|
29.1.2013
SN cô cháu nội của GCC ở
Vientiane, Lào
SN thằng lớn.
Hai đấng cháu nội của GCC
Thơ Mỗi Ngày
Fernando
PESSOA & Co.
TO TRAVEL!
TO CHANGE
COUNTRIES
To travel!
To change countries!
To be
forever someone else,
With a soul
that has no roots,
Living only
off what it sees!
To belong
not even to me!
To go
forward, to follow after
The absence
of any goal
And any
desire to achieve it!
This is what
I call travel.
But there's
nothing in it of me
Besides my
dream of the journey.
The rest is
just land and sky.
20 SEPTEMBER
1933
THE CHILD
THAT LAUGHS
IN THE STREET
The child
that laughs in the street,
The song one
hears by chance,
The absurd
picture, the naked statue,
Kindness
without any limit –
All this
exceeds the logic
Imposed on
things by reason,
And it has
something of love,
Even if this
love can’t speak
4 OCTOBER
1934
ALMOST
ANONYMOUS
YOU SMILE
Almost
anonymous you smile
And the sun
gilds your hair
Why is that,
to be happy
We cannot
know we are?
23 SEPT 1932
SOME MUSIC
Some music,
any music at all
As long as
it cures my soul
Of this
uncertainty that longs
For some
kind, any kind of calm
Some music –
a guitar, fiddle,
Accordion or
hurdy-gurdy…
A quick, improvised
melody…
A dream
without ant riddle…
Something
life has no part in it
Fado,
bolero, the frenzy
Of the dance
that just ended…
Anything not
to feel the heart!
Tribute to Phạm Duy
PD & VC
Hai kỷ niệm
tuyệt vời nhất của Gấu, về nghe nhạc Phạm Duy khi ở tù VC, là lần một
bạn tù chơi
đàn Tây Ban Cầm bản Thuyền Viễn Xứ, và
lần 1 anh bạn tù khác, hát lên bản Ngày
Mai Đi Nhận Xác Chồng.
Đó cũng là lần thứ nhất GCC được nghe bản
nhạc.
Nhưng để mà
được nghe như thế, thì phải được Ông Trời “chi ly đến tận chi tiết”, để
“hoàn
thiện” hai cái buổi nghe nhạc đó. Bởi vì thiếu, chỉ 1 chi tiết, là “ọc
dzơ”!
Có lần GCC có
kể 1 giai thoại về Leibnitz, khi ông giải được 1 bài toán, tất cả là ảo
số, nhưng
đáp số thì lại là 1 số thực [thứ này, sau chúng ta gặp đầy, trong toán
về suite, về série, nhưng đó là thời
kỳ hậu-Leibnitz. Bản thân Gấu cũng đã từng
giải 1 bài toán như thế, về chuỗi số ảo, như khi nó đến ‘limite’, thì
lại là 1
số thực. Áp dụng vào lý thuyết Mác Xịt, vào cái cú 30 Tháng Tư 1975,
thì nó như
vầy: Trước 1975, là ảo số, là lý tưởng, là ảo tưởng, là không tưởng -
chủ nghĩa
Mác và căn nhà thống nhất Mít -, nhưng 30 Tháng Tư, là số thực, là cái
thực, là
địa ngục Mít, là anus mundi…].
Lần đó,
Leibnitz ngửa mặt trên Trời la lên, không có Ông là không thể có cái
đẹp như thế
này!
Với GCC lần đó,
thì cũng vậy, phải có Ông Trời, thì mới có cái đẹp tuyệt vời như thế:
được nghe
hai bản nhạc của PD, như là số thực - hạnh phúc- limite, của cả một
chuỗi đau
khổ [ảo số].
Sướng đến nỗi
GCC phải la lên Ngài Phạm Duy đã sáng tác hai bản nhạc, chỉ để cho Gấu,
nghe,
trong 1 dịp trọng đại như thế.
Thiên hạ, người khác, nhân loại, thì chỉ nghe… ké,
hưởng ké!
Note: Bài viết này,
GCC viết, khi “hero” của GCC và của cả xứ Mít, còn lang thang ở hải
ngoại, và còn
nghĩ là ông sẽ được an táng ở Bắc Cực.
[Văn Cao có cái
vinh cái nhục của Văn Cao. Tôi cũng thế. Văn Cao được chết ở đất quê.
Chứ còn
tôi, nay mai chết sẽ được chôn ở Bắc cực chăng? (cười)...]
Nhưng hóa ra rằng thì là, ngay từ
khi đó, vào lúc GCC hớn hở vì chạy thoát quê hương, 1997, [Gấu tái định
cử
Canada 1994, sau 3- 4 năm ở Trại Tị Nạn], thì “hero” của Gấu đã tính
đường chuồn
về, và đang tìm cách thổi VC, nào là 10 năm “đoàn kết tới chỉ” [chỉ có
làm thịt
sạch một dúm đảng phái không phải VC].
Man is not
merely one who lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is
one who
survives".
"Con
người đâu chỉ sống, ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi là tỏ
ra tự
hào, phán, 'nó còn là kẻ sống sót'".
Steiner: Những
Bài Học của Những Ông Thầy.
Phạm Duy,
như "mọi" tên Bắc Kít khác, đều thuộc týp đếch cần tới cái tự hào “sống
sót” đó!
Ông không những sống, mà còn sống nhanh, sống hơn, sống quá... mọi tên
Bắc Kít
khác
Chẳng thế mà trong clip video do tờ Người
Việt Cali thực hiện (?), ông phán,
trước khi dinh tê, tôi thương hại những người chửi tôi, vì họ không
thành công
như tôi!
Hà, hà!
Phản ứng của
ông ra sao về việc Grass thú nhận?
Tôi cảm thấy
yên tâm.
Yên tâm khi
một bậc Thánh như thế thú nhận đã từng nhúng chàm?
Đúng thế. Điều
đó làm cho chúng ta yên tâm về cuộc đời khốn khổ đáng thương của chúng
ta. Và
điều này còn cho thấy, ngay trong văn chương, cũng đếch có siêu nhân.
Ngoài Văn
Cao ra, chưa 1 tên VC nào thú nhận đã từng giết người.
*
Mấy kỷ niệm ở
tù VC nghe nhạc Phạm Duy, Gấu cứ nấn ná mãi, chưa chịu viết ra. Bây giờ
[Nghìn trùng xa cách], "Người
đã đi rồi", có lẽ đúng là lúc để đi 1 đường tưởng niệm, bảnh nhất,
không có ai
có thể có được đó.
Có lẽ, chỉ
những dòng sau đây, của Milosz, viết về Mandelstam, là xứng với những
kỷ niệm của
Gấu, khi nghe nhạc PD ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa, Cần Giờ.
In one of
his essays Brodsky calls Mandelstam a poet of culture. Brodsky was
himself a
poet of culture, and most likely that is why he created in harmony with
the
deepest current of his century, in which man, threatened with
extinction,
discovered his past as a never-ending labyrinth. Penetrating into the
bowels of
the labyrinth, we discover that whatever has survived from the past is
the
result of the principle of differentiation based on hierarchy.
Mandelstam in
the Gulag, insane and looking for food in a garbage pile, is the
reality of
tyranny and degradation condemned to extinction. Mandelstam reciting
his poetry
to a couple of his fellow prisoners is a lofty moment, which endures. (1)
Mandelstam,
khi ở trong Gulag, điên khùng, và tìm kiếm đồ ăn trong đống rác, là
thực tại về
bạo tàn, thoái hoá đưa đến huỷ diệt.
Nhà thơ đọc
thơ của mình cho bạn tù, là một khoảnh khắc thăng hoa hoài hoài.
Gấu Nhà Văn,
vào 1 bữa chủ nhật, đếch phải đi lao động cải tạo, nghe Ngày Mai Đi Nhận
Xác Chồng, nhạc PD, phổ thơ Lý Thị Ý, với 1 số bạn tù ở nông
trường cải tạo Đỗ
Hòa, là cái khoảnh khắc thăng hoa hoài hoài, và nó sẽ theo bước chân
người sáng
tạo ra nó, qua tới cả thế giới bên kia.
Thần sầu!
Hà, hà!
Cái khúc
này, “Mandelstam, khi ở trong Gulag, điên khùng, và tìm
kiếm đồ ăn trong đống rác, là thực tại về bạo tàn, thoái hoá đưa đến
huỷ diệt”,
cũng đúng với Gấu Nhà Văn.
Không có khúc này thì không “hệ luận”, là khúc sau.
Tất cả liên quan tới lần Gấu Cái đi thăm nuôi lần đầu, và, nếu không có
lần thăm
nuôi này, thì kể như “hư vô”, chẳng có khúc nào!
Thơ Mỗi Ngày
OSCAR V. DE L. MILOSZ
1877-1939
This French
poet of Lithuanian origin, Oscar V. de L. Milosz, my relative, has
found fine
translators in English, beginning with Ezra Pound, and followed by
Kenneth
Rexroth, David Gascoyne. His poetry is steeped in the aura of the epoch
of
symbolism.
THE BRIDGE
Dead leaves
are falling in the dormant air.
Look, my
dear, what autumn did to our dear isle!
How pale it
is!
What an
orphan it is, so humble and docile!
Bells ring
and ring at Saint-Louis-en-Isle
For a dead
fuchsia of the bargemaster's wife.
Heads low,
two horses, obedient, sleepy, take their last bath.
A big black
dog barks and threatens from afar.
On the
bridge only I and my child:
Her faded
dress, frail shoulders, face white,
Flowers in
her hands.
Oh my child!
What will the coming time bring!
To them! To
us! Oh my child! What will the coming time bring!
Translated
from the French by Czeslaw Milosz and Robert Hass
Nhà thơ Tẩy gốc Lithuania, Oscar
V. de L. Milosz, một người
bà
con của tôi [Milosz] đã có được những dịch giả qua tiếng Anh thực bảnh,
bắt đầu
với Ezra Pound và tiếp theo là Kenneth
Rexroth, David Gascoyne.
Thơ của ông đã đặt chân vào
cõi hào quang của thời kỳ tượng trưng.
Cây
Cầu
Lá vàng rơi xuống trong không
gian ngủ
Coi kìa, con thân yêu, mùa thu đã làm gì với hòn đảo thân thương của
chúng ta
Nó mới xanh xao làm sao,
Hòn đảo mồ côi, nhún nhường, dễ bảo!
Chuông nhà thờ vang lên, vang lên ở Saint-Louis-en-Isle,
Đám tang cây hoa vân anh của bà vợ người chủ xà lan.
Đầu cúi thấp, hai con ngựa ngoan ngoãn, buồn ngủ, tắm bữa chót
Một con chó đen lớn, hung hăng sủa ở phía xa
Trên cầu, chỉ tôi và đứa cháu nhỏ:
Áo bạc, vai gầy, mặt trắng bệch
Tay cầm hoa.
Ôi con thân yêu, coi kìa, thời gian mang tới cho chúng ta điều
chi!
Cho họ! Cho chúng ta!
Ôi, con thân thương, thời gian đang
tới sẽ mang điều gì đến!
Xác
Bụi
Thời vô song
Cali Nov
2012 With HA
Beckett,
portrait
Samuel
Beckett, một thoảng nhớ...
Khi tôi rời
Sam lần chót, tôi biết là chẳng còn hy vọng gặp 1 ông Beckett còn sống
nữa. Tôi loay hoay
sắp xếp đời mình, để có thể trở lại Paris, kế cận ông chừng sáu tuần,
bắt đầu vào
tháng Giêng. Tôi “coi thường” cát lầy, tính sai chừng 1 tháng.
Nói 1 cái gì
đó về ông, rồi cát lầy mặc mẹ cát lầy.
Điều mà Beckett nói về Joyce sau cùng đúng
là điều tôi nói về Beckett:
“Ông chẳng bao giờ viết về điều gì. Ông luôn viết điều
gì”.
Tôi lo là, mọi
người sẽ thổi ông, gọi ông là “Thánh Sam”, và nếu như thế, họ sẽ bỏ qua
một sự
thực quan trọng nhất, hiển nhiên nhất: Với cuộc đời của mình, Mr.
Beckett [thì cũng giống như Mr. Tin Văn] chứng tỏ, ngay cả ở trong cái
thế kỷ khốn
kiếp, tồi bại, là thế kỷ của riêng lũ chúng ta, với một nhà văn, thì
sau cùng vẫn
khả hữu điều này: Sống, và làm việc với 1 sự cẩn trọng lớn, một sự trau
chút lớn,
và một sự toàn vẹn lớn.
Đó là điều mà Samuel Beckett có thể: Không phải một vì
thánh - ở vào những lúc chẳng ra cái chó gì – not even totally tasteful
– nhưng
vẫn luôn luôn, hoài hoài, là 1 nghệ sĩ: giọng trong sáng, đảm trách,
thẳng 1 dòng
với cái đẹp nhất.
Và với nghĩa cả,
good cause.
Chung quanh ông, phẩm chất của Cuộc Đời thì thối tha, ghê tởm, và
phẩm chất của Cái Chết, thì là một giải pháp thay thế nó, đếch làm sao
mà hài lòng,
thỏa mãn.
ISRAEL
HOROVITZ
The Paris
Review Spring 1997: Theater
Chuyện Mùa Đông
Đại Lục Kim Dung
Sở dĩ CS thất
bại, là vì họ bỏ những trang đầu của chủ nghĩa Mác, tức là 1 ông Mác
Trẻ, như
Heni Lefebvre cho thấy, trong cuốn Duy Vật
Biện Chứng Pháp của ông. Ông viết, chúng ta phải đọc lại Mác, nhất
là những
tác phẩm thời còn trẻ - surtout les oeuvres de jeunesse - mà lũ ngu lầm
là “triết
học” [dites à tort “philosophiques”], bởi vì chúng chứa đựng một phê
bình cơ bản,
une critique radicale, tất cả triết học được hệ thống hóa, toute
philosophie
systématisée - với cái nhìn mới: Cái trở
thành-triết học của thế giới thì cùng lúc là cái trở thành- thế giới
của triết
học, sự thực hiện nó thì cùng lúc là sự mất nó: Le devenir-philosophie
du monde
est en même temps un devenir-monde de la philosophie, sa réalization
est en même
temps sa perte.
Đoạn trên rất
quan trọng. Gấu Cà Chớn sẽ giải thích tiếp, để cho lũ “lề phải” VC hiểu
rằng
là, không phải ai cũng ngu như chúng, khi đọc Mác.
Note: Đây là
bản đăng báo Vấn Đề, số Xuân
Kỷ Dậu, của cái truyện ngắn Mộ Tuyết
của Gấu, viết
về lần đi lấy xác thằng em ở Sóc Trăng, Ba Xuyên, Khánh Hưng [Sóc Trăng
khi đó
là tên phi trường, Khánh Hưng, thị xã, Ba Xuyên, tên tỉnh]
Lần đầu, chỉ
có 1 mẩu, đăng trên trang VHNT Tiền Tuyền, bị ông anh TTT cảnh cáo, mục
của
mày, là chỉ lo chuyện đọc sách, phê bình.
Sau in trong Những Ngày Ở Sài Gòn,
tập truyện, và được Gấu chọn, đại diện Gấu, trong "Những
truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta", tức Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam,
nhà xb Sóng, của Nguyễn Đông Ngạc.
ONE DAY IN
THIS EPOCH, THE MID-FIFTIES, OLGA IVINSKAYA received a phone call from
her
lover, Pasternak. His voice sounded and he began to speak in a voice
choked by
tears. "What's wrong?” she asked in alarm. "He's dead, he's dead, I
say!" he groaned several times over.
He was speaking
about Yuri Zhivago. The harrowing chapter in which he suffers a fatal
heart
attack on a tram (not far from where later a son of Pasternak would die
at his
car wheel) was now finished; and soon novel would be completed.
Art, he
wrote, is always meditating upon death and thereby creating life
D.M.
Thomas: A. Solz, a century in his
life
|
|