|
April 29, 2014
The Strange
Triumph of “The Little Prince”
Of all the
books written in French over the past century, Antoine de
Saint-Exupéry’s “Le
Petit Prince” is surely the best loved in the most tongues. This is
very
strange, because the book’s meanings—its purpose and intent and
moral—still
seem far from transparent, even seventy-five-plus years after its first
appearance. Indeed, the startling thing, looking again at the first
reviews of
the book, is that, far from being welcomed as a necessary and beautiful
parable, it bewildered and puzzled its readers. Among the early
reviewers, only
P. L. Travers—who had, with a symmetry that makes the nonbeliever
shiver,
written an equivalent myth for England in her Mary Poppins books—really
grasped
the book’s dimensions, or its importance
Trong tất cả
những tác phẩm viết bằng tiếng Tẩy thế kỷ vừa qua, “Ông Hoàng Nhỏ” đúng
là cuốn
được yêu nhất, ở hầu như hết các ngôn ngữ.
Quái, là nó
không thuộc loại “mì ăn liền”, theo kiểu, cho tớ 1 cái vé đi… địa ngục đi!
Vừa nhắm mắt
vừa mở cửa bèn té ngay xuống…. Địa Ngục
Đỏ!
It took many
years—and many readings—for this reader to begin to understand that the
book is
a war story. Not an allegory
of war, rather, a fable of it, in which
the
central emotions of conflict—isolation, fear, and uncertainty—are
alleviated
only by intimate speech and love. But the “Petit Prince” is a war story
in a
very literal sense, too—everything about its making has to do not just
with the
onset of war but with the “strange defeat” of France, with the
experience of
Vichy and the Occupation. Saint-Exupéry’s sense of shame and confusion
at the devastation
led him to make a fable of abstract ideas set against specific loves.
In this
enterprise, he sang in unconscious harmony with the other great poets
of the
war’s loss, from J. D. Salinger—whose great post-war story, “For
Esmé—with Love
and Squalor” shows us moral breakdown eased only by the speech of a
lucid
child—to his contemporary Albert Camus, who also took from the war the
need to
engage in a perpetual battle “between each man’s happiness and the
illness of
abstraction,” meaning the act of distancing real emotion from normal
life.
Phải nhiều năm - và rất nhiều lần đọc – thì người độc giả này
mới bắt đầu hiểu ra là, cuốn sách là 1 câu chuyện chiến tranh. Không phải
một ám
dụ, mà là 1 ngụ ngôn, hay cổ tích gì đó, về nó, trong đó, những xúc
động trung
tâm của sự xung đột – cô đơn, tách rời, sợ hãi và bất định – thì chỉ có
thể dịu
đi, nhờ lời nói thầm thì, và tình yêu. Nhưng "Hoàng Tử Bé" còn là 1 câu
chuyện
chiến tranh theo nghĩa đen của từ này - mọi chuyện liên quan đến chuyện
làm nên
nó, thì chẳng mắc mớ gì đến cái chuyện “onset” [bắt đầu] 1 cuộc chiến,
nhưng mà
là, với cuộc “bại trận lạ lùng” của nước Pháp, với kinh nghiệm chính
quyền Vichy
và cuộc đô hộ ngoại bang, là Đức Nazi. Chính cảm quan về nỗi tủi hổ,
nhục nhã,
và ngỡ ngàng, bấn loạn của St-Ex đã khiến
ông đi 1 đường ngụ ngôn, cổ tích về những ý nghĩ trừu tượng, được đặt
để nhằm chống
lại những cuộc tình đặc biệt. Trong công trình hoành tráng này, ông
hát, trong 1 sự hài
hòa, về mặt vô thức, với những nhà thơ lớn lao khác, về mất mát của
chiến tranh,
từ Salinger – mà câu chuyện lớn lao thời hậu chiến, “Gửi Esmé, với Tình
& Dơ
Dáy”, chỉ cho chúng ta thấy, cơn băng hoại, sa sút đạo đức và tinh
thần,
chỉ được làm
dịu đi, nhờ tiếng nói của 1 đứa bé sáng suốt – cho tới người cùng thời
với ông,
là Albert Camus, kẻ đã lấy ra từ cuộc chiến, sự cần thiết “xuống
thuyền”, nhập vào
cuộc chiến đấu hoài hoài, “giữa hạnh phúc của mỗi con người và cơn bịnh
giản trừ,
trừu tượng”.
Note: Quả là
1 cách đọc cực mới mẻ về Hoàng Tử Bé.
Mất tích giữa những vì sao
Antoine de
Saint-Exupéry thuộc thế hệ hào hùng của ngành hàng không, và trong cuốn
tiểu thuyết Bay Đêm, ông đã tạo ra huyền thoại về nó. Làm vậy, ông trở
thành một huyền thoại, và có thể đây chính là điều ông hằng mong muốn,
rằng cuộc đời của mình sẽ được như thế. Cuốn tiểu sử của ông, do Marcel
Migeo viết, muốn tách người thực việc thực ra khỏi điều kỳ dị, và tác
giả đúng là người làm việc này. Ông bạn của Saint-Ex, khi cùng học bay
tại Neudorf, gần Strasbourg, hai năm sau khi Thế Chiến I chấm dứt. Thời
kỳ “giác đấu” đã qua, và đây là thời đại dân sự, với những chuyến bay,
tuy không còn mang tính giác đấu, nhưng cũng chẳng kém nguy hiểm: những
chuyến thư bay, như tên gọi của một cuốn sách của Xanh-Tếch chỉ rõ:
Chuyến Thư Miền Nam. Thời kỳ này còn bay bằng la bàn, bản đồ, và bằng…
mắt, chưa có la-dô, vận tốc tối đa là 100 dặm/giờ, và mỗi chuyến bay
không quá ba giờ. Máy bay khởi động cứ như hai xe hơi đụng nhau. Mức độ
thiệt hại, kể luôn mạng người, là “căng” lắm! Xanh Tếch, trượt École
Navale, bèn nhẩy vô The Line, tiền thân của Air France, khi đó đang
thực hiện những chuyến thư bay từ Toulouse tới Dakar, và tính mở rộng
tới Nam Mỹ. Ông đụng một hiểm nguy khác nữa: phi cơ thường bị trục trặc
phải hạ cánh nơi sa mạc, và phi công trở thành mồi cho những bộ lạc
người Moor, bị tra tấn hành hạ, và sau đó, hoặc bị giết, hoặc trở thành
con tin đòi tiền chuộc mạng. Chuyện xẩy ra thường xuyên đến nỗi phi
công, thay vì kéo theo một ông thợ máy, bèn xin một thầy thông ngôn
rành tiếng “mọi”! Sau một năm bay, Xanh Tếch bèn làm một ông trưởng
đồn, ở giữa sa mạc, vừa lo việc đổ xăng cho phi cơ, vừa giúp phi công
cái việc thông ngôn, chính vì vậy mà người Pháp thường so sánh ông với
người hùng sa mạc Lawrence d’Arabia [T.E. Lawreence].
Saint-Exupéry là
“thứ” người gì?
Huyền thoại thứ nhất về ông, ở trong
cuốn tiểu sử nói trên, theo đó, ông là một trong những phi công lớn
lao, và là một người mà bay là một thiên hướng. Huyền thoại này thì
cũng dễ “giải hoặc”, và là do thiên hạ quá mê những cuốn như Bay Đêm hay Chuyến Thư Miền Nam mà ra. Theo ông
bạn của ông, tức tác giả cuốn tiểu sử, Xanh Tếch là một phi công nhà
nghề, tài năng, nhưng cũng rất ư đãng trí, không khoái chú tâm vào bất
cứ chuyện gì. Ông còn là một người không có chút ý niệm nào về thời
gian. Cẩu thả nữa. Có lần, ông rời phi cơ, không đóng cửa phòng lái, và
để gió quất sụm chiếc máy bay. Những chuyến bay dài của ông, từ Paris
đi Sài Gòn, hay từ Nữu Ước đi Patagonia, do đó, thường không được sửa
soạn chu đáo, và trở thành thảm họa. Ngồi trong phòng lái mà trí ông bỏ
đi lang thang, Trước hết, và có thể trên hết, ông là nhà văn, và ông
coi cái nghề bay, như là một cách vượt ra cõi đời thường làm ông chán
ngán, bực bội. Bay là một giải phóng tinh thần đối với ông.
Dáng người cao và
thon, [bạn học gọi ông bằng biệt hiệu “Kều Mặt Trăng”]. Dòng dõi quí
phái, nhưng nghèo, bố mất sớm, nhưng không có gì liên quan tới huyền
thoại tuổi thơ khó khăn vất vả. Họ hàng bà con giầu có không bỏ ông,
ngoài ra còn bà mẹ mà trong nhiều năm, mà trong nhiều năm, ông tha hồ
nã tiền, sống như một “ông hoàng nhỏ” [một số bạn coi ông là một tay
“snob”, những ngày đầu học bay]. Nhờ ảnh hưởng của Henri Guillaumet,
một phi công mà ông coi như là thần tượng, và nhờ “The Line”,
tính tình của ông thay đổi. Hết lòng với bạn bè, với
tinh thần của nhóm, ông bắt đầu để tâm đến chuyện này chuyện nọ, và
nhận ra ý thức về trách nhiệm, một sự bám trụ - a gravity – như thế là
rất cần thiết cho trí tưởng tượng bộc phát.
Danh tiếng, như là
một nhà văn, cộng thêm thành tích xây dựng “cơ sở” cho hãng tại Nam Mỹ,
ngần ấy thứ không thể cứu ông, bị đá văng ra khỏi “The Line”, khi nó
sắp xếp, tổ chức lại công việc làm ăn, vấn đề nhân sự. Tuần trăng mật
với bạn tình, tức phiêu lưu mạo hiểm, kể như xong. Ông bèn bước vào
quãng đời mới tinh của mình, như là một tay nhà báo, nhà làm phim. Ông
gọi đây là “thời kỳ xanh”. Người ta thấy “chàng” ngồi Quán Chùa - ấy
chết xin lỗi – quán “Les Deux Magots”, hoặc Givral - ấy chết xin lỗi –
quán Lipp, tại đường Tự Do, Sài Gòn - ấy chết xin lỗi - tại Paris; lơ
đãng nhìn buổi sáng bắt đầu, tự hỏi không biết bữa nay cô bạn có giờ
học ở Văn Khoa hay không, thỉnh thoảng loáy hoáy ghi sổ tay, tự nhủ
thầm, mình mới ba mươi tuổi, còn “xoan” chán!
Những ghi chú nho nhỏ
như thế, những mẩu viết tình cờ như thế, sau gom lại, biến thành “Những
Ngày Ở Sài Gòn” - ấy chết xin lỗi - biến thành “Cõi Người Ta”, Terre Des Hommes, [hình như được
dịch qua tiếng Anh với tựa đề Gió,
Cát, và Những Vì Sao],
một tác phẩm sáng chói, nhưng cũng đầy những nét làm dáng, đã đem đến
cho tác giả giải thưởng của Viện Hàn Lâm, ấy là ở Tây Phương, còn ở Mẽo
Phương, nó đem đến cho ông một tài sản (a fortune), nhưng ông đâu thèm
quan tâm tới thứ đó! Thời gian này, ông lấy vợ, là một goá phụ, người
Ác hen ti nà, xăng xái, sống động, như một con
chim, nhưng hoá ra là một người đàn bà đoảng đủ thứ, sau nhiều cú
thượng cẳng chân hạ cẳng tay, theo kiểu yêu nhau lắm cắn nhau đau, họ
thường xuyên xa nhau, [bài này dựa theo bài viết cùng tên của nhà phê
bình V.S. Pritchett, trong The
Complete Essays, nhà xb Chatto & Windus, London, 1991. NQT.]
Như tác giả cuốn tiểu sử cho biết, nhà văn của chúng ta “cần” một loại
hình đàn bà như vậy làm vợ, bởi vì một cuộc hôn nhân như thế thoả mãn
điều gọi là nỗi âu lo, ngần ngại (inquiétude) của bất cứ một nhà văn!
Khi xẩy ra Cuộc Thế
Chiến Thứ Hai, Xanh Tếch xấp xỉ bốn chục. Can trường, ông xung làm phi
công lái máy bay thám thính, trên những vùng trời đang có những cuộc
tiến quân của Nazi. Sau khi Pháp thất thủ, ông tính qua Nữu Ước. Trên
đường bôn tẩu, khốn khổ thay, ông dừng lại Vichy, gặp một tay cộng tác
viên với kẻ địch nổi tiếng, Drieu La Rochelle, và bị liên lụy bởi rất
nhiều điều vu khống mà rất nhiều người Pháp đã gặp phải trong thời kỳ
nhiễu nhương như vậy. Ông vốn không hẩu với tướng De Gaulle, mà ông
nghĩ rằng, đã kêu gọi nước Pháp “làm một cuộc chiến tranh nồi da nấu
thịt”, và ông bị buộc tội là một người theo Pétain [người cầm đầu nước
Pháp theo Nazi lúc đó] Tác giả cuốn tiểu sử thuyết phục được người đọc,
rằng làm gì có chuyện đó. Khi De Gaulle từ chối không giao cho ông bất
cứ một nhiệm vụ nào trong thời gian có chiến dịch Bắc Phi, ông bèn theo
lực luợng Hoa Kỳ vào Phi Châu, và sau khi chạy chọt, được thương tình
giao cho trách nhiệm lái phi cơ thám thính chụp hình ảnh bên trên vùng
trời nước Pháp bị chiếm đóng bởi Nazi. Tính không chú tâm vào bất cứ
chuyện gì của ông thế tiếp tục, rất nhiều lần, ông quên không hạ thấp
máy bay, trong một chuyến đi như thế, ông quên luôn cả chuyện trở về,
và người ta cho rằng máy bay của ông bị bắn hạ ở giữa Nice và Corsia.
Một nhân viên tình báo người Đức vốn rất mê Xanh Tếch cung cấp chứng cớ
theo đó, máy bay của ông bị bắn hạ bên ngoài Corsia, nhưng M. Migeo
[người viết tiểu sử ông] cho rằng, có hai người đàn bà nhìn thấy hai
phi cơ bắn nhau trên vùng trời Nice, và họ là những chứng nhân tận mắt
cái chết của ông. [Người viết bài này, cũng đã lâu, được đọc một bài
báo, theo đó, người ta đã tìm thấy hài cốt của ông, nhờ thẻ bài, tại
một bãi biển nào đó, nhưng đã sơ ý không ghi lại].
(còn tiếp)
NQT
Note: Bài
viết
này, bỏ dở, tính dịch tiếp nhưng không làm sao kiếm thấy nguyên
bản!
April 29,
2014
The Strange
Triumph of “The Little Prince”
Posted by
Adam Gopnik
Of all the
books written in French over the past century, Antoine de
Saint-Exupéry’s “Le
Petit Prince” is surely the best loved in the most tongues. This is
very
strange, because the book’s meanings—its purpose and intent and
moral—still
seem far from transparent, even seventy-five-plus years after its first
appearance. Indeed, the startling thing, looking again at the first
reviews of
the book, is that, far from being welcomed as a necessary and beautiful
parable, it bewildered and puzzled its readers. Among the early
reviewers, only
P. L. Travers—who had, with a symmetry that makes the nonbeliever
shiver,
written an equivalent myth for England in her Mary Poppins books—really
grasped
the book’s dimensions, or its importance.
Over time,
the suffrage of readers has altered that conclusion, of course: a
classic is a
classic. But it has altered the conclusion without really changing the
point.
This year marks an efflorescence of attention, including a full-scale
exhibition of Saint-Exupéry’s original artwork at the Morgan Library,
in New
York. But we are no closer to penetrating the central riddle: What is
“The
Little Prince” about?
Everyone
knows the basic bones of the story: an aviator, downed in the desert
and facing
long odds of survival, encounters a strange young person, neither man
nor
really boy, who, it emerges over time, has travelled from his solitary
home on
a distant asteroid, where he lives alone with a single rose. The rose
has made
him so miserable that, in torment, he has taken advantage of a flock of
birds
to convey him to other planets. He is instructed by a wise if cautious
fox, and
by a sinister angel of death, the snake.
It took many
years—and many readings—for this reader to begin to understand that the
book is
a war story. Not an allegory of war, rather, a fable of it, in which
the
central emotions of conflict—isolation, fear, and uncertainty—are
alleviated
only by intimate speech and love. But the “Petit Prince” is a war story
in a
very literal sense, too—everything about its making has to do not just
with the
onset of war but with the “strange defeat” of France, with the
experience of
Vichy and the Occupation. Saint-Exupéry’s sense of shame and confusion
at the devastation
led him to make a fable of abstract ideas set against specific loves.
In this
enterprise, he sang in unconscious harmony with the other great poets
of the
war’s loss, from J. D. Salinger—whose great post-war story, “For
Esmé—with Love
and Squalor” shows us moral breakdown eased only by the speech of a
lucid
child—to his contemporary Albert Camus, who also took from the war the
need to
engage in a perpetual battle “between each man’s happiness and the
illness of
abstraction,” meaning the act of distancing real emotion from normal
life.
* * *
We know the
circumstances of the composition of “The Little Prince” in detail now,
courtesy
of Stacy Schiff’s fine biography, “Saint-Exupéry.” Escaped from Europe
to an
unhappy, monolingual exile in North America, engaged in petty but
heated
internecine warfare with the other exile and resisting groups (he had a
poor
opinion of DeGaulle, who, he wrongly thought, was setting the French
against
the French, rather than against the Germans), Saint-Exupéry wrote this
most
French of fables in Manhattan and Long Island. The book’s desert
setting
derives from the aviator Saint-Exupéry’s 1935 experience of having been
lost
for almost a week in the Arabian desert, with his memories of
loneliness,
hallucination, impending death (and enveloping beauty) in the desert
realized
on the page. The central love story of the Prince and Rose derives from
his
stormy love affair with his wife, Consuela, from whom the rose takes
her cough
and her flightiness and her imperiousness and her sudden swoons. (While
he had
been lost in the desert in ’35, Schiff tells us, she had been publicly
mourning
his loss on her own ‘asteroid,’ her table at the Brasserie Lipp.) The
desert
and the rose—his life as an intrepid aviator and his life as a baffled
lover—were his inspiration. But between those two experiences,
skewering them,
dividing them with a line, was the war.
In the
deepest parts of his psyche, he had felt the loss of France not just as
a loss
of battle but also as a loss of meaning. The desert of the strange
defeat was
more bewildering than the desert of Libya had been; nothing any longer
made
sense. Saint-Ex’s own war was honorable: he flew with the GR II/33
reconnaissance squadron of the Armée de l’Air. And, after the bitter
defeat, he
fled Europe like so many other patriotic Frenchmen, travelling through
Portugal
and arriving in New York on the last day of 1940. But, as anyone who
lived
through it knew, what made the loss so traumatic was the sense that the
entire
underpinning of French civilization, not merely its armies, had come,
so to
speak, under the scrutiny of the gods and, with remarkable speed,
collapsed.
Searching
for the causes of that collapse, the most honest honorable minds—Marc
Bloch and
Camus among them—thought that the real fault lay in the French habit of
abstraction. The French tradition that moved, and still moves,
pragmatic
questions about specific instances into a parallel paper universe in
which the
general theoretical question—the model—is what matters most had failed
its
makers. Certainly, one way of responding to the disaster was to search
out some
new set of abstractions, of overarching categories to replace those
lost. But a
more humane response was to engage in a ceaseless battle against all
those
abstractions that keep us from life as it is. No one put this better
than the
heroic Bloch himself:
The first
task of my trade (i.e. of the historian, but more broadly the humanist
properly
so called) consists in avoiding big-sounding abstract terms. Those who
teach
history should be continually concerned with the task of seeking the
solid and
concrete behind the empty and abstract. In other words, it is on men
rather
than functions that they should concentrate all their attention.
This might
seem like a very odd moral to take from the experience of something as
devastating as the war. But it wasn’t merely intellectual, an amateur’s
non-combatant epiphany. At a purely tactical, military level, the urge
to
abstraction had meant the urge to fetishize fixed, systematic solutions
at the
expense of tactical fluidity and resourcefulness. The Maginot line was
an
abstract idea that had been allowed to replace flexible strategy and
common
sense. (One recalls Picasso’s comment to Matisse, when the troubled
French
painter asked him, in 1940, “But what about our generals, what are they
doing?”: “Our generals? They’re the masters at the Ecole des Beaux
Arts!”
Picasso responded, meaning men possessed by the same rote formulae and
absence
of observation and obsessive traditionalism as the academic artists.
From an
experience that was so dehumanizing and overwhelming—an experience that
turns
an entire human being with a complicated life history and destiny first
into a
cipher and then into a casualty—Saint-Exupéry wanted to rescue the
person, not
the statistic. The statistics could be any of those the men on the
planets are
obsessed with, the ‘counting’ fetish that might take in stars if one is
an
astronomer or profits for businessmen. The richest way to see “Le Petit
Prince”
is as an extended parable of the kinds and follies of abstraction—and
the
special intensity and poignance of the story is that Saint-Exupéry
dramatizes
the struggle against abstraction not as a philosophical subject but as
a
life-and-death story. The book moves from asteroid to desert, from
fable and
comedy to enigmatic tragedy, in order to make one recurrent point: You
can’t
love roses. You can only love a rose.
For all
of
the Prince’s journey is a journey of exile, like Saint-Exupéry’s, away
from
generic experience towards the eroticism of the particular flower. To
be
responsible for his rose, the Prince learns, is to see it as it really
is, in
all its fragility and vanity—indeed, in all its utter
commonness!—without
loving it less for being so fragile. The persistent triumph of specific
experience can be found in something as idiosyncratic and bizarre as
the
opening image of a boa constrictor swallowing an elephant, which, the
narrator
tells us, the grownups can only see as a generic object. (This is where
Saint-Ex and the Surrealists who admired him—a tracing of his hand
appears in
one of the issues of the Surrealist journal Minotaur—touch. Rene
Magritte’s
paintings, with their very similar obsession with middle-class hats,
suggest
that every time you see a bourgeois derby there may be a boa
constrictor inside.
The X-ray of every hat reveals a boa constrictor in every head. That
could be
the motto of every Surrealist exhibition.)
The men the
Prince meets on his journey to Earth are all men who have, in Bloch’s
sense,
been reduced to functions. The Businessman, the Astronomer, even the
poor
Lamplighter, have become their occupations, and gone blind to the
stars. It is,
again, the essential movement we find in Camus, only in “The Little
Prince” it
is shown to us as comic fable rather than realistic novel. The world
conspires
to make us blind to its own workings; our real work is to see the world
again.
A version
of
this essay first appeared, in French, in the magazine France-Amerique;
it was
also the subject of a lecture at the Morgan Library.
Mất
tích giữa những vì sao: St-Ex
Danh
tiếng, như là một nhà văn, cộng thêm thành tích xây dựng “cơ sở” cho
hãng tại Nam Mỹ, ngần ấy thứ không thể cứu ông, bị đá văng ra khỏi “The
Line”, khi nó sắp xếp, tổ chức lại công việc làm ăn, vấn đề nhân sự.
Tuần trăng mật với bạn tình, tức phiêu lưu mạo hiểm, kể như xong. Ông
bèn bước vào quãng đời mới tinh của mình, như là một tay nhà báo, nhà
làm phim. Ông gọi đây là “thời kỳ xanh”. Người ta thấy “chàng” ngồi
Quán Chùa - ấy chết xin lỗi – quán “Les Deux Magots”, hoặc Givral - ấy
chết xin lỗi – quán Lipp, tại đường Tự Do, Sài Gòn - ấy chết xin lỗi -
tại Paris; lơ đãng nhìn buổi sáng bắt đầu, tự hỏi không biết bữa nay cô
bạn có giờ học ở Văn Khoa hay không, thỉnh thoảng loáy hoáy ghi sổ tay,
tự nhủ thầm, mình mới ba mươi tuổi, còn “xoan” chán!
AT THE
SORBONNE
He walked
these streets the first time
(He was
young and handsome then)
With a woman
he betrayed,
And the
streets remind him of her golden hair,
Her easy
ways, the black stone set in the silver ring.
He bought
Montaigne, white sausage.
It was
Christmas. They'd bought a duck
And cooked
it badly.
These were
the times when
Intellectuals
gathered in cafés,
Avid for
seduction,
Talked of
revolution,
Ranged in
the Latin Quarter, smoked for the sake of style.
You might
perhaps run into Roland, Jean-Paul and Simone.
Georges was
writing songs.
It was after
Albert crashed and died.
There was no
hot water, this was Paris;
The sewage
breathed from the grates;
The women
went out with their poodles.
The coffee
was perfect, the cafes warm:
The Café
Rodin
The Café
Louvre
The Café Jeu
de Paumes.
They kissed
in the dark, oblivious;
They kissed
in the light, in public, mischievous.
They made
love and made love and made love;
Youth
eternal, the hunger immense,
The years
ahead so long,
Faith and
hope unquenched.
When they
came home the pipes were iced;
The cats
brought gifts of rabbits,
Voles and
mice and woodcock.
They boiled
a kettle, melted the ice,
Lit the
fire, went out and ate,
Came back to
shivering sheets.
Later,
betrayal. It all came later;
Her
penitential tears, her hair falling about her eyes,
Her features
crooked with remorse, her musician's hands
Trembling on
his shoulders.
He was correct
and stiff, but
Found it
easy to forgive.
He was
grateful, after a fashion;
It gave him
his excuse.
When he
considers the many, the substitutes
Who left,
reciting their lists of lovers;
When he
walks these streets,
Scarcely
believing the slippage,
He then
remembers the gold-haired girl,
With her
easy ways, her musician's hands,
Her
penitential tears, her kisses.
Louis de
Bernières: Imagining Alexandria
BOOK 14:
LE PETIT
PRINCE
BY ANTOINE
DE SAINT-EXUPERY
October 15,
2007
To Stephen
Harper,
Prime
Minister of Canada,
Ce livre en francais,
From a
Canadian writer,
With best
wishes,
Yann Martel
Cher
Monsieur Harper,
Vous parlez
le francais, Vous avez fait de grands et fructueux efforts pour
apprendre et
parler cette langue depuis que vous êtes premier ministre. Vous esperez
ainsi
apprivoiser les Québecois. Par ailleurs, la dernière fois, je vous ai
beaucoup
entretenu de
l'anglais. Alors cette fois-ci je vous envoie un livre en francais. Il
est très
connu. C'est Le Petit Prince, de l'écrivain
francais Antoine de Saint-Exupery. Vous l'avez peut-être lu au cours de
vos études
mais il saura vous être encore assurément très utile,
non seulement pour maintenir votre francais, mais aussi pour vous
aider, auprès
des Québecois, puisque Le Petit Prince
c'est aussi 1'histoire d'un apprivoisement, dans ce cas-ci, d'un renard.
Le renard
fait cadeau d'une très importante lecon au Petit Prince, mais je ne
vais pas la
répeter, Je vous laisse la redécouvrir, Le vocabulaire est simple, les
scènes
claires à comprendre, la morale évidente et attachante. C'est en fait
un conte
chrétien.
Vous allez
soupirer, "Si seulement les Québecois étaient aussi faciles à
apprivoiser
que les renards."
Mais nous
sommes plutôt, nous Québecois, comme la fleur du Petit Prince, avec
notre
orgueil et nos quatre épines.
Cordialement
votre,
Yann Martel
[TRANSLATION]
Dear Mr.
Harper,
You speak
French. You've made great and fruitful efforts to learn the language
since you
became Prime Minister. You hope in this way to tame Quebeckers.
In my last
letter, I discussed the English language. So this time I'm sending you
a book
in French, one that is very well known. It's The Little
Prince, by the French writer Antoine de Saint-Exupery, You
perhaps read it during your French-language studies, but I'm certain it
will
still be of use to you, not only to help you maintain your French, but
also to
help you with Quebeckers, since The
Little Prince is also the story of a taming, in this case of a fox.
The fox
teaches the Little Prince a very important life lesson, but I won't
divulge it
here. I'll leave it for you to find it.
The
vocabulary is simple, the scenes easy to understand, the moral obvious
and
endearing. It's a Christian tale.
You'll sigh,
"If only Quebeckers were so easy to tame." But we Quebeckers are rather
like the Little Prince's flower, with our pride and our four thorns.
Yours truly
Yann Martel
Ngài thủ tướng
Harper thân mến
Ngài nói tiếng
Tẩy. Ngài đã tạo được nhiều cố gắng lớn, hiệu quả, để học tiếng Tẩy kể
từ khi Ngài
trở thành Thủ Tướng. Ngài hi vọng, học tiếng Tẩy, để thuần hóa đám Còi.
Trong thư
sau chót, tôi lèm bèm bằng tiếng Anh với Ngài. Vì vậy, lần này tôi gửi
Ngài một
cuốn sách tiếng Tẩy, một cuốn sách rất nổi tiếng. Đó là cuốn "Hoàng Tử
Bé", của
Antoine de Saint-Exupéry, một người Tẩy. Có thể Ngài đã đọc nó, trong
khi học
tiếng Tẩy, nhưng tôi tin rằng nó vưỡn có ích cho Ngài, không chỉ giúp
Ngài trau giồi
tiếng Tẩy, mà còn giúp Ngài với đám Còi, bởi là vì "Hoàng Tử Bé" là một
câu
chuyện về thuần hóa, và ở đây, một con chồn.
Con chồn dạy
Hoàng Tử Bé một bài học rất quan trọng về cuộc đời, nhưng tôi sẽ không
bật mí ở đây.
Tôi dành cho Ngài diễm phước khui ra nó.
Từ vựng thì đơn
giản, những xen dễ hiểu, bài đạo đức, hiển nhiên, và dễ mến. Một câu
chuyện Ky
Tô.
Ngài sẽ thở
dài một phát. Ui chao giá mà đám Còi những dễ thuần hóa như mấy con
chồn, nhỉ?
Nhưng đám Còi
chúng tôi thì cũng đâu có khác... BHD của thằng cha GCC, với sự
kiêu ngạo của nó,
và bốn cái gai!
*
Yêu
không phải
là nhìn nhau, mà là cùng nhìn về một hướng.
Saint-Exupéry.
"Ông
Hoàng Nhỏ của Saint-Exupéry [1900-1944] là câu chuyện thần tiên độc
nhất của thế kỷ 20. Thế kỷ 17 người ta có chuyện cổ tích của Perrault;
thế kỷ 19, của Andersen. Tới thế kỷ 20, người ta có Ông Hoàng Nhỏ, một
cuốn sách được viết bởi một ông phi công người Pháp lưu vong tại Huê Kỳ
từ năm 1941 tới 1943. Cuốn sách được in ấn tại đó, trước khi được xuất
bản tại Pháp vào năm 1945, một năm sau khi tác giả mất. [Do kỹ thuật in
ấn của ông Tây quá tệ, bản tiếng Tây do đó đã phải giữ y chang những
bản vẽ trong bản in lần đầu bằng tiếng Mẽo]. Từ khi xuất hiện cuốn sách
có hình này đã trở thành một hiện tượng trong ngành in ấn, mỗi năm phát
hành chừng vài triệu cuốn trên toàn thế giới.”
“Tại
sao? Bởi vì, không cố tình [làm ra vẻ ngây thơ] Saint-Exupéry đã sáng
tạo ra những nhân vật ngay lập tức trở thành huyền tượng [figures
mythiques].”
Người
ta có thể cho cuốn sách một cái tên khác, là, ‘Đi tìm một đứa trẻ thất
lạc’, Frédéric Beigbeder đề nghị. Bởi vì theo ông, “tác giả cuốn sách
luôn nhắc tới ‘những người lớn’ nghiêm túc, biết suy nghĩ điều hơn lẽ
thiệt, và bởi vì cuốn sách không thực sự nhắm tới những đứa trẻ mà là
tới những người tin rằng họ không còn trẻ nữa. Đây là một ‘pamphlet’
[bài văn đả kích] chống lại tuổi lớn và những con người hữu lý
[rationnel], được viết bằng một thứ thơ ca dịu dàng, một minh triết
giản dị [une sagesse simple] (Harry Potter, hãy về nhà với mẹ của mi
đi!), và với một sự ngây ngô giả vờ, giấu ở bên dưới sự ngốc nga ngốc
nghếch đó, là một cái hóm hỉnh và một nỗi buồn thê lương.”
Đi tìm
một đứa trẻ đã mất. Khi đặt tên lại cho cuốn sách như trên, theo tôi
[NQT], tác giả Bảng Phong Thần Cuối Cùng, bởi vì là người Pháp, nên đã
“vơ vào”, nghĩa là muốn nhắc tới Proust, một ông Tây khác, tác giả Đi
Tìm Thời Gian Đã Mất.
Nhưng
còn một lý do nữa, là chính cái chết của Saint-Exupéry đã khiến bật ra
cái tên thứ nhì này. Tác giả Phong Thần Bảng cho thấy, như rất nhiều
nhà văn khác, thí dụ như Lewis Carroll, Saint-Exupéry thuộc thứ tác giả
không chịu già: vài tháng sau khi Ông Hoàng Nhỏ được xuất bản, tác giả
của nó, lúc đó 44 tuổi, bèn lên máy bay, làm một phi vụ thám sát
[mission de reconnaissance] bên trên vùng trời Địa Trung Hải, và biến
mất như nhân vật của mình…
Saint-Exupéry
là một tác giả quá quen thuộc với những tác giả, luôn cả độc giả, và
luôn cả học trò người Việt: ở Sài Gòn, trước 1975 có một trường học
mang tên ông. [Tôi không hiểu bây giờ còn không.] Ở ngoài bắc không
biết sao, chứ ở miền nam, không chỉ nhà văn, mà gần như tất cả lớp tuổi
choai choai đều thuộc nằm lòng câu của Xanh Tếch: Yêu không phải là
nhìn nhau mà là cùng nhìn về một hướng. Cả hai cuốn Ông Hoàng Nhỏ và
Cõi Người Ta của ông đều được Bùi Giáng dịch. Chúng ta có thể đoán mò,
rằng những người như Xanh Tếch, Bùi Giáng đều có một điểm chung,
là, trong con người của họ, có một phần nào đó nhất định không chịu ...
lớn, và như thế, rất thích làm bạn với Ông Hoàng Nhỏ.
Danh
tiếng, như là một nhà văn, cộng thêm thành tích xây dựng “cơ sở” cho
hãng tại Nam Mỹ, ngần ấy thứ không thể cứu ông, bị đá văng ra khỏi “The
Line”, khi nó sắp xếp, tổ chức lại công việc làm ăn, vấn đề nhân sự.
Tuần trăng mật với bạn tình, tức phiêu lưu mạo hiểm, kể như xong. Ông
bèn bước vào quãng đời mới tinh của mình, như là một tay nhà báo, nhà
làm phim. Ông gọi đây là “thời kỳ xanh”. Người ta thấy “chàng” ngồi
Quán Chùa - ấy chết xin lỗi – quán “Les Deux Magots”, hoặc Givral - ấy
chết xin lỗi – quán Lipp, tại đường Tự Do, Sài Gòn - ấy chết xin lỗi -
tại Paris; lơ đãng nhìn buổi sáng bắt đầu, tự hỏi không biết bữa nay cô
bạn có giờ học ở Văn Khoa hay không, thỉnh thoảng loáy hoáy ghi sổ tay,
tự nhủ thầm, mình mới ba mươi tuổi, còn “xoan” chán!
|
|