|
Cas Văn
Cao
Ce qui m'a
le plus choqué dans les grands
procès staliniens, c'est l'approbation froide avec laquelle les hommes
d'État
communistes acceptaient la mise à mort de leurs amis. Car ils étaient
tous
amis, je veux dire par là qu'ils s'étaient connus intimement, avaient
vécu
ensemble des moments durs, émigration, persécution, longue lutte
politique.
Comment ont-ils pu sacrifier, et de cette façon si macabrement
définitive, leur
amitié?
Mais était-ce de l'amitié? Il existe un rapport humain pour lequel, en
tchèque,
existe le mot « soudrnzstvi» (soudrnh : camarade), à savoir 1'« amitié
des
camarades» ; la sympathie qui unit ceux qui mènent la même lutte
politique.
Quand le dévouement commun à la cause disparaît, la raison de la
sympathie
disparaît aussi. Mais l'amitié qui est soumise à un intérêt supérieur à
l'amitié n'a rien à faire avec l'amitié.
Dans notre temps on a appris à soumettre l'amitié à ce qu'on appelle
les
convictions. Et même avec la fierté d'une rectitude morale. Il faut en
effet
une grande maturité pour comprendre que l'opinion que nous défendons
n'est que
notre hypothèse préférée, nécessairement imparfaite, probablement
transitoire,
que seuls les très bornés peuvent faire passer pour une certitude ou
une
vérité. Contrairement à la puérile fidélité à une conviction, la
fidélité à un
ami est une vertu, peut-être la seule, la dernière.
Je regarde la photo de René Char à côté de Heidegger.
L'un célébré comme résistant contre l'occupation allemande. L'autre
dénigré à
cause des sympathies qu'il a eues, à un certain moment de sa vie, pour
le
nazisme naissant. La photo date des années d'après guerre. On les voit
de dos;
la casquette sur la tête, l'un grand, l'autre petit, ils marchent dans
la
nature. J'aime beaucoup cette photo.
Tao Ngộ
L'EXIL
LIBÉRATEUR
SELON VERA
LINHARTOVA
Vera
Linhartova était, dans les années soixante, un des écrivains les plus
admirés
en Tchécoslovaquie, la poétesse d'une prose méditative, hermétique,
inclassable. Ayant quitté le pays après 1968 pour Paris, elle s'est
mise à
écrire et à publier en français. Connue pour sa nature solitaire, elle
a étonné
tous ses amis quand, au début des années quatre-vingt-dix, elle a
accepté
l'invitation de l'Institut français de Prague et, lors d'un colloque
consacré à
la problématique de l'exil, a prononcé une communication. Je n'ai
jamais lu,
sur ce sujet, rien de plus non-conformiste et de plus lucide.
La seconde
moitié du siècle passé a rendu tout le monde extrêmement sensible au
destin des
gens chassés de leur pays. Cette sensibilité compatissante a embrumé le
problème
de l'exil d'un moralisme larmoyant et a occulté le caractère concret de
la vie
de l'exilé qui, selon Linhartova, a su souvent transformer son
bannissement en
un départ libérateur « vers un ailleurs, inconnu par définition, ouvert
à
toutes les possibilités ». Évidemment, elle a mille fois raison! Sinon,
comment
comprendre le fait apparemment choquant qu'après la fin du communisme
presque
aucun des grands artistes émigrés ne s'est dépêché de rentrer au pays?
Comment?
La fin du communisme ne les a pas incités à célébrer dans leur pays
natal la
fête du Grand Retour? Et même si, à la déception du public, le retour
n'était
pas leur désir, n'aurait-il pas dû être leur obligation morale?
Linhartova :
«L'écrivain est tout d'abord un homme libre, et l'obligation de
préserver son
indépendance contre toute contrainte passe avant n'importe quelle autre
considération. Et je ne parle plus maintenant de ces contraintes
insensées que
cherche à imposer un pouvoir abusif, mais des restrictions - d'autant
plus
difficiles à déjouer qu'elles sont bien intentionnées - qui en
appellent aux
sentiments du devoir envers le pays ». En effet, on rumine des clichés
sur les
droits de l'homme et on persiste en même temps à considérer l'individu
comme la
propriété de sa nation.
Elle va encore
plus loin: «J'ai donc choisi le lieu où je voulais vivre mais j'ai
aussi choisi
la langue que je voulais parler.» On lui objectera: l'écrivain, quoique
homme
libre, n'est-il pas le gardien de sa langue? N'est-ce pas là le sens
même de sa
mission? Linhartova : « Souvent on prétend que, moins que quiconque, un
écrivain n'est libre de ses mouvements, car il reste lié à sa langue
par un
lien indissoluble. Je crois qu'il s'agit là encore d'un de ces mythes
qui
servent d'excuse à des gens timorés ... » Car: « L'écrivain n'est pas
prisonnier d'une seule langue. ». Une grande phrase libératrice. Seule
la
brièveté de sa vie empêche l'écrivain de tirer toutes les conclusions
de cette
invitation à la liberté.
Linhartova :
« Mes sympathies vont aux nomades, je ne me sens pas l'âme d'un
sédentaire.
Aussi suis-je en droit de dire que mon exil à moi est venu combler ce
qui,
depuis toujours, était mon vœu le plus cher: vivre ailleurs.» Quand
Linhartova
écrit en français, est-elle encore un écrivain tchèque? Non.
Devient-elle un
écrivain français? Non plus. Elle est ailleurs. Ailleurs comme jadis
Chopin,
ailleurs comme plus tard, chacun à leur manière, Nabokov, Beckett,
Stravinsky,
Gombrowicz. Bien entendu, chacun vit son exil à sa façon inimitable et
l'expérience de Linhartova est un cas limite. N'emmpêche qu'après son
texte
radical et lumineux on ne peut plus parler de l'exil comme on en a
parlé
jusqu'ici.
Lưu vong bảnh
hơn giải phóng!
Cả một nửa
thế kỷ vừa qua nhân loại cực kỳ quan hoài tới số phận của những kẻ bị
săn đuổi,
bị đá đít ra khỏi quê hương của họ, nhưng, chính cái ‘bi kịch chính
trị’ này lại
là một khởi đầu giải phóng, “về một đâu đó, bất cứ đâu đâu, không hề
biết đến,
đúng như định nghĩa, mở ra mọi khả thể”, theo Vera Linharttova, một nữ
văn sĩ
Tchécoslavique.
Bà quá có
lý, theo Kundera.
Nếu không,
thì làm sao cắt nghĩa được cái điều thậm vô lý, là sau khi Đế Quốc Đỏ
sụp đổ, đếch
có một ông nghệ sĩ đại nghệ sĩ nào tức tốc trở về hôn Đất Mẹ?
Cuộc Trở Về
Vĩ Đại của Đại Nhạc Sĩ Phạm Duy, trước cả khi Đế Quốc Mít Đỏ sụm bà
chè, thí dụ,
có ai thèm nhắc nhở tới đâu? Cứ giả dụ như công chúng Mít ở trong nước
thất vọng
về ông, hay cái đám nghệ sĩ VC sợ ông về tranh miếng ăn của họ, và đã
nhắn nhủ,
này, đừng có về, thì ông phải vẫn về, vì đây là trách nhiệm đạo đức của
ông?
Linhartova
trả lời: Nhà văn trước hết là một con người tự do, và bắt buộc phải giữ
cho được
độc lập, chống lại mọi trói buộc. Không phải trói buộc mà một nhà cầm
quyền khốn
kiếp đặt để, mà luôn cả những hạn chế, trong có cái gọi là, hãy về đi,
khúc ruột
ngàn dặm kia ơi, mi còn bổn phận trách nhiệm đối với quê hương Mít của
mi! Mỗi
cá nhân Mít chẳng phải là một tài sản của Gấu Mẹ Vĩ Đại, sao?
Bà còn đi xa
hơn: “Tôi không chỉ chọn nơi mà tôi sống, mà còn cả cái ngôn ngữ mà tôi
viết”
VC chửi bà:
Nè, vừa vừa thôi, nhà văn Mít là tên lính canh của văn Mít, thơ Mít,
tiếng Mít.
Đó là “thiên chức” của mi đó.
Cái tít,
Gấu dịch ẩu. Nên dịch là, "lưu vong [như là] giải phóng"
Với tôi, hay
nhất ở Phạm Duy, vẫn là những bản nhạc tình. Ông không thể, và chẳng
bao giờ muốn
đến cõi tiên, không đẩy nhạc của ông tới tột đỉnh như Văn Cao, để rồi
đòi hỏi
"thực hiện" nó, bằng cách giết người. Một cách nào đó, "tinh thần"
Văn Cao là không thể thiếu, bắt buộc phải có, đối với "Mùa Thu", khi
mà nhà thơ ngự trị cùng với đao phủ. Kundera đã nhìn thấy điều đó ở
thiên tài
Mayakovsky, cũng cần thiết cho Cách mạng Nga như trùm cảnh sát, mật vụ
Dzherzhinsky. (Những Di chúc bị Phản bội). Nhạc không lời, ai cũng đều
biết, mấy
tướng lãnh Hitler vừa giết người, vừa ngắm danh họa, vừa nghe nhạc cổ
điển. Cái
đẹp bắt buộc phải "sắt máu", phải "tyranique", (Valéry). Phạm
Duy không nuôi những bi kịch lớn. Ông tự nhận, chỉ là "thằng mất dậy"
(trong bài phỏng vấn kể trên). Với kháng chiến, Phạm Duy cảm nhận ngay
"nỗi
đau, cảnh điêu tàn, phía tối, phía khuất", của nó và đành phải từ chối
vinh quang, niềm hãnh diện "cũng được chính quyền và nhân dân yêu lắm".
Những bài kháng chiến hay
nhất của Phạm Duy: khi người thương binh trở về. Ở
đây, ngoài nỗi đau còn có sự tủi hổ. Bản chất của văn chương "lưu vong,
hải
ngoại", và cũng là bản chất của văn chương hiện đại, khởi từ Kafka, là
niềm
tủi hổ, là sự cảm nhận về thất bại khi muốn đồng nhất với đám đông, với
lịch sử,
với Mùa Thu đầu tiên của định mệnh lưu vong.
Phạm Duy muốn
làm một người tự do tuyệt đối nên đã bỏ vào thành. Nhưng Văn Cao, chỉ
vì muốn đồng
nhất với tự do tuyệt đối, nên đã cầm súng giết người. Thiên tài
Mayakovski cần
thiết cho Cách Mạng Nga cũng như trùm công an mật vụ, là vậy.
"Mặt trời
chân lý chiếu qua tim". (Tố Hữu). Tính chất trữ tình không thể thiếu,
trong thế giới toàn trị (totalitarian world): Tự thân, thế giới đó
không là ngục
tù, gulag. Nó là ngục tù, khi trên tường nhà giam dán đầy thơ và mọi
người nhẩy
múa trước những bài thơ đó, (Kundera, sđd).
Bằng cung
cách của một người hát rong vượt bực, Phạm Duy có thể cảm nhận "niềm
nủi hổ"
của Kafka, khi ông không làm hiện thực chủ nghĩa. Có thể ông cảm nhận,
và
"yêu" sự tự do tuyệt đối của ông, vì nó là tinh thần nghệ thuật hiện
đại. Và chủ nghĩa hiện đại là nạn nhân đầu tiên của chủ nghĩa CS.
Cenek, trong
"Chuyện Diễu" của Kundera, bị đưa đi tù vì say mê hội họa lập thể,
"Kẻ Thù Số Một" của "nhân dân", của Cách Mạng. Kundera
không thể nào quên nổi nhà thơ Konstantin Biebl, và thuộc lòng những
vần thơ của
ông. Khốn khổ cho thi sĩ, ông là người say mê chủ nghĩa CS. Được Đảng
giao
trách nhiệm, làm những vần thơ tuyên truyền, cuối cùng, để trốn tránh
thơ ca,
và cách mạng, ông gieo mình từ cửa sổ căn phòng ông xuống hè đường
Prague, và
chết.
Với tôi,
Phạm
Duy hay nhất vẫn là những bản nhạc tình. Giống những cửa sổ, đối với K.
trong Vụ
Án.
Lần đó, ở
trong trại cải tạo, nằm kế một anh bạn. Chẳng bao giờ anh hát. Một buổi
tối, cả
hai không ngủ được. Nói chuyện lăng nhăng một hồi, và đột nhiên anh thủ
thỉ một
mình. Những gì ..."đưa nhau tới bên cầu", "giờ đây cơn mộng tan
rồi"...
Sau này,
mỗi
lần nghe nhạc Trịnh Công Sơn, tôi có cảm tưởng cuộc chiến còn nguyên
đó, đối với
riêng tôi, những ngày ở Trung Tâm Ba Quang Trung, lần đầu tiên xa
Sài-gòn, xa
cô bạn.
Nhưng, nếu không có nhạc Phạm Duy, không hiểu những ngày ở
trong trại cải
tạo còn thê thảm tới bực nào, đối với hai bạn tù...
Mùa Thu Những Di Dân
Hai kỷ niệm
tuyệt vời nhất của Gấu, về nghe nhạc Phạm Duy khi ở tù VC, là lần một
bạn tù chơi
đàn Tây Ban Cầm bản Thuyền Viễn Xứ, và
lần 1 anh bạn tù khác, hát lên bản Ngày
Mai Đi Nhận Xác Chồng. Đó cũng là lần thứ nhất GCC được nghe bản
nhạc.
Nhưng để mà
được nghe như thế, thì phải được Ông Trời “chi ly đến tận chi tiết”, để
“hoàn
thiện” hai cái buổi nghe nhạc đó. Bởi vì thiếu, chỉ 1 chi tiết, là “ọc
dzơ”!
Có lần GCC có
kể 1 giai thoại về Leibnitz, khi ông giải được 1 bài toán, tất cả là ảo
số, nhưng
đáp số thì lại là 1 số thực [thứ này, sau chúng ta gặp đầy, trong toán
về suite, về série, nhưng đó là thời
kỳ hậu-Leibnitz. Bản thân Gấu cũng đã từng
giải 1 bài toán như thế, về chuỗi số ảo, như khi nó đến ‘limite’, thì
lại là 1
số thực. Áp dụng vào lý thuyết Mác Xịt, vào cái cú 30 Tháng Tư 1975,
thì nó như
vầy: Trước 1975, là ảo số, là lý tưởng, là ảo tưởng, là không tưởng -
chủ nghĩa
Mác và căn nhà thống nhất Mít -, nhưng 30 Tháng Tư, là số thực, là cái
thực, là
địa ngục Mít, là anus mundi…].
Lần đó,
Leibnitz ngửa mặt trên Trời la lên, không có Ông là không thể có cái
đẹp như thế
này!
Với GCC lần đó,
thì cũng vậy, phải có Ông Trời, thì mới có cái đẹp tuyệt vời như thế:
được nghe
hai bản nhạc của PD, như là số thực - hạnh phúc- limite, của cả một
chuỗi đau
khổ [ảo số].
Sướng đến nỗi
GCC phải la lên Ngài Phạm Duy đã sáng tác hai bản nhạc, chỉ để cho Gấu,
nghe,
trong 1 dịp trọng đại như thế.
Thiên hạ, người khác, nhân loại, thì chỉ nghe… ké,
hưởng ké!
Note: Bài viết này,
GCC viết, khi “hero” của GCC và của cả xứ Mít, còn lang thang ở hải
ngoại, và còn
nghĩ là ông sẽ được an táng ở Bắc Cực.
[Văn Cao có cái
vinh cái nhục của Văn Cao. Tôi cũng thế. Văn Cao được chết ở đất quê.
Chứ còn
tôi, nay mai chết sẽ được chôn ở Bắc cực chăng? (cười)...]
Nhưng hóa ra rằng thì là, ngay từ
khi đó, vào lúc GCC hớn hở vì chạy thoát quê hương, 1997, [Gấu tái định
cử
Canada 1994, sau 3- 4 năm ở Trại Tị Nạn], thì “hero” của Gấu đã tính
đường chuồn
về, và đang tìm cách thổi VC, nào là 10 năm “đoàn kết tới chỉ” [chỉ có
làm thịt
sạch một dúm đảng phái không phải VC].
Man is not
merely one who lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is
one who
survives".
"Con
người đâu chỉ sống, ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi là tỏ
ra tự
hào, phán, 'nó còn là kẻ sống sót'".
Steiner: Những
Bài Học của Những Ông Thầy.
Phạm Duy,
như "mọi" tên Bắc Kít khác, đều thuộc týp đếch cần tới cái tự hào “sống
sót” đó!
Ông không những sống, mà còn sống nhanh, sống hơn, sống quá... mọi tên
Bắc Kít
khác
Chẳng thế mà trong clip video do tờ Người
Việt Cali thực hiện (?), ông phán,
trước khi dinh tê, tôi thương hại những người chửi tôi, vì họ không
thành công
như tôi!
Hà, hà!
Phản ứng của
ông ra sao về việc Grass thú nhận?
Tôi cảm thấy
yên tâm.
Yên tâm khi
một bậc Thánh như thế thú nhận đã từng nhúng chàm?
Đúng thế. Điều
đó làm cho chúng ta yên tâm về cuộc đời khốn khổ đáng thương của chúng
ta. Và
điều này còn cho thấy, ngay trong văn chương, cũng đếch có siêu nhân.
Ngoài Văn
Cao ra, chưa 1 tên VC nào thú nhận đã từng giết người.
Trang
Văn Cao
Trong
"gió đông", số 1, 1997, có bài phỏng vấn nhạc sĩ Phạm Duy, người
"hát rong" vượt bực. Người viết xin phép anh em tòa soạn, trích một
hai câu hỏi, và trả lời của ông.
gđ: Nhạc sĩ
Phạm Duy đã là một trong những linh hồn của giới văn nghệ sỹ trong sáu
năm đầu
của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi văn nghệ còn ít nhiều tự do, chưa
bị siết
trong sự quản chế của Đảng Cộng sản. Đã sống và sáng tạo trong sự biến
thiên
sâu sắc của lịch sử hiện đại Việt Nam, bác nghĩ như thế nào về thời kỳ
ấy? Liệu
có thể coi đây là một trong những giai đoạn thành công, đáng ghi nhớ
nhất trên
hành trình sống và sáng tạo của nhạc sĩ Phạm Duy?
Phạm Duy:
Tôi hãnh diện vì được tham gia vào kháng chiến chống Pháp và vì đã đóng
góp được
vào nền âm nhạc nước nhà bằng ba mươi bài ca kháng chiến. Không lúc nào
tôi phủ
nhận điều này. Giờ đây, tôi vẫn cho rằng trong vòng năm trăm năm nay,
nước mình
chỉ có mười năm đoàn kết, thực sự yêu nhau, cùng gánh vác giang sơn và
đó chính
là khoảng thời gian từ bốn nhăm đến năm nhăm (1945-1955). Còn nhà cầm
quyền và
nhân dân đánh giá như thế nào về phần đóng góp của tôi thời kháng
chiến, là ba
mươi ca khúc ấy, thì nói thật: tôi xin chịu. Tôi chỉ biết cống hiến
xong rồi, là
xong (cười).
MùaThu Những Di Dân
- Thứ hai,
theo Phạm Duy, Trung ương muốn khai tử bài Bên
cầu biên giới của tác giả qua trung gian nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát
nên ông
nổi giận và:” Tôi thấy cách mạng bắt đầu lẩm cẩm khi kết án bài Vọng cổ
trong
cái Đại Hội mà tôi vừa tham dự “. Và sau khi được gặp bác Hồ, Phạm Duy
đã không
có một ấn tượng tốt đẹp gì về con người ấy và sau đó đi gặp nhạc sĩ
Khoát :”
Tôi tới gặp anh Khoát ngay và trả lời dứt khóat là tôi xin trở về Thanh
Hóa..
Tôi rất cảm ơn mọi người, xin được không nhận bất cứ một thứ ân huệ nào
cả . ..
Nhưng khi vợ chồng tôi tới chào người lãnh đạo văn nghệ của cả nước thì
Tố Hữu
tặng vợ chồng tôi một số tiền. Tôi nhận ngay vì đó là tiền lương và
vãng
phí."
Cuộc chia
tay kháng chiến đơn giản chỉ có vậy .
- Thứ ba, Phạm
Duy đâu phải loại người ngu ngơ khờ khạo. Trong buổi tham dự Đại Hội
Văn Hóa tổ
chức tại trường Cao Đẳng, có chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn, ông
viết: ”Tôi
cũng rất sung sướng được nhìn thấy những thần tượng văn nghệ của tôi.
Nhưng tôi
lấy làm lạ, tự hỏi thầm tại sao nhóm Tự Lực Văn Đòan lại vắng mặt?"
Câu hỏi lớn
đấy nhé. Sau đó còn thấy sự chống đối của Nguyễn Đức Quỳnh. Khi Xuân
Diệu bắt đầu
bằng câu nói:"Thưa các đồng chí. Nguyễn Đức Quỳnh đứng dạy nói: Tôi
không
phải là đồng chí của các anh. Xuân Diệu có vẻ hơi lúng túng rồi trả
lời: Chúng
tôi không cần những đồng chí như anh.
Tôi cũng thấy
được sự tranh chấp bạo động như vụ bắt cóc rồi giết nhau ở phố Ôn Như
Hầu hay
là vụ Việt Minh tiêu diệt các đảng phái ở các tỉnh. Khi ở trong Nam,
tôi đã thấy
các đảng phái như Cao Đài, Hòa Hảo, Đại Việt dự định bắt Trần Văn Giầu
và nhóm
Việt Minh. Nhưng Dương Văn Giáo ngăn cản để giữ tình đoàn kết. Sau này,
chính
Dương Văn Giáo bị Việt Minh giết.
Kể như
đã rõ
ràng, đi theo kháng chiến, nhưng thấy Việt Minh phản bội lại những
người yêu nước
khác, như giết người của đảng phái, Phạm Duy đã có thể thất vọng về
kháng chiến
và vì thế dinh tê là điều khó có thể chê trách được.
PD còn đó hay đã chết?
Nguyễn Văn
Lục
viết về Phạm Duy Cách Mạng “1 nửa”.
Như
PD trả lời gió đông cho thấy, thì
không thể, "kể như đã rõ ràng", "câu hỏi lớn đấy nhé" được!
PD
dinh tê là do đói quá, chỉ có vậy!
NVL viết,
Phạm Duy đã
kể lại trong Ngàn lời ca
về người bạn
tình của ông, Alice, con gái của một người tình cũ của ông ở Phan Thiết
là
Hélène.
Alice đã làm đến 300 bài thơ tặng ông và đã là nguồn cảm hứng cho
Phạm Duy viết phổ nhạc.
Khởi đầu là Thương Tình ca
với những giai điệu….
Và sau đó,
ông trách PD đã vờ Alice:
Tôi không thấy ông đề tên Alice trong những bản nhạc
tình có thể nói là tuyệt vời ấy trong Ngàn
lời ca. Thật là đáng tiếc.
Ngủ với cả mẹ
lẫn con thì bố ai dám nhắc tới, dù là để... cám ơn....
Cám ơn cái cối cái chày
Đêm khuya giã gạo có mày có tao?
Chẳng lẽ lạy
ông tôi ở bụi này? (1)
(1)
PD giải
thích, không có vụ "cái cối cái chày", mà chỉ hôn môi thôi, dòng dã 10
năm trời!
Tôi
có mối tình với một cô gái Sài Gòn suốt
10 năm, khi ấy tôi đã lấy vợ. Cô ấy thích gì, ghét gì, tôi đều đồng
cảm. Đó là
tình yêu chỉ có ôm hôn, không gì hơn, hoàn toàn thơ mộng theo khía cạnh
tinh thần,
hợp nhau lắm. Nàng đã viết gần 300 bài thơ và thư cho tôi. Một lần sinh
nhật Phạm
Duy, nàng cắt 1 lọn tóc tặng, giờ tôi vẫn giữ. Khi yêu nàng, tôi viết
Tôi đang
mơ giấc mộng dài, phổ thơ nàng đấy.
Nàng
là nguyên cớ của bài Nghìn trùng xa cách mà Mỹ Linh thể hiện
thật xuất
sắc trong live show vừa rồi: “Mời nàng lên xe, về miền quá khứ”. Ông
tiễn người
yêu và mối tình 10 năm lý tính thế sao?
Bài này Thu Phương từng hát thật hay. Mỹ Linh hát rất khắc khoải, tha
thiết.
Sau 10 năm yêu tôi, nàng lấy chồng, hai bên có gia đình riêng, phải dứt
khoát
chia tay. Còn gì đâu nữa/Mà khóc với cười/Còn gì đâu nữa/Mà giữ cho
người.
Kể từ khi nàng xuất giá, thì tình yêu nơi tôi không còn tiếp tục nữa,
dù tôi vẫn
giữ lọn tóc đến giờ. Sau này gặp lại cô ấy có 3 con, chồng cô ghen lắm,
dù chẳng
có gì xảy ra, tình xưa không nối lại được, tôi lại viết bài Chỉ chừng
đó thôi.
Sau đó biết bà ấy sống cùng một thành phố bên Mỹ cũng chẳng thiết gặp.
Già rồi,
làm sao như xưa được.
Thái
Thanh hát Bà mẹ Gio Linh lần
nào cũng
khóc
Vóc dáng cao
lớn 1m75, tóc trắng như cước, Phạm Duy vẫn toát lên vẻ phong lưu, dù cử
chỉ chậm
nhiều. Ông phải ngồi xe đẩy tại sân bay, cẩu lên khoang hạng C, mỗi lần
ra Bắc.
Tại tầng 4
khách sạn 3 sao Hà Nội số 1 Cầu Gỗ, nhạc sĩ Phạm Duy dành cuộc trò
chuyện với
PV trước khi rời Hà Nội sáng 24/7.
Ông từng ưng
ý nhất hai ca sĩ Thái Thanh và Duy Quang hát nhạc Phạm Duy. Đức Tuấn là
thế hệ
kế tiếp, làm khán giả cảm động và bất ngờ khi hát Bà mẹ Gio Linh trong nước mắt...
Thái Thanh
(em gái bà Thái Hằng - vợ Phạm Duy - 78 tuổi, hiện đang sống tại
California, có
con gái là ca sĩ Ý Lan) trước đây hát bài này lần nào cũng khóc. Mỗi ca
sĩ có một
nét đặc biệt riêng. Các cháu trẻ hát nhạc tôi, tôi thấy vui và trân
trọng.
Ông đã trao
quyền tác giả cho Công ty Phương Nam, đổi lại họ giao cho ông ngôi nhà
trong hẻm
đường Lê Đại Hành, phường 13, quận 11, TP.HCM. Hồi hương từ 2005, ông
thực sự
an cư?
Tôi ở ngôi
nhà ấy từ 2005, khi về nước, có quốc tịch VN. Đến nay, tôi vẫn chưa
chính thức
có sổ đỏ sở hữu. Phương Nam có quyền khai thác tác phẩm Phạm Duy 10
năm, khi
nào hết thời gian đó, nhà mới thuộc về tôi. Nếu có rủi ro trước 2015,
thì con
trai Duy Minh là đại diện pháp luật và bản quyền. Phương Nam lo xin
phép phát
hành, giờ mới được hơn 80 bài. Tôi không thể sống lâu đến được ngày
công bố được
1/5 gia tài âm nhạc, một ước mơ dữ dội.
Cái giai thoại
Thái Thanh mỗi lần hát Bà Mẹ Gio Linh là 1 lần khóc làm Gấu nhớ đến câu
của
Kafka, dưới đây, mà Kundera trích dẫn, đại khái, trái tim khô héo
thường ngụy
trang bằng
những dòng thơ văn nhạc vãi "nước"… linh hồn!
Con
tim khô héo luôn ngụy
trang bằng thứ văn phong ướt đẫm tình cảm.
[Sécheresse du coeur dissimulée derrière un style débordant de
sentiments].
Còn chính
bài nhạc Bà Mẹ Gio Linh, thì
lại làm Gấu nhớ đến bài thơ Vietnam
của
nhà thơ
Balan, Szymborska, Nobel văn chương, vừa mới mất được ít lâu, và Gấu
cũng đã từng
đi 1 đường…. nghi vấn:
Phải chăng
đã có lần bà nghe được bản nhạc của PD, bèn xúc động quá, bèn làm bài
thơ
"đáp lễ" chăng?
Bởi vì có
hai bà mẹ Gio Linh, một của PD, "đẹp như một vì thánh" (1), nhưng đẻ
được con nào là biếu VC đứa đó, còn của Szymborka thì phán, thằng Mít
nào chết
đó, Ngụy, Việt Gian, liệt sĩ, bộ đội, giải phóng... đều là con ta!
Còn trường hợp
PD dinh tê, thì lại làm Gấu nhớ trường hợp nhà soạn nhạc Stravinski
đếch chịu
dinh tê.
Chán thế!
Note: V/v
Cái cối cái chày.
Có hai bài
ca dao, Gấu biết từ hồi nhỏ, nhưng lớn lên, lăn lóc mãi ở... xóm thì
GCC mới hiểu
được ý nghĩa của nó.
1
Giã ơn cái cối
cái chày
Đêm khuya
giã gạo có mày có tao
Giã ơn cái cọc
cầu ao
Đêm khuya
giã gạo có tao có mày
2
Anh đi em ở
lại nhà,
Cái dưa thì
khú, cái cà thì thâm
Cái vụ lọn
tóc, thì, chán quá, làm Gấu nhớ tới ông nhà văn VC năn nỉ iêu 1 em, hứa
lấy,
khi em có bầu thì năn nỉ phá. Em đành phá, và sau đó, gửi cho ông nhà
văn VC một cụm
lông, thay cho cái bào thai đã được đi đầu thai kiếp khác [Truyện do Bọ
Lập kể].
Đúng là Tẩu
Hỏa Nhập Mu rồi!
Một bà mẹ sinh con ra đứa nào,
là biếu VC đứa đó, vậy mà, “Từ niềm
đau cá nhân của một bà mẹ đã trở thành niềm đau chung của một dân tộc
và của
loài người căm ghét chiến tranh.” [Wiki]
Một ông, suốt đời đau "vết
thương di tản", mà biết gì
đến niềm đau chung của một dân tộc, và của loài người căm ghét chiến
tranh?
Toàn bài hát, có câu nào là... căm ghét chiến tranh?
Đầy 1 giọng căm thù mà căm ghét ở chỗ nào?
Có thể bà thi sĩ Ba Lan đã từng
nghe bài hát này, được dịch qua
tiếng Ba Lan, nên mới làm bài thơ “Việt Nam”, với những câu chửi bố cả
lũ VC,
và ông nhạc sĩ thiên tài Mít:
Ðây là chiến tranh, bà phải chọn bên. Tôi không biết
Làng bà còn không? Tôi không biết
Những người đó là con của bà? Ðúng rồi.
Đứa con nào cũng của bà mẹ Việt
Nam hết, chẳng có đứa nào là Ngụy,
hay Liệt Sĩ cả!
NQT
Trang Wiki tiếng Mít này chắc
chắn là do mấy anh VC hoặc Miền Nam
đám bỏ chạy bợ đít VC, làm, vì đúng "xì tai" của mấy ảnh. GCC vô mấy
lần thì đều thấy nhảm cả.
Còn 1 trang nữa, cũng cái kiểu Wiki này, nhưng bằng tiếng Anh, của mấy
đấng học
giả, nhà văn, nhà báo Mít “dởm”, tự thổi chúng. Băng Hậu Vệ, băng mấy
đấng viết
bằng tiếng Anh, vì viết tiếng Việt đếch ai thèm đọc, cứ tưởng bở, viết
bằng
tiếng mũi lõ thì thành văn thành thơ!
Có vẻ như Mít chúng ta không
học được gì từ chính những nỗi đau
của Mít.
Chứng cớ, chỉ 1 bài thơ “Việt Nam” của W. Szymborska cho thấy, bà đau
hơn chúng
ta, về cái nhục tương tàn, nồi da nấu thịt.
Milosz, trong ABC’s có nhắc đến
câu của Adorno, và cho biết, chính
là ở Lò Thiêu, mà ông làm được thơ.
Kertesz thì nói đến những khoảnh khắc hạnh phúc ở cái nơi không thể có
hạnh
phúc.
TTT đến khi đi cải tạo thì mới lại làm được thơ, và e thẹn, xấu hổ
không dám
cho bạn bè xem, y chang thời mới lớn:
Con đường tình tự Ga Hàng Cỏ
Nụ hôn đầu ôm mái tóc
lang thang
Nhưng, tất cả những trường hợp
trên, thì đều có mặt ở Lò Thiêu, Lò
Cải Tạo.
Bạn phải ở đó, rồi làm thơ hay không làm thơ chứ.
Trường hợp sau đây, xẩy ra cho… GCC.
Đúng ra, liên quan tới Gấu Nhà Văn.
Và cái nhân vật không ở Lò Thiêu, mà kinh qua hết Lò Thiêu, đi hết cả
cuộc
chiến Mít dù không có mặt đó, là một người Gấu biết.
Đây là 1 kỷ niệm của GNV, những ngày mới ra được hải ngoại.
Và nó liên quan đến lần nghe Yanni đầu tiên trong đời.
Wistawa Szymborska cũng đâu có ở Việt Nam, vậy mà đau vết thương di tản
hơn PD!
Kinh qua Lò Cải Tạo hơn đa số nhà văn nhà thơ Mít, dù có người đã từng
ở đó.
VIETNAM
"Woman, what's your
name?" "I don't
know."
"How old are you? Where are you from?" "I don't know."
"Why did you dig that burrow?" "I don't know."
"How long have you been hiding?" "I don't know."
"Why did you bite my finger?" "I don't know."
"Don't you know that we won't hurt you?" "I don't know."
"Whose side are you on?" "I don't know."
"This is war, you've got to choose." "I don't know."
"Does your village still exist?" "I don't know."
"Are those your children?" "Yes."
Wistawa Szymborska
Việt Nam
Bà kia ơi, tên bà là gì vậy?
Tôi không biết
Bà bao nhiêu tuổi? Tôi không biết
Tại sao bà đào cái hang đó? Tôi không biết
Bà trốn bao lâu rồi? Tôi không biết
Tại sao bà cắn ngón tay tôi? Tôi không biết
Bà không biết là tôi không làm đau bà ư? Tôi không biết
Bà ở bên nào? Tôi không biết
Ðây là chiến tranh, bà phải chọn bên. Tôi không biết
Làng bà còn không? Tôi không biết
Những người đó là con của bà? Ðúng rồi.
Note: Bài thơ “Bà Mẹ Gio Linh”
này, của nhà thơ Nobel người Ba
Lan, Wistawa Szymborska, giá mà được PD phổ nhạc nữa, nhỉ?
Bài thơ hình như đã được vài người dịch rồi. GCC dịch thêm 1 lần nữa,
để mừng
sinh nhật người nhạc sĩ vĩ đại, đời đời đau “vết thương di tản”!
Nghi vấn ở đây là, liệu WS đọc, nghe được tiếng Mít, và đã từng nghe,
trong
những năm chiến tranh Việt Nam, "Bà mẹ Gio Linh" của PD, tởm quá, nên
làm bài thơ trên? (1)
Chẳng có gì để
mà hoài nghi: Stravinski luôn mang theo cùng với ông, vết thương ăn nhờ
ở đậu,
như mọi người khác. Con đường nghệ thuật sẽ khác hẳn, nếu ông ở quê
hương. Điều
tuyệt vời ở đây là, cuộc lữ của ông, qua lịch sử âm nhạc, đã bắt đầu
đúng lúc,
khi ông nhận ra rằng, nơi chốn ra đời không còn hiện hữu, và để thay
thế nó,
ông đành chọn âm nhạc, bởi vì đâu có một xứ sở nào để mà thay thế nó?
Không phải
chuyện văn vẻ ở đây, mà là cụ thể (Kundera). Quê hương độc nhất, nhà
của ông:
âm nhạc, tất cả âm nhạc, của tất cả các nhạc sĩ. Chính tại đây, ông
quyết định,
đóng trụ, tái định cư, mọc rễ, làm nhà... Chỉ nơi đây, ông cuối cùng
tìm ra những
đồng hương, láng giềng, thân cận. Nào là Pérotin, nào là Webern. Với
họ, ông
chuyện trò. Chỉ ngưng lại, khi chết. Còn sống, ông luôn làm cho mình
được thoải
mái. Khi ngừng lại ngắm nghía một khoảnh vườn, một góc bếp, mân mê một
cạnh tủ,
cứ thế ông trải quãng đời còn, từ dân ca cổ điển tới Pergolèse, nhờ
vậy, ông viết
Pulcinella (1919), rồi lân la làm quen những nhạc sư baroque khác,
nếu
không, ông không thể viết nổi Apollon Musagète (1928). Những
giai điệu
(mélodies) trong Le Baiser de la fée là từ Tchaikovski. Bach:
thầy đỡ đầu Concerto pour piano et instruments à vent (1924)...
Những kẻ thù của
ông, những người coi âm nhạc là biểu lộ tình cảm, họ đã kết án ông: một
con tim
nghèo đói; chính họ đã không có đủ trái tim, để hiểu vết thương lòng
ông mang
theo suốt cuộc lữ, qua lịch sử âm nhạc. Nhưng chuyện này đâu có gì ngạc
nhiên:
chẳng có ai vô tình tàn nhẫn bằng những kẻ đa tình đa cảm. Thánh nhân
vốn tàn
nhẫn, bất nhân. Hãy nhớ một điều: Sự khô héo của con tim...
(2)
|
|