Yêu
không phải là nhìn nhau, mà là cùng nhìn về một
hướng.
Saint-Exupéry.
Le
sens trop précis rapture la vague litérature.
[Cái
nghĩa quá rạch ròi làm hại cõi văn mơ mòng] (1)
Nước Pháp phát minh ra tôi. Tôi đâu có hiện
hữu. Caillois làm cho tôi được nhìn thấy. Than ôi, thiên hạ nhìn thấy
ông ta rõ
quá!
[Borges
viết về Roger Caillois, người giới thiệu ông
với độc giả Pháp và sau đó, thế giới].
Trong bảng phong thần cho những cuốn sách cuối
cùng, trước khi cúng bà hoả [Dernier inventaire avant liquidation], tác
giả
Frédéric Beigbeder chỉ chọn được 50 cuốn. Đứng đầu bảng là cuốn Kẻ Xa
Lạ của
Camus. Ông Hoàng Nhỏ của Saint-Exupéry, số 4.
“Làm ơn vẽ cho tôi một đại tác phẩm. Làm ơn chỉ
cho tôi số 4 trong Bảng Phong Thần Cuối Cùng” là cuốn nào?
‘Ông Hoàng Nhỏ của Saint-Exupéry [1900-1944] là
câu chuyện thần tiên độc nhất của thế kỷ 20. Thế kỷ 17 người ta có
chuyện cổ
tích của Perrault; thế kỷ 19, của Andersen. Tới thế kỷ 20, người ta có
Ông
Hoàng Nhỏ, một cuốn sách được viết bởi một ông phi công người Pháp lưu
vong tại
Huê Kỳ từ năm 1941 tới 1943. Cuốn sách được in ấn tại đó, trước khi
được xuất
bản tại Pháp vào năm 1945, một năm sau khi tác giả mất. [Do kỹ thuật in
ấn của
ông Tây quá tệ, bản tiếng Tây do đó đã phải giữ y chang những bản vẽ
trong bản
in lần đầu bằng tiếng Mẽo]. Từ khi xuất hiện cuốn sách có hình này đã
trở thành
một hiện tượng trong ngành in ấn, mỗi năm phát hành chừng vài triệu
cuốn trên
toàn thế giới.”
“Tại
sao? Bởi vì, không cố tình [làm ra vẻ ngây
thơ] Saint-Exupéry đã sáng tạo ra những nhân vật ngay lập tức trở thành
huyền
tượng [figures mythiques].”
Người ta có thể cho cuốn sách một cái tên khác,
là, ‘Đi tìm một đứa trẻ thất lạc’, Frédéric Beigbeder đề nghị. Bởi vì
theo ông,
“tác giả cuốn sách luôn nhắc tới ‘những người lớn’ nghiêm túc, biết suy
nghĩ
điều hơn lẽ thiệt, và bởi vì cuốn sách không thực sự nhắm tới những đứa
trẻ mà
là tới những người tin rằng họ không còn trẻ nữa. Đây là một ‘pamphlet’
[bài
văn đả kích] chống lại tuổi lớn và những con người hữu lý [rationnel],
được
viết bằng một thứ thơ ca dịu dàng, một minh triết giản dị [une sagesse
simple]
(Harry Potter, hãy về nhà với mẹ của mi đi!), và với một sự ngây ngô
giả vờ,
giấu ở bên dưới sự ngốc nga ngốc nghếch đó, là một cái hóm hỉnh và một
nỗi buồn
thê lương.”
Đi tìm một đứa trẻ đã mất. Khi đặt tên lại cho
cuốn sách như trên, theo tôi [NQT], tác giả Bảng Phong Thần Cuối Cùng,
bởi vì
là người Pháp, nên đã “vơ vào”, nghĩa là muốn nhắc tới Proust, một ông
Tây
khác, tác giả Đi Tìm Thời Gian Đã Mất.
Nhưng
còn một lý do nữa, là chính cái chết của
Saint-Exupéry đã khiến bật ra cái tên thứ nhì này. Tác giả Phong Thần
Bảng cho
thấy, như rất nhiều nhà văn khác, thí dụ như Lewis Carroll,
Saint-Exupéry thuộc
thứ tác giả không chịu già: vài tháng sau khi Ông Hoàng Nhỏ được xuất
bản, tác
giả của nó, lúc đó 44 tuổi, bèn lên máy bay, làm một phi vụ thám sát
[mission
de reconnaissance] bên trên vùng trời Địa Trung Hải, và biến mất như
nhân vật
của mình…
Saint-Exupéry là một tác giả quá quen thuộc với
những tác giả, luôn cả độc giả, và luôn cả học trò người Việt: ở Sài
Gòn, trước
1975 có một trường học mang tên ông. [Tôi không hiểu bây giờ còn
không.] Ở
ngoài bắc không biết sao, chứ ở miền nam, không chỉ nhà văn, mà gần như
tất cả
lớp tuổi choai choai đều thuộc nằm lòng câu của Xanh Tếch: Yêu không
phải là
nhìn nhau mà là cùng nhìn về một hướng. Cả hai cuốn Ông Hoàng Nhỏ và
Cõi Người
Ta của ông đều được Bùi Giáng dịch. Chúng ta có thể đoán mò, rằng những
người
như Xanh Tếch, Bùi Giáng đều có một điểm chung, là, trong con
người của
họ, có một phần nào đó nhất định không chịu ... lớn, và như thế, rất
thích làm bạn
với Ông Hoàng Nhỏ.
Trong
lần về Việt Nam, nói chuyện bên “chén
riệu” [ly rượu] với mấy anh em cũng dân viết lách, tại nhà một ông cũng
“có một
nỗi buồn thê lương”, nhân câu chuyện PXN còn nóng hổi, TTĐ gật gù,
“Nhầm Ông
Hoàng Nhỏ với Cõi Người Ta là một sơ suất nặng!”
Chúng
ta tự hỏi tại sao lại có sự lầm như thế.
Không
lẽ cứ buông một câu, tại dốt, tại không đọc!
Với
một tác giả xa lạ, có thể, nhưng với “Xanh-Tếch”,
như cách gọi thân mật của người Việt dành cho ông, ở một xứ sở tuy
“người Pháp
đã ra đi, nhưng nước Pháp ở lại" [Malraux], chuyện không đơn giản.
Vậy
thì, tại sao?
******
Mất
tích giữa những vì sao
Antoine
de Saint-Exupéry thuộc thế hệ hào hùng
của ngành hàng không, và trong cuốn tiểu thuyết Bay
Đêm, ông đã tạo ra huyền thoại về nó. Làm vậy, ông trở thành một huyền
thoại,
và có thể đây chính là điều ông hằng mong muốn, rằng cuộc đời của mình
sẽ được
như thế. Cuốn tiểu sử của ông, do Marcel Migeo viết, muốn tách người
thực việc
thực ra khỏi điều kỳ dị, và tác giả đúng là người làm việc này. Ông bạn
của
Saint-Ex, khi cùng học bay tại Neudorf, gần Strasbourg, hai năm sau khi
Thế
Chiến I chấm dứt. Thời kỳ “giác đấu” đã qua, và đây là thời đại dân sự,
với
những chuyến bay, tuy không còn mang tính giác đấu, nhưng cũng chẳng
kém nguy
hiểm: những chuyến thư bay, như tên gọi của một cuốn sách của Xanh-Tếch
chỉ rõ:
Chuyến Thư Miền Nam. Thời kỳ này còn bay bằng la bàn, bản đồ, và bằng…
mắt,
chưa có la-dô, vận tốc tối đa là 100 dặm/giờ, và mỗi chuyến bay không
quá ba
giờ. Máy bay khởi động cứ như hai xe hơi đụng nhau. Mức độ thiệt hại,
kể luôn
mạng người, là “căng” lắm! Xanh Tếch, trượt École Navale, bèn nhẩy vô
The Line,
tiền thân của Air France, khi đó đang thực hiện những chuyến thư bay từ
Toulouse tới Dakar, và tính mở rộng tới Nam Mỹ. Ông đụng một hiểm nguy
khác
nữa: phi cơ thường bị trục trặc phải hạ cánh nơi sa mạc, và phi công
trở thành
mồi cho những bộ lạc người Moor, bị tra tấn hành hạ, và sau đó, hoặc bị
giết,
hoặc trở thành con tin đòi tiền chuộc mạng. Chuyện xẩy ra thường xuyên
đến nỗi
phi công, thay vì kéo theo một ông thợ máy, bèn xin một thầy thông ngôn
rành
tiếng “mọi”! Sau một năm bay, Xanh Tếch bèn làm một ông trưởng đồn, ở
giữa sa
mạc, vừa lo việc đổ xăng cho phi cơ, vừa giúp phi công cái việc thông
ngôn,
chính vì vậy mà người Pháp thường so sánh ông với người hùng sa mạc
Lawrence
d’Arabia [T.E. Lawreence].
Saint-Exupéry
là “thứ” người gì? Huyền thoại thứ
nhất về ông, ở trong cuốn tiểu sử nói trên, theo đó, ông là một trong
những phi
công lớn lao, và là một người mà bay là một thiên hướng. Huyền thoại
này thì cũng
dễ “giải hoặc”, và là do thiên hạ quá mê những cuốn như
Bay Đêm hay Chuyến
Thư Miền Nam
mà ra. Theo
ông bạn của ông, tức tác giả cuốn tiểu sử, Xanh Tếch là một phi công
nhà nghề,
tài năng, nhưng cũng rất ư đãng trí, không khoái chú tâm vào bất cứ
chuyện gì.
Ông còn là một người không có chút ý niệm nào về thời gian. Cẩu thả
nữa. Có
lần, ông rời phi cơ, không đóng cửa phòng lái, và để gió quất sụm chiếc
máy
bay. Những chuyến bay dài của ông, từ Paris đi Sài Gòn, hay từ Nữu Ước
đi
Patagonia, do đó, thường không được sửa soạn chu đáo, và trở thành thảm
họa.
Ngồi trong phòng lái mà trí ông bỏ đi lang thang, Trước hết, và có thể
trên
hết, ông là nhà văn, và ông coi cái nghề bay, như là một cách vượt ra
cõi đời
thường làm ông chán ngán, bực bội. Bay là một giải phóng tinh thần đối
với ông.
Dáng
người cao và thon, [bạn học gọi ông bằng
biệt hiệu “Kều Mặt Trăng”]. Dòng dõi quí phái, nhưng nghèo, bố mất sớm,
nhưng
không có gì liên quan tới huyền thoại tuổi thơ khó khăn vất vả. Họ hàng
bà con
giầu có không bỏ ông, ngoài ra còn bà mẹ mà trong nhiều năm, mà trong
nhiều
năm, ông tha hồ nã tiền, sống như một “ông hoàng nhỏ” [một số bạn coi
ông là
một tay “snob”, những ngày đầu học bay]. Nhờ ảnh hưởng của Henri
Guillaumet,
một phi công mà ông coi như là thần tượng, và nhờ “The Line”,
tính tình
của ông thay đổi. Hết lòng với bạn bè, với tinh thần của nhóm, ông bắt
đầu để
tâm đến chuyện này chuyện nọ, và nhận ra ý thức về trách nhiệm, một sự
bám trụ
- a gravity – như thế là rất cần thiết cho trí tưởng tượng bộc phát.
Danh
tiếng, như là một nhà văn, cộng thêm thành
tích xây dựng “cơ sở” cho hãng tại Nam Mỹ, ngần ấy thứ không thể cứu
ông, bị đá
văng ra khỏi “The Line”, khi nó sắp xếp, tổ chức lại công việc làm ăn,
vấn đề nhân
sự. Tuần trăng mật với bạn tình, tức phiêu lưu mạo hiểm, kể như xong.
Ông bèn
bước vào quãng đời mới tinh của mình, như là một tay nhà báo, nhà làm
phim. Ông
gọi đây là “thời kỳ xanh”. Người ta thấy “chàng” ngồi Quán Chùa - ấy
chết xin
lỗi – quán “Les Deux Magots”, hoặc Givral - ấy chết xin lỗi – quán
Lipp, tại đường
Tự Do, Sài Gòn - ấy chết xin lỗi - tại Paris; lơ đãng nhìn buổi sáng
bắt đầu,
tự hỏi không biết bữa nay cô bạn có giờ học ở Văn Khoa hay không, thỉnh
thoảng loáy
hoáy ghi sổ tay, tự nhủ thầm, mình mới ba mươi tuổi, còn “xoan”
chán!
Những
ghi chú nho nhỏ như thế, những mẩu viết
tình cờ như thế, sau gom lại, biến thành “Những Ngày Ở Sài Gòn” - ấy
chết xin
lỗi - biến thành “Cõi Người Ta”, Terre Des Hommes, [hình như được dịch
qua
tiếng Anh với tựa đề Gió, Cát, và Những Vì Sao], một tác phẩm sáng
chói, nhưng
cũng đầy những nét làm dáng, đã đem đến cho tác giả giải thưởng của
Viện Hàn
Lâm, ấy là ở Tây Phương, còn ở Mẽo Phương, nó đem đến cho ông một tài
sản (a
fortune), nhưng ông đâu thèm quan tâm tới thứ đó! Thời gian này, ông
lấy vợ, là
một goá phụ, người Ác hen ti nà, xăng xái, sống động, như một con
chim,
nhưng hoá ra là một người đàn bà đoảng đủ thứ, sau nhiều cú thượng cẳng
chân hạ
cẳng tay, theo kiểu yêu nhau lắm cắn nhau đau, họ thường xuyên xa nhau,
[bài
này dựa theo bài viết cùng tên của nhà phê bình V.S. Pritchett, trong
The
Complete Essays, nhà xb Chatto & Windus, London, 1991. NQT.] Như
tác giả
cuốn tiểu sử cho biết, nhà văn của chúng ta “cần” một loại hình đàn bà
như vậy
làm vợ, bởi vì một cuộc hôn nhân như thế thoả mãn điều gọi là nỗi âu
lo, ngần
ngại (inquiétude) của bất cứ một nhà văn!
Khi
xẩy ra Cuộc Thế Chiến Thứ Hai, Xanh Tếch xấp
xỉ bốn chục. Can trường, ông xung làm phi công lái máy bay thám thính,
trên những
vùng trời đang có những cuộc tiến quân của Nazi. Sau khi Pháp thất thủ,
ông
tính qua Nữu Ước. Trên đường bôn tẩu, khốn khổ thay, ông dừng lại
Vichy, gặp
một tay cộng tác viên với kẻ địch nổi tiếng, Drieu La Rochelle, và bị
liên lụy bởi
rất nhiều điều vu khống mà rất nhiều người Pháp đã gặp phải trong thời
kỳ nhiễu
nhương như vậy. Ông vốn không hẩu với tướng De Gaulle, mà ông nghĩ
rằng, đã kêu
gọi nước Pháp “làm một cuộc chiến tranh nồi da nấu thịt”, và ông bị
buộc tội là
một người theo Pétain [người cầm đầu nước Pháp theo Nazi lúc đó] Tác
giả cuốn tiểu
sử thuyết phục được người đọc, rằng làm gì có chuyện đó. Khi De Gaulle
từ chối
không giao cho ông bất cứ một nhiệm vụ nào trong thời gian có chiến
dịch Bắc
Phi, ông bèn theo lực luợng Hoa Kỳ vào Phi Châu, và sau khi chạy chọt,
được thương
tình giao cho trách nhiệm lái phi cơ thám thính chụp hình ảnh bên trên
vùng
trời nước Pháp bị chiếm đóng bởi Nazi. Tính không chú tâm vào bất cứ
chuyện gì
của ông thế tiếp tục, rất nhiều lần, ông quên không hạ thấp máy bay,
trong một
chuyến đi như thế, ông quên luôn cả chuyện trở về, và người ta cho rằng
máy bay
của ông bị bắn hạ ở giữa Nice và Corsia. Một nhân viên tình báo người
Đức vốn
rất mê Xanh Tếch cung cấp chứng cớ theo đó, máy bay của ông bị bắn hạ
bên ngoài
Corsia, nhưng M. Migeo [người viết tiểu sử ông] cho rằng, có hai người
đàn bà
nhìn thấy hai phi cơ bắn nhau trên vùng trời Nice, và họ là những chứng
nhân
tận mắt cái chết của ông. [Người viết bài này, cũng đã lâu, được đọc
một bài
báo, theo đó, người ta đã tìm thấy hài cốt của ông, nhờ thẻ bài, tại
một bãi
biển nào đó, nhưng đã sơ ý không ghi lại].