Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Passage Eden | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác | Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường
 Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 

*

















 










1.11.2013
 
Nghe Nói Mùa Thu Ở Đây Đẹp Lắm

*

Thơ Mỗi Ngày

MON RÊVE FAMILIER

Je fais souvent ce rêve étrange et pénétrant
D'une femme inconnue, et que j'aime, et qui m'aime,
Et qui n'est, chaque fois, ni tout à fait la même
Ni tout à fait une autre, et m'aime et me comprend.

Car elle me comprend, et mon coeur, transparent
Pour elle seule, hélas! cesse d'être un problème
Pour elle seule, et les moiteurs de mon front blême,
Elle seule les sait refraichir, en pleurant.

Est-elle brune, blonde ou rousse?-Je l'ignore.
Son nom? Je me souviens qu'il est doux et sonore
Comme ceux des aimés que la Vie exila.

Son regard est pareil au regard des statues,
Et pour sa voix lointaine, et calme, et grave, elle a
L'inflexion des voix chères qui se sont tues.

Paul Verlaine

MY RECURRING DREAM

Mon Rêve familier

Often I have this strange and penetrating dream
Of an unknown woman I love and who loves me,
And each time she is neither quite the same
Nor quite another, but she loves and understands.

For she does understand, and my heart, lucid
Alas, only for her, is a problem no longer,
But only for her, and the fever of my pale brow
Only by her can be cooled, as she weeps.

Is she dark, fair, or red-haired? I know not.
Her name? I remember it is sweet and singing
Like those of loved ones whom Life has banished.
Her gaze is like the gaze of statues,
And her voice, distant, calm, and low,
Has the inflection of dear voices that are stilled.

MURIEL KITTEL

The Anchor anthology of French Poetry

Mộng Quen

Tôi luôn có giấc mộng lạ thường và nhức nhối
Về một người đàn bà không quen, tôi thương, và thương tôi
Và nàng thì cứ mỗi lần mỗi khác
Không phải là một người khác,
Và thương và hiểu tôi

Bởi là vì nàng hiểu tôi, và trái tim tôi, trong suốt
Than ôi, chỉ cho nàng thôi, hết còn là một vấn đề
Chỉ cho nàng thôi, và cái trán đẫm mồ hôi của tôi
Bèn mát lạnh, theo từng giọt nước mắt của nàng nhỏ xuống

Tóc nàng đen, sáng, hay hung hung? Tôi đâu biết
Tên của nàng? Mới dịu dàng như tiếng hát làm sao
Của những kẻ được yêu thương, và bèn bị Cuộc Đời đầy ải

Cái nhìn của nàng, của những bức tượng
Giọng nói của nàng ư? Xa xa và trầm lắng
Cưu mang trong nó những giọng nói thân thương suốt đời câm nín.

L'ALBATROS

Souvent, pour s'amuser, les hommes d'équipage
Prennent des albatros, vastes oiseaux des mers,
Qui suivent, indolents compagnons de voyage,
Le navire glissant sur les gouffres amers.

À peine les ont-ils déposés sur les planches,
Que ces rois de l'azur, maladroits et honteux,
Laissent piteusement leurs grandes ailes blanches
Comme des avirons trainer à côté d'eux.

Ce voyageur ailé, comme il est gauche et veule!
Lui, naguère si beau, qu'il est comique et laid!
L'un agace son bec avec un brule-gueule,
L'autre mime, en boitant, l'infirme qui volait!

Le Poète est semblable au prince des nuées
Qui hante la tempête et se rit de l'archer;
Exilé sur le sol au milieu des huées,
Ses ailes de géant l'empêchent de marcher.

Charles Baudelaire

THE ALBATROSS

L'Albatros

Ofttimes, for diversion, seafaring men
Capture albatross, those vast birds of the seas
That accompany, at languorous pace,
Boats plying their way through bitter straits.

Having scarce been taken aboard
These kings of the blue, awkward and shy,
Piteously their great white wings
Let droop like oars at their sides.

This winged voyager, how clumsy he is and weak!
He just now so lovely, how comic and ugly!
One with a stubby pipe teases his beak,
Another mimics, limping, the cripple who could fly!

The Poet resembles this prince of the clouds,
Who laughs at hunters and haunts the storms'
Exiled to the ground amid the jeering pack,
His giant wings will not let him walk.

KATE FLORES 


Danilo Kis


*

ML đọc "Tuổi thơ của Jesus", của Coetzee

Tout le livre, placé sous le signe de Cervantès, clairement nommé, et de Kafka, à l’influence récurrente, chemine, de question en question, sans jamais apporter de réponse claire, comme si les poser était déjà une victoire. Chaque fois qu'il croit avoir trouvé une solution, Simon est confronté à un autre problème et cherche à nouveau à le résoudre, jusqu'à cette évasion finale dont on ne sait si elle est une ouverture vers autre chose ou le début d'une fuite en avant qui n'aboutira qu'à tourner en rond. Coetzee, se situe là dans ce registre de l' «angoisse comique féroce » avec laquelle il définissait l'art de ce maitre revendiqué qu'est pour lui Samuel Beckett. +

Le Magazine Littéraire, Oct 2013

Cả cuốn sách - đặt dưới ký hiệu của Cervantès, qua tuyên bố huỵch toẹt, và của Kafka, qua ảnh hưởng tái đi tái lại - lượn lờ, không hề đưa ra câu trả lời dứt khoát, như thể đặt câu hỏi là đã quá bảnh rồi....


 
The Nobel Prize in Literature 2013


Thơ gửi bạn quí trong lúc chờ cùng đi xa


Orhan Pamuk Page


Ghi chú trong ngày

Capture the moment




*

"In her eyes, you could sense that there was something troubling her, something not quite right."
 
Haunting eyes and a tattered garment tell the plight of a girl who fled Afghanistan for a refugee camp in Pakistan.
Afghan Border, Pakistan | Steve McCurry | 1984

It was just a quick portrait of a schoolgirl in an Afghan refugee camp. But this photograph by Steve McCurry is among the most powerful images in National Geographic's history. McCurry suggests that she captivates because of her look of "hopeless beauty.”      
        "It's clear that she's poor," he says. "Her face is dirty; her garment is ripped; yet she has dignity and confidence and fortitude. In her eyes you could sense that there was something troubling her, something not quite right. She's seen more than she should at such a young age. Her village had been bombed and her relatives killed, and she'd had to make this two-week trek through the mountains to the refugee camp.”
        Seventeen years after making the portrait, McCurry returned to Afghanistan, hoping to find out whether the girl was still alive-and to finally learn her name. Sharbat Gula, now a grown woman, had survived. "When we found her, we knew it was her,” he says. "They wanted to do a check by examining a picture of the iris of her eye against the iris of the original picture, but we all knew it was her. The best part was being able to help make her life better. There was a school built in Kabul based on donations collected from that picture.”

Trong mắt của cô bé có vẻ dò hỏi, có điều gì làm rộn cô, có điều gì không đúng, tại sao mi nhìn ta như thế, hình như mi muốn kiếm 1 cái gì đó ở nơi ta, hình như mi lầm ta với 1 cái gì đó...

Khi gặp BHD, Gấu nhận ra liền, tuổi thơ của thằng cu Bắc Kỳ, nhà quê, thấp thoáng ở trong dáng đi, nụ cuời ánh lên mầu da đen nhẻm cùng với chiếc răng khểnh của Em, là vậy.
Ngoài ra, còn là nỗi ước mong, BHD cầm giữ suốt cuộc đời còn lại của Gấu!
Hà, hà!

Nhưng, bằng cách nào mà BHD lại ‘thấu thị’ ra tất cả, và, bèn bỏ Gấu, và vừa đi vừa ngoái lại, lắc đầu:
Mi đâu có thương yêu gì ta! Mi thương một đứa con nít 11 tuổi, là ta đời thuở nào, và Hà Nội của mi ở trong con bé con đó!

She's seen more than she should at such a young age. Cô bé nhìn thấy nhiều hơn nhiều so với tuổi của cô.
Ui chao, đúng như thế. Thê thảm đúng như thế

Mi “THNM” rồi, nhìn đâu cũng thấy VC!
Nếu không, thì là... BHD!
Hà, hà!

Rõ ràng là cô bé nghèo. Mặt cô nhem nhuốc, quần áo tơi tả, tuy nhiên, có cái gọi là phẩm hạnh, sự tin tưởng….

Ui chao, cũng vẫn là những dòng viết về BHD, lần đầu GCC gặp. Sau này, mỗi lần nhớ, là nhớ luôn câu nói tâm sự của Em, đi học chỉ có mỗi một cái áo dài trắng, mấy đứa bạn nói sau lưng, con bé này giả bộ, nhà nó giầu lắm...

Lần Gấu qua Cali thăm bạn, một đấng phán, mày sướng thật, vì gặp được BHD. Không có BHD, chắc gì mày đã là mày?
Ố là là, nghe sướng điên lên được! (1)
*

Viết bên lề "Bên Thắng Nhục
Will Geography Decide Our Destiny?

Địa dư quyết định số phận của Mít,
hay là
The Revenge of Geography:
What the Map Tells Us About Coming Conflicts and the Battle Against Fate
Cuộc trả thù của chữ S.

Bài gãi đúng chỗ ngứa [vết thương hình chữ S] của Gấu Cà Chớn!
Sự trả thù của địa dư cũng là sự trả thù của những giống dân Hời, Chiêm... đã bị  giống dân Mít làm cỏ trong suốt lịch sử dựng nước của nó.
Khi hết kẻ thù thì nó đè thằng em Nam Bộ ra “phán, trảm, làm thịt, đưa đi cải tạo mút mùa lệ thuỷ….”

Bài này NYRB đếch cho đọc free. Tin Văn se scan, và dịch sau, hầu độc giả, thay vì kiếm đọc Bên Thắng Nhục!

*

Giang hồ bồ tát


Note: TV tính đi bài này. Nhưng lại tính đi bài dưới đây, về Xứ Lào bi thương, quê hương của mấy đứa nhỏ.

Còn 1 vụ “giang hồ bồ tát”, là vị bác sĩ Đức, chọn Miền Nam để hành đạo.
Đúng là cú ị vào mặt đám tinh anh Miền Nam, bỏ chạy cuộc chiến, bợ đít VC:

AFP: Một người Đức kiện nhà cầm quyền Hà Nội

Kiện đòi mấy bài thơ làm trong tù.
Tuyệt!

The future of Laos
A bleak landscape
A secretive ruling clique and murky land-grabs spell trouble for a poor country



Gấu Cà Chớn vs Du Tử Cà



Một Kafka Khác


Võ tướng quân về Trời

Đầu tháng vô server, lòi ra bài này.

Hóa ra là cả thế giới cùng tưởng niệm Võ Tướng Quân với dân Mít

Hội Nhà Văn vs Hội Nhà Thổ

Kadare là tay đề nghị, dùng tên đại tướng Võ cho một thứ áo mưa do nhà nước VC Albanie sản xuất, vì làm gì có cái gì dẻo dai, kiên trì, kẻ thù nào cũng đánh thắng, không bao giờ bị thủng... như là… Võ tướng quân.
Ngay cả khi đại tướng hết còn cầm quân, mà được Đảng cho cầm quần ‘chị em chúng ta’?

ISMAÏL KADARÉ
LE DÎNER DE TROP

trad. de l'albanais par Tedi Papavrami Fayard, 200 p., 17,90 €

Kadaré considère qu'il a écrit une des œuvres « les plus sombres du siècle », face à un système qui avait « un arrière-goût d'enfer ». Cet aspect tragique et funèbre qui se dégage de la plupart de ses ouvrages n'exclut pas une veine comique qui affleure parfois comme dans Le Dossier H ou L’Année noire. Cette fois, le burlesque touche à un sujet d'importance: l’Histoire de l'Albanie

Tuần này, cả hai tờ La Quinzaine Littéraire và Lire của Tây, đều nhắc tới cuốn mới ra lò của "NHT người Albanie": Ismail Kadaré. Với Lire, là một cuộc phỏng vấn.

Tin Văn đã có vài bài về tay này, đã từng đánh bại toàn những ông khổng lồ để đoạt Man Booker 2005, danh sách có cả tên NHT, nhưng bị delete, vì không có ai biết tiếng Mít trong ban giám khảo, và vì chưa được dịch qua tiếng Anh.

Bài 'đại phỏng vấn' tay nhà văn Albania thật tuyệt. Có thể làm bài văn mẫu cho đám nhà văn Yankee mũi tẹt được!

Thí dụ những câu sau đây mà chẳng bảnh sao:
Theo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, phải viết thứ văn chương "mùa xuân vĩnh viễn của nhân loại", chữ của Nguyễn Khải trong Gặp Gỡ Cuối Năm [nguyên văn, une littérature 'printanière']. Kết quả, trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi, mưa rơi ngay từ trang đầu tới trang chót.

Được hỏi, khi được Tây in sách, như DTH Mít "nhà mình" ‘phó phướng phông’?, Kadaré trả lời:
Với một nhà văn từ một xứ sở chư hầu của ông Xì, Stalinien, được in sách ở Tây là sống kiếp sống thứ nhì [réincarnation: tái nhập thế].

Trả lời câu hỏi, người ta nhắc hoài đến tên ông ở hành lang Nobel, ‘ông đã làm hồ sơ, và nạp đơn chưa’? [cái này thuổng trang Ngộ độc văn chương của thi sĩ NTT], ông trả lời:
Người ta nhắc nhiều đến tôi, và người ta tiếp tục. Ngày này qua tháng nọ, tôi cũng phải quen thôi. Có vài tay hay được nhắc như vậy, thành thử cũng có bạn.
Nhật Ký Tin Văn

Tờ Le Magazine Littéraire 2/2009 phỏng vấn Kadaré
Với “Bữa ăn thừa”, Le diner de trop, Kadaré coi như mình đã viết một trong những tác phẩm ‘u tối  nhất của thế kỷ’, đối diện với một chế độ có cái ‘dư vị của địa ngục’.
Tuyệt!


Tuyệt tác thế giới


Đi tìm phê bình gia Mít

Nhà văn, nhà thơ sử dụng ngôn ngữ để viết về đời thường. Đối tượng của họ là đời thường. Phê bình, sử dụng ngôn ngữ để viết về….  ngôn ngữ.
Barthes bèn phân ra hai thứ ngôn ngữ. “Ngôn ngữ bậc 1” là của nhà văn. “Ngôn ngữ bậc hai”, hay "siêu ngôn ngữ", là của nhà phê bình. Ông coi bài viết của nhà phê bình, là 1 bản văn choàng lên bản văn.

Mọi tiểu thuyết gia, mọi thi sĩ, múa may quay cuồng với những đường đao thế kiếm dựa trên bất cứ một lý thuyết văn học gì thì gì, tựu chung cũng là để nói về tuồng ảo hóa đã bầy ra đấy [nguyên văn: để nói về những sự vật, và hiện tượng, to speak of the objects and phenomena], cho dù những thứ này là do tưởng tượng, ở bên ngoài hoặc là có trước ngôn ngữ: thế giới hiện hữu và nhà văn nói: đó là văn chương. Sự vật, hay đối vật, the object, của phê bình khác hẳn: Đối vật của phê bình không phải là "thế giới" nhưng mà là một bài viết/nói, a discourse, bài viết nói đó, là của một người nào đó: phê bình là một bài viết/nói về một bài viết/nói; nó là một ngôn ngữ bậc hai, hay, một siêu ngôn ngữ (như những nhà lý luận gọi). Cái ngôn ngữ bậc hai này thao tác (operate) trên ngôn ngữ bậc nhất (hay, ngôn ngữ sự vật, language object). Từ đó suy ra, ngôn ngữ phê bình phải đụng (deal) với hai thứ liên hệ: liên hệ giữa ngôn ngữ phê bình với ngôn ngữ của tác giả được tìm hiểu, và liên hệ giữa ngôn ngữ sự vật này với thế giới. Chính sự "đụng độ, tranh chấp", giữa hai ngôn ngữ này định nghĩa, cái gọi là phê bình. Và, có lẽ, sự đụng độ này làm cho phê bình thật giống với một hoạt động tâm thần khác, lý luận học, môn này cũng đặt nền tảng trên sự phân biệt giữa ngôn ngữ sự vật và siêu ngôn ngữ. (1)

Thế nào là 1…  bản văn?
Theo GCC, nó là 1 cái gì mà bạn sáng tạo ra, trong đó, có cái gì của riêng bạn, đếch chép từ sách vở, từ net xuống được.
Nhìn như thế, thì Mít đếch cho phê bình. Không có phê bình gia luôn, tất nhiên!
Bài viết của ông, "Phê Bình Là Gì", quá quan trọng, Tin Văn đã giới thiệu với độc giả, là cũng để cho mấy Thầy chuyên viết phê bình, rảnh rỗi ghé mắt đọc.

Thầy Phúc & Thầy Thục, GCC quen khi viết cho Văn Học. Chẳng có gì gọi là thù hằn, tị hiềm hay bất cứ gì gì, gì khi Gấu viết về họ. Nhưng sau 70, thất thập cổ lai hy, thấy vưỡn còn sống, Gấu tự hỏi, hay là Ông Giời còn bắt mình làm thêm ba việc lẻ tẻ nữa, chăng.

Bởi là vì nếu không viết ra thì hai Thầy kể như xong nghiệp viết “phê bình, khảo luận”, tức là cứ tiếp tục viết nhảm như trước. Thầy Phúc thì tiếp tục quàng 1 ông mũi tẹt với 1 ông mũi lõ, Thầy Thục thì tiếp tục tra cứu, trích dịch, tiếp tục viết những bài phê bình khảo luận vô ích, khổ người viết, tội người đọc. Một khi chính người viết cũng chẳng hề mơ hồ cảm nhận ra, 1 cái viễn ảnh về bài viết của mình, và ảnh hưởng của nó, ở nơi người đọc, thì viết làm chó gì.
Cả đời Thầy Thục, viết cũng từ trước 1975, với Gấu, chỉ là đoạn đời sau 1975, ông phải đi làm 1 cái nghề gì đó, để sống sót VC, đọc, thấy có cái thực, nhưng thiếu cái tưởng tượng, nhưng có còn hơn không.

Lại nói về viễn ảnh. Gấu hình như đã kể về vụ này đôi ba lần rồi. Kể lại ở đây, biết đâu hai Thầy nhận ra ý của Gấu, và biết đâu, thay đổi lối viết.

Bài viết Bếp Lửa trong văn chương của Gấu, được viết ra, khi Gấu, cùng ông bạn nhà thơ Joseph Huỳnh Văn, ghé thăm Đỗ Long Vân, khi đó bị bắt đi lính, làm việc tại đài phát tín Phú Lâm, lấy bài viết Truyện Kiều ABC cho Tập San Văn Chương. Trong lúc cả hai hàn huyên, Gấu bèn giở ra đọc, và từ 1 đoạn trong nó, bài viết của Gấu thành hình.
Bài thơ Biển, mà nhờ nó, GCC quen Hải Âu, là từ chi tiết cát ở đây được con người chở từ đâu tới.


Fuentes: Tiểu thuyết
John Le Carré's Page


Ways of Escape

Trong cuốn tiểu sử của Greene, thì “Lực Lượng Thứ Ba”, anh Xịa ngây thơ gặp, là Trình Minh Thế. Greene không ưa TMT, và không tin ông làm được trò gì. Nhưng chỉ đến khi TMT bị Diệm thịt, thì ông mới thay đổi thái độ, như trong cái thư mở ra "Người Mỹ Trầm Lặng" cho thấy.

Theo GCC, cuốn NMTL được phát sinh, là từ cái tên Phượng, đúng như trong tiềm thức của Greene mách bảo ông. (1)
Cả cuốn truyện là từ đó mà ra. Và nó còn tiên tri ra được cuộc xuất cảng người phụ nữ Mít cả trước và sau cuộc chiến, đúng như lời anh ký giả Hồng Mao ghiền khuyên Pyle, mi hãy quên “lực lượng thứ ba” và đem Phượng về Mẽo, quên cha luôn cái xứ sở khốn kiếp Mít này đi!

&

The Life of Graham Greene
Volume 2: 1939-1955
Norman Sherry

Note: Một trong những em Phượng, đi đúng những ngày 30 Tháng Tư, 1975, và là 1 trong những nhà văn nữ hàng đầu của Miền Nam trước 1975, khi Gấu tới trại tị nạn, gửi thư cầu cứu, đã than giùm, anh đi trễ quá, Miền Biển Động hết động rồi.

Sao không ở luôn với số phận xứ Mít [ở với VC?], chắc em P. của 1 anh Mẽo Pyle nào đó, tính khuyên Gấu?

(1)

"Phuong," I said – which means Phoenix, but nothing nowadays is fabulous and nothing rises from its ashes. "Phượng", tôi nói, "Phượng có nghĩa là Phượng hoàng, nhưng những ngày này chẳng có chi là huyền hoặc, và chẳng có gì tái sinh từ mớ tro than của loài chim đó":

Quả có sự tái sinh từ mớ tro than của loài chim đó!
Cuộc xuất cảng Phượng sau 1975, là cả 1 cái nguồn nuôi nước Mít, theo nghĩa thê thảm nhất, hoặc, cao cả nhất [Hãy nghĩ đến những gia đình Miền Nam phải cho con gái đi làm dâu Đại Hàn, thí dụ, để sống sót VC]


Camus 100

*

*

Cấm Chó & Những Tên Chống Cộng


Cali 2012 With HA

*

Seamus Heaney

*


Mất tích giữa những vì sao
: St-Ex


Cao Bồi

Vladimir’s Tale
April 26, 2012
Anne Applebaum.

The Man Without a Face: The Unlikely Rise of Vladimir Putin
by Masha Gessen
Riverhead, 314 pp., $27.95           

Người Không Mặt, Cao Bồi,  PXA, "Bạn Quí Của GCC", sống lại, và nhập thân ông Trùm Putin.

Anne Applebaum đọc Người Không Mặt: Cuộc Lên Voi Đếch Giống Ai Của Putin, của Masha Gessen.
Tuyệt cú mèo! TV sẽ lai rai ba sợi, sau.  

Có câu này,
In a country where political role models ran from leather-jacketed commissar to decrepit apparatchik, Galina was trying to be an entirely new creature, a politician who was also a human.

Làm nhớ Sến:

Nguyên thủ quốc gia Việt Nam không nên mặc áo nhái Adidas đi cày ruộng. (1)

Và, đây là cái cảnh “Người Không Mặt”... đi xa.

Những phút cuối cùng của Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn

SGGP:: Cập nhật ngày 20/09/2006 lúc 23:38'(GMT+7)

Bà ngồi đọc cho ông nghe những bức thư của bạn bè khắp nơi trên thế giới gửi về thăm ông khi nghe tin ông ốm nặng. Hôm nay bà đọc đến bức thư của người bạn Mỹ, mà thuở ông còn học ở trường báo chí ở quận Cam - California, ông đã ở trong nhà và họ coi ông là người trong gia đình.
Bà đọc bằng một thứ tiếng Anh nghe cứng cáp của người đứng tuổi dù xưa kia bà rất giỏi tiếng Anh và có khi ông còn giải thích cho bà những từ khó mà bà không hiểu.
Bây giờ dù đã già nhưng phát âm rất chuẩn, mỗi từ tiếng Anh phát ra chắc chắn. Bà đọc tới đâu nước mắt chảy quanh tới đó. Thỉnh thoảng bà dừng lại và ghé sát tai ông hỏi nhỏ: Anh có nghe được không? Ông khẽ gật đầu, nước từ trong khóe mắt đục nhờ của ông lại chảy ra.
Tất cả y tá, bác sĩ, hộ lý đều đứng nhìn. Thỉnh thoảng có người lén lau nước mắt. Họ nói với nhau hãy yên lặng để bà đọc cho ông nghe...
Lúc ông nhắm mắt lại, những dây nhợ chằng chịt trên người ông nối với nhiều máy móc phát ra âm thanh nghe rột rột. Bà vội đứng dậy đi ra ngoài, nhường chỗ cho các bác sĩ.
Công việc của họ là thông phổi để ông dễ thở hơn một chút, nhưng rồi ông lại chuyển vào giai đoạn lúc tỉnh lúc mê, ông gọi bà thều thào mê sảng: “Em ơi chúng đang tra tấn anh, chúng bỏ đá vào miệng anh, mệnh chung của anh sắp đến rồi, em và các con đừng xa anh nhé...”.
Bà nắm chặt tay ông. Các bác sĩ yêu cầu bà đi ra ngoài. Các con của bà đứng nhìn ông qua ô cửa kính. Họ đều khóc và cố gắng như muốn chia sẻ đau đớn thể xác cùng ông.
Bà quay sang nói với tôi - vẫn đứng đây từ nãy giờ bất động: Ông ấy khổ suốt cả một giai đoạn dài căng thẳng. Bây giờ đã đau thể xác thế này mà tâm hồn cũng không được thanh thản. Bao nhiêu dồn nén chỗ góc khuất đã trải qua trong nguy nan căng thẳng nay trong vô thức trào ra. Bà bật khóc, tôi nắm chặt tay bà. 

Cái mánh loại trừ là bản năng tự vệ của mọi chuyên viên
The trick of elimination is every expert’s defensive reflex.

(Stanislaw Lem: Imaginary Magnitude)

VC rất rành về cái mánh loại trừ - loại trừ mọi rủi ro, bị phanh phui, bị bật mí - vậy mà chúng cho cả thế giới thấy những giây phút khốn khổ, đi không nổi của Người Không Mặt.

Chán như Con Rán!
Dã man như VC!

Thời Không Mặt

The human face disappeared and also its divine image. In the classical world a slave was called aprosopos, 'faceless'; litteraly, one who cannot to be seen. The Bolsheviks gloried in facelessness.
[Mặt người biến mất và hình ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ xưa, kẻ nô lệ bị gọi là aprosopos, 'không mặt'; kẻ không thể bị nhìn thấy. Người CS hãnh diện trong "không mặt".]

Nói cho cùng, đó là thời "không mặt". Như một hình ảnh khủng khiếp của Anna Akhmatova, về Cách Mạng:

As though, in night's terrible mirror
Man, raving, denied his image
And tried to disappear

[Như thể, trong tấm gương kinh hoàng của đêm đen
Con người, rồ dại, chối bỏ hình ảnh của mình
Và ráng sức biến mất]

D.M. Thomas: Alexander Solzhenitsyn, Một thế kỷ ở trong ta.

Gấu tui cứ băn khoăn hoài, tại sao tội ác thì có, mà không có thủ phạm?
Cho tới khi được đọc những dòng trên.

Từ đó, tôi "hiểu" Văn Cao, khi ông nhất định "có mặt".

"Hồi nhận viết Tiến Quân Ca, tôi không hề chuẩn bị trước để làm một bài hát, mà một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viên biệt động vũ trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng, vào một thành phố, để giết một người..."

Mùa Thu, Những Di Dân


Nhưng cũng có thể hiểu câu nói của ông, qua câu của Walter Benjamin: Ở nền của một tác phẩm lớn, là một đống man rợ. Theo nghĩa, ông có thể ôm lấy tất cả niềm vinh quang, là tác giả bài hát của cả nước, ["Bài Tiến Quân Ca đã là của dân tộc Việt Nam độc lập kể từ ngày hôm đó"], nhưng ông chỉ cho thấy, ở dưới nền của nó, là cả một đống man rợ: tôi đã là một con mồi, một con thú, bị đẩy đến đường cùng, khi viết nó, trong bài tự thú

Tại Sao TQC


Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu


Cảnh đẹp VN

Giới Thiệu Sách, CD

Nhã Tập
Truyện Kiều ABC

*

Art2all
Việt Nam Xưa
Talawas
VN Express
Guardian
Intel Life
Huế Mậu Thân
Cali Tháng Tám 2011

Thơ JHV

NTK

TMT

Mùa hè Còn Mãi
NCK

Trang đặc biệt

Tưởng nhớ Thảo Trường

Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

TTT 2011

Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz

Tribute to PCL & VHNT
VHNT tái xuất giang hồ

War_Pix
Requiem

TheDigitalJournalist

Sebald
IN MEMORIAM W. G. SEBALD

Hình ảnh chiến tranh
Việt Nam của tờ Life


Vĩnh Biệt
Bông Hồng Đen

6 năm BHD ra đi


Blog 360 plus
Blog TV


Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây