*



Danilo Kis

* *

A Tomb for Boris Davidovich   

translated from the Serbian by Duška Mikić-Mitchell, with an introduction by Joseph Brodsky and an afterword by William T. Vollmann
Dalkey Archive, 145 pp., $12.95 (paper)

PENGUIN BOOKS
A TOMB FOR BORIS DAVIDOVICH 


DANILO KIS was born in 1935 in Subotica, Yugoslavia. He lived in Hungary, Montenegro, Belgrade; and France; he died in Paris on October 15, 1989. Kis was a lecturer in Serbo-Croatian and Yugoslav literature at the universities of Strasbourg, Bordeaux, and Lille. He is considered one of the finest translators of European poets-especially French poets-into his native Serbo-Croatian. In 1980, Kis received the prestigious Golden Eagle of the City of Nice, an award that has gone to such authors as Graham Greene and Nadine Gordimer. Danilo Kis was posthumously awarded the 1989 PEN/Bruno Schulz Prize, which honors foreign writers under-recognized in the United States .. The award money is being held in trust by PEN to subsidize the translation of other books by Kis.
    Two of Kis's books have previously been published in English translation: the novel Garden, Ashes (1975) and The Encyclopedia of the Dead (1989), available from Penguin Books. His collected works have been published, in the original Serbian, in ten volumes.

Joseph Brodsky was born in 1940 in Leningrad and began writing poetry when he was eighteen. Anna Akhmatova soon recognized in the young poet the most gifted lyric voice of his generation. Only four of his poems have been published in Russia, however; most of his work has appeared only in the West. His poetry has been translated and published in at least ten languages. In 1972 Brodsky became an involuntary exile from his native country and now lives in the United States. He is affiliated with both New York University and the University of Michigan.  

Note: Trong cuốn Gấu có, trên, 1978, không có lời bạt của William T. Vollmann.

Introduction

When, after great difficulties, this book was first published in 1976, in Zagreb, Yugoslavia, it was immediately assaulted in the press by the conservative "Stalinist" elements at the top echelon of the Yugoslav literary hierarchy. The war cry emanating from the top was picked up at the bottom by Serbo-Croatian nationalists, who are traditionally pro-Russian and traditionally anti-Semitic, for the bulk of Danilo Kis's characters are Jews, as is the author himself. Yugoslavia is a small country, and the politics in a small country are always big, literary politics especially. Due to this proportion, an attack against a writer becomes extremely focused. It was focused sharply enough to send Danilo Ki] into "nervous shock."
    There are several topics an author may deal with which can jeopardize his well-being, and history is one of them. Depending on its proximity to the present, history provides a writer with background, content, cast of characters, and sometimes, as in the case of Kis, with the writer's actual context. The very fact of describing historical events is regarded by history as an attempt to demote it into the past and is' resisted vehemently. An historical novel becomes therefore a vehicle of time, an instrument that purports to outline the boundaries between past and present by means of estrangement from its subject. A narrative reduces history to a story and creates, by being conducted from a certain "outside," a new time category, heretofore unknown.
    Apart from the general "cause-and-effect" principle, history claims the present through its most viable extension: through ideology. Having failed to triumph at the moment of its emergence, an ideology rapidly develops what one may call a utopian complex and gravitates to timelessness. Correspondingly, a portrayal of ideology or of its carriers is considered by the latter as an attempt to pin it down, to compromise its purity, and to rob it of its future.
    In the case of A Tomb for Boris Davidovich, history's claim on the present may seem all the more valid because the epoch with which this book 'deals isn't really so ancient.
Its author, a Yugoslav writer, Danilo Kis, describes events that took place in the first half of this century and their impact on the lives of his seven characters. For all seven the impact turned out to be the same: deadly.
    Ostensibly, since 'the dead, by definition, belong to the past, the sheer numbers of that epoch's victims should have removed the described period, along with the ideology that animated it, deep into annals. What usually slows the passage of time and by the same token causes an ideology to linger, however, is not so much that the murderers often outlive the murdered as that the living mistakenly regard the dead in the same way as a majority regards a minority.

Joseph Brodsky

Khi, sau những khó khăn lớn, cuốn sách này được xb lần thứ nhất 1976, ở Zagreb, Nam Tư, nó bèn liền lập tức bị tấn công trên báo chí bởi những phần tử Xì Ta Lin Nít bảo thủ, ở đám chóp bu của Hội Nhà Thổ của xứ này. Rồi đến đám cặn bã, ăn theo, gồm những tên quốc gia, gốc Serbo-Crotian, vốn có truyền thống phò Nga xô và bài Do Thái, bởi là vì những nhân vật của Kis, là Do Thái, như chính tác giả. Nam Tư là 1 xứ nhỏ, và chính trị ở xứ nhỏ thì luôn luôn lớn, chính vì thế mà cú đánh nào cũng ra trò. Nó chiếu tướng Kis, đủ mạnh để khiến tác giả bị 1 cú sốc tinh thần
Có vài đề tài, một tác giả có thể đề cập, có thể khiến tác giả sống dở chết dở với chúng, lịch sử là 1 trong đó. Do tính cận kề với hiện tại, lịch sử cung cấp cho nhà văn cái nền, cái nội dung, khung nhân vật, và đôi khi nội dung của nó, chính là cuộc đời của tác giả

Danilo Kis

* *

A Tomb for Boris Davidovich   

translated from the Serbian by Duška Mikić-Mitchell, with an introduction by Joseph Brodsky and an afterword by William T. Vollmann
Dalkey Archive, 145 pp., $12.95 (paper)

Introduction

At first glance A Tomb for Boris Davidovich may indeed seem like a spin-off from The First Circle, The Gulag Archipelago (as yet unpublished in Yugoslavia), Nadezhda Mandelstarn's Hope against Hope, and the Medvedev brothers' various writings. The point is that the bulk of the novel has to do with the fate of several people who perished during the Great Terror of the late 1930s. For an account of that the sources are unfortunately mostly Russian. With sixty million dead in the civil war, collectivization, the Great Terror, and things in between, Russia in this century has produced enough history to keep the literati all over the world busy for several generations. The aforesaid authors already belong to the second generation. The first was Arthur Koestler's, and several chapters of the Kis book bear a general resemblance to Darkness at Noon, although surpassing it in both horrifying detail and narrative skill.

Thoáng nhìn, Ngôi Mộ có vẻ như 1 thứ phó sản phẩm, từ những tác phẩm như Tầng Đầu Địa Ngục, Quần Đảo Gulag [chưa được xb ở Nam Tư], “Hy vọng chống lại Hy vọng”, của Nadezhda Mandelstarn và những cái viết của anh em nhà Medvedev.
Vấn đề là, cuốn tiểu thuyết xoáy vào số phận một vài người bị tiêu trầm trong cú Đại Khủng Bố xẩy ra vào cuối thập niên 1930. Và hầu hết, đều là số phận Nga. Với 60 triệu con người chết, trong cuộc nội chiến, tập thể hóa, Đại Khủng Bố, Nga xô, trong thế kỷ này, đã sản xuất đủ lịch sử để làm cho văn chương toàn thế giới bận rộn trong vài thế hệ.
Những tác giả được nói tới ở trên thuộc thế hệ thứ nhì.
Thứ nhất, là Koestler.
Vài chương của Ngôi Mộ có cái giông giống Đêm Giữa Ban Ngày, nhưng bảnh hơn nhiều, nếu nói về ghê rợn về chi tiết, và về kỹ năng tự sự
.

Ui chao Joseph Brodsky, như thế, là đã tiên tri ra được "Đêm Giữa Ban Ngày" của nhà văn người tù lương tâm Mít, VTH!
Cùng 1 dòng!
Cùng 1 cái tít!
Thần sầu!


Perhaps the only service a real tragedy renders in leaving its survivors as speechless as its victims is that of furthering its commentators' language. The least that can be said about A Tomb for Boris Davidovich is that it achieves aesthetic comprehension where ethics fail. Of course, the mastery of language can hardly pass for a safeguard in our enterprising century; but at least it creates a possibility of response, without which people are bound to remain slaves of their experience. By having written this book, Danilo Kis simply suggests that literature is the only available tool for the cognition of phenomena whose size otherwise numbs your senses and eludes human grasp.

Có lẽ cú phục vụ độc nhất mà 1 bi kịch thực, đem tới, khi để cho kẻ sống sót cũng câm bặt như những nạn nhân, là, cái trò lèm bèm về ngôn ngữ của nó, sau đó. Nếu như thế, thì ít nhất, chúng ta có thể phán về “ Ngôi mộ”, nó hoàn tất cảm thông mỹ học, một khi/ở nơi mà đạo hạnh thất bại.
Lẽ dĩ nhiên, khó mà coi đây là cái phao cứu nạn, trong thế kỷ “enterprising” của chúng ta, nhưng ít nhất, nó tạo 1 khả thể đáp ứng, không có nó, con người bị buộc là nô lệ của kinh nghiệm của nó.
Viết “Ngôi mộ”, Kis giản dị đề xuất rằng, văn chương là dụng cụ khả hữu độc nhất, nhìn nhận hiện tượng, một khi tầm vóc của nó làm tê liệt cảm quan của bạn, và tuột ra khỏi cái nắm, víu của nhân loại

A Tomb for Boris Dauidooicb is a very dark book, and its only happy end is that it was published and now so splendidly translated into English by Duska Mikic-Mitchell.
It is surely a strange realm for an English reader to enter, but so it was for the millions and millions who found themselves inside it. Unlike them, an English reader can leave it whenever he likes by closing this book, finished or unfinished. Only the names here are fictitious. The story, unfortunately, is absolutely true; one would wish it were the other way around.

“Ngôi mộ” là 1 cuốn sách quá u tối, và cái hy vọng độc nhất của nó, được xb, và bây giờ, được dịch thật là tuyệt vời qua tiếng Anh. Chắc chắn cái cõi này thì thật là lạ lẫm đối với độc giả người Anh, khi bước vô, nhưng có hàng triệu triệu con người cảm thấy họ ở trong đó. Không như họ, một độc giả tiếng Anh có thể ngưng đọc ở bất cứ khúc nào, bất cứ khi nào, anh ta muốn, bằng cách đóng nó lại.
Chỉ có những cái tên là dởm. Câu chuyện, than ôi, bất hạnh thay, thực.
Tuyệt đối thực

Danilo Kis

  When Kis died in Paris in 1989, the Belgrade press went into national mourning. The renegade star of Yugoslav literature had been extinguished. Safely dead, he could be eulogized by the mediocrities who had always envied him and had engineered his literary excommunication, and who would then proceed-as Yugoslavia fell apart-to become official writers of the new post- Communist, national chauvinist order. Kis is, of course, admired by everyone who genuinely cares about literature, in Belgrade as elsewhere. The place in the former Yugoslavia where he was and is perhaps most ardently admired is Sarajevo. Literary people there did not exactly ply me with questions about American literature when I went to Sarajevo for the first time in April 1993. But they were extremely impressed that I'd had the privilege of being a friend of Danilo Kis. In besieged Sarajevo people think a lot about Danilo Kis. His fervent screed against nationalism, incorporated into The Anatomy Lesson, is one of the two prophetic texts-the other is a story by Andric, "A Letter from 1920"-that one hears most often cited. As secular, multi-ethnic Bosnia-Yugoslavia's Yugoslavia-is crushed under the new imperative of one ethnicity lone state, Kis is more present than ever. He deserves to be a hero in Sarajevo, whose struggle to survive embodies the honor of Europe.
    Unfortunately, the honor of Europe has been lost at Sarajevo. Kis and like-minded writers who spoke up against nationalism and fomented-from-the-top ethnic hatreds could not save Europe's honor, Europe's better idea. But it is not true that, to paraphrase Auden, a great writer does not make anything happen. At the end of the century, which is the end of many things, literature, too, is besieged. The work of Danilo Kis preserves the honor of literature.


Susan Sontag

Khi Kis mất ở Paris năm 1989, báo chí Belgrade bèn đi 1 đường tưởng niệm tầm cỡ quốc gia: Ngôi sao văn học đỉnh cao, thoái hóa, đồi trụy Ngụy nghiệc cái con mẹ gì đó… đã tắt lịm! Đám nhà văn thuộc Hội Nhà Thổ suốt đời thèm viết được, chỉ 1 câu văn của ông, bèn thổi ông tới trời, và biến ông, vốn nhà văn Ngụy, thành nhà văn của nhà nước VC hậu 30 Tháng Tư 1975!
Lẽ tất nhhiên Kis được yêu mến bởi bất cứ 1 ai thực sự yêu văn chương và “care” về nó, ở Belgrade hay bất cứ nơi nào. Nơi chốn thuộc Cựu Nam Tư mà ông được yêu mến nhất là Sarajevo. Khi tôi [Susan Sontag] tới đó vào Tháng Tư 1993, đám nhà văn ở đó bị ấn tượng nặ
ng khi biết tôi hân hạnh được là bạn của Kis.

Various critics have seen a relationship between your novels and those of Hermann Broch, Bruno Schulz, and Kafka. Do you think there is a Central European tradition-and, if so, how would you describe it?

I have nothing against the notion of Central Europe - on the contrary, I think that I am a Central European writer, according to my origins, especially my literary origins. It's very hard to define what being Central European means, but in my case there were three components. There's the fact that I'm half-Jewish, or Jewish, if you prefer; that I lived in both Hungary and Yugoslavia and that, growing up, I read in two languages and literatures; and that I encountered Western, Russian, and Jewish literature in this central area between Budapest, Vienna, Zagreb, Belgrade, etc. In terms of my education, I'm from this territory. If there's a different style and sensibility that sets me apart from Serbian or Yugoslav literature, one might call it this Central European complex. I find that I am a Central European writer to the core, but it's hard to define, beyond what I've said, what that means to me and where it comes from.


*

A Tomb for Boris Davidovich   


translated from the Serbian by Duška Mikić-Mitchell, with an introduction by Joseph Brodsky and an afterword by William T. Vollmann
Dalkey Archive, 145 pp., $12.95 (paper)

Introduction

At first glance A Tomb for Boris Davidovich may indeed seem like a spin-off from The First Circle, The Gulag Archipelago (as yet unpublished in Yugoslavia), Nadezhda Mandelstarn's Hope against Hope, and the Medvedev brothers' various writings. The point is that the bulk of the novel has to do with the fate of several people who perished during the Great Terror of the late 1930s. For an account of that the sources are unfortunately mostly Russian. With sixty million dead in the civil war, collectivization, the Great Terror, and things in between, Russia in this century has produced enough history to keep the literati all over the world busy for several generations. The aforesaid authors already belong to the second generation. The first was Arthur Koestler's, and several chapters of the Kis book bear a general resemblance to Darkness at Noon, although surpassing it in both horrifying detail and narrative skill.

Joseph Brodsky

Thoáng nhìn, Ngôi Mộ có vẻ như 1 thứ phó sản phẩm, từ những tác phẩm như Tầng Đầu Địa Ngục, Quần Đảo Gulag [chưa được xb ở Nam Tư], “Hy vọng chống lại Hy vọng”, của Nadezhda Mandelstarn và những cái viết của anh em nhà Medvedev.
Vấn đề là, cuốn tiểu thuyết xoáy vào số phận một vài người bị tiêu trầm trong cú Đại Khủng Bố xẩy ra vào cuối thập niên 1930. Và hầu hết, đều là số phận Nga. Với 60 triệu con người chết, trong cuộc nội chiến, tập thể hóa, Đại Khủng Bố, Nga xô, trong thế kỷ này, đã sản xuất đủ lịch sử để làm cho văn chương toàn thế giới bận rộn trong vài thế hệ.
Những tác giả được nói tới ở trên thuộc thế hệ thứ nhì.
Thứ nhất, là Koestler.
Vài chương của Ngôi Mộ có cái giông giống Đêm Giữa Ban Ngày, nhưng bảnh hơn nhiều, nếu nói về ghê rợn về chi tiết, và về kỹ năng tự sự
.


Ui chao Joseph Brodsky, như thế, là đã tiên tri ra được "Đêm Giữa Ban Ngày" của nhà văn người tù lương tâm Mít, VTH!
Cùng 1 dòng!
Cùng 1 cái tít!
Thần sầu!


  When Kis died in Paris in 1989, the Belgrade press went into national mourning. The renegade star of Yugoslav literature had been extinguished. Safely dead, he could be eulogized by the mediocrities who had always envied him and had engineered his literary excommunication, and who would then proceed-as Yugoslavia fell apart-to become official writers of the new post- Communist, national chauvinist order. Kis is, of course, admired by everyone who genuinely cares about literature, in Belgrade as elsewhere. The place in the former Yugoslavia where he was and is perhaps most ardently admired is Sarajevo. Literary people there did not exactly ply me with questions about American literature when I went to Sarajevo for the first time in April 1993. But they were extremely impressed that I'd had the privilege of being a friend of Danilo Kis. In besieged Sarajevo people think a lot about Danilo Kis. His fervent screed against nationalism, incorporated into The Anatomy Lesson, is one of the two prophetic texts-the other is a story by Andric, "A Letter from 1920"-that one hears most often cited. As secular, multi-ethnic Bosnia-Yugoslavia's Yugoslavia-is crushed under the new imperative of one ethnicity lone state, Kis is more present than ever. He deserves to be a hero in Sarajevo, whose struggle to survive embodies the honor of Europe.
    Unfortunately, the honor of Europe has been lost at Sarajevo. Kis and like-minded writers who spoke up against nationalism and fomented-from-the-top ethnic hatreds could not save Europe's honor, Europe's better idea. But it is not true that, to paraphrase Auden, a great writer does not make anything happen. At the end of the century, which is the end of many things, literature, too, is besieged. The work of Danilo Kis preserves the honor of literature.


Susan Sontag


Life, Literature

I'd like to devote the first part of our interview to biographical facts that may be of interest to your readers. Despite your known resistance to biographical data and the biographical approach to your work, I believe that much of it-especially the novels you have called the autobiographical triptych" (Early Sorrows; Garden, Ashes; Hourglass)-shows your childhood to have been of fundamental importance to your literary development. So let's try to delineate the part played by autobiographical material in your work on the one hand and imagination and illusion on the other.

My whole childhood is an illusion, an illusion that has fed my imagination, and after writing two or three books on the theme of "early sorrows," I feel that degrading the imagination to "biographical facts" is rank reductionism. Life cannot be reduced to books, but neither can books be reduced to life. After I related the events of my childhood in a lyrical, consistent, definitive form, that form became an integral part of my childhood, my only childhood. Even I have trouble now distinguishing between the two illusions: living truth and literary truth; they are so intertwined that it is next to impossible to trace a dividing line between them, and any other interpretation, especially by the author, is likely to impoverish them. Paraphrasing a poem diminishes its spirit, its rhythm, its élan, and reduces its metaphors to a common language. Somewhere Gerard Genette quotes La Fontaine's line "Sur les ailes du temps, la tristesse s'envole" (Sadness takes flight on the wings of time) in a rhetorian's "translation"  as "Le chagrin ne dure pas toujours" (No sorrow lasts for- ever).



Mới lướt net, thấy NL đi 1 đường ngợi ca Genette. Tay này, cũng 1 khám phá của GCC, và, 1 trong những tác giả gối đầu giuờng, những ngày mới bước vào làng văn, bày đặt viết phê bình.
Trong bài điểm cuốn Mù Sương của NXH, Gấu có chôm 1 ý của ông, trong Hình Tượng I, về 1 nhân vật, vô thư viện, kiếm 1 cuốn, không kiếm thấy, bực quá, bèn viết 1 cuốn.

Tình cờ, đọc Kis, ông cũng nhắc tới Genette, khi phải giải thích, tại làm sao mà cứ hết Mậu Thân, thì lại qua cô bạn ở Chợ Lớn, hoặc thằng em trai sĩ quan Ngụy tử trận.

Cũng 1 câu, lôi ra từ Figures I
Life, Literature

I'd like to devote the first part of our interview to biographical facts that may be of interest to your readers. Despite your known resistance to biographical data and the biographical approach to your work, I believe that much of it-especially the novels you have called the autobiographical triptych" (Early Sorrows; Garden, Ashes; Hourglass)-shows your childhood to have been of fundamental importance to your literary development. So let's try to delineate the part played by autobiographical material in your work on the one hand and imagination and illusion on the other.

My whole childhood is an illusion, an illusion that has fed my imagination, and after writing two or three books on the theme of "early sorrows," I feel that degrading the imagination to "biographical facts" is rank reductionism. Life cannot be reduced to books, but neither can books be reduced to life. After I related the events of my childhood in a lyrical, consistent, definitive form, that form became an integral part of my childhood, my only childhood. Even I have trouble now distinguishing between the two illusions: living truth and literary truth; they are so intertwined that it is next to impossible to trace a dividing line between them, and any other interpretation, especially by the author, is likely to impoverish them. Paraphrasing a poem diminishes its spirit, its rhythm, its élan, and reduces its metaphors to a common language. Somewhere Gerard Genette quotes La Fontaine's line "Sur les ailes du temps, la tristesse s'envole" (Sadness takes flight on the wings of time) in a rhetorian's "translation"  as "Le chagrin ne dure pas toujours" (No sorrow lasts for- ever).
Hiện sinh vs Cơ cấu luận

GCC có nhớ từng viết gì về cơ cấu luận và đăng tờ nào không?
Thời ấy GCC đọc Trần Thiện Đạo về CCL không?  (1)

TTD, tôi chỉ đọc ông ta khi dịch Sa Đọa. Ông này mà văn chương cái con khỉ gì.
Lạ, là làm sao mà ông ta lại chọn đúng cuốn Sa Đọa để dịch?
Không lẽ ông ta đã ngửi ra cái thân phận 1 tên bỏ chạy cuộc chiến, trốn qua Tây, và tự rủa xả mình, như nhân vật của Camus?

(1) M
ột vị độc giả, Blog NL, hình như vậy.


Hình Tượng I
Figures I
Gérard Genette

*

Chúng ta biết theo quan niệm của Ferdinand de Saussure, ngôn ngữ chỉ là một hệ thống ký hiệu, ở đó, mỗi đơn vị ký hiệu đều có hai mặt: cái biểu đạt (signifier) và cái được biểu đạt (signified). Cái biểu đạt là âm hoặc chữ viết. Cái được biểu đạt là ý niệm do âm hoặc chữ viết ấy gợi lên trong đầu chúng ta. Ví dụ: nghe âm 'chó' (cái biểu đạt), chúng ta nghĩ ngay đến giống vật thường được nuôi trong nhà (cái được biểu đạt).

NHQ viết về Bùi Giáng.

Đoạn trên, Gấu trích từ blog của tay Gôn Mùn Goldmund và, gốc của nó, trên talawas.
Ở đây, trích lại, như là một cái cớ, để viết về Giàng Búi!

Hệ thống ký hiệu học, trong đó, từ cánh buồm có thể được sử dụng để chỉ con tầu, thì là một hình tượng; hệ thống ký hiệu học bậc hai, trong đó, một hình tượng, như là sử dụng từ cánh buồm để chỉ con tầu, có thể được sử dụng để chỉ thơ, thì đó là Tu từ pháp.

Hay thật tàn nhẫn: 

[(voile = navivre) = Poésie ] = Rhétorique
[(cánh buồm = con tầu) = Thơ] = Tu từ pháp 

[Bạn nghe âm "buồm", thì nghĩ ngay đến "tầu", hay nghĩ ngay đến... "bướm"?]

Ba cái 'nhảm nhí' này, Gấu đọc, ngay từ khi mới lớn, chán thế, qua Gérard Genette, trong cuốn Hình Tượng I, Figures I.
Ông này, cũng lại một ông thầy của Gấu.
Gấu đọc Roland Barthes, rồi nhờ đó, mò ra ông.
Những bài viết trong Figures I, bài nào cũng thật bảnh.

[Từ từ TV sẽ đi vài đường về Thơ, trong khi chờ đi luôn!]

Đành phải giới thiệu Genette, rồi mới viết tiếp về Bùi Giáng được.
Trong một bài viết về ông bạn quí của Gấu, thời đó đó, Gấu có chôm một ý của Genette, về một anh chàng vô thư viện kiếm một cuốn sách, không thấy, bèn viết một cuốn khác. (2)
Ý này của Genette, nhưng có thể ông lấy từ Borges, và nó liên quan tới tác giả, tác phẩm, đạo văn, đạo viếc: 

“Tất cả những tác phẩm thì là tác phẩm của chỉ một tác giả, vĩnh hằng, và, vô danh”
[On a établi que toutes les oeuvres sont l’oeuvre d’un seul auteur, qui est intemporel et anonyme]

Lần, mấy ông Trời con tố cáo một tay trong nước đạo văn dịch của mấy ổng, Gấu đã tính lôi ra lèm bèm, nhưng thấy chẳng đáng! 

(2) Khi viết cái mẩu này, chưa có lại, cái bài điểm cuốn Mù Sương.
Tks All There. NQT


Danilo Kis




Kis had a complicated literary genealogy, which he was undoubtedly simplifying when he declared himself, as he often did, a child of Borges and of Bruno Schulz.
Susan Sontag

Kis có 1 cái hệ phả văn học rắc rối, và ông giản dị nó, bằng cách coi mình là hậu duệ của Borges và Bruno Schulz.

*

Trung thành với Rabelais và đám Siêu thực: Những kẻ lục lọi những giấc mộng.

Tôi ngồi lật lật cuốn của Danilo Kis, cuốn sách cũ về suy tưởng, và có cảm tưởng đang ngồi với ông, trong một quán rượu gần Trocadéro, và ông đang nói với tôi bằng một giọng oang oang, gầm gừ, như muốn vặc vào mặt kẻ đối diện.
Trong tất cả những nhà văn lớn lao cùng thế hệ, Tây hay ngoại quốc, vào những năm 1980 sống ở Paris, ông là kẻ vô hình nhất. Vị nữ thần có tên là "Thời Sự" chẳng có lý do gì để mà giọi đèn vào mặt ông.
"Tôi không phải là một tên ly khai", ông nói.
Ông cũng chẳng phải một tên di dân. Ông đi lại thoải mái giữa Belgrade và Paris. Ông chỉ là một “nhà văn-đứa con tư sinh, écrivain bâtard, đến từ một thế giới chìm khuất, englouti, của Đông Âu”.
Cho dù chìm khuất, thế giới này, trong suốt cuộc đời của Danilo (ông mất năm 1989), là một cái hố đen chứa trọn thảm kịch Âu Châu. Nam Tư: cuộc chiến dai dẳng, đẫm máu (và chiến thắng) chống Nazi; Lò Thiêu, sát hại, nhất là, surtout, những người Do Thái Đông Âu (trong số họ, có bố ông); cuộc cách mạng Cộng Sản, tiếp theo liền, là cuộc đổ vỡ, cắt bào đoạn nghĩa, thật bi thảm (và cũng lại chiến thắng) với Staline và chủ nghĩa Stalinisme.
Với một dấu ấn giống như một vết chàm lên cơ thể như thế, bởi cái thảm kịch lịch sử như vậy, trọn đời ông, ông không hề hy sinh những cuốn tiểu thuyết của mình cho chính trị.
Từ đó, là số phận nghiệt ngã của ông, của những kẻ bị quên lãng ngay từ khi sinh ra: những thảm kịch riêng tư về thanh quản. Ông có thể đồng ý với Orwell, nhưng làm sao ông có thể yêu nổi 1984, cuốn tiểu thuyết của một phát ngôn viên chống lại chủ nghĩa toàn trị, pourfendeur du totalitarisme, nhưng lại giản lược cuộc sống con người chỉ còn có một chiều chính trị, y hệt như những tên "Mao ít" trên tthế giới.
Để chống lại sự hạ nhục con người, làm cho cuộc sống của nó trở thành hèn hạ, ông cầu cứu Rabelais, với những trò khôi hài, tiếu lâm, tức cười, nhóm siêu thực, những kẻ “lục lọi tiềm thức, những giấc mộng”.
Tôi lật những trang sách cũ của ông, và nghe giọng nói mạnh mẽ, chối tai của ông: “Thảm thay, cái giọng trưởng thượng, le ton majeur, của văn học Pháp, bắt đầu với Villon, đã biến mất”.
Khi ngộ ra điều trên, ông càng thêm trung thành với Rabelais, với siêu thực, những kẻ “lục lọi những giấc mộng”, và với xứ Nam Tư của ông, mắt cũng bị bịt kín, lầm lũi tiến vào cõi mất.
Kundera: Gặp Gỡ

V/v Bruno Sshulz & Kafka & Lò Thiêu & Viết

David Grossman kể, sau khi ông cho in tác phẩm đầu tay của ông, The Smile of the  Lamb, Nụ cười của con Cừu, thì có 1 độc giả cho biết, chắc chắn là ông bị ảnh hưởng [thuổng, thì nói đại như vậy] Bruno Schulz. Lúc đó Grossman chưa đọc Schulz.

Bèn đọc, và ngộ ra, đúng là Thầy của ông!
Có thể nói, Gấu cũng gặp y chang tao ngộ trên, khi đọc Faulkner, cuốn "Absalon, Absalon!".
Cứ như thể Faulkner viết cuốn sách để cho Gấu đọc, và cuốn sách chờ hoài, chờ hoài, để…  đọc Gấu!
Hà, hà!

(1) Edmund White so sánh “Nụ Cười Cừu” với “Âm Thanh và Cuồng Nộ” của Faulkner [lại F!], The Tin Drum, Cái Trống Thiếc của Grass, và Trăm Năm Cô Đơn của Garcia Marquez;  George Steiner gọi 1 cách giản dị, "một trong những lễ hội lớn của giả tưởng hiện đại". Cuốn sách bắt đầu với Momik, một đứa trẻ Israeli lớn lên dưới cái bóng của Lò Thiêu, chấm dứt với một bộ kỳ quái, gồm những “entries” [đầu vô] kể những cuộc phiêu lưu của những nhân vật trong sách của những đứa trẻ lớn tuổi nuôi 1 đứa trẻ ở trong vườn thú Warsaw, và xen vô, là những cuộc giải thoát, rescues, nhà văn Ba Lan Bruno Schulz, khỏi cái chết, bằng cách biến ông thành 1 con cá hồi, a salmon.

The Paris Review 4

*

Paris Review 4

David Grossman

Nghệ thuật giả tưởng

Năm 1987, để đánh dấu 20 năm Israel chiếm đóng West Bank và Gaza Trip, mấy tay chủ bút, chủ biên của tờ tuần báo Do Thái Koteret Rashit phái tiểu thuyết gia trẻ David Grossman tới West Bank, 7 tuần, “đi thực tế”.
Grossman, thông thạo tiếng Ả Rập, bèn làm những chuyến tham quan dân Palestine ở trại tị nạn, thành phố, vườn trẻ, đại học, cũng như đám định cư Do Thái ở trong những pháo đài chung quanh có giây kẽm gai [chắc cũng giống những khu định cư, kinh tế mới của đám Bắc Kít, sau 30 Tháng Tư 1975, Nam Tiến, tới những vùng đất cao nguyên Trung Phần, nơi chúng phá rừng trồng cà phê, hay trồng bất cứ cái khỉ gió gì miễn ra tiền và vô phúc cho một người bản địa nghèo đói nào lén vô là chúng thả chó ra, không chỉ cắn chết, mà còn xé xác ăn thịt!], và đám sĩ quan, binh lính Do Thái tuần tra những khu vực dành cho người Palestine. Thu hoạch của chuyến đi thực tế chiếm trọn một số báo, và gây chấn động trong đám Bắc Kít, ấy chết xin lỗi, Do Thái.
Grossman rất rành mạch, rõ ràng, trong những bài viết, về điều này:
"Dân Palestine hết còn chịu nổi rồi, hết còn ngoan ngoãn như lũ cừu rồi" [nguyên văn: "Người Palestine, ngày ngày đau đớn khổ sở vì những sự tàn ác dã man của đám chiếm đóng hàng thế hệ, sẽ không còn hiền lành, dễ bảo nữa, would be docile no more".]
“Đúng là một cú sốc”, Tom Segev, một trong những tay biên tập nói. “Cho đến lúc đó chúng tôi không hề biết họ thù ghét chúng tôi tới mức như vậy”

Năm tiếp theo năm đó, khi báo cáo của Grossman được xb bằng tiếng Anh, với cái tít trận Hoàng Phong, the Yelllow Wind, thì cuộc nổi dậy, intifada, của người Palestine đang tưng bừng hoa lá. Những gì Grossman viết trở thành tiên tri, “sấm Trạng Trình”, biến ông trở thành một tác giả tầm vóc thế giới.
*
Phỏng vấn viên:
Trong Nụ Cười của Cừu Non, The Smile of the Lamb, Uri [nhân vật chính] nói, “Nhà ở đâu, nói cho cùng?”, và Abner trả lời, nhà là khoảng trống rỗng giữa đầu cây viết và tờ giấy, home is the empty space between the tip of his pen and the paper. Đó là điều ông cảm nhận ư?
Grossman:
Nhà là nơi mà những người tôi yêu thương ở đó, home is where the people I love are. Càng về già, thế giới đó càng lạ lẫm, alien, và hơn thế nữa, tỏ ra thù nghịch đối với tôi. Câu chuyện mà tôi đang viết là một cái nhà khác, cho dù phải mất từ hai cho đến ba năm nó mới trở thành nhà. Tôi chẳng bao giờ cảm thấy cô đơn, trơ cu lơ một mình, khi tôi có câu chuyện của tôi, khi tôi biết giọng điệu, the tonus, của mọi nhân vật và ngôn ngữ.
Giọng điệu?
Giọng điệu, sức căng của bắp thịt, the tension of the muscles. Liền lập tức tôi cảm thấy mình được nối kết, connected, với những xao động, the emotional vibrations, của những con người ở Israel, điều mà tôi không thể cảm thấy khi ra nước ngoài.
Tuy nhiên, có vẻ như ông rất bị ảnh hưởng bởi những nhà văn của thế hệ Do Thái Lưu Vong [Jewish Diaspora]?
-Khi bạn sắp sửa ló dạng ra, như là một nhà văn, mọi người sẽ nói cho bạn biết, văn của bạn giống, hay, thôi thì nói đại, chôm của ai. Khi còn trẻ, tôi ngoan ngoãn lắm, và đồng ý với bất cứ điều gì mà người ta bảo tôi. Một tay làm việc cho đài truyền hình Do Thái, một người mới tới, a newcomer, từ Ba Lan, một bữa gọi điện thoại cho tôi, và cho biết, cuốn The Smile of the Lamb của tôi hiển nhiên là chịu ảnh hưởng của Bruno Schulz. Tôi nói, có thể. Tôi chưa từng đọc Bruno Schulz, và chẳng lẽ nói với tay đó, là mình dốt ư?
Ngay từ phút đầu tiên đọc Schulz, tôi cảm thấy như bị điện giật! Mỗi đoạn văn là một sự bùng nổ của những thực tại khác nhau - mộng, mị, ác mộng, tưởng tượng, quái tưởng, fantasy. Đọc ông ta khiến tôi muốn sống hơn, sống nữa, reading him made me want to live more. Rồi tôi đọc những câu chuyện về cái chết của ông. Ông ta được một sĩ quan Đức bảo bọc. Ông này đã từng giết một nha sĩ Do Thái của một viên sĩ quan Đức khác. Viên sĩ quan này bèn đi kiếm Schulz và bắn ông ta chết ngay trên đường phố. Bạn giết tên Do Thái của tớ thì tớ giết tên Do Thái của bạn.
 [Trên TV có một ấn bản khác nữa, nhưng cả hai đều xác nhận chuyện Schulz bị một viên sĩ quan Đức khác giết, và khi anh này nói với tay sĩ quan bảo trợ Schulz, hắn ta xua tay, nhằm nhò chi, để kiếm thằng Do Thái khác thay thế].
Khi đọc điều này, tôi cảm thấy quá đỗi thê lương. Tôi chẳng còn muốn sống trong một thế giới, nơi một chuyện như thế có thể xẩy ra, khi con người có thể thay thế, có sẵn đó, tùy nghi sử dụng, replaceable, disposable. Tôi cảm thấy tôi phải làm cái gì đó để cứu chuộc cái chết không cần thiết, và tàn nhẫn của ông ta [I must redeem his needless, brutal death]. Thế là tôi viết See Under: Love.
Tôi có thể nói cho bạn biết, trong hầu hết ngôn ngữ cuốn sách của tôi được dịch – chừng 14 thứ tiếng- trong vòng chừng 1 năm hay cỡ đó, là có một lần tái bản câu chuyện về Schulz.
Ui chao thật là ngọt ngào, thật là dễ thương đối với tôi, khi biết rằng cuốn sách của mình đã làm được một điều gì đó cho ông ta, sau khi ông ta làm điều cho tôi.
Ai, ngoài Sshulz ra, ảnh hưởng tới ông?
Kafka, tuy nhiên, thật khó mà kiếm thấy một nhà văn không bị ảnh hưởng bởi Kafka, ngay cả khi người này không viết cùng một cái văn phong như của Kafka. Kafka là một giai đoạn văn học mà bạn bắt buộc phải vuợt qua [Kafka is a literary stage you have to go through]. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra cái xen, Kafka đứng, hai tay trên bờ cửa sổ, nhìn bên trong vào cuộc đời [looking inside into life]. Như thể ông nhìn ra phía bên ngoài từ cái chết, ngay cả khi ông đang còn sống. Tôi chưa tìm ra điều này, ở bất cứ nhà văn nào khác.

Trong Chết như là Cách Sống, Death as a Way of Life, ông phán: “Tôi không thuộc về số người coi Lò Thiêu là một sự kiện đặc thù Do Thái”.

Grossman: Tôi không nghĩ, người ta có thể tách "tính Do Thái", the Jewishness, ra khỏi Lò Thiêu, the Shoah, nhưng đây là một sự kiện mắc mớ đến toàn nhân loại. Mọi người, bất cứ một người, ai cũng nên đặt ra cho chính mình, một vài câu hỏi liên quan tới Lò Thiêu. 

Source



Introduction

The death of Danilo Kis on October 15, 1989, at the age of fifty-four, wrenchingly cut short one of the most important journeys in literature made by any writer during the second half of the twentieth century. Born on the rim of the Yugoslav cauldron (in Subotica, near the frontier with Hungary) a few years before the Second World War to a Hungarian Jewish father (Kis is a Hungarian name), who perished in Auschwitz, and a Serb Orthodox mother from rural Montenegro, raised mostly in Hungary and in Montenegro, a graduate in literature of the university in Belgrade, where he made his debut as a writer, eventually a part-time expatriate, doing some teaching in France, and finally a full-time one, in Paris, where he lived his last ten years, Kis had a life span that matched, from start to finish, what might have been thought the worst the century had to offer his part of Europe: Nazi conquest and the genocide of the Jews, followed by Soviet takeover.
    1989, the year Kis died of cancer, was of course the annus mirabilis in which Soviet-style totalitarian rule ended in Central Europe. By mid-October, the collapse of what had seemed immutable was clearly underway; three weeks later, the Berlin Wall was torn down. It is comforting to think that he died knowing only the good news. Happily-it is the only thing about his premature death which gives some consolation-he didn't live to see the collapse of the multi-confessional, multi-ethnic state of which he was a citizen (his "mixed" origin made Kis very much a Yugoslav), and the return on European soil, in his own country, of concentration camps and genocide. An ardent foe of nationalist vanities, he would have loathed Serb ethnic fascism even more than he loathed the neo-Bolshevik official culture of the Second Yugoslavia it has replaced. It is hard to imagine that, if he were still alive, he could have borne the destruction of Bosnia.
    The amount of history, or horror, a writer is obliged to endure does not make him or her a great writer. But geography is destiny. For Kis there was no retreating from an exalted sense of the writer's place and of the writer's responsibility that, literally, came with the territory. Kis came from a small country where writers are for better and for worse important, with the most gifted becoming moral, and sometimes even political, legislators. Perhaps more often for worse: it was eminent Belgrade writers who provided the ideological underpinning of the Serbian genocidal project known as "ethnic cleansing." The complicity of most Serb writers and artists not in exile in the current triumph of Greater Serbian imperialism suggests that the anti-nationalist voices, of which Kis was the bravest and most eloquent, have always been in the minority.
Much as by temperament and exquisitely cosmopolitan literary culture he would have preferred a less embattled course, in which literature was kept separate from politics, Kis was always under attack and therefore, necessarily, on the attack. The first fight was against provincialism. This was not so much the provincialism of a small literature (for the former Yugoslavia produced at least two world- class prose writers, Ivo Andric and Miroslav Krleza) as of a state-supported, state-rewarded literature. It could be fought simply by his being the utterly independent, artistically ambitious writer he was, almost from the beginning. But worse attacks were to come.
    One of those writers who are first of all readers, who prefer dawdling and grazing and blissing out in the Great Library and surrender to their vocation only when the urge to write becomes unbearable, Kis was not what would be called prolific. In his lifetime he published nine books, seven of them in the fourteen years between 1962, when he was twenty-seven, and 1976, when he was forty-one. First came a pair of short novels, The Attic and Psalm 44 (published in 1962; not yet translated into English). The second book, Garden, Ashes (1965), was a novel. The third, Early Sorrows (1968, also not yet translated), was a book of stories. The fourth, Hourglass (1972), was a novel. The fifth and sixth were two collections of essays, Po-etika (1972) and Po-etika II (1974). The seventh, A Tomb for Boris Davidovich (1976), was a collection of thematically linked stories that his publishers chose to call a novel. He wrote it while an instructor in Serbo-Croatian at the University of Bordeaux, as he'd written Garden, Ashes when he taught at Strasbourg.
    By this time, Kis was spending more and more time abroad, though he did not consider himself to be in exile, any more than he would have said he was a "dissident writer": it was too clear to him that writing worthy of the name of literature had to be unofficial. With this seventh book, a suite of fictional case histories of the Stalinist Terror, Kis's work finally attracted the international attention it deserved. A Tomb for Boris Davidovich also attracted a seven-month-long campaign of negative attention back home in Belgrade. The campaign, which reeked of anti-Semitism, centered on an accusation, that the book was a web of plagiarisms from an arcane bibliography, to which Kis had no choice but to respond. The result was his eighth book, The Anatomy Lesson (1978). Defending A Tomb for Boris Davidovich against these scurrilous charges, Kis mounted a full-scale exposition of his literary genealogy (that is, his literary tastes), a post- or proto- modernist poetics of the novel, and a portrait of what a writer's honor could be. During the next ten years, he published only one more book, The Encyclopedia of the Dead (1984), a collection of unlinked stories.
    The Western European, and eventually North American, acclaim for A Tomb for Boris Davidovich-typically confining it within the literature of dissidence from "the other Europe"-had brought about translations of the earlier books into the major foreign languages, and Kis started to be invited to first-rank literary conferences, to win prizes, and to seem a plausible Nobel candidate. Becoming an internationally famous writer meant becoming a much interviewed writer. Asked to pronounce on literary matters and, invariably, to comment on the infamies back home, he did so with a rueful, always incisive combativeness-he gave splendidly substantive interviews. He was also asked to contribute short pieces to newspapers and magazines-treating no literary solicitation as ever less than an occasion for intensity. Recalling that Kis published only one book of fiction in the last decade of his life, one can't but regret that he gave as many interviews, wrote as many essays and prefaces, as he did. A poet in prose as well as a prince of indignation, Kis surely was not. best employed in these discursive forms. No great writer of fiction is. And unlike Italo Calvino and Thomas Bernhard, who were also lost to literature in the late 1980s, Kis had probably not yet done the best of what he was capable in fiction. But the novels and stories he did write still assure him a place alongside these two somewhat senior, far more prolific contemporaries- which is to say that Kis is one of the handful of incontestably major writers of the second half of the century.
    Kis had a complicated literary genealogy, which he was undoubtedly simplifying when he declared himself, as he often did, a child of Borges and of Bruno Schulz. But to marry the cosmopolitan Argentine to the immured small-town Polish Jew sounds the right note. Most obviously, he was claiming foreign relatives over his descendance from his native Serbo-Croatian literary family. Specifically, by yoking together the serenely, speculatively erudite Borges and the inward-looking, hyperdescriptive Schulz, he was pointing to the principal double strand in his own work. Odd mixtures were very much to Kis's taste. His "mixed" literary methods-most fully realized in Hourglass (historical fiction) and A Tomb for Boris Davidovich (fictional history)-gave him exactly the right freedoms to advance the cause of both truth and art. Finally: one can, in literature, choose one's own parents. But nobody obliges a writer to declare his or her parentage. Kis, however, had to proclaim his. Like every writer who is a great reader, he was an inveterate enthusiast about the work of others. His talent for admiration also made him an extremely collegial writer, which he expressed best in his numerous translations of contemporary writers he undertook from French, Hungarian, Russian, and English into Serbo-Croatian, In expatriation he was still really back home, in his head and in all his work-despite his lived estrangement from the literary world of his native country. He had never forsaken them, though they had betrayed him.
    When Kis died in Paris in 1989, the Belgrade press went into national mourning. The renegade star of Yugoslav literature had been extinguished. Safely dead, he could be eulogized by the mediocrities who had always envied him and had engineered his literary excommunication, and who would then proceed-as Yugoslavia fell apart-to become official writers of the new post- Communist, national chauvinist order. Kis is, of course, admired by everyone who genuinely cares about literature, in Belgrade as elsewhere. The place in the former Yugoslavia where he was and is perhaps most ardently admired is Sarajevo. Literary people there did not exactly ply me with questions about American literature when I went to Sarajevo for the first time in April 1993. But they were extremely impressed that I'd had the privilege of being a friend of Danilo Kis. In besieged Sarajevo people think a lot about Danilo Kis. His fervent screed against nationalism, incorporated into The Anatomy Lesson, is one of the two prophetic texts-the other is a story by Andric, "A Letter from 1920"-that one hears most often cited. As secular, multi-ethnic Bosnia-Yugoslavia's Yugoslavia-is crushed under the new imperative of one ethnicity lone state, Kis is more present than ever. He deserves to be a hero in Sarajevo, whose struggle to survive embodies the honor of Europe.
    Unfortunately, the honor of Europe has been lost at Sarajevo. Kis and like-minded writers who spoke up against nationalism and fomented-from-the-top ethnic hatreds could not save Europe's honor, Europe's better idea. But it is not true that, to paraphrase Auden, a great writer does not make anything happen. At the end of the century, which is the end of many things, literature, too, is besieged. The work of Danilo Kis preserves the honor of literature.

July 1994
Susan Sontag: Intro

Kis had a complicated literary genealogy, which he was undoubtedly simplifying when he declared himself, as he often did, a child of Borges and of Bruno Schulz.
Kis có 1 cái hệ phả văn học rắc rối, và ông  giản dị nó, bằng cách coi mình là hậu duệ của Borges và Bruno Schulz.

*

Trong khi chờ đọc bài Intro của Brodsky, bảnh hơn "Đêm giữa ban ngày, 1984"

Ghi chú trong ngày

* *

TLS đọc cuốn tiểu sử của Danilo Kis, của Mark Thompson: Giấy Khai Sinh: Chuyện của Danilo Kis.
Một giai thoại. Kis ghiền thuốc lá. Và phải Gitanes không đầu lọc Và ông giải thích: A man writes so that he can smoke. Nhưng lý do thực sự, theo tay điểm sách, là dù ở đâu, Paris hay New York Kis vẫn chỉ mình ên, Kis was still isolated. “Là 1 nhà văn Yugoslav ở Paris có nghĩa là mình ên"

Câu trên giải thích luôn cả trường hợp Camus, theo GCC. Ông là Tẩy, nhưng Tẩy “chân đen”, từ Algeria tới Paris, và không làm sao nhập vô được. Có thể vì lý do này, ông kết bạn với Milosz khi không ai dám chìa tay ra?

*

"Thiên tài của một thời điểm, kinh nghiệm, nơi chốn đặc biệt". Nadine Gordimer thổi Kis.
Trong Một cuộc gặp gỡ Kundera viết về ông:

Trung thành với Rabelais và đám Siêu thực: Những kẻ lục lọi những giấc mộng.

Tôi ngồi lật lật cuốn của Danilo Kis, cuốn sách cũ về suy tưởng, và có cảm tưởng đang ngồi với ông, trong một quán rượu gần Trocadéro, và ông đang nói với tôi bằng một giọng oang oang, gầm gừ, như muốn vặc vào mặt kẻ đối diện.
Trong tất những nhà văn lớn lao cùng thế hệ, Tây hay ngoại quốc, vào những năm 1980 sống ở Paris, ông là kẻ vô hình nhất. Vị nữ thần có tên là Thời Sự chẳng có lý do gì để mà giọi đèn vào mặt ông. "Tôi không phải là một tên ly khai", ông nói.
Ông cũng chẳng phải một tên di dân. Ông đi lại thoải mái giữa BelgradeParis. Ông chỉ là một “nhà văn-đứa con tư sinh, écrivain bâtard, đến từ một thế giới chìm khuất, englouti, của Đông Âu”. Cho dù chìm khuất, thế giới này, trong suốt cuộc đời của Danilo (ông mất năm 1989), là một cái hố đen chứa trọn thảm kịch Âu Châu. Nam Tư: cuộc chiến dai dẳng, đẫm máu (và chiến thắng) chống Nazi; Lò Thiêu, sát hại, nhất là, surtout, những người Do Thái Đông Âu (trong số họ, có bố ông); cuộc cách mạng Cộng Sản, tiếp theo liền, là cuộc đổ vỡ, cắt bào đoạn nghĩa, thật bi thảm (và cũng lại chiến thắng) với Staline và chủ nghĩa Stalinisme.
Với một dấu ấn giống như một vết chàm lên cơ thể như thế, bởi cái thảm kịch lịch sử như vậy, trọn đời ông, ông không hề hy sinh những cuốn tiểu thuyết của mình cho chính trị.
Từ đó, là số phận nghiệt ngã của ông, của những kẻ bị quên lãng ngay từ khi sinh ra: những thảm kịch riêng tư về thanh quản. Ông có thể đồng ý với Orwell, nhưng làm sao ông có thể yêu nổi 1984, cuốn tiểu thuyết của một phát ngôn viên chống lại chủ nghĩa toàn trị, pourfendeur du totalitarisme, nhưng lại giản lược cuộc sống con người chỉ còn có một chiều chính trị, y hệt như những tên Mao ít trên tthế giới. Để chống lại sự hạ nhục con người, làm cho cuộc sống của nó trở thành hèn hạ, ông cầu cứu Rabelais, với những trò khôi hài, tiếu lâm, tức cười, nhóm siêu thực, những kẻ “lục lọi tiềm thức, những giấc mộng”.
Tôi lật những trang sách cũ của ông, và nghe giọng nói mạnh mẽ, chối tai của ông: “Thảm thay, cái giọng trưởng thượng, le ton majeur, của văn học Pháp, bắt đầu với Villon, đã biến mất”.
Khi ngộ ra điều trên, ông càng thêm trung thành với Rabelais, với siêu thực, những kẻ “lục lọi những giấc mộng”, và với xứ Nam Tư của ông, mắt cũng bị bịt kín, lầm lũi tiến vào cõi mất.

Kundera: Gặp Gỡ

Danilo Kis kể chuyện tiếu lâm, thời gian ở Paris, ông nhận "thư nhà", từ Nam Tư, một phong bì dán tem, đóng dấu bưu điện hẳn hoi. Mở ra, trang thư thứ nhất, là con dấu, với những dòng chữ như sau: Thư này không bị kiểm duyệt.
Câu chuyện tiếu lâm, tưởng như đùa đó thực sự đã xẩy ra, với một ông Danilo Kis mũi tẹt nào đó, trở về trong nước, và mang những trang sách đã từng được xuất bản tại hải ngoại, và trình nhà nước, để được đóng dấu chứng nhận:
Những trang sách này ở hải ngoại chưa "bị", nay xin, "được", kiểm duyệt!

*

Danilo Kis, Paris, 1985

A Genius from Four Countries
May 23, 2013
Charles Simic.

Bài này tuyệt lắm.

Thiên tài văn chương Kis đã từng được Susan Sontag vinh danh. Bây giờ tới lượt Simic gọi ông là thiên tài từ bốn xứ sở. Còn chính Kis, thì gọi mình là “giống hiếm”, “ethnographic rarity".

Bỏ ra ngoài cái chuyện tự thổi, thì những định nghĩa về mình như vậy, rất quan trọng đối với 1 người viết. TTT chẳng gọi mình là đứa con tư sinh của 1 miền đất ư? Một nhận xét như thế, tiên tri ra cả 1 giống nhà văn, bị ruồng bỏ, và tự ruồng bỏ.

Kis phán, “Không có sự cực nhọc thời thơ ấu chiến tranh, tôi đếch thèm làm nhà văn”, “If not for the hardships of a wartime childhood,” Kiš once told an interviewer, “I’d never have become a writer.”




*

Đọc Ngôi Mộ, mê quá, bèn order đọc tiếp.
Đi liền 1 đường về Flaubert, nhân mới ghé Blog NL

There are few writers whose every word counts. Danilo Kis is one of them. That is why this posthumous collection of essays and interviews is part of the wonderful, dashing coherence of his fiction. He raised awe and ire as a truly passionate intellectual and imaginative spirit among European writers of his generation.
-Nadine Gordimer 
The way Kis proceeds, and how far he goes, testifies as much to the intensity of this writer's imagination-fueled by obstacles, by the finite itself-as to the omnivorousness of his eye and memory. His pen, often literally verging into eternity, does to his characters what nearly every
known creed aspires to do to the human soul: it extends their existence, it erodes our sense of death's impenetrability.
-Joseph Brodsky 
These brief responses constitute a whole breviary of the writer's responsibility; Kis wrote small but thought large, and his map of cultural estrangement-crystallized, witty, quick-is not so much criticism, though the essays on Sade and Nabokov are the best of that, as designs for survival. A fierce and remedial desk-top pillow-book!
-Richard Howard
[Lời giới thiệu bìa sau]

Two Variations on Flaubert

IDIOTS AND MARTYRS

Until Flaubert, literature was a whole (recall Balzac), a totality of world and being, a pillar of life and society on the order of army, government, philosophy, state, family. With Flaubert began an age of "decadence" that has lasted to the present. Literature lost its dominance, its integrality. Literature has had a hard time learning to live with the tragic awareness of a paradise lost. Witness Flaubert's vain attempt-through the work itself (Bouvard and Pécuchet, for example)-to recover its totalitarian status, its now unthinkable universality. He seemed not to realize that the world had been smashed to smithereens, that a previous static model had been forced into motion, that the age of the fixed easel was gone forever. He hoped to repair the zerbrochener Krug, the shattered jug, at all costs. Hence his style, hence his martyrdom. If prose did not disappear entirely after Balzac, we have mainly Flaubert to thank for it.
    "Decadent" literature, born with Flaubert, has lasted, through Joyce, to the present. Aware of a unity gone for- ever and reconciled with the loss. Aware that it is doomed to fragmentation, yet hoping by means of fragmentation to provide a comprehensive vision of the world and humanity. In The Temptation of St. Anthony Flaubert used documents from the past to locate a possible fixed point in this world of inconstant structures, thereby founding a literary school Foucault calls "the Fantasia of the Library." Flaubert thus taught us that style is an entity unto itself and ushered us into an extended family of idiots and martyrs.

1980

FLAUBERT AND BORGES

Thanks mainly to his correspondence and to the traces of creative effort clearly visible in his manuscripts, Flaubert's quest for the mot juste, the right word, and his affres de style, torments of style, are now legendary. His unique creative drive resulted from a suspicion he could never quite shake: that there was a gap between his intentions ("No one has ever imagined a more perfect type of prose than I") and his practice. Poor Flaubert believed the fault lay somewhere in him, in his talent; he did not realize that after Stendhal and Balzac a certain form of fiction was on its way out. The genre itself, as the formalists would say, had begun to weaken.
    Flaubert appeared on the scene too early and, though within reach of a solution, was unable to make break with the tradition of the realistic genre. His weakness stemmed from doubt: he sensed the arbitrary nature and the limitations of the psychological novel. Hence his flight into the exotic, where-because the reader could not hold them to the psychological standards of the age -characters had greater integrity, greater freedom of action.
    Yet even in Madame Bovary he came to express implicit doubt as to the omniscience of the narrator and the art of psychological portraiture, those most pernicious and persistent of literary conventions. The further the plot progresses, the more his doubt intrudes. As the psychology of his protagonist eludes him, clear-cut statements ("She began to think of Les Bertaux") are hedged ever more frequently by expressions of equivocation ("Should she write to her father? It was too late, and perhaps she regretted not having given herself to the man," or "She had let herself be seduced by his words and even more by his voice, by his whole personality, so much so that she pretended to believe him or perhaps did believe the reasons for their parting").
    One word, perhaps, was the first step on the road from psychological to modern fiction. By pointing up the abyss between the omniscient and the skeptical ("unreliable") narrator, it served as a sign that the genre was aging, a strand of gray in the luxuriant tresses of the realist classics.
Had Flaubert compressed the vast edifice of his exotic novel into a story reporting the contents of an imaginary and complex work entitled The Temptation of St. Anthony, had he reduced the material for Bouvardand Pécuchet to a story explicitly containing part of that material (which is easy to imagine, given that the Borgesian idea of "presenting false bibliographic data as genuine" had in fact occurred to Flaubert), literature would not have had to wait a century for Borges's Ficciones.

1986

Vargas Llosa mê "Bà Bô" quá, bèn viết lại nó 1 lần nữa:

The Nobel Prize in Literature 2010
Mario Vargas Llosa

Cũng xin nói ngay, không quan tâm, không phải tôi nghĩ Vargas Llosa không xứng đáng. Không phải. Từ lâu tên tuổi ông đã vang dội khắp thế giới và được xem là một trong vài cây bút viết văn xuôi bằng tiếng Tây Ban Nha vĩ đại nhất trong nửa thế kỷ vừa qua. Tôi chưa đọc cuốn tiểu thuyết nào của ông, nhưng lại đọc khá nhiều tiểu luận và các bài ông trả lời phỏng vấn. Thích. Thấy, ở ông, cả sự uyên bác lẫn sự lịch lãm; cả sự sâu sắc lẫn sự tinh tế, vừa rất sách vở vừa rất đời thường. Nói chung, tôi phục ông. Hơn nữa, mến ông.
NHQ

Phán kiểu ‘huề vốn’, ‘vô tội vạ’ như thế này, thì chẳng cần đọc Vargas Llosa!
GNV có thể mượn cái đoạn gạch đít trên, áp dụng vào chính.... NHQ, cũng đặng! (1)
Hà, hà!

(1)
GNV thử lập lại, coi có... ngon cơm không:
Thích. Thấy, ở Thầy Cuốc, cả sự uyên bác lẫn sự lịch lãm; cả sự sâu sắc lẫn sự tinh tế, vừa rất sách vở vừa rất đời thường. Nói chung, Gấu tôi phục Thầy Cuốc. Hơn nữa, mến Thầy Cuốc!

Ui chao, sao thấy ngượng miệng quá!

Từ trước giờ, chưa thấy Thầy Cuốc nhắc tới Vargas Llosa, và thực sự mà nói, GNV không nghĩ, ông đọc Vargas Llosa, và nếu có, thì qua trang TV.
Tay NL viết, trong Blog của mình, ông không phải là fan của Vargas Llosa, và tôi nghĩ, đúng. Thời của Vargas Llosa qua rồi. Như 1 tay mũi lõ nào đó nói, cho muộn quá!
Một cách nào đó, cho Vargas Llosa, là cho… Sartre, sau khi ông từ chối, và chết, từ đời nảo đời nào rồi. Cho là cho cái tinh thần nhập cuộc, dấn thân, từ hiện sinh mà ra. Báo Tây nhận ra điều này.
Bởi thế, ngay Vargas Llosa mà còn ngạc nhiên, này đừng có nói rỡn cha nội!
*

Mario Vargas Llosa, The Art of Fiction No. 120
*
*

When the Era Was an Era
The Feast of the Goat
by Mario Vargas Llosa, translated from the Spanish by Edith Grossman.
Farrar, Straus and Giroux, 404 pp., $25.00
Alastair Reid
NYRB Nov 29, 2001

*
*

Phu Nhân ở Somerset
Vargas Llosa

Miss Trask đâu có thì giờ để làm công tác xã hội với những người lối xóm. Hay để ngồi lê đôi mách về giá cả cuộc sống thường nhật, bữa này thịt cá hơi bị mắc, hay không làm sao kiếm được một bó rau muống, hay ca cẩm về đám trẻ bây giờ mất dậy quá, "anh anh tôi tôi" với cả bậc tiên chỉ!
Bởi vì mỗi phút của cuộc đời của cô thì đều được tập trung cao độ về những đam mê bất khả: búng tay một cái là dúm tro than kia biến mất, và Bông Hồng Đen lại xuất hiện, trước cặp mắt mừng rỡ đến phát khùng phát điên lên được của anh cu Gấu!
Làm sao đám người “mưa đêm tỉnh lẻ” lại có thể đem đến cho Miss Trask, những ngôi nhà đỉnh gió hú, những cánh rừng ma, những rừng thông Đà Lạt, và chiếc tắc xi già, nặng nhọc leo lên đến đầu con dốc, là hết hơi , bèn từ từ lùi xuống: Phải tưởng tượng thằng cu Gấu hạnh phúc [Tưởng tượng gì nữa, khi có BHD ngồi kế bên!]

*

Trang Tin V
ăn giới thiệu hơi kỹ về Vargas Llosa, nhưng, thú thực, ông này thua xa Steiner, nếu nói về viết tiểu luận
.


Note: Bài viết này, Tin Văn scan, post, tính dịch, mới đây, thấy Thầy Phúc dịch, đăng trên Da Màu.
Cách nhìn của Vargas Llosa, về lưu vong, chưa tới, và nguyên nhân, chính là do ông không cảm nhận được
kinh nghiệm Lò Thiêu, như là 1 kinh nghiệm về viết văn, đúng như thế.
Lò Thiêu là 1 hiện tượng của thế kỷ 20. Bạn sống thế kỷ
đó, là bạn sẽ viết thứ văn chuơng đó. Và cái bản chất của văn chương thế kỷ 20 là lưu vong.
Những câu phán của Solz, nhà văn là nhà nước trong 1 nhà nước, hay của Linda Lê, tôi mang đứa bé chết Mít ở trong tôi, không mang tính chính trị, mà là nói lên bản chất của văn chương.


NMG vs Lưu vong

Có lẽ chẳng bao giờ NMG ngộ ra một điều rằng, lưu vong chính là điều kiện cốt tử của văn chương. Bạn Thế Quân trong một bài trên Da Mầu,  tưởng niệm nhà thơ Mahmoud Darwish, chẳng đã viết ra điều đó sao:

“Lưu vong phải được hiểu xa hơn khái niệm địa lý. Bạn vẫn có thể là một kẻ lưu vong ngay chính trên quê hương bạn, ngay chính trong nhà bạn, chính trong phòng bạn. Đó không đơn giản chỉ là vấn đề Palestine. Tôi nghiện lưu vong chăng? Có thể lắm!” Tình trạng lưu vong, theo ông, vừa ác vừa hiền, vừa kéo ông ra khỏi nhà lại vừa nuôi dưỡng nghệ thuật của ông. “Lưu vong chẳng phải là một trong những nguồn suối của sáng tạo văn chương trong lịch sử đó sao? Kẻ nào sống hài hòa với xã hội của mình quá, với văn hóa của mình quá, với chính mình quá, không thể là một người sáng tạo. Và điều đó sẽ vẫn đúng ngay cho dù quê hương của chúng ta là vườn Địa Đàng chăng nữa!”.

V/v Lưu vong
Nhớ, có lần lèm bèm về lưu vong, được 1 độc giả gửi cái mail, khen, đọc Tn Văn, bây giờ tôi mới hiểu lưu vong nghĩa là gì.
Tks. NQT

Cách nhìn lưu vong, của Bolano, cũng bảnh hơn Vargas Llosa:

Lưu vong không có nghĩa là biến mất, mà là co rúm lại, thu mình mãi lại, từ từ hay mau lẹ, sao cho nhỏ mãi đi, cho tới khi “đạt thân”, nghĩa là, có cái chiều cao thực của mình, cái chiều cao thực của cái ngã, cái tôi, cái tao, cái mày. Swift, sư phụ của lưu vong, hiểu rõ điều này. Với ông, lưu vong là từ bí ẩn dành cho cái từ thông thường là “đi”.

Mọi văn chương, bất cứ thứ chó nào, nếu đúng là văn chương, đều cưu mang trong nó, cái gọi là lưu vong, cho dù nhà văn khăn gói lên đường bỏ chạy quê hương vào lúc hai mươi, tóc còn xanh mướt, hay là cả đời chưa rời nhà.

Thiên tài văn chương Kis đã từng được Susan Sontag vinh danh. Bây giờ tới lượt Simic gọi ông là thiên tài từ bốn xứ sở. Còn chính Kis, thì gọi mình là “giống hiếm”, “ethnographic rarity".
Bỏ ra ngoài cái chuyện tự thổi, thì những định nghĩa về mình như vậy, rất quan trọng đối với 1 người viết. 

TTT chẳng đã tự gọi mình là đứa con tư sinh của 1 miền đất ư? Một nhận xét như thế, tiên tri ra cả 1 giống nhà văn, bị ruồng bỏ, và tự ruồng bỏ.

Kis phán, “Không có sự cực nhọc thời thơ ấu chiến tranh, tôi đếch thèm làm nhà văn”, “If not for the hardships of a wartime childhood,” Kiš once told an interviewer, “I’d never have become a writer."

Tuyệt!

Ba trăm năm sau, thiên hạ đọc Gấu Cà Chớn, vẫn còn run lên bần bật, vì sợ hỏa tiễn VC rớt trúng đầu!

Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy... 

Hà, hà!

A Tomb for Boris Davidovich   

translated from the Serbian by Duška Mikić-Mitchell, with an introduction by Joseph Brodsky and an afterword by William T. Vollmann
Dalkey Archive, 145 pp., $12.95 (paper)

Introduction

When, after great difficulties, this book was first published in 1976, in Zagreb, Yugoslavia, it was immediately assaulted in the press by the conservative "Stalinist" elements at the top echelon of the Yugoslav literary hierarchy. The war cry emanating from the top was picked up at the bottom by Serbo-Croatian nationalists, who are traditionally pro-Russian and traditionally anti-Semitic, for the bulk of Danilo Kis's characters are Jews, as is the author himself. Yugoslavia is a small country, and the politics in a small country are always big, literary politics especially. Due to this proportion, an attack against a writer becomes extremely focused. It was focused sharply enough to send Danilo Ki] into "nervous shock."
    There are several topics an author may deal with which can jeopardize his well-being, and history is one of them. Depending on its proximity to the present, history provides a writer with background, content, cast of characters, and sometimes, as in the case of Kis, with the writer's actual context. The very fact of describing historical events is regarded by history as an attempt to demote it into the past and is' resisted vehemently. An historical novel becomes therefore a vehicle of time, an instrument that purports to outline the boundaries between past and present by means of estrangement from its subject. A narrative reduces history to a story and creates, by being conducted from a certain "outside," a new time category, heretofore unknown.
    Apart from the general "cause-and-effect" principle, history claims the present through its most viable extension: through ideology. Having failed to triumph at the moment of its emergence, an ideology rapidly develops what one may call a utopian complex and gravitates to timelessness. Correspondingly, a portrayal of ideology or of its carriers is considered by the latter as an attempt to pin it down, to compromise its purity, and to rob it of its future.
    In the case of A Tomb for Boris Davidovich, history's claim on the present may seem all the more valid because the epoch with which this book 'deals isn't really so ancient.
Its author, a Yugoslav writer, Danilo Kis, describes events that took place in the first half of this century and their impact on the lives of his seven characters. For all seven the impact turned out to be the same: deadly.
    Ostensibly, since 'the dead, by definition, belong to the past, the sheer numbers of that epoch's victims should have removed the described period, along with the ideology that animated it, deep into annals. What usually slows the passage of time and by the same token causes an ideology to linger, however, is not so much that the murderers often outlive the murdered as that the living mistakenly regard the dead in the same way as a majority regards a minority.


           Apart from general geopolitical reasons, ideology plays an important role in the life of Yugoslavia, for this small country is a federal republic III more ways than one. It harbors a dozen nationalities along with a corresponding number of creeds, groups of ethnic affiliations, and an array of variously impotent political parties, with the Union of Yugoslavian Communists in charge. Needless to say, all these national groups have a lot of old and new scores to settle. Every ideological stance is therefore considerably tinged with nationalism, and vice versa. A charge of distorting the historical truth may conceal a pan-Slavic nostalgia, an anti-Semitic remark turns out to be a muffled way to voice a secessionist dream, and sometimes the only way for a Macedonian to express his disgust with a Montenegrin is to accuse the latter of revisionism. In other words, every formal charge is but the tip of a very substantial iceberg of real hatred.
    From the outside the storm over A Tomb for Boris Davidovich seems all the more peculiar because this book has literally nothing to do with Yugoslavia and its internal situation. None of its characters are Yugoslav: They are Poles, Russians, Rumanians, Irish, Hungarians; most of them are of Jewish origin. None of them ever set foot in Yugoslavia. Basically, A Tomb for Boris Davidovich is an abbreviated fictionalized account of the self-destruction of that berserk Trojan horse called Comintern. The only thing that its passengers-the heroes of Danilo Kis's novel have in common with this small country is the ideology that this country professes today and in the name of which they were murdered yesterday. Apparently, that was enough to infuriate the faithful.


            So in the absence of familiar turf and being unable to argue over the book's substance (for fear of calling too much public attention to it), those faithful, led by the then chairman of the Yugoslav Union of Writers, went on assaulting this book on literary grounds and accused its author of plagiarism. The list of allegedly plagiarized authors was impressive and included Aleksandr Solzhenitsyn, James Joyce, Nadezhda Mandelstam, Jorge Luis Borges, the Medvedev brothers, and others.
    For one thing, an author capable of aping writers so diverse within the space of a J 35-page novel deserves every kind of commendation. Also, unsound as it is, this list reveals something important about the accusers themselves: their between-the-chairs nonaligned cultural stance, a kind of missing-link position between East and West. However, precisely because of their provincialism, with its weakness for generalization and for treating all remote objects as concepts or symbols, this list deserves more than simple mockery.
    It is understandable, for instance, why they mention Joyce: One of Kis's characters is Irish, and even for a Yugoslav party official, Joyce today is a synonym for Ireland as,well as for Western culture's decadence. The presence of Borges is of a less obvious nature and is intended to compromise the book stylistically by trying to reduce the vignette technique that Kis employs in his cautionary tales to a mannerism borrowed from a remarkable Argentinian, but this is utter nonsense. Kis is a great stylist, and the fabric of his writing has more in common with Franz Kafka or Bruno Schulz or with the writers of the French roman nouveau than with anyone in the Third World. Besides, to attack Danilo Kis's prose in A Tomb for Boris Davidovich is a kind of delayed reaction: If anything, his writing here is a lot more sparse than in his Garden, Ashes, a veritable gem of lyrical prose, the best book produced on the Continent in the postwar period. The more pertinent names on that list, in other words, are the Russian ones, yet again for reasons that have nothing to do with the book's texture and all to do with its core.
    At first glance A Tomb for Boris Davidovich may indeed seem like a spin-off from The First Circle, The Gulag Archipelago (as yet unpublished in Yugoslavia), Nadezhda Mandelstarn's Hope against Hope, and the Medvedev brothers' various writings. The point is that the bulk of the novel has to do with the fate of several people who perished during the Great Terror of the late 1930s. For an account of that the sources are unfortunately mostly Russian. With sixty million dead in the civil war, collectivization, the Great Terror, and things in between, Russia in this century has produced enough history to keep the literati all over the world busy for several generations. The aforesaid authors already belong to the second generation. The first was Arthur Koestler's, and several chapters of the Kis book bear a general resemblance to Darkness at Noon, although surpassing it in both horrifying detail and narrative skill.


            The process of transforming Russian history of this period into the new mythology of our civilization is well under way in A Tomb for Boris Davidovich. What simplifies its author's task is that apart from being chronologically modern, this history also displays signs of a considerable modernism, manifested by the distinct surrealism of its metamorphoses and the utterly antiheroic nature of its archetypes. Due to the numbers involved, it is safe to say that there was hardly ever an epoch in human history when fear and duplicity were so pervasive and voluminous.
    Although it is arguable that this history has delivered a new religion (as so many claim), it inflicted upon the human race and human psyche a destruction of a mythological scope, and on these grounds alone this history qualifies for a new creed. Sooner or later, every upheaval ends up in a work of fiction. The most disturbing thing about this particular book, however, is the unbearable and, because of that" paradoxically appropriate excellence of Kis's prose, which provides his moribund metamorphoses with additional beauty.
    By virtue of his place and time alone, Danilo Kis is able to avoid the faults of urgency which considerably marred the works of his listed and unlisted predecessors. Unlike them, he can afford to treat tragedy as a genre, and his art is more devastating than statistics. Kis writes in an extremely condensed and therefore highly allusive fashion. Since he deals in biographies, the last bastions of realism, each of his vignettes sounds like a miniaturized Bildungsroman accomplished by a movie-like montage of shrewdly chosen details that allude both to the actual and to the literary experiences of his reader. Here is a typical passage describing the early years of one of his heroes, a Hungarian German, Karl Taube, a would-be member of the Comintern :

. . . the provincial bleakness of the Middle European towns at the turn of the century emerges clearly from the depths of time: the gray, one-story houses with back yards that the sun in its slow journey divides with a clear line of demarcation into quarters of murderous light and damp, moldy shade resembling darkness; the rows of black locust trees which at the beginning of spring exude, like thick cough syrups and cough drops, the musky smell of childhood diseases; the cold, baroque gleam of the pharmacy where the Gothic of the white porcelain vessels glitters; the gloomy high school with the paved yard (green, peeling benches, broken swings resembling gallows, and whitewashed wooden outhouses) ; the municipal building painted Maria-Theresa yellow, the color of the dead leaves and autumn roses from ballads played at dusk by the gypsy band in the open-air restaurant of the Grand Hotel.
    Like so many provincial children, the pharmacist's son, Karl Taube, dreamed about that happy day when, through the thick lenses of his glasses, he would see his town from the bird's-eye view of departure and for the last time, as one looks through a magnifying glass at dried-out and absurd yellow butterflies from one's school collection: with sadness and disgust.
    In the autumn of 1920, at Budapest's Eastern Station he boarded the first-class car of the Budapest-Vienna Express. The moment the train pulled out, the young Karl Taube waved once more to his father (who was disappearing like a dark blot in the distance, waving his silk handkerchief), then quickly carried his leather suitcase into the third-class car and sat down among the workers.


            The blend of nostalgia and doom in this passage, wryly entitled "Pictures from the Album," gives a fairly good idea of Danilo Kis's writing technique. If die symbolism of the pharmacist's son abandoning his seat in order to join the workers is a purely prosaic device to indicate this revolutionary-to-be's predicament, the perception of the father "disappearing like a, dark blot in the distance" is outright poetry. With his emphasis on imagery and detail, combined with ironic detachment, Danilo Kis's obviously poetic prose puts his horrid subject matter into the most adequate perspective by alerting the reader to this prose's own intelligence. Thus, the reader's ethical evaluation of the phenomena described ceases to be merely a matter of his distraught sentiment and comes out as a judgment made by his profoundly offended supreme human faculties. It is not that the thought is felt but, rather, that the feeling is thought.


            Unlike prose, poetry doesn't so much express an emotion as absorb it linguistically. In this sense, Kis's writing is essentially a poetic type of operation, and the vignettes of which the chapters of his book consist could be read and appreciated separately as short poems. Some passages could be simply memorized. What prevents one from regarding this book as a prose poem, however, is neither its subject matter (which is still out of reach no matter how avant-garde as poetry) nor its typically prosaic coherence; it is mostly Danilo Kis's own undercutting technique, to which he resorts when a vignette approaches real sublimity. All the same, A Tomb for Boris Davidovich is built like a long dramatic poem crowned with that really monstrous, terrifying "rhyme" of cabalistic coincidence in "Dogs and Books," which achieves what the best poetry usually achieves: the metaphysical impact of the last lines that gape, along with their reader's mind, into pure chronos-which is presumably a formula for equating art to human reality.
    The standard perception of tragedy, as distinct from a regular existence, is that it is a violation of time. In the case of A Tomb for Boris Davidovich, whose superb prose nearly overshadows the story itself, tragedy almost gets redefined as an occasion for time's high eloquence. A hero-or, more precisely, a victim-suddenly emerges from the reticence of ordinary life as a spokesman of time's arbitrary opposition to human presence in it. Since the usual incongruity between living matter and the matter of time (normally manifested by death) can be elucidated only by the latter, the description of the tools time employs for such an undertaking (historical events, ideologies, etc.) requires an appropriately lucid condensation of the language. It is a fairly disquieting thought that in Danilo Kis we have a writer whose skills are adequate to those of time itself.
    Perhaps the only service a real tragedy renders in leaving its survivors as speechless as its victims is that of furthering its commentators' language. The least that can be said about A Tomb for Boris Davidovich is that it achieves aesthetic comprehension where ethics fail. Of course, the mastery of language can hardly pass for a safeguard in our enterprising century; but at least it creates a possibility of response, without which people are bound to remain slaves of their experience. By having written this book, Danilo Kis simply suggests that literature is the only available tool for the cognition of phenomena whose size otherwise numbs your senses and eludes human grasp.
    A Tomb for Boris Dauidooicb is a very dark book, and its only happy end is that it was published and now so splendidly translated into English by Duska Mikic-Mitchell.
It is surely a strange realm for an English reader to enter, but so it was for the millions and millions who found themselves inside it. Unlike them, an English reader can leave it whenever he likes by closing this book, finished or unfinished. Only the names here are fictitious. The story, unfortunately, is absolutely true; one would wish it were the other way around.

JOSEPH BRODSKY

Basically, A Tomb for Boris Davidovich is an abbreviated fictionalized account of the self-destruction of that berserk Trojan horse called Comintern.
Cơ bản mà nói, "Một Nấm Mồ cho Me-Xừ
Boris Davidovich" là 1 kết toán rút gọn của sự tự huỷ diệt của con ngựa Thành Troie khùng, có tên là Quốc Tế CS.

At first glance A Tomb for Boris Davidovich may indeed seem like a spin-off from The First Circle, The Gulag Archipelago (as yet unpublished in Yugoslavia), Nadezhda Mandelstarn's Hope against Hope, and the Medvedev brothers' various writings. The point is that the bulk of the novel has to do with the fate of several people who perished during the Great Terror of the late 1930s. For an account of that the sources are unfortunately mostly Russian. With sixty million dead in the civil war, collectivization, the Great Terror, and things in between, Russia in this century has produced enough history to keep the literati all over the world busy for several generations. The aforesaid authors already belong to the second generation. The first was Arthur Koestler's, and several chapters of the Kis book bear a general resemblance to Darkness at Noon, although surpassing it in both horrifying detail and narrative skill.

The process of transforming Russian history of this period into the new mythology of our civilization is well under way in A Tomb for Boris Davidovich.
Cái tiến trình chuyển hóa lịch sử Nga thời kỳ này, thành 1 huyền thoại mới của văn minh của chúng ta, thì đã được Kis thực thi tới chỉ trong Một Nấm Mồ 

Bảnh hơn Đêm giữa Ngọ, 1984, và luôn cả tiểu thuyết mới của Tẩy!

A Tomb for Boris Dauidooicb is a very dark book, and its only happy end is that it was published and now so splendidly translated into English by Duska Mikic-Mitchell.

Bài Intro quá tuyệt, hà, hà!

*

Trong khi chờ đọc bài Intro của Brodsky, bảnh hơn "Đêm giữa ban ngày, 1984"

Ghi chú trong ngày

* *

TLS đọc cuốn tiểu sử của Danilo Kis, của Mark Thompson: Giấy Khai Sinh: Chuyện của Danilo Kis.
Một giai thoại. Kis ghiền thuốc lá. Và phải Gitanes không đầu lọc Và ông giải thích: A man writes so that he can smoke. Nhưng lý do thực sự, theo tay điểm sách, là dù ở đâu, Paris hay New York Kis vẫn chỉ mình ên, Kis was still isolated. “Là 1 nhà văn Yugoslav ở Paris có nghĩa là mình ên"

Câu trên giải thích luôn cả trường hợp Camus, theo GCC. Ông là Tẩy, nhưng Tẩy “chân đen”, từ Algeria tới Paris, và không làm sao nhập vô được. Có thể vì lý do này, ông kết bạn với Milosz khi không ai dám chìa tay ra?

*

"Thiên tài của một thời điểm, kinh nghiệm, nơi chốn đặc biệt". Nadine Gordimer thổi Kis.
Trong Một cuộc gặp gỡ Kundera viết về ông:

Trung thành với Rabelais và đám Siêu thực: Những kẻ lục lọi những giấc mộng.

Tôi ngồi lật lật cuốn của Danilo Kis, cuốn sách cũ về suy tưởng, và có cảm tưởng đang ngồi với ông, trong một quán rượu gần Trocadéro, và ông đang nói với tôi bằng một giọng oang oang, gầm gừ, như muốn vặc vào mặt kẻ đối diện.
Trong tất những nhà văn lớn lao cùng thế hệ, Tây hay ngoại quốc, vào những năm 1980 sống ở Paris, ông là kẻ vô hình nhất. Vị nữ thần có tên là Thời Sự chẳng có lý do gì để mà giọi đèn vào mặt ông. "Tôi không phải là một tên ly khai", ông nói.
Ông cũng chẳng phải một tên di dân. Ông đi lại thoải mái giữa BelgradeParis. Ông chỉ là một “nhà văn-đứa con tư sinh, écrivain bâtard, đến từ một thế giới chìm khuất, englouti, của Đông Âu”. Cho dù chìm khuất, thế giới này, trong suốt cuộc đời của Danilo (ông mất năm 1989), là một cái hố đen chứa trọn thảm kịch Âu Châu. Nam Tư: cuộc chiến dai dẳng, đẫm máu (và chiến thắng) chống Nazi; Lò Thiêu, sát hại, nhất là, surtout, những người Do Thái Đông Âu (trong số họ, có bố ông); cuộc cách mạng Cộng Sản, tiếp theo liền, là cuộc đổ vỡ, cắt bào đoạn nghĩa, thật bi thảm (và cũng lại chiến thắng) với Staline và chủ nghĩa Stalinisme.
Với một dấu ấn giống như một vết chàm lên cơ thể như thế, bởi cái thảm kịch lịch sử như vậy, trọn đời ông, ông không hề hy sinh những cuốn tiểu thuyết của mình cho chính trị.
Từ đó, là số phận nghiệt ngã của ông, của những kẻ bị quên lãng ngay từ khi sinh ra: những thảm kịch riêng tư về thanh quản. Ông có thể đồng ý với Orwell, nhưng làm sao ông có thể yêu nổi 1984, cuốn tiểu thuyết của một phát ngôn viên chống lại chủ nghĩa toàn trị, pourfendeur du totalitarisme, nhưng lại giản lược cuộc sống con người chỉ còn có một chiều chính trị, y hệt như những tên Mao ít trên tthế giới. Để chống lại sự hạ nhục con người, làm cho cuộc sống của nó trở thành hèn hạ, ông cầu cứu Rabelais, với những trò khôi hài, tiếu lâm, tức cười, nhóm siêu thực, những kẻ “lục lọi tiềm thức, những giấc mộng”.
Tôi lật những trang sách cũ của ông, và nghe giọng nói mạnh mẽ, chối tai của ông: “Thảm thay, cái giọng trưởng thượng, le ton majeur, của văn học Pháp, bắt đầu với Villon, đã biến mất”.
Khi ngộ ra điều trên, ông càng thêm trung thành với Rabelais, với siêu thực, những kẻ “lục lọi những giấc mộng”, và với xứ Nam Tư của ông, mắt cũng bị bịt kín, lầm lũi tiến vào cõi mất.

Kundera: Gặp Gỡ

Danilo Kis kể chuyện tiếu lâm, thời gian ở Paris, ông nhận "thư nhà", từ Nam Tư, một phong bì dán tem, đóng dấu bưu điện hẳn hoi. Mở ra, trang thư thứ nhất, là con dấu, với những dòng chữ như sau: Thư này không bị kiểm duyệt.
Câu chuyện tiếu lâm, tưởng như đùa đó thực sự đã xẩy ra, với một ông Danilo Kis mũi tẹt nào đó, trở về trong nước, và mang những trang sách đã từng được xuất bản tại hải ngoại, và trình nhà nước, để được đóng dấu chứng nhận:
Những trang sách này ở hải ngoại chưa "bị", nay xin, "được", kiểm duyệt!

*

Danilo Kis, Paris, 1985

A Genius from Four Countries
May 23, 2013
Charles Simic.

Bài này tuyệt lắm.

Thiên tài văn chương Kis đã từng được Susan Sontag vinh danh. Bây giờ tới lượt Simic gọi ông là thiên tài từ bốn xứ sở. Còn chính Kis, thì gọi mình là “giống hiếm”, “ethnographic rarity".

Bỏ ra ngoài cái chuyện tự thổi, thì những định nghĩa về mình như vậy, rất quan trọng đối với 1 người viết. TTT chẳng gọi mình là đứa con tư sinh của 1 miền đất ư? Một nhận xét như thế, tiên tri ra cả 1 giống nhà văn, bị ruồng bỏ, và tự ruồng bỏ.

Kis phán, “Không có sự cực nhọc thời thơ ấu chiến tranh, tôi đếch thèm làm nhà văn”, “If not for the hardships of a wartime childhood,” Kiš once told an interviewer, “I’d never have become a writer.”

Danilo Kis

*

TLS đọc cuốn tiểu sử của Danilo Kis, của Mark Thompson: Giấy Khai Sinh: Chuyện của Danilo Kis.
Một giai thoại. Kis ghiền thuốc lá. Và phải Gitanes không đầu lọc Và ông giải thích: A man writes so that he can smoke. Nhưng lý do thực sự, theo tay điểm sách, là dù ở đâu, Paris hay New York Kis vẫn chỉ mình ên, Kis was still isolated. “Là 1 nhà văn Yugoslav ở Paris có nghĩa là mình ên"

Câu trên giải thích luôn cả trường hợp Camus, theo GCC. Ông là Tẩy, nhưng Tẩy “chân đen”, từ Algeria tới Paris, và không làm sao nhập vô được. Có thể vì lý do này, ông kết bạn với Milosz khi không ai dám chìa tay ra?

*

"Thiên tài của một thời điểm, kinh nghiệm, nơi chốn đặc biệt". Nadine Gordimer thổi Kis.
Trong Một cuộc gặp gỡ Kundera viết về ông:

Trung thành với Rabelais và đám Siêu thực: Những kẻ lục lọi những giấc mộng.

Tôi ngồi lật lật cuốn của Danilo Kis, cuốn sách cũ về suy tưởng, và có cảm tưởng đang ngồi với ông, trong một quán rượu gần Trocadéro, và ông đang nói với tôi bằng một giọng oang oang, gầm gừ, như muốn vặc vào mặt kẻ đối diện.
Trong tất những nhà văn lớn lao cùng thế hệ, Tây hay ngoại quốc, vào những năm 1980 sống ở Paris, ông là kẻ vô hình nhất. Vị nữ thần có tên là Thời Sự chẳng có lý do gì để mà giọi đèn vào mặt ông. "Tôi không phải là một tên ly khai", ông nói.
Ông cũng chẳng phải một tên di dân. Ông đi lại thoải mái giữa BelgradeParis. Ông chỉ là một “nhà văn-đứa con tư sinh, écrivain bâtard, đến từ một thế giới chìm khuất, englouti, của Đông Âu”. Cho dù chìm khuất, thế giới này, trong suốt cuộc đời của Danilo (ông mất năm 1989), là một cái hố đen chứa trọn thảm kịch Âu Châu. Nam Tư: cuộc chiến dai dẳng, đẫm máu (và chiến thắng) chống Nazi; Lò Thiêu, sát hại, nhất là, surtout, những người Do Thái Đông Âu (trong số họ, có bố ông); cuộc cách mạng Cộng Sản, tiếp theo liền, là cuộc đổ vỡ, cắt bào đoạn nghĩa, thật bi thảm (và cũng lại chiến thắng) với Staline và chủ nghĩa Stalinisme.
Với một dấu ấn giống như một vết chàm lên cơ thể như thế, bởi cái thảm kịch lịch sử như vậy, trọn đời ông, ông không hề hy sinh những cuốn tiểu thuyết của mình cho chính trị.
Từ đó, là số phận nghiệt ngã của ông, của những kẻ bị quên lãng ngay từ khi sinh ra: những thảm kịch riêng tư về thanh quản. Ông có thể đồng ý với Orwell, nhưng làm sao ông có thể yêu nổi 1984, cuốn tiểu thuyết của một phát ngôn viên chống lại chủ nghĩa toàn trị, pourfendeur du totalitarisme, nhưng lại giản lược cuộc sống con người chỉ còn có một chiều chính trị, y hệt như những tên Mao ít trên tthế giới. Để chống lại sự hạ nhục con người, làm cho cuộc sống của nó trở thành hèn hạ, ông cầu cứu Rabelais, với những trò khôi hài, tiếu lâm, tức cười, nhóm siêu thực, những kẻ “lục lọi tiềm thức, những giấc mộng”.
Tôi lật những trang sách cũ của ông, và nghe giọng nói mạnh mẽ, chối tai của ông: “Thảm thay, cái giọng trưởng thượng, le ton majeur, của văn học Pháp, bắt đầu với Villon, đã biến mất”.
Khi ngộ ra điều trên, ông càng thêm trung thành với Rabelais, với siêu thực, những kẻ “lục lọi những giấc mộng”, và với xứ Nam Tư của ông, mắt cũng bị bịt kín, lầm lũi tiến vào cõi mất.

Kundera: Gặp Gỡ

Danilo Kis kể chuyện tiếu lâm, thời gian ở Paris, ông nhận "thư nhà", từ Nam Tư, một phong bì dán tem, đóng dấu bưu điện hẳn hoi. Mở ra, trang thư thứ nhất, là con dấu, với những dòng chữ như sau: Thư này không bị kiểm duyệt.
Câu chuyện tiếu lâm, tưởng như đùa đó thực sự đã xẩy ra, với một ông Danilo Kis mũi tẹt nào đó, trở về trong nước, và mang những trang sách đã từng được xuất bản tại hải ngoại, và trình nhà nước, để được đóng dấu chứng nhận:
Những trang sách này ở hải ngoại chưa "bị", nay xin, "được", kiểm duyệt!

*

Danilo Kis, Paris, 1985

A Genius from Four Countries
May 23, 2013
Charles Simic.

Bài này tuyệt lắm.

Thiên tài văn chương Kis đã từng được Susan Sontag vinh danh. Bây giờ tới lượt Simic gọi ông là thiên tài từ bốn xứ sở. Còn chính Kis, thì gọi mình là “giống hiếm”, “ethnographic rarity".

Bỏ ra ngoài cái chuyện tự thổi, thì những định nghĩa về mình như vậy, rất quan trọng đối với 1 người viết. TTT chẳng gọi mình là đứa con tư sinh của 1 miền đất ư? Một nhận xét như thế, tiên tri ra cả 1 giống nhà văn, bị ruồng bỏ, và tự ruồng bỏ.

Kis phán, “Không có sự cực nhọc thời thơ ấu chiến tranh, tôi đếch thèm làm nhà văn”, “If not for the hardships of a wartime childhood,” Kiš once told an interviewer, “I’d never have become a writer.”

Danilo Kis

Kafka's Jewishness was a kind of dream, whose authentic moment was located always in the nostalgic past. His survey of the insectile situation of young Jews in Inner Bohemia can hardly be improved upon: "With their posterior legs they were still glued to their father's Jewishness, and with their waving anterior legs they found no new ground."
Zadie Smith: “F. Kafka, Everyman” [trong "Changing my mind"]

Tính Do Thái của Kafka thì như 1 thứ giấc mơ mà khoảnh khắc thực sự của nó thì luôn luôn bám vào quá khứ hoài nhớ. Như “survey”của chính Kafka, về tình trạng con bọ, the insectile situation, của thế hệ trẻ Do Thái, ở Inner Bohemia: Những cái chân sau của chúng thì còn dính vô tính Do Thái của người cha, những chân trước, đong đưa, chẳng biết đâu mà bám vô.

Liệu cũng có 1 cái thứ tính Bắc Kít, như thế, đối với những đứa con tư sinh của Miền Bắc?

Alienation from oneself, the conflicted assimilation of migrants, losing one place without gaining another ... This feels like Kafka in the genuine clothes of an existential prophet, Kafka in his twenty-first-century aspect (if we are to assume, as with Shakespeare, that every new century will bring a Kafka close to our own concerns). For there is a sense in which Kafka's Jewish question ("What have I in common with Jews?") has become everybody's question, Jewish alienation the template for all our doubts." What is Muslimness? What is femaleness? What is Polishness? What is Englishness? These days we all find our anterior legs flailing before us. We're all insects, all Ungeziefer, now.

Vong thân từ chính mình, di dân vất vả hội nhập, mất một nơi chẳng có được 1 nơi khác....  Cảm thấy như 1 tên Kafka trong bộ đồ thứ thiệt của một nhà tiên tri tồn tại, Kafka trong dáng dấp của thế kỷ 21 (nếu chúng ta giả dụ, như với Shakespeare, mọi thế kỷ mới đều mang tới 1 Kafka cận kề với những quan tâm của riêng chúng ta).

.... that every new century will bring a Kafka close to our own concerns. Cứ mỗi thế kỷ mới lại lòi ra 1 ông Kafka, “dai như đỉa, làm phiền chúng ta hoài”: Liệu đó cũng là TTT, của chúng ta, của thế kỷ bám vào con số 1954?
Hay của Kiệt, trong "Một Chủ Nhật Khác", tên lưu vong bò về để chết lãnh nhách trên quê hương?

Gấu dọc Zadie Smith, lần đầu tiên, là bài bà viết về Greene, trên Guardian, bài sau được dùng là Tựa cho cuốn Người Mỹ Trầm Lặng [This essay by Zadie Smith is her introduction to a new centenary edition of The Quiet American by Graham Greene which will be published by Vintage on October 7]. Tình cờ, Gấu thấy đấng Phạm Toàn dịch bài này cho talawas, và dịch sai 1 câu, làm ngược hẳn nghĩa. (1)

Cái kiểu sai sót này rất thường gặp. GCC vừa bị 1 cú khi dịch bài thơ tặng Gấu Cái, và được vị thân hữu, và cũng là sư phụ về tiếng Anh của Gấu, sa giùm. (2)

Tks again, hà hà!

(2)

*

Harper's April 2013

Vô đề

Tất cả những gì tớ muốn
Là nhậu với bà xã của tớ

Một ly rượu đỏ không bao giờ cạn
Cả hai trên sàn nhà

Những tên cà chớn sẽ nghĩ thế nào?
Khi nhìn hai đứa tớ?

Đời của hai đứa mi mới thê thảm làm sao
Chán chường và lầm lạc

Khi bà xã tớ phải đi ra phố
Và tớ ở nhà
Tớ chỉ muốn khóc

Trăng kia, trên tàng cây
Sao ánh trăng chua xót đến như thế

Chẳng có cuốn sách nào
Hôn tớ được như bà xã tớ hôn tớ.

Bài này mà tặng "Ngày Của Vợ", giống như “Ngày Của Mẹ", nhỉ?
*
Trong bài thơ Vô Đề,
Theo K cái câu có chữ "squares" có nghĩa là :
"Kệ cha mấy tên cà chớn chê cười tụi mình . Đời tụi nó trông mà chán chết ."
Hà hà

Tks a lot.
Take care, both of U
NQT

Trở lại với Zadie Smith. Greene, 1 cách nào đó, là Thầy của Gấu. Thế là bèn mò đọc thêm về Zadie Smith. Mua vài cuốn của bà, trong có cuốn Changing my mind, On beauty… Hoá ra bà này còn mê cả Barthes. Rồi lại thấy Thầy Đạo dịch ZS trên Gió O nữa chớ!

Zadie Smith

Roland Barthes, 1 giới thiệu cực ngắn

Trong bài viết về Bếp Lửa của TTT, từ những năm 1970, Gấu nhận ra, số phận [sự thất bại] của cuốn này, BL, 'y hệt' cuốn La Nausée.
Susan Sontag cũng nhận ra điều này, mắc mớ giữa Sartre và Barthes:
… Although Barthes agrees with Sartre that the writer's vocation has an ethical imperative, he insists on its complexity and ambiguity. Sartre appeals to the morality of ends. Barthes invokes "the morality of form"- what makes literature a problem rather than a solution; what makes literature.
Zadie Smith cũng nhận ra mối tương quan giữa Sartre, nhóm tiểu thuyết mới, Barthes – 1 phát ngôn viên của nhóm - như trong bài viết về Barthes và Nabokov. Bà cũng thú nhận, Barthes là 1 favorite của mình, ngay từ khi còn ngồi ghế nhà trường.

Lần kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100, Graham Greene, 2004, nhà Vintage vinh danh ông, bèn đi cả 1 đường xuất bản những tác phẩm của ông, mỗi cuốn như thế, là 1 bài tựa, tức 1 bài phê bình thần sầu, được 1 tác giả lừng danh, viết.
Khổ cho túi tiền của những độc giả nào mê Greene, như Gấu, và cũng thật sướng mê tơi!
Bài của Zadie Smith mà chẳng tuyệt cú mèo sao?

Shades of Greene

Bài của Coetzee, in trong tập tiểu luận Inner Workings của ông, về cuốn Brighton Rock (1938) của Greene, cũng thật đã.

Simon Leys cũng đã từng đi 1 đường về cuốn này, TV có lèm bèm ri. (1)

(1)

Người viết làm quen với Greene những ngày học trung học, qua tác phẩm "Người thứ ba", câu chuyện về một người đàn ông truy tìm thủ phạm đã sát hại bạn thân của mình, rút cục khám phá ra, chính cái tay bạn thân của mình, đã dùng kế kim thuyền thoát xác, tức là giết địch thủ, rồi để lại giấy tờ của mình cho cái xác chết, và tiếp tục giết hàng triệu triệu trẻ em trên thế giới, qua trò sản xuất, và tung ra khắp thế giới, loại thuốc trụ sinh dởm…

Qua tin báo chí, viên tướng tình báo cộng sản, Phạm Xuân Ẩn, trước nằm vùng tại miền nam, có gặp gỡ phái đoàn quay phim, khi đang được quay tại Sài Gòn và cho biết, ông có chứng kiến vụ nổ bom trên, và cho biết thêm, ông biết nhà văn Graham Greene là gián điệp Anh. Điều này thế giới đều biết, vì Greene cũng chẳng giấu. Nhưng chi tiết trên chứng tỏ, Ẩn đã hoạt động gián điệp từ lâu. Và cái việc, vào giờ chót, ông ta đưa Trần Kim Tuyến, trùm mật vụ thời ông Diệm, lên máy bay ra nước ngoài, chứng tỏ một điều: hai người có thể đã hiểu rõ nhau từ khuya!

Gần mực thì đen, như người Việt nói. Theo nghĩa đó, đa số những ông ký giả, nhà văn thường có một "nghề tay trái": làm gián điệp. Phạm Xuân Ẩn, tướng cộng sản nằm vùng tại miền nam qua vai trò ký giả tờ Time, lại không được như Greene: ông không biết viết văn! Ông đành nhờ một "văn hữu", là Nguyễn Khải, viết giùm. Và Phạm Xuân Ẩn ở ngoài đời biến thành nhân vật Quân, ở trong Thời Gian Của Người. Nguyễn Khải, theo như người viết được biết, cũng là một chức sắc trong ngành công an. Ông đã từng viết về đạo Cao Đài, trong cuốn "Tường trình về một cái chết" (?), theo kiểu điều tra của "cớm" ("cop")! Phạm vi bài viết không cho phép phê bình tài viết văn của ông, nhưng rõ ràng kém so với Greene.

Simon Leys, tác giả cuốn Protée et Autres Essais, được giải thưởng Goncourt về tiểu luận của Tây (2001), cho rằng Greene thật tuyệt vời, khi mở ra, và đóng lại, một cuốn tiểu thuyết. Ai đã từng thử qua cái thú viết lách, chắc đều nhận ra, câu mở đầu thật quan trọng, và khó khăn vô cùng. Bạn cứ mở ra được, là viết được... một cuốn tiểu thuyết, hay nói một cách khiêm tốn, một cái truyện ngắn.

"Những người khác có thể làm thành một cuốn sách", Leys trích dẫn Gide, trong "Khung Của Hẹp", theo ý, bạn chỉ cần vớ được một câu thôi, ở trong một cuốn mà bạn đang cầm trên tay, là có thể mở ra một cuốn của riêng bạn. (Borges còn hào phóng hơn, khi cho rằng, chỉ cần đọc một câu của Shakespeare thôi, là bạn trở thành Shakespeare).

Leys kể, một lần lục lọi một tiệm sách, ông vớ được một cuốn của Chesterton mà ông chưa từng được hân hạnh rờ tay vô. Chỉ nội câu mở đầu, là ông vội vàng chạy tới quầy trả tiền, và sau đó, chạy vội ra khỏi cửa tiệm, rinh ngay cái kho tàng, là cuốn sách, về nhà. Câu đầu như thế này: "Cái giống người, mà hằng hà sa số họ, là độc giả của tôi"!

Đúng là một câu văn hiển hách, nhất là đối với những nhà văn mà độc giả chưa đếm hết mấy đầu ngón tay, dù đã kể cả bà xã và những đứa con thân thương của mình! Nhưng Leys tự hỏi, liệu có cuốn sách nào xứng đáng với một câu mở đầu như vậy, (nguyên văn: Liệu hai trăm trang của một cuốn tiểu thuyết vẫn còn run lên bần bật sau một cú đánh sấm sét như thế?)

Trở lại với Greene, không phải chỉ câu mở mà câu cuối, cũng tuyệt vời. Leys thí dụ cuốn Brighton Rock. Rose, nhân vật chính, là một cô gái ngây thơ (naive) và dịu dàng, mê thảm mê thương một tay găng tơ trẻ, nhận được món quà đầu tiên trong đời, từ người tình độc ác đó: một dĩa nhạc ba xu (loại dĩa nhựa ngày xưa), mà cô nghĩ, trong đó ghi lại những lời tỏ tình đắm đuối mà anh chàng dành cho cô, nhưng độc giả, chính anh ta (chính chúng ta), đã được tác giả bật mí, chỉ là những câu nói tục tĩu, dơ bẩn, nhắm vào cô gái đáng thương. Tay găng tơ bị giết. Rose, quá tuyệt vọng, trở về căn phòng của mình, với niềm an ủi, ít ra mình cũng còn giữ được tí kỷ niệm, là tiếng nói của chàng. Cuốn sách kết thúc bằng câu văn như vầy: "Nàng bước vội trong ánh mặt trời nhạt nhoà của một ngày tháng sáu, về với điều còn ghê tởm hơn cả sự ghê tởm."

Cách kết thúc truyện của Greene, như trong Brighton Rock, theo Leys, là để cho độc giả thở phào, không phải một, mà tới hai lần. Ông dùng thuật ngữ "fins à double détente", (tạm dịch: kết cục theo kiểu thư giãn kép), theo đó, kết thúc thực sự không nằm ở câu chót của cuốn sách, mà là ở đâu đó, vài giây sau, ở trong sự tưởng tượng của người đọc. Kỹ thuật này dành cho những cuốn tiểu thuyết - giống như một trái bom cực kỳ độc địa, một khi đã nổ ra, hậu quả thật là khủng khiếp nhưng không tức thời, mà là sau đó. Một thứ bom nổ chậm. Áp dụng "kỹ thuật" này vào thời điểm 1975, có thể nói hậu quả tức thời là miền nam, hậu quả tiếp theo, là cả nước đều khốn khổ khốn nạn vì nó.

Leys cho rằng, những nhà văn cưu mang trong lòng một viễn ảnh nội tâm, là những nhà văn số một. "Với họ, viết luôn luôn là một hoạt động khắc khoải, ám ảnh, và họ thực hiện nó, trong tình trạng giống như mù lòa, tuân theo sự dẫn dắt của vô thức. Viết là một tình trạng mở nồi hơi, xả xú báp, mở toang an toàn, nhờ vậy mà họ giữ được lẽ phải, lý trí. Và nếu họ không viết, thì họ nghẹt thở, và chết. Trường hợp của Greene, và của những nhà văn như Georges Simenon, Julien Greene – nhân cách của họ đều rất đỗi khác biệt – cho thấy rõ điều trên."

Tiểu thuyết của họ liên tục ám ảnh trí nhớ của chúng ta. Nhưng những gì chúng ta nhớ về chúng, không phải là những từ, những chữ, những câu văn kêu như chuông, mà là một hình ảnh hiện lên bức màn là trí tưởng tượng của chúng ta. Một giai thoại về ông cho thấy rõ điều này: Khi còn là một ký giả (một nhà điểm phim) tối tăm, chưa được người đời chiếu cố tới, trong lần đầu gặp nhà đạo diễn Alexander Korda, ông này hỏi Greene có cái gì (une idée) làm thành một chuyện phim (scénario), ông bèn đưa ra đoạn mở như sau: "Đó là một buổi sáng sớm, trên sân ga xe lửa Paddington số 1. Sân ga trống trơn, ngoại trừ một người đàn ông đứng đợi chuyến tầu chót từ xứ Galles tới. Những giọt máu từ phía trên, từ phía bên trong chiếc áo khoác của ông ta nhỏ xuống thành một vũng." "Vậy hả, rồi sao?" Rõ ràng là trí tưởng tượng, tính tò mò của tay sản xuất bị "cắn" trúng! "Thì còn nữa chứ", ông trả lời, nhưng chính ông cũng chưa biết, nó sẽ ra làm sao... "Câu chuyện cần phải gia giảm thêm, và làm cho nó thành hình...". Cuộc gặp gỡ đó đã tạo nên tình bạn giữa hai người, đưa đến việc thực hiện cuốn phim "Người Thứ Ba" phỏng theo tiểu thuyết của Greene.

Chúng ta chẳng hề biết, tiếp theo cái đoạn mở trên, về câu chuyện một kẻ lạ, đứng chờ chuyến tầu chót từ Galles, trên sân ga cô liêu, vào một buổi sáng, sớm ơi là sớm, nhưng cái hình ảnh đó, và những giọt máu thánh thót rơi xuống, và vũng máu đọng trên sân ga, cứ ám ảnh chúng ta hoài. Độc giả của Thanh Tâm Tuyền, thí dụ vậy, nếu đã từng đọc truyện ngắn Dọc Đường của ông, chắc chắn giữ mãi ở trong trí tưởng tượng của mình, hình ảnh một người đàn ông ôm bọc quần áo, lỡ độ đường, không nhà nào dám chứa, mà mỗi lần hỏa châu rọi sáng, in lên nền trời.

Graham Greene

Để tưởng nhớ mình hương

Trở lại Anh, Greene nhớ Việt Nam quá và đã mang theo cùng với ông một cái tẩu hít tô phe, như là một kỷ niệm tình cảm: cái tẩu mà ông đã hít lần chót, tại một tiệm hít ngoài đường Catinat. Tay chủ, người Tầu hợp với ông, và ông đã đi vài đường dậy tay này vài câu tiếng Anh. Tới ngày rời Việt Nam, tay chủ tiệm hít bèn giúi vào tay Greene cái tẩu. Cây gậy thiêng nằm trên một cái dĩa tại căn phòng của Greene, ở Albany, bị sứt mẻ tí tí, do di chuyển, đúng là một thần vật cổ, của những ngày hạnh phúc.

Nostalgie de la boue

Ways of Escape


Trong Tẩu Vi Thượng Sách, Greene có kể về mối tình của ông đối với Miền Nam Việt Nam, và từ đó, đưa đến chuyện ông viết Người Mỹ Trầm Lặng…
Tin Văn post lại ở đây, như là một dữ kiện, cho thấy, Mẽo thực sự không có ý ‘giầy xéo’ Miền Nam.
Và cái cú đầu độc tù Phú Lợi, hẳn là ‘diệu kế’ của đám VC nằm vùng.
Cái chuyện MB phải thống nhất đất nước, là đúng theo qui luật lịch sử xứ Mít, nhưng, do dùng phương pháp bá đạo mà hậu quả khủng khiếp 'nhãn tiền’ như ngày nay!

Ui chao, lại nhớ cái đoạn trong Tam Quốc, khi Lưu Bị thỉnh thị quân sư Khổng Minh, làm cách nào lấy được xứ... Nam Kỳ, Khổng Minh bèn phán, có ba cách, vương đạo, trung đạo, và bá đạo [Gấu nhớ đại khái].
Sau khi nghe trình bầy, Lê Duẩn than, vương đạo khó quá, bụng mình đầy cứt, làm sao nói chuyện vương đạo, thôi, bá đạo đi!

Cú Phú Lợi đúng là như thế! Và cái giá của mấy anh tù VC Phú Lợi, giả như có, là cả cuộc chiến khốn kiếp!




*

"Thiên tài của một thời điểm, kinh nghiệm, nơi chốn đặc biệt". Nadine Gordimer thổi Kis.

Trung thành với Rabelais và đám Siêu thực: Những kẻ lục lọi những giấc mộng.

Tôi ngồi lật lật cuốn của Danilo Kis, cuốn sách cũ về suy tưởng, và có cảm tưởng đang ngồi với ông, trong một quán rượu gần Trocadéro, và ông đang nói với tôi bằng một giọng oang oang, gầm gừ, như muốn vặc vào mặt kẻ đối diện.
Trong tất cả những nhà văn lớn lao cùng thế hệ, Tây hay ngoại quốc, vào những năm 1980 sống ở Paris, ông là kẻ vô hình nhất. Vị nữ thần có tên là "Thời Sự" chẳng có lý do gì để mà giọi đèn vào mặt ông.
"Tôi không phải là một tên ly khai", ông nói.
Ông cũng chẳng phải một tên di dân. Ông đi lại thoải mái giữa BelgradeParis. Ông chỉ là một “nhà văn-đứa con tư sinh, écrivain bâtard, đến từ một thế giới chìm khuất, englouti, của Đông Âu”.
Cho dù chìm khuất, thế giới này, trong suốt cuộc đời của Danilo (ông mất năm 1989), là một cái hố đen chứa trọn thảm kịch Âu Châu. Nam Tư: cuộc chiến dai dẳng, đẫm máu (và chiến thắng) chống Nazi; Lò Thiêu, sát hại, nhất là, surtout, những người Do Thái Đông Âu (trong số họ, có bố ông); cuộc cách mạng Cộng Sản, tiếp theo liền, là cuộc đổ vỡ, cắt bào đoạn nghĩa, thật bi thảm (và cũng lại chiến thắng) với Staline và chủ nghĩa Stalinisme.
Với một dấu ấn giống như một vết chàm lên cơ thể như thế, bởi cái thảm kịch lịch sử như vậy, trọn đời ông, ông không hề hy sinh những cuốn tiểu thuyết của mình cho chính trị.
Từ đó, là số phận nghiệt ngã của ông, của những kẻ bị quên lãng ngay từ khi sinh ra: những thảm kịch riêng tư về thanh quản. Ông có thể đồng ý với Orwell, nhưng làm sao ông có thể yêu nổi 1984, cuốn tiểu thuyết của một phát ngôn viên chống lại chủ nghĩa toàn trị, pourfendeur du totalitarisme, nhưng lại giản lược cuộc sống con người chỉ còn có một chiều chính trị, y hệt như những tên "Mao ít" trên tthế giới.
Để chống lại sự hạ nhục con người, làm cho cuộc sống của nó trở thành hèn hạ, ông cầu cứu Rabelais, với những trò khôi hài, tiếu lâm, tức cười, nhóm siêu thực, những kẻ “lục lọi tiềm thức, những giấc mộng”.
Tôi lật những trang sách cũ của ông, và nghe giọng nói mạnh mẽ, chối tai của ông: “Thảm thay, cái giọng trưởng thượng, le ton majeur, của văn học Pháp, bắt đầu với Villon, đã biến mất”.
Khi ngộ ra điều trên, ông càng thêm trung thành với Rabelais, với siêu thực, những kẻ “lục lọi những giấc mộng”, và với xứ Nam Tư của ông, mắt cũng bị bịt kín, lầm lũi tiến vào cõi mất.
Kundera: Gặp Gỡ

TTT đã dùng từ "tư sinh", để chỉ ông, Bắc Kít di cư, những đứa con hoang của Đất Bắc.
Kis cũng coi ông là đứa con hoang, đến từ một thế giới chìm khuất, englouti, của Đông Âu.

Cái lý do TTT không cho xb Ung Thư là ở chỗ đó: Cái miền đất đó, những con người ở đó, trong có những đấng bạn quí của ông, ở lại, từ chối ông.

Như những đấng bạn quí của Gấu đếch thèm chơi với Gấu, khi Gấu làm đệ tử Cô Ba!

Trong 1 lần, nói chuyện qua điện thoại, khi Gấu ra được ngoài này, Gấu có hỏi, mấy đấng bạn cũ của anh ở lại Hà Nội, có ai vô Trại Tù thăm anh không, TTT bật cười, sức mấy mà chúng dám!

Kafka's Jewishness was a kind of dream, whose authentic moment was located always in the nostalgic past. His survey of the insectile situation of young Jews in Inner Bohemia can hardly be improved upon: "With their posterior legs they were still glued to their father's Jewishness, and with their waving anterior legs they found no new ground."
Zadie Smith: “F. Kafka, Everyman” [trong "Changing my mind"]

Tính Do Thái của Kafka thì như 1 thứ giấc mơ mà khoảnh khắc thực sự của nó thì luôn luôn bám vào quá khứ hoài nhớ. Như “survey”của chính Kafka, về tình trạng con bọ, the insectile situation, của thế hệ trẻ Do Thái, ở Inner Bohemia: Những cái chân sau của chúng thì còn dính vô tính Do Thái của người cha, những chân trước, đong đưa, chẳng biết đâu mà bám vô.

Liệu cũng có 1 cái thứ tính Bắc Kít, như thế, đối với những đứa con tư sinh của Miền Bắc?

Alienation from oneself, the conflicted assimilation of migrants, losing one place without gaining another ... This feels like Kafka in the genuine clothes of an existential prophet, Kafka in his twenty-first-century aspect (if we are to assume, as with Shakespeare, that every new century will bring a Kafka close to our own concerns). For there is a sense in which Kafka's Jewish question ("What have I in common with Jews?") has become everybody's question, Jewish alienation the template for all our doubts." What is Muslimness? What is femaleness? What is Polishness? What is Englishness? These days we all find our anterior legs flailing before us. We're all insects, all Ungeziefer, now.

Vong thân từ chính mình, di dân vất vả hội nhập, mất một nơi chẳng có được 1 nơi khác....  Cảm thấy như 1 tên Kafka trong bộ đồ thứ thiệt của một nhà tiên tri tồn tại, Kafka trong dáng dấp của thế kỷ 21 (nếu chúng ta giả dụ, như với Shakespeare, mọi thế kỷ mới đều mang tới 1 Kafka cận kề với những quan tâm của riêng chúng ta).

.... that every new century will bring a Kafka close to our own concerns. Cứ mỗi thế kỷ mới lại lòi ra 1 ông Kafka, “dai như đỉa, làm phiền chúng ta hoài”: Liệu đó cũng là TTT, của chúng ta, của thế kỷ bám vào con số 1954?
Hay của Kiệt, trong "Một Chủ Nhật Khác", tên lưu vong bò về để chết lãnh nhách trên quê hương?

*
Danilo Kis kể chuyện tiếu lâm, thời gian ở Paris, ông nhận "thư nhà", từ Nam Tư, một phong bì dán tem, đóng dấu bưu điện hẳn hoi. Mở ra, trang thư thứ nhất, là con dấu, với những dòng chữ như sau: Thư này không bị kiểm duyệt.
Câu chuyện tiếu lâm, tưởng như đùa đó thực sự đã xẩy ra, với một ông Danilo Kis mũi tẹt nào đó, trở về trong nước, và mang những trang sách đã từng được xuất bản tại hải ngoại, và trình nhà nước, để được đóng dấu chứng nhận:
Những trang sách này ở hải ngoại chưa "bị", nay xin, "được", kiểm duyệt!

*

Danilo Kis, Paris, 1985

A Genius from Four Countries
May 23, 2013
Charles Simic.

Bài này tuyệt lắm.

Thiên tài văn chương Kis đã từng được Susan Sontag vinh danh. Bây giờ tới lượt Simic gọi ông là thiên tài từ bốn xứ sở. Còn chính Kis, thì gọi mình là “giống hiếm”, “ethnographic rarity".

Bỏ ra ngoài cái chuyện tự thổi, thì những định nghĩa về mình như vậy, rất quan trọng đối với 1 người viết. TTT chẳng gọi mình là đứa con tư sinh của 1 miền đất ư? Một nhận xét như thế, tiên tri ra cả 1 giống nhà văn, bị ruồng bỏ, và tự ruồng bỏ.

Kis phán, “Không có sự cực nhọc thời thơ ấu chiến tranh, tôi đếch thèm làm nhà văn”, “If not for the hardships of a wartime childhood,” Kiš once told an interviewer, “I’d never have become a writer.”

*

Sontag: Reborn

A play based on the journals and notebooks of Susan Sontag
Sontag tái sinh: Kịch, chuyển thể tác phẩm của Susan Sontag

Nhà văn Mỹ mới mất, Susan Sontag có một bài viết về Danilo Kis rất cảm động [Tên ông này, là từ tiếng Hung, bên trên con chữ s có một cái dấu giống dấu mũ của tiếng Việt, nhưng đặt ngược]. Ông mất ngày 15 tháng Mười, 1989, thọ 54 tuổi. Bài viết, 1994, có thể coi như là một bài tưởng niệm.
Chết khi 54 tuổi, Sontag coi đây là một cái chết làm yểu mệnh văn chương, chấm dứt  một trong những cuộc hành trình quan trọng nhất của văn học, được làm nên bởi bất cứ một nhà văn nào trong nửa sau thế kỷ 20.
Tại sao thế?
Theo tôi, bởi vì Kis là từ cái lò Đông Âu mà ra, và như Sontag viết, cũng trong bài về Kis:
Cái chuyện bạn kinh qua đủ thứ khổ đau trên đời, đếch làm cho bạn trở thành nhà văn lớn đâu. (1) Có thể cần, nhưng chưa đủ. Nhưng địa lý là định mệnh. Đối với Kis, không có chuyện rút dù, hay chối bỏ cảm xúc, dấy lên từ mảnh đất chôn rau cắt rốn, và đáp ứng, hay là trách nhiệm của nhà văn, đối với nó. Kis đến từ một xứ sở nhỏ bé, nơi nhà văn được coi là quan trọng, trong cái tốt nhất, cũng như trong cái tệ nhất của nó, và như thế, rất dễ trở thành tiếng nói đạo đức, và đôi khi, trở thành chính trị gia, nhà lập pháp, thay vì chỉ là một nhà văn thường thường bậc trung.
Nhận định của Sontag về Kis, làm Gấu tôi nhớ đến Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, những nhà văn của mảnh đất nhỏ bé, Bình Định, thí dụ vậy. Tác phẩm của họ, không chỉ nhắm văn chương, mà còn cao hơn thế nữa.
Cao trong cái nghĩa tốt nhất, hoặc tệ nhất, là còn tùy vào hoàn cảnh, thời đại, cơ may, và "cái tâm" của họ.
(1): Nguyên văn: Số lượng về lịch sử hay kinh hoàng mà một nhà văn phải gánh chịu không làm cho người đó trở thành một nhà văn lớn. [The amount of history or horror, a writer is obliged to endure does not make him or her a great writer. But geography is destiny].

Địa Lý Là Định Mệnh, câu này gợi nhớ câu Địa Linh Nhân Kiệt của phương Đông.  (1)