Milosz
ANUS
MUNDI
The cloaca of the world. A
certain German wrote down that definition of Poland
in 1942. I spent the war years there and afterward, for years, I
attempted to
understand what it means to bear such an experience inside oneself. As
is well
known, the philosopher Adorno said that it would be an abomination to
write
lyric poetry after Auschwitz, and the philosopher Emmanuel Levinas gave
the
year 1941 as the date when God "abandoned" us. Whereas I wrote
idyllic verses, "The World" and a number of others, in the very
center of what was taking place in the anus mundi, and not by any means
out of
ignorance. Do I deserve to be condemned for this? Possibly, it would be
just as
good to write either a bill of accusation or a defense. Horror is the
law of
the world of living creatures, and civilization is concerned with
masking that
truth. Literature and art refine and beautify, and if they were to
depict
reality naked, just as everyone suspects it is (although we defend
ourselves against
that knowledge), no one would be able to stand it. Western Europe can
be
accused of the deceit of civilization. During the industrial revolution
it
sacrificed human beings to the Baal of progress; then it engaged in
trench
warfare. A long time ago, I read a manuscript by one Mr. Ulrich, who
fought at
Verdun as a German infantry soldier. Those people were captured like
the prisoners
in Auschwitz, but the waters of oblivion have closed over their torment
and
death. The habits of civilization have a certain enduring quality and
the
Germans in occupied Western Europe were obviously embarrassed and
concealed
their aims, while in Poland they acted completely openly.
It is
entirely human and understandable to be stunned by blatant criminality
and to
cry out, "That's impossible!" and yet, it was possible. But those who
proclaim that God "abandoned us in 1941" are acting like conservators
of an anodyne civilization. And what about the history of humankind,
with its
millennia of mutual murder? To say nothing of natural catastrophes, or
of the plague,
which depopulated Europe in the fourteenth century.
Nor of those
aspects of human life which do not need a grand public arena to display
their
subservience to the laws of earth.
Life does
not like death. The body, as long as it is able to, sets in opposition
to death
the heart's contractions and the warmth of circulating blood. Gentle
verses
written in the midst of horror declare themselves for life; they are
the body's
rebellion against its destruction. They are
carmina, or incantations deployed in order that the horror should
disappear
for a moment and harmony emerge-the harmony of civilization or, what
amounts to
the same thing, of childish peace. They comfort us, giving us to
understand
that what takes place in anus mundi is transitory, and that harmony is
enduring-which is not at all a certainty.
Anus
Mundi:
Hậu môn của thế giới
Milosz cho biết chính là ở
hậu môn thế giới mà ông làm thơ, và đừng có nghĩ là ông
không biết câu phán của Adorno: As is well known, the philosopher
Adorno said
that it would be an abomination to write lyric poetry after Auschwitz,
and the
philosopher Emmanuel Levinas gave the year 1941 as the date when God
"abandoned" us. Whereas I wrote idyllic verses, "The World"
and a number of others, in the very center of what was taking place in
the anus
mundi, and not by any means out of ignorance.
*
Milosz biết,
nhưng nhà nghệ sĩ Võ Đình của Mít, không.
Ông bỏ nước ra đi nên chẳng hề biết
chiến tranh Mít, nhưng lạ là cũng chẳng biết Lò Thiêu, hay Adorno là
thằng chó
nào.
Khi Gấu lỡ nhắc đến thằng chó Adorno, trên tờ Văn Học, khi còn giữ mục Tạp
Ghi, và câu phán ghê gớm của ông, nhà nghệ sĩ bèn mắng, thằng cha này
đúng là
"vung tay quá trán".
Sau Lò Thiêu vẫn có thơ, chứng cớ là "Đêm Tận Thất Thanh" của
Phan Nhật Nam đây nè!
Mà, đâu chỉ... "Đêm Tận
Thất Thanh"!
Có thể nói, tất cả văn
chương Mít, sau 30 Tháng Tư 1975, VC hay không VC, tù VC hay không tù
VC, thì đều được viết ra, như thể Lò Cải Tạo đếch xẩy ra.
NQT
Võ Đình
Đêm Tận Thất Thanh là
một nhánh kỳ hoa đó... (1)
Văn Học số Xuân Đinh Sửu [129&130],
trong phần Tạp Ghi, ông Nguyễn Quốc Trụ viết: "... rằng sau Auschwitz,
'nếu cá nhân nào đó mà còn làm được thơ thì thật là dã man' (sic), và
'mọi văn hóa sau Auschwitz chỉ
là rác rưởi'.
Tôi chưa từng được quen
biết, trong lãnh vực văn học, ông Adorno này, nên không lạm bàn rông
rài. Chỉ "trộm" nghĩ rằng câu nói của ông [ta] có vẻ như... "vung tay
quá trán". Có thể đổi được chăng những câu phê phán này thành... "sau Auschwitz mà còn làm thơ... Trời ơi, Tuyệt!"?
Hay là, "Mọi văn hóa sau Auschwitz là
những nhánh kỳ hoa bung lên từ bãi dơ bầy nhầy, ruồi nhặng sâu bọ lúc
nhúc, thối um"?
Đêm Tận Thất Thanh là một
nhánh kỳ hoa đó.
.....
Tôi không may mắn
từng đọc tác giả Adorno nói trên....
Loxahatchee, Florida 5-2-97
24 tiếng trước Tết Đinh
Sửu, ở Việt Nam
Võ Đình
Trên
đây trích từ bài viết của Võ Đình, ở cuối cuốn Đêm Tận Thất Thanh của "bạn ta" là
Phan Nhật Nam.
Trong cuốn sách bạn ta tặng, buổi tối tại nhà Nguyễn Đình Thuần. Với
lời đề tặng:
Của Ông
Sơ Dạ Hương với tình thân 30 năm Nguyễn Quốc Trụ, La Pagode.
CA Oct/28/2003.
PNN ký tên.
Những
bài thơ gởi đảo xa & trăng màu hồng
Sáng nay, trong email Cường lại gởi cho những
tài liệu về Thanh Tâm Tuyền (TTT) trong đó chứa những điều mình chưa
từng biết, những điều lần đầu tiên được công bố. Về một mối
tình và những bài thơ cho đảo xa.
Blog PV
GCC thắc mắc: Ai cho phép mà lần đầu tiên
được công bố?
Thư riêng, mail riêng, làm sao dám đăng lên, rồi tự cho phép lần đầu
tiên được công bố?
NQT
TV đã từng viết về những
kỷ niệm thật riêng tư về TTT, tính, qua đó, lần ra những liên hệ với
những bài thơ, bài viết, truyện ngắn, truyện dài của ông, nhưng sau đó,
nhận được mail của bạn C ra lệnh ngưng.
*
Một bạn văn vừa cho biết nguồn
của những bài thơ của TTT.
Tks. NQT
From:
Sent: Tuesday, February 14, 2012 5:43 PM
Subject:
tinvan.net
<
GCC thắc mắc: Ai cho phép mà lần đầu tiên được công bố?
Thư riêng, mail riêng, làm sao dám đăng lên, rồi tự cho phép lần đầu
tiên được công bố?
>
Ong
GCC nay qua la bop
chop (as always)
Trong cai link chinh inh o post cua ong GCC : "Giờ đây, sau khi nha tho
nằm xuống sáu năm, tất cả được công bố. Mà do người tình trăng hồng hạ
kia." (http://phovanblog.blogspot.com/)
Thi "nguoi tinh hong ha" cong bo "thu rieng" . The
ong GCC phan doi a ? Ai noi ong "thu rieng khong
dam (sic) dang len" ? Nha tho...cung la mot "public
figure" trong pham tru VN . Dang len cung ...OK lam chu
nhi !
Ong la ai cua nha tho ...qua't la'o the ?
Ong bat duoc "nguon" roi , co phan ung gi chang nhi ?
Phuc đap:
Ban hieu lam roi
...
Phu nhan của nha tho la
nguoi khong lien quan den “giang ho, gio tanh mua mau” (1)
NXT la ban cua TTT
Anh phai biet chuyen do
O dau post cung duoc
Nhung Pho Van dung nen post
Regards
NQT
xin loi ong
GCC .
Bay gio la "mode" tung ...thu* rieng len mang, nguoi doc "net" binh
thuong nhu toi cung nga'n , nhu kieu Dao Anh-TCS ...bay gio "Cu*?a
Kho'a Trai' " - "Trang Hong" - va Nha Tho Tu Do vi dai cua Mien Nam !
Do la thu* / tho* trong tinh tha^`n van nghe , mot kieu lang mang ngoai
doi song ...gia dinh (von khong lang mang cua TTT).
Toi dong y ve post cua ong ve NXT .
Tran trong va xin loi lam phien
Bye
Take Care
NQT
(1)
Cái câu của
bà vợ Trung Uý Kiệt, trong Một Chủ
Nhật Khác, có thể áp dụng ở đây:
-Mấy người
không thấy là mấy người diễn trò dâm loàn, đồi bại...
Thùy bật la lên, chụp lấy
Kiệt xâu xé. Kiệt chết sững, không phản ứng. Thùy rít lên: Đồ tồi bại,
đốn mạt, sadique... tu es sadique, không ngờ, không tưởng tượng
nổi. Tởm, tởm quá. Kiệt chảy nước mắt những vẫn cười nôn.
Khi nguôi ngoai, Thùy hỏi:
-Có thật đàn ông các anh ngấm ngầm đều ưa những trò tồi bại? Có thật
anh chán tôi, vì tôi không thể... bước vào khách sạn, hay nằm ngoài
trời với anh như....
-Đừng bậy. Anh không phải thế....
-Thế anh là thế nào? Còn vết sẹo kia giải thích thế nào?...
Kiệt nghẹn
lời. Chàng không thể hé môi. Làm cách nào chàng có thể mở miệng giải
thích?
Rồi cũng qua.
Bây giờ, Kiệt tự đùa mình: một hôm nào tình cờ người tình cũ của ta có
thể đột ngột xuất hiện chăng? Chàng hơi trợn trước câu hỏi.
Source
Đọc lại, và đọc những "lần đầu công bố", thì
GCC mới hiểu, Kiệt, có thể đã tính ra được chuyện người tình cũ đột
ngột xuất hiện, ở nhà 1 bà bạn, ở Đà Lạt, mà có lẽ luôn cả chuyện vừa
mới xẩy ra, và đây là những lời tạ lỗi, tự coi thường chính mình, trước
Thùy?
-Anh sa sút thật. Anh sa sút đến em cũng
không ngờ.
Kiệt muốn sa nước mắt sau câu nói của Thùy. (1)
Trên Tin Văn
đã từng trang trọng giới thiệu thơ NXT (1)
Lần mới qua Cali, có gặp ông. Gấu ngồi bàn với ai… nhỉ,
quên mất, ông ghé bắt tay ông bạn ngồi cùng bàn, nhưng
vờ Gấu!
Cũng được.
Quá được là đàng khác!
NQT
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
NOTES ABOUT
BRODSKY
BRODSKY'S
PRESENCE acted as a buttress and a point of reference for many of his
fellow
poets. Here, was a man whose work and life always reminded us that
despite what
is so often said and written today, a hierarchy does exist. This
hierarchy is
not deducible through syllogisms, nor can it be decided upon by
discussion.
Rather, we confirm it anew every day by living and writing. It has
something in
common with the elementary division into beauty and ugliness, truth and
falsehood, kindness and cruelty, freedom and tyranny. Above all,
hierarchy
signifies respect for that which is elevated, and disdain, rather than
contempt, for that which is inferior.
The label
"sublime" can be applied to Brodsky's poetry. In his fate as a
representative of man there was that loftiness of thought which Pushkin
saw in
Mickiewicz: "He looked upon life from on high."
In one of
his essays Brodsky calls Mandelstam a poet of culture. Brodsky was
himself a
poet of culture, and most likely that is why he created in harmony with
the
deepest current of his century, in which man, threatened with
extinction,
discovered his past as a never-ending labyrinth. Penetrating into the
bowels of
the labyrinth, we discover that whatever has survived from the past is
the
result of the principle of differentiation based on hierarchy.
Mandelstam in
the Gulag, insane and looking for food in a garbage pile, is the
reality of
tyranny and degradation condemned to extinction. Mandelstam reciting
his poetry
to a couple of his fellow prisoners is a lofty moment, which endures.
With his
poems, Brodsky built a bridge across decade, of hackneyed Russian
language to
the poetry of his predecessors, to Mandelstam, Akhmatova, Tsvetaeva. He
was not
a political poet, for he did not want to enter into polemics with an
opponent
that was hardly worthy of him. Instead, he practiced poetry as a
particular
type of activity which was not subject to any apparent dimensions of
time.
To aim
directly at a goal, refusing to be deflected by voices demanding one's
attention. This means one is capable of distinguishing what is
important, and
hewing only to this goal. That is precisely what the great Russian
writers were
able to do, and they deserve to be envied for that.
Brodsky's
life and creative work aim straight at fulfillment like an arrow at its
target.
Of course, this is a delusion, just as with Pushkin or Dostoevsky. So
one must
conceive of it differently. Fate aims straight for its target, while he
who is
ruled by fate is able to decipher its main lines and understand, even
if only
vaguely, what he has been called to.
[suite]
Sự hiện diện
của Brodsky bảnh, hách, chẳng khác gì một cây cột trụ chống đỡ, hay
ngọn hải
đăng cho rất nhiều bạn thơ của ông. Ở đây, là một con người mà tác phẩm
và cuộc
đời của người đó luôn luôn nhắc nhở chúng ta, mặc dù lũ ngu si, bất tài
thường
lải nhải, phải có cái mới, phải có ‘hạ vệ’, phải có ‘hạ hiện đại’, thì
vẫn có đẳng
cấp. Đẳng cấp này, thì không được rút ra từ ba trò tam đoạn luận, hay
trao đổi,
đối thoại, tranh luận cái mẹ gì. Nó là điều mà chúng ta làm mới hàng
ngày, bằng
cách sống và viết. Nó có một điều gì thân thuộc với sự phân chia rất ư
là tiểu
học, bình dân, và cũ xì, giữa đẹp và xấu, thực và giả, thân ái và độc
ác, tự do
và bạo tàn. Trên hết, đẳng cấp có nghĩa là kính trọng đối với bậc
trưởng thượng,
với điều cao cả, và ghê tởm, chán ngán, chứ không phải khinh miệt, cái
hạ cấp,
hạ vệ!
Những mỹ từ
như ‘tuyệt cú mèo’, ‘thần sầu’ có thể áp dụng cho thơ Brodsky. Trong số
mệnh của
ông, như là kẻ đại diện con người, có cái đỉnh cao vời vợi của tư
tưởng, và đây
là điều mà Pushkin nhìn thấy ở Mickiewicz: “Ông ta từ trên ngọn đỉnh
trời ngó
xuống thế gian”.
Trong một tiểu
luận, Brodsky gọi Mandelstam là nhà thơ văn hóa. Brodsky, chính ông,
cũng là một
nhà thơ văn hóa, và có thể chính vì thế mà ông trước tác hài hòa với
dòng sâu
thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị de dọa bởi sự tuyệt giống
người, đã
khám phá ra quá khứ của nó, như là một mê cung chẳng hề tận cùng. Nhập
vào lòng
mê cung, chúng ta khám phá ra một điều, là, bất cứ cái chi, nếu mà sống
sót từ
quá khứ, thì đều là hệ quả của nguyên lý ‘mày khác tao, tao khác nó, nó
khác
mày’, tức nguyên lý dựa trên đẳng cấp, tôn ti trật tự, không phải cứ
xoa đầu
hay nâng bi ông tiên chỉ, ông Trùm văn nghệ, thì là bằng vai vế với họ,
thí dụ
vậy.
Mandelstam,
khi ở trong Gulag, điên khùng, và tìm kiếm đồ ăn trong đống rác, là
thực tại về
bạo tàn, thoái hoá đưa đến huỷ diệt. Nhà thơ đọc thơ của mình cho bạn
tù, là một
khoảnh khắc thăng hoa hoài hoài.
*
Những điều
Milosz viết về Brodsky, có thế áp dụng cho TTT.
Thí dụ, với thơ tự do, cho đến
nay, đâu có ai vượt được TTT. Bắt chước ông, để có 1 thứ thơ tự do cho
ra hồn,
cũng chưa có.
Ông chẳng từ… đỉnh cao ngó
xuống, là chi?
Đỉnh cao này,
thì không phải Brodsky, mà là Mandelstam cùng ngự trị với TTT. Ông
không đến
nỗi phải kiếm đồ ăn trong đống rác Trại Cải Tạo, và điều này là nhờ bà
vợ, như
tất cả các bà vợ Miền Nam, như cả Miền Nam không hề quên người thân của
họ ở
trong tù VC, nhưng cái cảnh cả trại tù nghe đọc thơ ông, nghe thơ ông
được phổ
thành nhạc, mà chẳng bảnh hơn…. Brodsky ư?
Một tuyển tập
những bài phỏng vấn Brodsky, “Giữ sự thay đổi”, “Keep the Change” dịch
từ tiếng
Nga, đúng là 1 nguồn ngỡ ngàng đối với tôi. Ông vờ đi, điều, những
người khác
coi là cực yếu tính, cực cơ bản của thế kỷ 20: Mác xịt-Lê nin nịt, Xô
Viết tịt,
chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa Nietzsche, chủ nghĩa Freud, chủ nghĩa
Siêu thực,
cũng như hàng chục những isms khác.
Ông có thể trở
thành một nhà ly khai, dấn thân, như bạn của ông, là Tomas Venclova.
Ông có thể
nghĩ tới chuyện cải tổ nhà nước. Ông có thể làm những bài thơ tiền
phong, Ông có
thể là fan của Freud. Ông có thể đi 1 đường "hommage" chủ nghĩa cơ cấu.
Chẳng có chuyện như thế.
Đời là một câu
chuyện ngụ ngôn đạo đức. Nhà thơ bị nhà nước bỏ tù, kết tội, rồi bị
tống đi lưu
vong , và sau khi nhà thơ chết, người đứng đầu nhà nước quỳ bên quan
tài nhà thơ.
Một câu chuyện thần tiên, và đúng là như thế, nó đã xẩy ra, như thế đó,
trong
thế kỷ của chúng ta, 1 thế kỷ đếch làm sao có được chuyện thần tiên.
Ông phán như
1 kẻ có qưyền uy. Hầu như suốt thời thanh niên của mình, ông không thể
bị bẻ gẫy,
bởi vì cái sự tự tin đó. Một sự tự tin mà những người chung quanh phải
coi là
ngạo mạn.
Cái sự tự tin này là 1 cách chống đỡ, bảo vệ, trong những
liên hệ của ông với mọi người, và che giấu điều mà tự ông cảm thấy
không làm
sao kiếm ra được giải đáp, và chỉ còn 1 cách là hành động theo kiểu tự
tin như
thế, ngay cả ông, cũng không hiểu tại sao.
Liệu có phải cũng sự ngạo mạn đó khiến
ông bỏ trường lớp?
Sau này, ông thường tỏ ra ân hận vì chuyện này. Khi vụ án
xẩy ra, một người nào đó, nếu không có được sự tự tin như ông, thì
không làm
sao có thể cư xử như ông được. Chính ông cũng không hiểu tại làm sao
mình cư xử
như thế, nhà cầm quyền cũng thế, họ không tiên đoán được, cách ông xử
sự, và chính
vì thế mà họ làm cho ông trở thành nổi tiếng.
Khuất mình
dưới ngôn ngữ, hay - bởi vì với ông thì cũng xêm xêm – khuất mình trước
tiếng nói
của nữ thần thi ca, [Submitting to the element of language, or (because
this
was the same thing for him) to the voice of the Muse], ông [Brodsky]
phán, một
thi sĩ phải muốn làm hài lòng, a poet must want to please, không chỉ
những người
đồng thời, và còn những người đi trước mình. Những người đi trước được
ông nêu
tên là: Lomonosov, Kantemir, Derzhavin, Tvsetaeva, Mandelstam,
Pasternak,
Akhmatova. Vương quốc thơ Nga của ông vượt lên trên và ra bên ngoài
lịch sử, cùng
với nó, là niềm tin tưởng, rằng ngôn ngữ có sự lớn lao của riêng nó, và
nó chọn
những người của nó để phục vụ nó.
His kingdom of Russian poetry endured
above
and outside of history, in accordance with his conviction that language
has its
own greatness and selects its own people to serve it.
Milosz
Chọn người của
nó để phục vụ nó.
Chúng ta nhận ra ý của Borges ở đây: Thơ là để trao
cho thi sĩ.
Thi sĩ dởm đừng làm thơ dởm. Cả 1 cõi thơ Mít, phần lớn thi sĩ dởm, nếu
có
ông nào “thực
thi sĩ”, thì không lo khuất mình trước thơ, trước nữ thần thi ca, mà là
trước gái, trước cái hĩm!
TTT khi còn
sống cũng bị ghét, chính là do ông quá ngạo mạn. Không chỉ thế. Ông bị
chúng ghét,
còn là do cái đám thế hệ trẻ, trong có nhóm tiểu thuyết mới, quá quí
ông. Mỗi lần
ông ra Quán Chùa, là cả đám xúm lại chuyện trò rôm rả. Ông cùng đọc
những cuốn
sách mà họ đọc. Cùng tham dự vô cuộc chiến như họ, trong khi Mai Thảo,
Võ Phiến,
thí dụ, không.
Nguyên Sa
thù TTT là cũng vì vậy. Cái lũ nhóc chỉ biết có TTT. Đã thế, tên sa
đích văn
nghệ còn lôi NS ra để khen đểu, "nhà văn dễ dãi và sung sướng"!
Nhà thơ “áo nàng
xanh, anh mến lá sân trường” bèn phong cho TTT là Đông Phương Bất Bại!
Nhưng quả là
có một cách biệt quá lớn giữa thơ TTT và những người cùng thời với ông.
Đúng
cái ý nhà thơ "từ ngọn đỉnh trời ngó xuống thế gian", như Milosz phán
về
thơ
Brodsky:
Sự hiện diện của Brodsky bảnh,
hách, chẳng khác gì một cây cột trụ chống đỡ, hay ngọn hải đăng cho rất
nhiều bạn thơ của ông. Ở đây, là một con người mà tác phẩm và cuộc đời
của người đó luôn luôn nhắc nhở chúng ta, mặc dù lũ ngu si, bất tài
thường lải nhải, phải có cái mới, phải có ‘hạ vệ’, phải có ‘hạ hiện
đại’, thì vẫn có đẳng cấp. Đẳng cấp này, thì không được rút ra từ ba
trò tam đoạn luận, hay trao đổi, đối thoại, tranh luận cái mẹ gì. Nó là
điều mà chúng ta làm mới hàng ngày, bằng cách sống và viết. Nó có một
điều gì thân thuộc với sự phân chia rất ư là tiểu học, bình dân, và cũ
xì, giữa đẹp và xấu, thực và giả, thân ái và độc ác, tự do và bạo tàn.
Trên hết, đẳng cấp có nghĩa là kính trọng đối với bậc trưởng thượng,
với điều cao cả, và ghê tởm, chán ngán, chứ không phải khinh miệt, cái
hạ cấp, hạ vệ!
Những mỹ từ như ‘tuyệt cú mèo’, ‘thần sầu’ có thể áp dụng cho thơ
Brodsky. Trong số mệnh của ông, như là kẻ đại diện con người, có cái
đỉnh cao vời vợi của tư tưởng, và đây là điều mà Pushkin nhìn thấy ở
Mickiewicz: “Ông ta từ trên ngọn đỉnh trời ngó xuống thế gian”.
Trong một tiểu luận, Brodsky
gọi Mandelstam là nhà thơ văn hóa. Brodsky, chính ông, cũng là một nhà
thơ văn hóa, và có thể chính vì thế mà ông trước tác hài hòa với dòng
sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị de dọa bởi sự tuyệt giống
người, đã khám phá ra quá khứ của nó, như là một mê cung chẳng hề tận
cùng. Nhập vào lòng mê cung, chúng ta khám phá ra một điều, là, bất cứ
cái chi, nếu mà sống sót từ quá khứ, thì đều là hệ quả của nguyên lý
‘mày khác tao, tao khác nó, nó khác mày’, tức nguyên lý dựa trên đẳng
cấp, tôn ti trật tự, không phải cứ xoa đầu hay nâng bi ông tiên chỉ,
ông Trùm văn nghệ, thì là bằng vai vế với họ, thí dụ vậy.
Mandelstam, khi ở trong Gulag,
điên khùng, và tìm kiếm đồ ăn trong đống
rác, là thực tại về bạo tàn, thoái hoá đưa đến huỷ diệt. Nhà thơ đọc
thơ của mình cho bạn tù, là một khoảnh khắc thăng hoa hoài hoài.
Trong Đồng
Nai Tam Kiệt, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, TTT, thơ mỗi người mỗi cõi. Thơ
Tô
Thùy Yên, đẽo
gọt quá, và thật tuyệt, Hoang Vu Lớn của ông gọi lên những hoang vu lớn
khác,
trong những cõi thơ khác. Bùi Giáng giấu thơ của ông trong những rông
rài, hay
nói như Mai Thảo, ông làm cái gì cũng ra thơ. Thơ TTT quả là 1 cõi
riêng của ông,
không vang vọng cõi nào khác.
Làm sao mà có
thể để những dòng thơ của Nguyên Sa, thí dụ, áo nàng vàng anh về yêu
hoa cúc, anh
nàng xanh anh mến lá sân trường, sợ thơ tình không đủ nghĩa yêu đương,
anh pha
mực cho vừa màu áo tím, với những câu như:
Những rừng
gió kể chuyện biển khơi
Hay
Kể lể mãi
chuyện tình vô vọng
Với một mình
cấu lấy tóc mình
Hay
Mùa này gió
biển thổi điên lên lục địa
Hay
Người đi ngoài
kia la vào mồm Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
Coetzee nói
về Brodsky: Ông chẳng hề loay hoay hì hục
làm cho mình được yêu, thí dụ, như Pasternak, rất được yêu. Venclova
cho rằng,
người Nga tìm chẳng thấy, ở trong thơ của ông sự "ấm áp", "tha
thứ tất cả", "sướt mướt", "nức nở con tim", hay sự
"vui tươi, nhí nhảnh". Nhà thơ Viktor Krivulin nghi ngờ tính hài hước,
rất ư là không giống Nga, very un-Russian, vốn trở thành thói quen
trong thơ
Brodsky. Ông trau giồi hài hước, Krivulin nói, để bảo vệ mình, từ những
ý nghĩ,
tư tưởng, hay hoàn cảnh mà ông cảm thấy không thoải mái. "Một sự sợ hãi
phải
phơi lòng mình ra, hay có thể, chỉ là một ước muốn đừng phơi mở...".
*
Thực sự, trước
1975, TTT không phải là một nhà thơ được nhiều người yêu mến.
Chính vì vậy,
sự bàng hoàng, cơn chấn động ở hải ngoại, khi nghe tin ông mất, chỉ có
thể giải
thích: Chính sự tiết tháo, cương trực, không khoan nhượng với cả chính
mình
không kiếm cách làm cho mình được yêu mến... hay ngắn gọn, chính cái sự
quá sạch
của ông, lại trở thành niềm tin cho tất cả mọi người!
Và như thế,
ông lại giống... Solzhenitsyn, ông này
suốt một đời khổ hạnh, làm việc như trâu, không cho mình bất cứ một cơ
hội nào
bị sa ngã, bị dụ dỗ... bởi cái ác.
Solz cho rằng,
chỉ có cách đó, để không bao giờ phản bội những người bạn tù của ông.
NOTES ABOUT
BRODSKY
A collection
of interviews with Brodsky, Reszty nie
trzeba [Keep the Change], in
Jerzy Illg's translation, is a constant source of wonderment for me.
Just to
think how much he had to leave out – what for others was very essence
of the 20th
century: Marxism-Leninism, Sovietism, nationalism, Nietzscheanism,
Freudianism,
Surrealism, as well as a dozen or two other isms.
He could
have become a dissident, engage, like his friend Tomas Venclova. He
could have
thought about reforming the state. He could have written avant-garde
poems. He
could have been a Freudian. He could have paid homage to structuralism.
Nothing
of the sort.
Life as a
moral fable. The poet imprisoned and condemned by the state, then sent
into
exile by the state, and after his death, the head of that state
kneeling beside
his coffin. A fairy tale, yet it did happen like that, in our hardly
fairy-tale-like century.
He spoke as
one who has authority. Most likely in his youth he was unbearable
because of
that self-assurance, which those around him must have seen as
arrogance. That
self-assurance was a defense mechanism in his relations with people and
masked
his inner irresolution when he felt that he had to act that way, and
only that
way, even though he did not know why. Were it not for that arrogance,
he would
not have quit school. Afterward, he often regretted this, as he himself
admitted.
During his trial, someone who was less self-assured than he was could
probably
not have behaved as he did. He himself did not know how he would
behave, nor
did the authorities foresee it; rather, they did not anticipate that,
without
meaning to, they were making him famous.
Milosz
Chẳng
đợi ông
nằm xuống, khi ông ở tù VC là bạn quí, kẻ thù đã kể như ông chết rồi.
Khi "đảo
xa" tung hê thư tình viết riêng cho ẻn, thì bạn quí bèn xì 1 cú, tưởng
tay này đàng
hoàng đâu ngờ cũng bồ nhí bồ nhiếc.
Đau 1 cái là ngay từ khi còn sống, khi viết
thư cho em, là ông đã nghi, vì đọc, người tinh ý ngửi ra giọng gượng
gạo.
Đau thật!
Về cái khoản
này, ông anh thua thằng em. Gấu Cái kệ mẹ Gấu Đực tán tỉnh hết em này
đến em khác.
Toàn “bản nháp” không hà, hà hà! Bản đích thực, về tui, thằng chả không
đủ tâm,
tầm, tài, hay cái con khỉ gì nữa, để mà viết ra!
Cả
một “đống”
thư, gửi đảo xa, thơ, cho hồng hạ cái gì gì, không
bằng chỉ 1 góc bài thơ viết cho vợ, khi
trở về Đất Bắc, quê cũ, như 1 tên tù. Đâu có phải tự nhiên mà bạn tù
của ông phổ
bài này, để cùng hát trong tù:
Bài nhớ thi sĩ
Nhớ Già Ung
*
Gửi MT
Sáng nay thức
giấc trong nhà giam
Anh nhớ những
câu thơ viết thời trẻ
Bừng cháy trong lòng anh bấy lâu
u ám quạnh
quẽ
Ánh lửa mênh
mang buổi tình đầu
Mưa bụi rì rào
Gió náo nức
mù tối
Trễ muộn mùa xuân trên miền cao
Đang lay thức
rừng núi biên giới
Đã qua đã
qua chuỗi ngày lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn
khô hạn khác thường
Tắt theo ngọn
nắng chon von mê hoặc
đầu óc quái
gở
Từng thiêu đốt
anh trên đồi theo vào đêm
hành hạ anh
đớn đau
Từ bao giờ
anh đứng trân trối cô đơn
Hôn ám trời
sơ khai nhìn qua song tù ngục
Hoang vu lời
thơ ai reo hát cùng cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh
về tận nẻo nguồn
chốn bình
minh lẩn lút
(Bình minh
bình minh anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa
Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm
nay)
Em, em có
hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về
ngang cố quận
Xao xuyến
ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm
Đêm vây hãm
lụn dần
Thủ thỉ mưa
ru ngày khốn đốn
Em, soi bóng
em hồn nhiên trên lối thời gian
Lặng lẽ anh
gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm.
Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú
1/79
Thanh Tâm
Tuyền
Bài thơ, bây
giờ đọc lại, thì lại quá mê cái dòng tặng Mai Thảo:
Trong
tôi còn lại chi? Gia đình, bạn bè. Những bài
thơ, chắc chắn rồi. Chúng đã được đọc, được thầm ghi lại
(intériorisés). Đúng một
lúc nào đó, ký ức nhanh chóng bật dậy, đọc, cho riêng mình tôi, những
bài thơ.
Luôn luôn, ở đó, bạn sẽ gặp những tia sáng lạ. Thời gian của điêu tàn
làm mạnh
thơ ca.
Thơ
giữa Chiến Tranh và Trại Tù
Ông, dám thổi
những người khác. He was capable of idolizing others: ông có thể thần
tượng hóa
những nhà thơ khác.
Milosz viết về Brodsky.
Câu này chướng
quá, với lũ thi sĩ Mít. Chúng ông đếch cần Thầy!
Ông [Brodsky]
thường nói, ông lấy làm hài lòng, satisfied, được gọi là đệ tử,
epigone, một kẻ
bắt chước hạng thứ, a second-rate imitator, or follower, của Auden. Ông
không
chê [rule out] những người làm thơ tự do, “free verse”, nhưng ông đi 1
đường tụng
ca đặc biệt, he paid particular homage, cho những nhà thơ vần: Thomas
Hardy, Robert Frost, Rainer Maria Rilke. Ông hiểu, understand, thơ là 1
cuộc
thoại, a dialogue, xuyên qua các thời đại, và vì thế, ông trò chuyện,
converse,
với Horace và Ovid (trong những bản dịch tiếng Nga). Như ông nói, ông
thích
Ovid nhiều hơn, là vì những hình ảnh của ông ta, mặc dù ông ít quan tâm
về nhịp
thơ… trong khi đó, với Horace, với những gia giảm. biến đổi, variety,
của những
stanzas, đúng là 1 thách đố để cùng ông so tài, invited Brodsky to
compete with
him.
Sẽ là 1 sai
lầm khi coi Brodsly là nhà thơ lang thang, a bohemian poet, mặc dù nếu
chúng ta
coi “bohemia” như là 1 vùng ngoại vi, bên lề của xã hội và nhà nước,
ông thuộc
về nó, thời kỳ mới lớn ở Leningrad. Ông tháo vát trong nhiều trò làm
ăn, he was
competent in various trades, nhưng chuyện này chỉ chứng tỏ ông biết
kiếm công ăn
việc làm, để đừng bị đói, proof of employment. Ông thường “plowed like
an ox”,
cày như trâu, như Mít nói. Ông nói với lòng biết ơn Đại học Michigan, ở
Ann Harbor,
vì đã ban việc làm cho ông, “kẻ lười biếng nhất dưới ánh mặt trời”,
“the
laziest man under the sun”, mà lại đếch biết tiếng Anh! Ông rất coi
trọng những
bổn phận của mình, như là ông thầy dậy học, và sinh viên được hưởng lợi
rất nhiều,
về điều này. Ông bắt họ học thuộc lòng hàng ngàn dòng thơ, trong tiếng
mẹ đẻ của
họ, in their own language, không 1 vị thầy nào dám làm 1 điều cổ lỗ sĩ
như thế!
Nếu 1 sinh viên nói 1 điều gì ngu si, ông đuổi ra khỏi lớp!
Đam mê tự học
cho phép ông làm chủ tiếng Anh một cách thụ động, to master English
passively,
ngay từ khi còn ở Nga. Sau đó ông nhanh chóng đạt được khả năng sử dụng
nó một
cách tự do, thoải mái, trong nói và viết. Tiếng Anh của ông, trong
những bài tiểu
luận, hay trong khi dịch thơ của ông từ tiếng Nga, khiến người đọc ngỡ
ngàng, và
đây là kết quả của 1 khổ công tu luyện, the result of truly titanic
labor. Ông
coi thơ Ba Lan, thích thú nhất, the most interesting, của thơ ca Âu
Châu đương
thời. Ở Leningrad, ông chỉ có được những mẩu đoạn, nhưng toàn thứ quan
trọng: từ
Norwid tới Galczynski. Trong số thơ dịch của ông, cũng có vài bài của
tôi. Khi
lưu vong, ông có dịch bài thơ của tôi, “Bi khúc cho N.N.,” "Elegy for
N.N.", và điều xẩy
ra đối với
tôi là, it occurred to me, bài thơ đó diễn tả cái nhìn của ông về
thơ trữ
tình, như là tiểu sử được gìn giữ [that poem expressed his view of
lyric poetry
as preserved autobiography]. Ông hiểu sự trốn chạy của thi sĩ vào cõi
văn xuôi
như là hậu quả của sức ép từ chín phần muời còn lại, he understood
poets’
escape into prose as the result of pressure from the remaining
nine-tenths. Ông
đọc Luận đề về Thơ của tôi,
my Treatise on Poetry, qua
bản dịch tuyệt
vời của
Natalia Gorbanevkaia. Nó được xb tại Mẽo năm 1982.
Ông có một cảm
quan thật mạnh, strong feeling, ông là 1 phần của“estate” [tài
sản] được gọi
là “ngôn ngữ Nga”. Kể từ khi quan điểm của ông, thơ là thành tựu
cao nhất của ngôn
ngữ, ông ý thức trách nhiệm của mình.
Ông thường nói
với những sinh viên của ông, có thể họ không quá quen thuộc khủng khiếp
với Điều Răn, that they probably were not terribly familiar with the
Decalogue, thì có
thể học, bởi là vì chỉ có 17 điều: Mười Điều Răn, và 7 Tội Chính, tóm
chung lại,
taken together, sự thành lập của nền văn minh của chúng ta. Nữ thần thi
ca của ông,
His Muse, the spirit of language, ông nói, là Ky Tô, Christian, điều
này giải
thích những đề tài Cựu Ước và Tân Ước trong thơ của ông.
Note:
Sở dĩ Gấu chịu
thua, không dịch được thơ Brodsky, là chính vì điều này!
Bài
viết của Milosz về Brodsky, Gấu tính dịch lâu rồi, nay nhân tưởng niệm
7
năm TTT mất, bèn chơi luôn, cũng là 1 cách tưởng niệm ông, và Brodsky.
NOTES ABOUT
BRODSKY
BRODSKY'S
PRESENCE acted as a
buttress and a point of reference for many of his fellow poets. Here,
was a man
whose work and life always reminded us that despite what is so often
said and written
today, a hierarchy does exist. This hierarchy is not deducible through
syllogisms, nor can it be decided upon by discussion. Rather, we
confirm it
anew every day by living and writing. It has something in common with
the elementary
division into beauty and ugliness, truth and falsehood, kindness and
cruelty,
freedom and tyranny. Above all, hierarchy signifies respect for that
which is
elevated, and disdain, rather than contempt, for that which is inferior.
The label "sublime"
can be applied to Brodsky's poetry. In his fate as a representative of
man
there was that loftiness of thought which Pushkin saw in Mickiewicz:
"He
looked upon life from on high."
In one of his essays Brodsky
calls Mandelstam a poet of culture. Brodsky was himself a poet of
culture, and
most likely that is why he created in harmony with the deepest current
of his
century, in which man, threatened with extinction, discovered his past
as a
never-ending labyrinth. Penetrating into the bowels of the labyrinth,
we
discover that whatever has survived from the past is the result of the
principle of differentiation based on hierarchy. Mandelstam in the
Gulag,
insane and looking for food in a garbage pile, is the reality of
tyranny and degradation
condemned to extinction. Mandelstam reciting his poetry to a couple of
his
fellow prisoners is a lofty moment, which endures.
With his poems, Brodsky built
a bridge across decade, of hackneyed Russian language to the poetry of
his
predecessors, to Mandelstam, Akhmatova, Tsvetaeva. He was not a
political poet,
for he did not want to enter into polemics with an opponent that was
hardly
worthy of him. Instead, he practiced poetry as a particular type of
activity
which was not subject to any apparent dimensions of time.
To aim directly at a goal,
refusing to be deflected by voices demanding one's attention. This
means one is
capable of distinguishing what is important, and hewing only to this
goal. That
is precisely what the great Russian writers were able to do, and they
deserve
to be envied for that.
Brodsky's life and creative
work aim straight at fulfillment like an arrow at its target. Of
course, this
is a delusion, just as with Pushkin or Dostoevsky. So one must conceive
of it
differently. Fate aims straight for its target, while he who is ruled
by fate
is able to decipher its main lines and understand, even if only
vaguely, what
he has been called to.
[suite]
Sự hiện diện của Brodsky bảnh,
hách, chẳng
khác gì một cây cột trụ chống đỡ, hay ngọn hải đăng cho rất nhiều bạn
thơ của
ông. Ở đây, là một con người mà tác phẩm và cuộc đời của người đó luôn
luôn
nhắc nhở chúng ta, mặc dù lũ ngu si, bất tài thường lải nhải, phải có
cái
mới, phải có ‘hạ vệ’, phải có ‘hạ hiện đại’, thì vẫn có đẳng cấp. Đẳng
cấp này, thì không được rút ra từ ba trò tam đoạn luận, hay trao đổi,
đối thoại,
tranh luận cái mẹ gì. Nó là điều mà chúng ta làm mới hàng ngày, bằng
cách sống
và viết. Nó có một điều gì thân thuộc với sự phân chia rất ư là tiểu
học, bình
dân, và cũ xì, giữa đẹp và xấu, thực và giả, thân ái và độc ác, tự do
và bạo
tàn. Trên hết, đẳng cấp có nghĩa là kính trọng đối với bậc trưởng
thượng, với
điều cao cả, và ghê tởm, chán ngán, chứ không phải khinh miệt, cái hạ
cấp, hạ
vệ!
Những mỹ từ như ‘tuyệt cú mèo’, ‘thần sầu’
có thể áp dụng cho thơ Brodsky. Trong số mệnh của ông, như là kẻ đại
diện con
người, có cái đỉnh cao vời vợi của tư tưởng, và đây là điều mà Pushkin
nhìn thấy
ở Mickiewicz: “Ông ta từ trên ngọn đỉnh trời ngó xuống thế gian”. Trong
một tiểu
luận, Brodsky gọi Mandelstam là nhà thơ văn hóa. Brodsky, chính ông,
cũng
là một nhà thơ văn hóa, và có thể chính vì thế mà ông trước tác hài hòa
với dòng
sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị de dọa bởi sự tuyệt giống
người, đã khám
phá ra quá khứ của nó, như là một mê cung chẳng hề tận cùng. Nhập vào
lòng mê
cung, chúng ta khám phá ra một điều, là, bất cứ cái chi, nếu mà sống
sót từ quá
khứ, thì đều là hệ quả của nguyên lý ‘mày khác tao, tao khác nó, nó
khác mày’,
tức nguyên lý dựa trên đẳng cấp, tôn ti trật tự, không phải cứ xoa đầu
hay nâng
bi ông tiên chỉ, ông Trùm văn nghệ, thì là bằng vai vế với họ, thí dụ
vậy.
Mandelstam,
khi ở trong Gulag, điên khùng, và tìm kiếm đồ ăn trong đống rác, là
thực tại về
bạo tàn, thoái hoá đưa đến huỷ diệt. Nhà thơ đọc thơ của mình cho
bạn tù, là
một khoảnh khắc thăng hoa hoài hoài.
Có hai
bài viết thật tuyệt về
Brodsky mà Gấu từng được đọc. Một, của J.M. Coetzee, trong Stranger Shores, tập
tiểu luận, và một, của Czeslaw Milosz, trong To Begin Where I Am, tập tiểu luận
Cả ba ông, đều ẵm Nobel văn
chương. Hai ông, là thi sĩ.
Tin Văn sẽ nhẩn nha, trích, đọc, và lèm bèm về cả
ba ông, và về thơ. Nên nhớ, hai ông thi sĩ, thì đều bỏ chạy VC cả, và
đều được
cứu rỗi, nhờ thơ và tôn giáo.
Cả hai, Milosz và Coetzee,
khi viết về Brodsky, đều nhận ra, đẳng cấp là cái bảnh nhất trong thơ
của ông.
Brodsky's
system can best be
illustrated from the essay on Thomas Hardy. Brodsky regards Hardy as a
neglected major poet, "seldom taught, less read," particularly in America,
cast
out by fashion-minded critics into the limbo of "pre-modernism" (On
Grief,
pp. 373, 315, 313).
It is certainly true that
modern criticism has had little of interest to say about Hardy.
Nevertheless,
despite what Brodsky says, ordinary readers and (particularly) poets
have never
deserted him. John Crowe Ransom edited a selection of Hardy's verse in
1960.
Hardy dominates Philip Larkin's widely read Oxford
Book of Twentieth-Century English Verse (1973), with 27 pages as
opposed to
19 for Yeats, 16 for Auden, a mere 9 for Eliot. Nor did the Modernist
avant-garde dismiss Hardy en bloc. Ezra Pound, for instance, tirelessly
recommended him to younger poets. "Nobody has taught me anything about
writing since Thomas Hardy died," he remarked in 1934.2
Brodsky's claim that Hardy is
a neglected poet is part of his attack on the French-oriented modernism
of the
Pound-Eliot school, and on all the revolutionary isms of the first
decades of
the century, which, to his mind, pointed literature in a false
direction. He
wishes to reclaim leading positions in Anglo-American letters for Hardy
and Frost
and in general for those poets who built upon, rather than broke with,
traditional poetics. Thus he rejects the influential
anti-naturalist poetics of
Viktor Shklovsky, based on unabashed artificiality, on the fore
grounding of
the poetic device. "This is where modernism goofed," he says. Genuinely
modern aesthetics-the aesthetics of Hardy, Frost, and later Auden -
uses
traditional forms because form, as camouflage, allows the writer "to
land
a better punch when and where it's least expected" (On
Grief, p. 322).
(Everyday, commonsense
language of this kind is prominent in the literary essays in On Grief and Reason, which appear to
have had their origin as lectures to classes of undergraduates.
Brodsky's
readiness to operate at his audience's linguistic level has its
unfortunate
side, including an eagerness to use youthful slang.)
Strong poets have always
created their own lineage and, in the process, rewritten the history of
poetry.
Brodsky is no exception.
Coetzee: The Essays of Joseph Brodsky
Đoạn
trích dẫn, trên, cho thấy,
truyền thống, tradition, và thể loại
[form, như lục bát, thất ngôn bát cú,
tứ tuyệt… ] mới quan trọng, chứ không phải cái mới!
Hai cái mới nhất, trong văn
thơ Mít, ở hải ngoại, được thổi lên tới tít mù trời, là thơ tân hình
thức, và chủ
nghĩa hậu hiện đại, thì cả hai chưa ị ra được một cục kít nào, ngửi
‘đường được’!
Tân hình thức thì chết mất xác
rồi, còn cái diễn đàn ‘hậu vệ’, chắc cũng chẳng mấy chốc!
Borges, trong bài viết về Thơ,
đã cảnh cáo mấy nhà thơ dởm con nít chỉ muốn huỷ bỏ truyền thống, huỷ
bỏ thể loại,
và bắt đầu bằng thơ tự do.
Thơ tự do, theo Gấu, là thứ
khó nhất, trong các thứ thơ. Bạn phải thật rành hữu chiêu, thì mới vô
chiêu được.
Đây là một công án thiền: Chưa
học thiền thì thấy rừng là rừng, cây là cây. Học, thì thấy rừng không
phải là rừng,
cây không phải là cây. Ngộ, thì thấy rừng vẫn là rừng, cây vẫn là cây.
Vô tri/tri/vô tri: Đó là con đường
tu thiền, vậy.
*
Q: Về thơ vần, ông có nghĩ
là, tất cả tùy thuộc vào loại thơ mà ông đã trưởng thành?
Borges: Câu hỏi thật kỳ cục.
Có vẻ như ông có quá ít tò mò, về quá khứ. Nếu ông viết bằng tiếng Anh,
thì đó
là một truyền thống. Ngôn ngữ, tự thân, là một truyền thống. Tại sao
không theo
truyền thống thật dài, thật xuất sắc của những nhà thơ sonnet, thí dụ
vậy? Tôi
nhận thấy thật lạ lùng, khi bỏ qua thể thơ (form). Nói cho cùng, ít nhà
thơ làm
thơ tự do hay, nhưng rất nhiều nhà thơ bậc thầy, ở những thể thơ khác.
Ngay cả
Cummings cũng có nhiều bài sonnet thật tuyệt. Tôi có thuộc một số bài.
Tôi
không nghĩ ông có thể gạt bỏ tất cả quá khứ. Nếu làm vậy, ông sẽ gặp
rủi ro khi
khám phá ra những điều đã được khám phá rồi. Điều này là do sự thiếu tò
mò.
Chẳng lẽ ông hết tò mò về quá khứ? Không tò mò về những bạn thơ thế kỷ
này? Thế
kỷ trước? Thế kỷ 18? John Donne chẳng là gì đối với ông? Hay là Milton?
Thật sự
tôi không thể, ngay cả để "bắt đầu", trả lời câu hỏi của ông.
Q: Liệu chúng ta có thể đọc
những nhà thơ quá khứ, rồi diễn giải những gì học được, bằng thơ tự do?
Borges: Điều tôi không hiểu
được, đó là, tại sao ông lại muốn bắt đầu, bằng một điều thật khó, thí
dụ như
thơ tự do?
Q: Nhưng tôi thấy không khó.
Borges: Well, tôi không biết
thơ bạn làm, thật khó mà nói. Vấn đề có thể là, làm thì dễ, nhưng đọc
thì khó.
Trong hầu hết trường hợp, có sự lười biếng. Lẽ dĩ nhiên, có những ngoại
lệ. Thí
dụ Whitman, Sandburg, Edgar Lee Masters. Một trong những lập luận của
thơ tự
do, đó là người đọc biết, đừng trông mong lấy ra được từ đó một thông
tin nào;
hoặc phải tin vào một điều gì đó - khác với một trang thơ xuôi, vốn
thuộc về
văn chương của tri thức, chứ không phải văn chương của quyền lực.
Q: Ông có nghĩ, có thể tạo ra
những thể thơ mới?
Borges: Lý thuyết có thể
đúng. Nhưng điều tôi muốn nói, và chưa nói ra được, đó là bắt buộc phải
có một
cấu trúc; và nếu bắt đầu bằng một cấu trúc hiển nhiên, như vậy vẫn dễ
dàng hơn.
Phải có cấu trúc thôi. Mallarmé có nói: "Chẳng có cái gọi là thơ xuôi
(prose); đúng vào lúc bạn lo tới nhịp điệu, nó trở thành thơ (verse)."
Stevenson cũng nói đại khái như vậy: "Sự khác biệt giữa thơ và thơ xuôi
là
do khi bạn đang đọc" - ông muốn nói những thể thơ cổ điển - "bạn mong
một điều, thế là bạn có".
Nói ngắn gọn, sự khác biệt
giữa một sonnet của Keats, với một trang thơ tự do của Whitman, thí dụ
vậy, đó
là bài sonnet, cấu trúc của nó hiển nhiên - thành ra dễ làm - trong khi
nếu bạn
thử làm một bài thơ như "Children of Adams" or "Song of
Myself", bạn phải tự mình bịa đặt ra một cấu trúc của riêng bạn. Không
có
cấu trúc, bài thơ sẽ chẳng có hình dạng, và tôi nghĩ, nó chẳng thể chịu
nổi một
chuyện như thế đâu.
Nói về thơ