much conversation about
literature,
little action and five tons of love”. All this aimless kvetching
repelled the
play’s first audiences in 1886. But what was audacious then feels
timeless now.
“The Seagull” may be Chekhov’s finest work. Much of the dialogue—which
veers
from grand questions about love and happiness to prosaic observations
about
money and horses—still feels fresh.
So why mess
with it? Imitations are as common as they are reliably disappointing.
Playwrights tamper at their peril. This is what makes Aaron Posner’s
“Stupid
Fucking Bird” such a revelation.
(1) This irreverent update, playing at the Woolly
Mammoth Theatre in Washington, DC, until August 17th, manages to
capture the
enduring essence of Chekhov’s classic even as it reimagines it for the
21st
century. The original ingredients are all here, including the basic
characters—an ageing starlet, her famous lover, her frustrated son and
his ingénue
girlfriend, among others—and all their messy pining (for love, fame,
youth,
“new forms of theatre” and anything else just out of reach). But the
script is
new and crackling, at once incisive, poignant and darkly funny. Like
the
original, it affords plenty of opportunities to chuckle with
recognition. And
like the original, it delivers an ending that is destined to make its
audience
weep.
(1) Not my word!
Such a revelation, Yes!
GNV
Một Hải Âu
cho thế kỷ 21. Bài ngắn, nhưng thật tuyệt.
GCC rất mê đọc điểm sách, nhưng không phải của Mít, mà của tụi mũi lõ.
Nhất là
của những tay nhà nghề. Thấy khen, là kiếm, đọc tác phẩm.
Mít điểm
sách, là tìm cách tóm tắt, rồi đi 1 đường, khen, hoặc chê, ba vạ, huề
vốn. Hoặc
thổi, nếu là gà nhà.
VP nhà văn thế kỷ 20!
Nhà phê bình Mít xuất sắc, không phải thời nào cũng có!
Bài sau đây cũng tuyệt.
Mít làm sao viết nổi, câu mở ra bài điểm sách?
Revolution
and war in Ukraine
I witness
A novelist’s
enlightening account of life in Kiev during Ukraine’s turmoil
Ukraine Diaries:
Dispatches from Kiev. By Andrey Kurkov.
Translated by Sam
Taylor. Harvill Secker; 262 pages; £9.99. Buy from Amazon.com,
Amazon.co.uk
SATIRISTS
and surrealists are at once fortunate and challenged in the countries
of the
former Soviet Union. Their nefarious rulers and eventful
politics volunteer
themselves for parody, yet the lurid reality often outpaces satire and
renders
invention superfluous. Thus in his “Ukraine Diaries”—an account of the
tumultuous past winter that saw his country’s president ousted and its
territory dismembered—Andrey Kurkov whimsically imagines Russian tanks
searching for the American commandos who are rumoured to have
parachuted into
western Ukraine. A few weeks later this fancy is superseded by events,
as
Russian forces do indeed invade, and Ukraine descends into chaos.
Best known
for gently absurdist novels that combine affection for his region with
deadpan
despair—especially “Death and the Penguin”—Mr Kurkov lives in Kiev,
close to
Independence Square. That was the centre of the revolution that began
last
November when Viktor Yanukovych, then Ukraine’s president, rejected a
trade
deal with the European Union. The idea that the EU could inspire an
uprising
seemed odd to some observers; Mr Kurkov makes clear that, to Ukrainians
weary
of venal government, Europe represents the rule of law. His “Ukraine
Diaries”
contain his daily observations from November until April—by which time
the
Kremlin had annexed Crimea, and Ukrainian troops were engaging Russian
proxies
in the east.
One bonus of
the diary form is dramatic irony: the reader, unlike the diarist, knows
what
will happen next. At one point, Mr Kurkov feels sure there will be no
war,
because those opposed to change are too apathetic to fight. By
demonstrating
that history is unpredictable, diaries such as his show that it is not
inevitable: Ukraine’s rapid degeneration from protest to bloodshed was
the
result of a chain of errors, which Mr Kurkov’s entries chronicle.
Mostly the
errors were attributable to Mr Yanukovych, who, by trying to crush
dissent,
succeeded only in inflaming it.
But perhaps
these diaries’ biggest service—one that only this sort of account can
offer,
more than compensating for the lack of hindsight—is to show how
headline
history intertwines with ordinary, private lives. “Life goes on,” Mr
Kurkov
says. “Not once has it stopped.” He drinks coffee and cognac with
friends, one
of whom gives him a vacuum cleaner. He juggles the demands of elderly
parents
and adolescent children. The family goes to the dacha for weekends. He
struggles to concentrate on his new novel. Amid diplomatic and
paramilitary
manoeuvres, he organises a paintballing party for his son’s birthday.
He takes
his family for its annual winter holiday in Crimea, poignantly unaware
that
because of the annexation this will be their last. “I drove the
children to
school,” Mr Kurkov writes baldly one day in January, “then went to see
the
revolution.”
Mr Kurkov
quickly adapts to the barricades: “Why does what seemed impossible or
crazy
before now seem logical?” Then the arrests and beatings escalate to
abductions,
torture and murder. Festive protests turn violent; instead of donated
food, the
protesters need bottles for Molotov cocktails. Rumours swirl: of troop
movements and massacres, of the mining of metro stations. Thugs patrol
the city
with truncheons and guns. Russian-literature enthusiasts will be
reminded of
“The White Guard”, Mikhail Bulgakov’s novel of Kiev during the Russian
civil
war, and of Ivan Bunin’s journal of Odessa during that conflict. In
mid-February, Mr Kurkov records, comes a “night of warfare” that
“transformed
the city centre to ruins”.
Increasingly
this carnage crowds out the author’s personal life, though there is a
nice
vignette in which his daughter asks for extra pocket money, citing the
spiralling inflation. Downtown Kiev, he joltingly notices, “looks like
a
paintball field”. Growing vegetables at the dacha begins to seem less a
hobby
than a necessity. Mr Kurkov sleeps badly; his eyesight suffers.
And as
winter thaws, the focus of his ire shifts. To begin with it is directed
at Mr Yanukovych,
with his clumsy duplicity and flagrant corruption. “This country has
never had
such a stupid president,” Mr Kurkov concludes, “capable of radicalising
one of
the most tolerant populations in the world!” Or, more concisely:
“Stupid
bastard!” All the same, he is unsentimental about the revolutionaries,
some of
whom turn to score-settling and extortion. After Mr Yanukovych flees
Kiev,
however, and Russia’s insidious but deadly invasion begins, the main
villain is
Vladimir Putin. (The EU’s response is depressingly slow: “As if the
news were
arriving not by internet but by messengers on horseback.”)
For all
their controlled rage and wry wit, nicely captured in Sam Taylor’s
translation,
Mr Kurkov’s diaries are valuable partly because of who he is. Born in
Russia,
he writes in Russian and considers himself Russian by background if not
citizenship—though now he has “nothing in common with Russia and its
politics”.
He is an incarnation of a joint culture with a glorious but imperilled
heritage. His book is a lament for Ukraine, but also, in the end, for
Russia
itself—as scarred by Mr Putin’s lies and larceny as Ukraine has been by
his
war.
Bức hiếm họa gây họa cho họa sĩ Piccaso biến mất!
Beckett
FB Do Khiem
Thơ trẻ
hôm nay chưa tới, những chắc chắn ngày mai sẽ tới.
Câu này tôi mượn từ một vở kịch nổi
tiếng của nhà văn Nobel văn chương người Ái Nhĩ Lan, Samuel Beckett:
"Ngài Godot bảo tôi nói với mấy ông là chiều nay ông ta không tới,
nhưng chắc chắn ngày mai sẽ tới."
Hy vọng có bạn ở trong bữa tiệc chiều nay, khi thơ chưa tới.
Khi thơ của tôi không dành cho bạn. (2)
Lướt net, tình
cờ đụng 1 trang cực bảnh: Văn Vịt.
Sau Da Mùi, Hạ Vệ, đọc cái tít,
là biết
ngay, lại mấy ảnh rồi.
Thua em HT:
Godot chưa tới đâu!
Note: Câu của em HT, GCC
coi lại, "khiêm tốn" y chang câu của chính Beckett:
Typical Sentence
"Let us not
then speak ill of our generation, it is not any unhappier than its
predecessors." ("Waiting for Godot") (1)
[Đừng nói bịnh về thế hệ chúng ta. Nó cũng không hạnh phúc hơn thế hệ
đường ra trận mùa này đẹp lắm!]
Th
Golden Rule
Never to compromise.
Estragon’s trousers have to fall all the way down at the end of
"Godot". The action and dialogue of "Play" has to be repeated, by
actors who are up to their necks in urns. Whole novels can go by
without a paragraph break. Both his novels and plays require
concentration, and a stomach for repetition. But they reward the
persistent
Luật Vàng
Không bao giờ, chớ khi nào
thỏa hiệp, cấm cái trò ông mất “củ” kia, thì bà chìa “của” nọ. Quần
Estragon tụt dài dài, tụt suốt, cho tới khi chấm dứt “Godot”. Hành động
và đối thoại của “Play” phải lập lại, bởi những nghệ sĩ, diễn viên mà
tro than [Lò Thiêu, Lò Cải Tạo] ngập tới tận cổ. Trọn những cuốn tiểu
thuyết cứ thế mà đi, đếch cần 1 đoạn ngưng, nghỉ, gẫy. Cả kịch lẫn tiểu
thuyết của Beckett đòi sự chú tâm, xoáy vô, chốt vô… và 1 cái dạ dày,
cho sự lập lại.
Nhưng thật xứng đáng, chúng ban thưởng cho chúng ta, sự khăng khăng, cố
chấp, “thua, thua nữa, thua cho bảnh!”
Đừng thành công, Alain
phán, là vậy!
Cái băng rôn
của Văn Vịt mới ghê, vì 1 nền văn học Vịt đít thực. Đọc 1 phát, là biết
liền, TV
bị chúng coi như hủi rùi!
Và chăng, TV, chính nó, cũng không hề “ vì” một cái cà chớn như thế.
Thằng Tẩy thí
dụ, chúng có bao giờ làm cái trò hề đó.
Chỉ mấy đấng
ăn phải kít VC, hoặc VC đích thị, thì mới tao đích thực, tao số 1, tụi
mi là miệt
vườn, là đô thị, là bất hạnh.....
Bi giờ, giả
như có 1 nền văn Vịt đít thực, TV đếch vô, được không? Rồi Ngụy, hải
ngoại…. đăng ký, có cho không?
Theo GCC, không
thể có cái gọi là 1 nền văn học Mít đích thực. Đây là do đầu óc bịnh
hoạn của đám
Bắc Kít mà ra, y chang, máu Mít đích thực [máu Bắc Kít], thành phố Mít
đích thực [Hà Lội], y chang Nazi, khi chúng đòi 1 thứ máu Aryan đích
thực cho dân Đức.
Nhân nói tới
Nazi & Máu cực quí, cực ròng Bắc Kít & Phấn đấu cho 1 nền văn
học Mít "đít"
thực, post lại giai thoại thần sầu về nhà văn Maria Remarque, tác
giả Mặt
Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh
Một giai thoại
về nhà văn Erich Maria Remarque (1)
Ông khi đó
'tạm trú' ở Tessin, và bị đám cán bộ nhà nước Nazi liên tục quấy rầy.
Chúng khẩn
khoản mời ông, một trong những nhà văn di dân dòng dõi Đức thứ thiệt
trở về với
Đất Mẹ.
Trước thái độ
rửng rưng của ông, đám cán bộ nhà nước cuối cùng hỏi: Chẳng lẽ ông
không có nỗi
sầu của người viễn xứ [le mal du pays]?
-Sầu nhớ
nhà? Cái gì vậy? Tụi mày tưởng tao là một tên Do Thái, hử?
Trích Jean
Améry: Vượt Quá Tội Ác Và Hình Phạt
- Khảo luận để vượt lên cái không
thể vượt
được - Par-delà le crime et le
châtiment. Essai pour
surmonter
l'insurmontable, Actes Sud,
1995
(1) Tên thật
của ông Erich Paul Remark. Đổi Remark thành Remarque, theo bên nội, đổi
Paul
thành Maria, để tưởng nhớ bà mẹ. Vì cái tên Maria này mà một nhà thơ
Việt Nam
đã gọi ông là nữ văn sĩ. Nhưng tệ hơn thế, sách của ông bị Nazi cấm,
bản thân
ông bị tố cáo, không phải người Đức, mà
Tây gốc Do Thái, tên thực Kramer, viết ngược lại thành Remark. Vẫn còn
nhiều
người tin điều này, không cần chứng cớ.
[Theo
Wikipedia]
Mặt Trận Miền
Tây Vưỡn Yên Tĩnh, cuốn tiểu thuyết best-seller nhất của thế kỷ!
Thua "Lỗi Buồn Chiến
Tranh" của Bảo Ninh:
Không giống như Mặt Trận
Miền Tây Vẫn
Yên Tĩnh, đây là một cuốn tiểu thuyết không chỉ về chiến tranh. Một
cuốn sách về chuyện viết, về tuổi trẻ mất mát, nó còn là một câu chuyện
tình đẹp, nghẹn ngào [Lời giới thiệu của Geoff Dyer trên tờ Independence, in
lại trong bản dịch tiếng Anh của Nỗi Buồn].
Trên tờ L'Express, số 30
Juillet & 5 Aout, có 1 bài về Maria Remarque, "Từ
Giao Thông Hào tới Hoa Lệ Ước", về cuốn tiểu thuyết thần sầu của ông,
“Mặt
Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh”, được đọc nhiều nhất của thế 20, tiếng nói
của thế
hệ trẻ trong cuộc xung đột, kẻ thù của Nazi....
Tin Văn sẽ đi 1 đường lèm
bèm về nó, cùng lúc, so sánh nó với “Nỗi Buồn Chiến Tranh” của Bảo Ninh.
Chuyện Dài
Thầy Kuốc.
Tại sao
chúng ta cần nhà văn?
Thứ Sáu,
ngày 08 tháng 8 năm 2014
Tôi
mới đọc trên
tờ The Sydney Morning Herald bài viết của Elizabeth Farrelly
với nhan đề
“Tại sao chúng ta cần nhà văn?” (Why we need writers). Bài viết, từ
một nhà
báo, thành thực mà nói, không có gì sâu sắc. Nhưng tôi bị mê hoặc
bởi cái
nhan đề. Hình như, từ lâu, tự trong tâm thức, tôi cũng bị ám ảnh bởi
câu hỏi ấy.
Tại sao chúng ta cần nhà văn?
Note:
Đã
chôm cái tít của người ta, đếch thèm cám ơn, còn đi 1 đường cực kỳ
đểu cáng, và,
cũng vẫn trong cái dòng "hờ hững".
Vì
mấy dòng,
“Bài
viết, từ một nhà báo, thành thực mà nói, không có gì sâu sắc”,
GCC
đành phải kiếm đọc, coi có đúng như Thầy
chê không.
Hoá ra đếch phải. Thầy
đếch đọc nổi bài viết của bà này. (1)
Bình thường
ra, nguời nào có chút khiêm nhường, sẽ viết, thí dụ, tình cờ đọc bài
viết... thấy
cái tít thú quá, bèn đi tiếp 1 đường về nó, tức là về cái chuyện tại
sao chúng
ta cần nhà văn….
(1)
Elizabeth Farrelly is a Sydney-based columnist and
author who holds a PhD in architecture and several international
writing awards. A former editor and Sydney City Councilor, she is also
Adjunct Associate-Professor of Architecture at the University of
Sydney. Her books include 'Glenn Murcutt: Three Houses' and
'Blubberland; the dangers of happiness'.
Bạn đọc cái tiểu sử của bà này, coi có hơn của Thầy
Kuốc, với cái bằng tiến sĩ dởm?
Why we need writers
Bạn
đọc bài viết của bà này, rồi so với bài viết của Thầy Kuốc, coi ai sâu
sắc hơn
ai?
Với
riêng GCC, bài của Thầy Kuốc, cũng vưỡn nằm trong dạng vây vo, kéo bè
đảng,
nhắc đến, toàn những bạn quí của Thầy, nào VP, nào NBT, nào... Mít
chúng ta cần
họ....
Làm
sao mà so nổi với
"nguyên tác".
Chỉ nội câu mở ra bài viết, đọc, là đã thấy xấu hổ giùm
cho....
“Thầy” :
Why
write? When people ask me this, as happens surprisingly often, I am
forced to
say, don’t. Really. If you can do anything else and stay even vaguely
sane, do
it.
As
Gore Vidal declares in Nicholas Wrathall’s new doco, Gore
Vidal: The
United States of Amnesia: “In every generation there are a few
unfortunate souls who are condemned, practically at birth, to be that
absolute
absurdity, a writer for life.”
Sau đây, là
những dòng “phóng tác”, ý của nữ tác giả mũi lõ, trên:
Tại sao viết?
Khi bị hỏi
như thế, tôi thường khuyên, đừng. Thực sự là vậy. Nếu bạn kẹt vô trường
hợp của
tôi, và thấy cũng ngài ngại, thì cứ trả lời như vậy, cho chắc ăn.
Như Gore Vidal phán:
Trong mỗi thế hệ chỉ có 1, hoặc bảnh hơn 1 tí, vài linh hồn, cực kỳ đau
khổ, bị
kết án, ngay từ khi bò ra khỏi... bụng mẹ: Mi sau này sẽ trở thành nhà
văn, thứ
thiệt: a writer for life!
[nguyên văn, “một vài linh
hồn không may mắn, bị kết án, từ khi sinh ra, sẽ trở thành
cái phi lý tuyệt đối: một nhà văn suốt đời”]
Re:
... condemned, practically at birth.
Trong kho tàng tiếu lâm của Mít, có
giai thoại về Trạng Quỳnh, áp dụng vô đây thật tuyệt:
Trời sinh ông Kử Kuốc!
NQT
Cái ý của
Gore Vidal, nằm trong dòng Kafka: "Nhà văn là 1 thứ dê tế thần, của
nhân loại.
Nhờ họ, mà chúng ta tha hồ gây tội, mà chẳng thấy lỗi 1 tí nào hết". (1)
Câu mở ra bài
viết, bảnh như thế, mà bị ông Kử Kuốc chê là đếch xuất sắc thì đúng là
“fi ní lô
đia”! [hết lước lói!]
Kafka,
trong một bức thư gửi cho bạn, viết: “Nhà văn là một bouc-émissaire của
nhân loại.
Nhờ hắn mà nhân loại có thể vui hưởng tội lỗi một cách ngây thơ vô
tội”. Chính
niềm hoan lạc ngây thơ vô tội này là sự đọc. Sự viết mang trong nó mầm
bất hạnh,
nhưng sự đọc lại là hân hoan, lại là ân sủng. Một nhân xấu cho một quả
tốt. Viết
là một sự vật ai oán (chose nocturne), là cái ngậm đắng, nuốt cay, là
cái nghiệp,
là cái sầu thảm. Nhưng đọc lại là ân huệ, là an hưởng tội lỗi một cách
không tội
lỗi, (một cách thơ ngây vô tội). Viết là một tác động xấu (activité
mauvaise)
nhưng đọc lại là cái bất động, cái tiêu cực sung sướng. Cái hữu của sự
viết là
bất hạnh trong khi bản tính của sự đọc lại là hạnh phúc, mặc khải…
Nguyễn
Du giữa chúng ta
Chúng
ta cần nhà văn, là như thế đó, hiểu chưa?
NQT
Note: Bài viết “Nguyễn Du giữa chúng ta” này, cũng
có tí "giai thoại" của nó.
Sau khi đọc tập truyện
ngắn “Mây Bay Đi” của Nguyên Sa, Gấu bị
băng đảng của ông, qua Thương Sinh, tức
Duyên Anh, chửi ròng rã gần 1 năm trời trên báo hàng ngày, báo “Sống”,
của Chu
Tử.
Gấu đếch
thèm trả lời.
Nhân tờ "Văn" ra số
đặc biệt về Nguyễn Du, nhân đọc Kafka, bèn đi 1 đường
tưởng niệm Nguyễn Du, “cuộc đời trăm năm rách
nát với văn chương”
[Thơ chữ Hán của ND]. Một công đôi ba chuyện. Trong số bạn bè hay ngồi
Quán Chùa hồi
đó, chỉ có mình nhà thơ Du Tử Lê nhận ra, phán, [giữa 1 đám đông ngồi
cùng bàn,
không có Gấu, sau nghe kể lại, nhớ đại khái], đây là bài trả lời Nguyên
Sa của
tên “sa đích văn nghệ” [nick của NS ban cho Gấu].
Câu của
Kafka, Gấu đọc qua bản tiếng Tây. Sau này, ra hải ngoại, mới biết đến
câu đó,
qua bản tiếng Anh, Gấu bèn chôm lần thứ nhì, mượn hoa tiến Phật, đi 1
đường thổi
bạn của Gấu, là Kiệt Tấn:
Những rừng đèn chai đứng dậy trong đêm
khuya
Thơ Kiệt Tấn
Nhà văn người
Đức, Gunter Grass, có một truyện ngắn "Quán Củ Hành" (đã được dịch ra
Việt ngữ, đăng trên Bách Khoa trước đây); khách tới quán, được chủ đưa
cho một
củ hành, rồi cứ thế ngồi gọt, cắt. Nước mắt nhờ vậy mà vợi đi. Đọc Kiệt
Tấn,
tôi cứ cười hoài. Văn của ông thật vui, những cuộc tình của ông thật
nhộn (và
thật đã). Ông viết về mình: Có người lại nói Kiệt Tấn viết đa dạng
nhưng thiên
về tình dục, đọc một hồi lòi ra cái chất Kiệt Tấn. Tôi nghĩ Kiệt Tấn
cũng có một
quán củ hành như của Gunter Grass, ở trong thơ của ông.
Hay như của
Kafka, khi ông định nghĩa nhà văn, một thứ dê tế thần của nhân loại.
Nhờ anh ta
mà con người tha hồ "enjoy" tội, mà chẳng lỗi gì ráo! (He is the
scapegoat of mankind. He makes it possible for men to enjoy sin without
guilt,
almost without guilt). Đọc Kiệt Tấn, chúng ta "enjoy" bằng tiếng cười
trong văn, và bằng tiếng khóc, trong thơ.
Không có cuộc chiến với Thiên Triều, sĩ quan Ngụy chết hết!
Saul
Friedlander
[Kafka]:
Le
poète de la honte et de la culpabilité
Thi sĩ của sự
tủi hổ và phạm tội
Kafka n'était
pas bâtisseur de théorie ou de systèmes : il suivait des rêves, créait
des métaphores
et des associations inattendues, il racontait
des histoires, il était
poète. Son recours fréquent à des allusions religieuses (qu'elles
soient
directes ou indirectes, chrétiennes ou juives) peut induire en erreur,
mais ces
allusions sont generalement entrelacees d'ironie et n'impliquent pas
une foi
religieuse. Pour l'essentiel, Kafka fut le poète de son propre désordre.
Kafka không
phải là người xây dựng lý thuyết hay hệ thống: ông đi theo những giấc
mộng, tạo
ẩn dụ, kết hợp bất ngờ, kể chuyện, là nhà thơ. Cách viết của ông -
thường viện
tới những ám dụ tôn giáo (trực tiếp hoặc gián tiếp, Ky tô hay Do thái)
– có thể
gây lầm lẫn, nhưng những ám dụ này thường được trộn với tếu táo, hài
hước, và
không hàm ngụ một niềm tin tôn giáo. Tự bản chất, yếu tính, Kafka là 1
nhà thơ
của chính sự xáo trộn của mình.
Suốt đời,
Kaka chống lại những phiều nhiễu, xáo trộn, troubles, chúng xâm nhập
cuộc sống
thường nhật của ông, và hơn thế nữa, sự tưởng tượng của ông. Những vấn
đề này,
những khó khăn này, đưa tới một sự tra hỏi, đúng hơn, biến thành một ám
ảnh, mà Nhật Ký, thư từ
trao đổi, (và, gián tiếp, những giả tưởng) cho thấy. Thí dụ, entry đề ngày 18 Tháng Chạp 1922, Kafka,
biết rất rõ về tình trạng sức khoẻ của mình, trở nên tệ quá nhanh,
viết: Nghỉ
ngơi thôi. Hôm qua Hoặc là… hoặc là
[“Resté couché. Hier Ou bien… ou bien] Cái entry
này gây phiền, trên rất nhiều mặt.
Trong Ou bien… ou bien, Kierkegaard toan
tính nghiên cứu hai cách sống khác nhau, của chính cuộc đời của ông,
một, mĩ học;
một, đạo đức. Theo thư gửi bạn, Max Brod, đề ngày 20 Tháng Giêng 1918,
Kafka bắt
đầu đọc tiểu luận của Kierkegaard, nói trên, vào thời kỳ này. Ông không
khoái tập
đầu (cuộc đời mĩ học), trong có Nhật Ký Của Kẻ Quyến Rũ, “Journal d’un
séducteur”,
và vào giữa tháng Ba, 1918, ông viết cho Max Brod: Tôi quá tởm nó (Je
ne peux
toujours pas lire le premier volume de Ou
bien.. ou bien sans répugnance). Tuy nhiên, đúng năm năm sau, trong
khi sức
khỏe càng thêm tồi tệ, Kafka lại lôi Ou
bien… ou bien ra đọc lại. Không biết
phản ứng của ông ra sao, lần đọc lại này, tuy nhiên, chúng ta không thể
không tự
hỏi, liệu cái nhìn nước đôi của Kierkegaard ảnh hưởng, về mặt đạo đức,
đối với
Kafka, một vấn đề ông không làm sao giải quyết, trong suốt cuộc đời
dòng dã?
Steiner viết,
Kafka sống cái kinh nghiệm tội tổ tông, Kafka vécut l’expérience du
péché originel…
Chỉ 1 dúm người kinh nghiệm trong cuộc đời họ, niềm tin và những hậu
quả, của tình
trạng, bị phế thải, bị hoang hóa, đếch làm sao… thành công! [Seule une
petite
poignée d’être humains ont expérimenté dans leur vie la conviction et
les conséquences
de l’état d’être déchus]
Thì cũng như…. GCC, sống kinh nghiệm Cái Ác
Bắc Kít! Đây
là Tội Tổ Tông của nòi giống Mít, theo GCC!
Hà Nội Gió. TMT
Thu 2014
Tựa hồn những năm xưa
The
Necessity of Loneliness
Viết
Ngày
GCC's
Novel
|
|