|
Noel
2012
Thơ Mỗi Ngày
Début et fin
de la neige
Khởi đầu và chấm dứt tuyết
“PREMIÈRE
NEIGE ....”
Première
neige tôt ce matin. L'ocre, le vert
Se refugient
sous les arbres.
Seconde,
vers midi. Ne demeure
De la
couleur
Que les
aiguilles de pins
Qui tombent
elles aussi plus dru parfois que la neige.
Puis, vers le
soir,
Le fléau de
la lumière s'immobilise.
Les ombres
et les rêves ont même poids.
Un peu de
vent
Écrit du
bout du pied un mot hors du monde.
Tuyết đầu
Tuyết đầu, sớm,
sáng nay
Bông son, bông
xanh
Trốn dưới lá
Thứ nhì, vào
lúc trưa
Chẳng để lại
màu gì
Ngoài những
cây kim, là những chiếc lá thông
Chúng đôi
khi rớt xuống dầy hơn tuyết
Rồi tới tối
Ánh sáng sững
lại
Những cái bóng
và những giấc mộng nặng bằng nhau
Một tí gió
Lấy đầu ngón
chân
Đi một chữ
Ở bên ngoài
thế giới
Beginning
and End of the Snow
"FIRST
SNOWFALL... "
First
snowfall, early this morning. Ochre and green
Take refuge
under the trees.
The second
batch, toward noon. No color's left
But the
needles shed by pines,
Falling even
thicker than the snow.
Then, toward
evening,
Light's
scale comes to rest.
Shadows and
dreams weigh the same.
With a toe,
a puff of wind
Writes a
word outside the world.
“ON DIRAIT....”
On dirait
beaucoup d'e muets dans une phrase.
On sent
qu'on ne leur doit
Que des
ombres de métaphores.
On dirait,
Dès qu'il
neige plus dru,
De ces mains
qui refusent d'autres mains
Mais jouent
avec les doigts qu'elles refusent.
"IT'S
LIKE... "
II's like a
phrase with lots of mute e's.
You feel you
only owe them
Shadows of
metaphors.
When the
snow falls thicker,
Il's like
Hands
pushing other hands away
But playing
with the fingers they refuse.
“Người ta nói”
Người ta nói
nhiều chữ “e” câm trong 1 câu
Con người chỉ
nợ chúng
Như những cái bóng của những ẩn dụ
Người ta nói
Khi mà tuyết
xuống dày quá
Thì những bàn
tay từ chối những bàn tay khác
Nhưng lại chơi
với những ngón tay mà chúng từ chối
YVES
BONNEFOY: SECOND SIMPLICTY: New poetry and prose, 1991-2011
Tập thơ tuyệt
cú mèo. Lúc mua thì đau súng quá, nhưng về nhà đọc, thì lại thú quá!
ASIA
LITERARY REVIEW
Winter 2010
Modern
Chinese Poetry - Insistent Voices
Landscape
Above Zero
It was the
seagull that taught the song to swim
It was the
song that found the first wind's source
We shared
shards of happiness
Entering the
home from different directions
It was
father who recognized darkness
It was
darkness that led us to sudden lightning
The weeping
door slammed shut
And echo
pursued its cries
It was the
pen that bloomed in despair
It was the
flower that refused the necessary journey
It was rays
of love that awoke
Lighting the
landscape above zero
Bei Dao
Phong cảnh ở
bên trên con số không
Đó là hải âu
dậy bài ca bơi
Đó là bài ca
tìm thấy nguồn gió
Chúng ta
chia nhau những mảnh vụn của hạnh phúc
Về nhà từ
nhiều hướng khác nhau
Đó là người
cha nhận ra bóng tối
Đó là bóng tối
dẫn chúng ta tới ánh sáng bất thần
Cánh cửa nức
nở đóng sầm lại
Và tiếng
vang đuổi theo tiếng khóc của nó
Đó là cây viết
nở hoa trong chán chường
Đó là bông
hoa từ chối một chuyến đi cần thiết
Đó là những
tia tình yêu thức giấc
Soi sáng
phong cảnh ở trên con số không
Wild Temple
Peace and
meditation
Twenty years
alone on the empty mountain
An old monk
Acrid pines
He hears
people speaking in the temple
A child's
voice
Then a
woman's
Then again
the child: a startled cry
Like thin
ice, the crescent moon drifts on water
Chen
Dongdong
Miếu hoang
An lạc và trầm
tư
Hai mươi năm
cô độc
Trên núi trống
vắng
Một thầy tu già
Những cây thông
cay sè
Ông nghe tiếng
người trong miếu hoang
Giọng một đứa
trẻ
Rồi giọng 1
người đàn bà
Rổi rồi lại
đứa trẻ: một tiếng khóc thất thanh
Như băng mỏng,
trăng lưỡi liềm trôi giạt trên mặt nước
Poetry
Liu Xiaobo
Wait for Me with Dust
for my wife, who waits every day
Nothing remains in your name,
nothing
but to wait for me, together with the dust of our home
those layers
amassed, overflowing, in every corner
you're unwilling to pull apart the curtains
and let the light disturb their stillness
over the bookshelf, the
handwritten label is covered in dust
on the carpet the pattern inhales the dust
when you are writing a letter to me
and love that the nib's tipped with dust
my eyes are stabbed with pain
you sit there all day long not daring to move
for fear that your footsteps will trample the dust you try to control
your breathing
using silence to write a story.
At times like this
the suffocating dust
offers the only loyalty
your vision, breath and time
permeate the dust
in the depth of your soul
the tomb inch by inch is
piled up from the feet
reaching the chest reaching the throat
you know that the tomb
is your best resting place waiting for me there
with no source of fear or alarm
this is why you prefer dust
in the dark, in calm suffocation
waiting, waiting for me
you wait for me with dust
refusing the sunlight and movement of air
just let the dust bury you altogether
just let yourself fall asleep in the dust
until I return
and you come awake
wiping the dust from your skin and your soul.
What a miracle - back from the
dead.
ASIA LITERARY REVIEW WINTER 2010
Đợi Tôi với Bụi
Gửi vợ tôi, người mà ngày nào
cũng đợi tôi
Chẳng còn gì trong tên em,
chẳng còn gì,
ngoài chuyện đợi anh, cùng với bụi trong căn nhà của chúng ta
những lớp bụi
vun thành đống, chồng chất lên nhau, ở mọi xó xỉnh,
em cũng đâu có muốn mở toang mấy bức màn
để ánh sáng ùa vô, làm phiền sự bất động của chúng
trên những giá sách, mẩu giấy
nhãn viết tay bụi phủ đầy
trên chiếc thảm
những hoa văn hít đầy bụi
khi em viết thư cho anh
và tình yêu
với ngòi bút chấm bụi
mắt anh xót như bị dao đâm
em ngồi đó suốt ngày không dám di động
sợ bước chân của em chà đạp bụi em cố gắng kìm nhịp thở của em
viện tới sự im lặng để viết một câu chuyện.
Vào những lúc như thế
bụi nghẹt thở
dâng hiến sự trung thành độc nhất
tầm nhìn của em, hơi thở và
thời gian
tẩm đẫm bụi
ở tận thâm sâu của tâm hồn em,
nấm mồ từng chút từng chút
cao dần, từ chân
lân tới ngực, tới cổ họng
em biết nấm mồ
là nơi yên nghỉ tốt nhất của em
trong khi chờ đợi anh ở đó,
chẳng còn nguồn cơn của sự sợ hãi, hay báo động
đó là lý do tại sao em thích bụi
trong bóng tối, trong sự nghẹt thở im ắng
đợi, đợi anh
em đợi anh với bụi
từ chối ánh mặt trời và sự chuyển động của không khí
cứ mặc kệ bụi chôn em cùng tất cả
cứ mặc cho mình thiếp đi trong bụi
cho đến khi anh trở về
và em thức dậy
rũ bụi trên da và tâm hồn. (1)
Đúng là 1 phép lạ - trở về từ
cõi chết
Cái cú
dịch thơ của Gấu, thú thiệt, nó giống như cái cú phát giác ra Lò Thiêu,
khi đọc Steiner!
Sướng mê
tơi, mà cũng khổ mê tơi.
Đơn giản
thì nó như thể này: Không thể không dịch thơ thế giới, sau khi Bắc Kít
ngộ độc nặng với dòng thơ Vệ Quốc của Liên Xô!
Bắc Kít
ăn cướp được Miền Nam, 1 phần là nhờ thơ Mai A Mai Iếc.
Chuyện Tình Đặc
Biệt Giáng Sinh:
Anh
Môn
Vào tháng Chín 1907, sau
cùng chàng được gọi tới trình diện tại căn
phòng ngày
nào nàng ở, trong tòa bulding, và được người gác cổng cho biết, nàng đã
lấy chồng
mùa đông năm trước. Hai năm sau, vẫn như đỉa đói, chàng mướn 1 anh thám
tử tư, điều
tra, và biết được địa chỉ của nàng, và biết thêm, nàng đã có 1 đứa con.
Anh 1 đời
rong ruổi
Em tay bế
tay bồng
Những khám phá này làm
chàng đau hơn hoạn. Năm năm sau cú sét đánh, chàng vẫn, như
đỉa đói,
ôm riết lấy căn bịnh, he still labelled his fixation a
“sickness”. Lâu
lâu nỗi buồn biến thành một trận
sốt thực sự. Nhưng nói chung, nó hợp với chàng, với thứ tình yêu "chiêm
ngưỡng và
kính trọng", yêu từ xa, to love at a distance.
[Note: Từ
"đỉa đói" này, là của 1 nữ thi sĩ, tặng Gấu Cà Chớn.
Em phán, kiếp
trước
mi đúng là 1 con đỉa, nên kiếp này mi làm phiền ta quá, làm rộn ta quá!]
Những ngày
tháng khi chàng trau giồi tiếng Anh ở Chiswick, thuộc vùng phía Tây
London, thì
thật là đáng nhớ, với món trà, món mứt, những phong cảnh trở thành nổi
tiếng nhờ
nhà văn Dickens thật đáng yêu của chàng, điều làm chàng bực nhất, là
lũ con gái, chưa nứt mắt mà đã yêu với đương!
Tuy nhiên, điều
này mới thật là tuyệt vời. Với 1 thánh nữ, như là BHD, như là Sad
Seagull, ấp ủ
ở trong tim trong hồn, sự nghiệp văn chương của GNV/Fournier bắt đầu!
Những bài
thơ đầu của chàng, tất cả đều dành cho thánh nữ vắng mặt, khiến chàng
có được
1 chân viết lách, như là 1 tay lèm bèm về văn chương cho tờ Paris-Journal
[Nhật báo Paris], nhờ vậy, chàng có dịp làm quen [và chọc quê]
André Gide, Paul Claudel, và những nhà văn Tẩy phổ thông khác. Chàng
thành lập 1 câu lạc bộ banh bầu dục chẳng giống ai, với tiểu thuyết gia
Charles
Péguy, và
Gaston Gallimard, 1 tay xb sách. Chàng dậy tiếng Tẩy [tí tí, thoáng
thoáng,
chốc lát]
cho T.S. Eliot. Vào năm 1912, GNV/Fournier đàng hoàng bước vô xã hội
thượng lưu,
tối ngày ngồi Quán Chùa với những đàn anh văn nghệ như Mai Thảo, TTT;
và
Fournier [không phải GNV] trở thành thư ký riêng, và người viết diễn
văn cho
Claude Casimir-Périer, con trai một cựu tổng thống Pháp.
Đạo diễn
Phan Huyền Thư nói có thể hiểu và đồng cảm được với nghệ sỹ Kim Chi
dưới góc độ
của người làm nghệ thuật, tuy nhiên nếu không khéo, nó lại hướng câu
chuyện
theo cách “cá nhân với cá nhân”.
BBC
Vụ này đang
nổ lớn, nhưng với Gấu Cà Chớn, đúng ra nó phải xẩy ra với me-xừ Nobel
Toán cơ.
Cầm cái bửu bối Nobel mà dí vào Lăng Bác Hát, mà phán, đi chỗ khác
chơi, thì may ra mới
ngang ngửa ép phê với bà Aung Miến Điện.
Tuy nhiên,
"không khéo" gì nữa, với nghệ sĩ KC, thì quả đúng là "cá nhân với cá
nhân". Gấu sợ
rằng chính bà cũng muốn như vậy. Cho nhẹ tội. Tao chán cái thằng cha
đó, chứ tao
không đụng tới chế độ!
Đừng buộc tội tao muốn đạp đổ Lăng Bác Hồ!
Note: Ui
chao, vưỡn giữ hoài cái mail đầu tiên em gửi!
Tuesday,
November 13, 2001 3:09 AM
Anh NQT kinh
men!
Truoc tien,
em phai thanh that xin loi anh vi thoi gian qua nhan rat nhieu mail cua
anh ma
mat lich su, khong hoi am duoc dong nao. Em di lam phim xa hang thang
troi nen
khong tien lien lac voi moi nguoi. Anh dung gui zip
cho em vi em khong biet mo, hon nua di cac noi
lang nhang xa nha nen
khong tien doc. Em mong anh gui cho em text.doc de em in luon ra va doc
duoc
mot cach de dang hon, em rat mong nhu vay...
Anh co khoe
khong? Co gi vui khong? Anh van thich nghe Kenny G va Yanni phai khong
a? Em se
gui cho anh tap tho cua em, dau tien, em dinh lay tua la" nhung giac mo
cua luoi" nhung bay gio em dat lai tua la "nam nghieng". Em gui
cho anh 3 bai tho moi nhat nhe, anh doc de chia se voi em, mong anh hoi
am.
Thinh
thoang, em van nghi den anh va nho la anh rat hom [hóm hỉnh] va gan gui.
Ở đâu có
bi
kịch, ở đó có thi sĩ.
.... nằm nghiêng
lạnh hơi lạnh cũ
PHT
Xác
Bụi
Thời vô song
Ghi
chú
trong ngày
Đúng là 1 tình
cờ thú vị, “Món gì ở giữa hai ngón
chân cái?”, hoá ra là nội dung, của
cái tít,
và của bài điểm, một cuốn sách mới ra lò về Camus và Sartre, trên
tờ TLS, Dec
14, 2012, “Võ sĩ và tay giữ gôn”, “The Boxer and the goalkeeper”,
Sartre vs
Camus, của Andy Martin, TV post sau đây:
Bướm
lúc đó ở đâu?
Where’s
Beauvoir?
Bài
ngắn, nhưng thật tuyệt, vì nó phân biệt được cả 1 thời hiện sinh Tẩy,
qua hai
bậc thầy của nó, một võ sĩ, Sartre; một giữ gôn, Camus. Jean Cau,
đệ tử
của Sartre, trong 1 bài viết cũng đã nhắc tới Sartre, như là 1 võ sĩ,
và còn tả
bộ dạng của sư phụ, mỗi lần sắp ra đòn!
Hạnh phúc không phải là
cái mà bạn cố có cho bằng được, mà là, bạn chỉ có
nó, khi cố hoàn tất 1 mục tiêu khác, và nếu thần may
mắn mỉm cười
với bạn, thì sẽ có lúc bạn có được hạnh phúc, như là bạn đang thở.
Điều này cũng giống như
điều mà tụi mũi lõ gọi là "cool" [thoải
mái, mát mẻ]. Bạn cố thoải mái là đếch làm sao thoải mái. Nhưng khi bạn
hết
mình vì 1 điều khi khác, và nếu mục tiêu khác này, và những cố gắng của
bạn, đáng khen, đáng nể, thế là sẽ có 1 lúc bạn hít thở thoải mái, mát
mẻ, như là bạn
đang thở khí trời.
Camus là 1 tay "cool" như vậy, trong khi Sartre là đối
cực, theo tác giả cuốn “Võ sĩ và tay giữ gôn”.
Nhưng lúc đó, “món gì ở
giữa hai ngón chân cái?” - tên một truyện ngắn của Cô Tư - tức bướm Beauvoir, ở đâu?
Where’s Beauvoir?
Hà, hà!
Ông ta có 1 đòn
làm tôi mê hoặc. Khi ông suy nghĩ, hay lắng nghe, vai phải của ông nhô
lên, cùng
lúc thân hình né ra khỏi cánh tay gấp lại. Những võ sĩ, phiá trái
trong tình trạng báo động [gauche en alerte], có thế ra đòn như vậy,
bằng tay
phải, khi chuẩn bị tung ra quả đấm.
Không biết có phải đòn này có từ thời ông học đấm, khi là giáo sư tại
Havre?
Hay là, những bàn luận văn chương,
triết học, thì với ông, cũng giống như 1 trận đấu võ: Ông chờ đợi những
ý kiến, lý lẽ của đối thủ y chang 1 tay võ sĩ chờ địch thủ ra đòn?
Jean Cau, viết
về sư phụ Sartre, Phác họa hồi ức, Croquis
de mémoire, trong Témoins de Sartre.
Osin Case
W.G.
SEBALD'S MENTAL WEATHER (1)
Cái tít làm
Gấu nhớ bài viết về 1 bạn quí, những ngày mới vô làng.
“Khí hậu ẩm
ướt trong thế giới tiểu thuyết NDT.”
Bài đăng
trên Nghệ Thuật. VL đọc bản thảo,
nghiêm giọng phán, mày viết sao là nó mang cái tên của mày, ký ở dưới
bài viết
đấy.
Ý anh muốn nói,
mày thổi bạn quí vừa thôi.
TTT cũng đi
1 đường, tương tự.
Cái khí hậu
của Tin Văn, thì cũng là cái
khí hậu tâm thần của Sebald, theo GCC!
Sau cuộc chiến
[Mít], nếu bạn vẫn là con người, thì không thể lành lặn được.
Phải có 1
cái gì ở trong bạn bị hư, hỏng, hoặc trục trặc, lâu lâu dở chứng.
NQT
Cái anh tà lọt
Osin, sở dĩ viết về cuộc chiến Mít bằng 1 giọng bình thản, là vì anh ta
chưa từng
bị tra tấn bởi cuộc chiến!
Bởi cả hai bên.
Người anh ta lành lặn, thế mới sướng!
Nhưng, nếu
như thế, thì đừng viết!
Giả và thật
trong văn chương.
Nguyễn Quốc
Trụ.
Nhà văn Nga,
Andrei Makine, viết văn bằng tiếng Tây, được hai giải thuởng văn chương
lớn của
Pháp, Goncourt và Médicis, trong cùng một năm (1995),
cùng một tác phẩm, Di chúc Pháp (Le Testament
francais); chưa kể giải Goncourt của giới học sinh trung học. Khi chưa
nổi tiếng,
ông đã phải bịa ra những “nguyên bản ma”, tức là coi những tác phẩm của
ông, là
những bản dịch, từ tiếng mẹ đẻ, bởi vì chỉ như vậy, nó mới gây được sự
chú ý ở
giới xuất bản và độc giả Pháp: Họ muốn tin rằng, đây là một “Kẻ Xa Lạ”
(tên một
tác phẩm của Camus), viết văn bằng tiếng Pháp, về nước Pháp! Và nước
Pháp “của
chúng ta” sẽ còn tuyệt vời tới mức nào, ở trong nguyên bản bằng… tiếng
Nga!
Nhưng trái với
quan niệm thông thường, theo đó, dịch là phản, nhà văn người Argentina,
Jorge
Luis Borges, cho rằng: nguyên tác không trung thực bằng bản dịch (the
original
is unfaithful to the translation).
Chứng cớ
cũng nhiều: Truyện Kiều của Nguyễn Du chẳng hạn, “bản dịch” ăn đứt
nguyên bản,
của Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyên bản bám chặt vào “hiện thực” của một
thời đại
Gia Tĩnh nhà Minh. Phó bản vượt ra khỏi những câu thúc mang tính lịch
sử, thời
đại, và nhập vào một cõi người, như là một nơi chốn tương tranh, mà sau
cùng
cái đẹp sẽ cứu chuộc nó (thế giới). Cũng vậy, những tác phẩm của Garcia
Marquez
đã vượt hẳn nguyên bản, của Faulkner. Nói một cách khác, Garcia Marquez
làm sống
lại Faulkner, nhưng không phải một Faulkner của cuộc nội chiến Nam Bắc
nước Mỹ,
mà là một Faulkner của vùng đất Nam Mỹ với những vấn nạn của nó.
Trường hợp
James Joyce cũng vậy. Những phó bản của Ulysses, nói rõ hơn, dòng văn
chương độc
thoại nội tâm, vốn thật tối tăm, thật khó hiểu, ở Joyce, đã được “tục
hoá”, bởi
những nhà văn như Faulkner, Hemingway, Claude Simon…
Theo nghĩa đó, Borges cho rằng, chính học trò
khám phá ra thầy: mỗi nhà văn ‘sáng tạo ra’ những tiền thân của riêng
mình. Tác
phẩm của anh ta sửa đổi quan niệm của chúng ta về quá khứ, như nó sẽ
sửa đổi
tương lai (every writer ‘creates’ his own precursors. His work modifies
our
conception of the past, as it will modify the future).
Nhận định “bản
dịch trung thực hơn nguyên tác” của Borges, là do thuở nhỏ, ông học
tiếng Anh
trước khi có thể đọc được tiếng Tây Ban Nha. Ông sống trong cả hai ngôn
ngữ: tiếng
Anh là để nói chuyện với bố mẹ, tiếng Tây Ban Nha, trong cuộc sống
thường nhật.
Chính vì vậy, sau này, khi đọc Don Quixote bằng nguyên bản Tây Ban Nha,
ông thấy
đây là một bản dịch dở, so với bản tiếng Anh của thời thơ ấu. (When
later I
read Don Quixote in the original, it sounded like a bad translation to
me). Và,
“thừa thắng xông lên”, ông bèn coi tác phẩm Don Quixote, của Cervantes,
là một
tác phẩm giả. Ông chứng minh, đồ “zin”, là của một tác giả tên là
Pierre Menard
(do ông bịa ra). Ông được coi là một trong những người kể chuyện vĩ đại
nhất của
thế kỷ 20: một người viết những bài điểm sách, về những cuốn sách không
hề có,
của những tác giả “giả” (a man who wrote book reviews of nonexistent
books by
imaginary authors).
Truy tìm thật
giả trong văn chương quả là một công việc nguy nan. Mới đây thôi, một
cây viết
hải ngoại la bai bải, “tài liệu giả, bà con ơi!”, khi đọc một số bài
viết ở
trong nước. “May quá”, đây chỉ là một báo động hoảng!
Và cũng mới
đây thôi, báo chí Tây Phương, tờ Time
chẳng hạn, đã ‘thông báo” về một mất mát
trong giới văn chương: chuyến tầu suốt, vào ngày 12 tháng Chín, 2000,
của nhà
văn Konrad Kujau. Còn tờ Người Kinh
Tế (The Economist, số Sept 23-29, 2000),
thì đi cả một đường ‘cáo phó’.
Nhưng Konrad
Kujau là ai vậy?
Xin thưa,
đây là người đã ngụy tạo tác phẩm: Nhật
Ký của Hitler.
Qua bài cáo phó,
đối với ông vua xài bạc giả này, thế giới đúng như Shakespeare nhận
định, “một
sàn diễn lớn của những tên khùng” (The world is a ‘great stage of
fools’). Bởi
vậy cho nên, ông chẳng hề tỏ vẻ ngạc nhiên, khi đám khùng rối rít khen
nhặng cả
lên tác phẩm của ông: Nhật Ký Hitler,
đã được vồ vập (bought), bởi báo Stern
(Đức),
Thời Báo Chủ Nhật (Sunday Times, Anh), và Tuần Tin Tức (Newsweek, Mỹ). Theo
họ,
đây là một ‘tin động trời’ (a scoop: tin đặc biệt), của thế kỷ. Nó còn
được một trong những
chuyên gia số một thế giới về thời kỳ Hitler, là Hugh Trevor-Roper ca
ngợi. Ông
la bai bải: thứ thiệt, thứ thiệt! Tuy nhiên, sau đó, người ta khám phá
ra rằng,
thứ giấy dùng để viết nhật ký, được chế tạo sau khi Ông Trùm Nazi đã
ngỏm củ tỏi.
Ông vua xài bạc giả đã nhuộm nó bằng nước trà cho có vẻ… xa xưa!
Chuyện thiên
hạ vồ vập nhật ký của ông trùm Nazi, cũng dễ hiểu: Hitler đã, và sẽ mãi
mãi còn
là một trong những con quỉ ‘hớp hồn’ (intriguing) người đọc. Người ta
còn tò mò
muốn biết, người đẹp của ông trùm, là Eva, có ‘sexy’ không?
Konrad thực
có tài, (he did have a gift), theo bài viết trên Người Kinh Tế. Ông có thể vẽ,
và có một con mắt tốt (a good eye), về chi tiết, theo thuật ngữ của
giới hội họa.
Khi còn trẻ, ông học nghệ thuật ở Dresden, khi đó còn thuộc Đông Đức.
Dời qua
Tây phương vào năm 1957, làm ba việc vặt vãnh, dành dụm tiền bạc, và mở
được một
cửa tiệm ở Stuttgart. Mỏ bạc giả của ông: hồi tưởng, hình ảnh tướng
lãnh, những
nhân vật nổi tiếng thời Nazi. Mấy thứ này dễ ợt, làm kèm với phiếu ăn
trưa
(luncheon vouchers). Ngửi thấy mùi, thiên hạ mê những món dính tới
chính
Hitler, ông bèn chế tạo dăm ba bài thơ, một vở opera, tranh mầu nước
Fuhrer là
tác giả. Rồi tới nhật ký về vài tháng trong năm 1935. Gerd Heidermann,
một nhân
viên của tờ Stern, và cũng là người đỡ đầu tiệm của Mr. Kujau, rất quan
tâm tới
nhật ký. Ở đâu ra vậy? Còn nhiều nữa hay chỉ có ngần này?
Ông này sau
đó đã thuyết phục Stern, và vài chục triệu đô la đã được tờ báo chi ra,
tiền
hoa hồng cho người trung gian cũng khá bộn, và sau đó ông cũng đi tù vì
tội đồng
lõa.
Konrad Kujau
bị kết án 4 năm rưỡi, nhưng gỡ ba cuốn lịch thì được thả. Hầu hết mọi
người cho
rằng, ông ta chẳng làm hại ai (no real harm). Chính ông ta cũng rất tự
hào về
tài năng của mình, và sẵn sàng đưa ra một bài học, khi được phóng viên
hỏi. Ông
rất bực, khi một nhà chuyên môn nghiên cứu thư khố, cho rằng ‘tác phẩm’
của ông
‘hời hợt’. Ông đã mất hai năm trời cặm cụi, tại căn phòng ở phía sau
cửa tiệm.
Chính cái bề dầy của nó, 62 tập, đã làm những chuyên gia choáng váng.
Hugh
Trevor-Roper ghi nhận: chúng tạo nên một toàn thể hài hòa. Đủ thứ ở
trong đó:
nào là những tiểu sử của Hitler, những nhật báo thời kỳ đó… Đôi khi,
trong khi
viết, tác giả thắng bộ đồ ‘hành quân’ của một tướng lãnh Nazi, để nhập
đồng, và
có lúc ông cảm thấy, mình chính là Hitler! “Khi viết về Leningrad, tay
tôi run
run,”, tác giả thú nhận. Đây là một kinh nghiệm những tay chuyên môn
xài bạc giả
đã từng trải qua. Một trong những bậc thầy trong ngành, là Thomas
Chatterton, một
nhà văn thế kỷ 18, đã giả mạo những bài thơ của một Thomas Rowley, một
nhà sư
thời trung cổ, và được rất nhiều người đọc ái mộ.
Ở Việt Nam,
sau 1975, cũng có những tài liệu ngụy tạo về gia đình họ Ngô, nhất là
về Trần
Thị Lệ Xuân. Nào nhật ký, nào hình “khỏa thân” khi đang tắm biển, hoặc
đang làm
tình. Có thể, kẻ thắng trận còn e sợ những tình cảm luyến tiếc nhà Ngô,
ở người
dân Miền Nam. Nhưng do ngụy tạo quá lộ liễu, đầy sơ hở (thí dụ như khi
ghép mặt
bà Lệ Xuân với một thân hình khoả thân khác…), cuối cùng đã gây phản
ứng ngược:
người dân càng thương nạn nhân, và càng tởm chế độ. Người viết còn nhớ,
ngay
khi nhà Ngô sụp đổ, tại một phòng triển lãm ngay đường Tự Do, một ông
làm phòng
thông tin đã cho chơi một bản nhạc chế nhạo miền Bắc, đúng ra là chế
nhạo ông Hồ,
nhại theo điệu “son son son, mì son đố mì, son son son mình yêu nhau
đi, nhờ
Bác Hồ mà ta mê ly”, nhưng chỉ được một hai bữa, là có lệnh dẹp, vì
người dân Miền Nam không có thói quen sỉ nhục đối phương.
Note: Mới kiếm
thấy!
Torture,
writes Améry, has "an indelible character".
Whoever was tortured, stays tortured.
Sebald: Chống Lại Sự Không Thể Đảo Ngược: Về Jean
Améry, trong Lịch sử tự nhiên về
huỷ diệt
[Against the
Irreversible. On Jean Améry.
On the
natural history of destruction, nhà xb Vintage Canada].
Améry viết, tra tấn có cái tính
quái dị, không thể tẩy
xoá đi được, là: Ai đã từng bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.
Câu này, theo Gấu tôi, đọc
[đảo] ngược lại, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra tấn, là cứ thèm tra tấn suốt đời!
Jean Améry
viết về Sầu Xa Xứ:
Cái sầu xa xứ thứ thiệt, le vrai mal
du pays, le Hauptwehe,
“nỗi nhức nhối số 1", “la
douleur capitale”, nếu tôi được phép mượn từ của Thomas Mann, thì khác,
cực khác
về bản chất, so với những gì tôi viết ở trên, và nó chỉ ngưng, khi bạn
chỉ còn
bạn với bạn. Vào lúc đó, đếch có hát hỏng Thuyền Viễn Xứ cái con mẹ gì
nữa, cũng
chẳng có gợi nhớ những đồng ruộng Mít đã mất, và bạn cũng không vãi ra
những giọt
nước mắt đồng lõa. Sầu Xa Xứ thứ thiệt không phải là tự an ủi, mà là tự
huỷ.
Le
vrai mal
du pays ce n’était pas l’autocompassion, mais l’autodestruction.
"Perhaps",
writes Nietzsche in the Genealogie
der Moral, "there is nothing more
terrible and mysterious in the whole prehistory of mankind than our
mnemonic
technique. We burn something into the mind so that it will remain in
the
memory; only what still hurts will be retained".
Trong trọn thời kỳ tiền sử, có lẽ không có chi khủng khiếp và bí ẩn
hơn, so với
kỹ thuật tạo dấu ấn của con người, Nietzsche viết trong Genealogie der
Moral:
Chúng ta đánh dấu trái tim của chúng ta bằng lửa, sao cho,
chỉ cái
đau được giữ lại, [cái sướng bỏ đi].
.. Weiss
learned in exile to understand the fate he escaped...... so
vital to
him, of whether he himself was on the side of the creditors or the
debtors. He
finds the answer to the question in the course of his own study, as it
becomes
increasingly clear to him that rulers and ruled, exploiters and
exploited, are
in fact the same species, so that he, the potential victim, must also
range
himself with the perpetrators of the crime or at least theirs
accomplices
Chỉ tới khi lưu vong thì Weiss mới hiểu ra phần số của mình, ở về phía
kẻ ăn cướp
hay bị ăn cướp. Ông tìm thấy câu hỏi cho câu trả lời theo dòng nghiên
cứu của
chính ông, và mọi chuyện càng ngày càng trở nên rõ ràng, đối với ông,
là, cai
trị hay bị trị, bóc lộc hay bị bóc lột, thì cũng rứa, và, bởi vì ông ta
sinh ra
là có tướng bị ăn đòn rồi, thành thử bắt buộc phải tự xếp hàng cùng với
những kẻ
tạo ác, hay chí ít, cũng đồng phạm.
Sebald
… Weiss to
attend the Auschwitz trial in Frankfurt. He may also have been
motivated before
the event by the hope, never quite extinguished, "that every injury has
its equivalent somewhere and can be truly compensated for, even if it
be
through the pain of whoever inflicted the injury." This idea, which
Nietzsche thought was the basis of our sense of justice and which, he
said,
"rests on a contractual relationship between creditor and debtor as old
as
the concept of law itself”…
W.G. Sebald: The Remorse of the
Heart.
On Memory
and Cruelty in the Work of Peter Weiss
Weiss tham dự
tòa án xử vụ Lò Thiêu ở Frankfurt. Có thể là do ông vẫn còn hy vọng,
một niềm
hy vọng chẳng hề tàn lụi, rằng, “mọi tổn thương thì có cái phần tương
đương của
nó, ở đâu đó, và có thể thực sự được đền bù, bù trừ, bồi hoàn, ngay cả,
sự bồi
hoàn này thông qua nỗi đau của bất
cứ kẻ nào gây ra sự tổn thương”. Tư
tưởng
này Nietzsche nghĩ, nó là cơ sở của cảm quan của chúng ta về công lý,
và nó,
như ông nói, “nằm trong liên hệ có tính khế ước, giữa chủ nợ và con nợ,
và nó
cũng cổ xưa, lâu đời như là quan niệm về luật pháp, chính nó”
W.G.
Sebald: Sự
hối hận của con tim.
… even
if it be through the pain of whoever
inflicted
the injury.
Moi, je
traine le fardeau de la faute collective, dis-je, pas eux.
Jean Améry
viết, trong Vượt quá tội ác và hình phạt, Par-delà le crime et le châtiment.
Gấu cũng có
thể nói như thế:
Ta mang cái
gánh nặng của Cái Ác Bắc Kít, đâu phải lũ Bắc Kít?
Con chim ousen [chim két] hót ở
trong rừng Cilgwri.
Hót hoài hót hoài như một dòng suối dội lên những
hòn đá rêu xanh
Nhưng cũng chưa xa xưa bằng con nhái Cors Fochno
Cảm thấy làn da lạnh chũng vào tới tận xương tận
tuỷ.
Rushdie
viết, rất ít nhà thơ kết hôn sâu xa đằm thắm với đất mẹ như nhà thơ
R.S.
Thomas, một nhà thơ dân tộc Welsh [a Welsh nationalist], những vần thơ
của ông
tìm kiếm, bằng cách nhận ra, để ý [noticing], khẳng định [arguing], làm
thành
vần điệu, huyền hoặc hóa, biến đất nước thành một sinh vật rất ư là
nồng nàn,
rất ư là trữ tình.
Tuy
nhiên, cũng chính ông này, cũng viết:
Sự
hận thù mất nhiều thời gian
Để mà đâm chồi nẩy lộc, và lòng hận thù của tôi
Kể từ khi sinh ra, cứ thế mà tăng trưởng..
Không
phải tôi thù cái mảnh đất tàn nhẫn thô bạo dã man mà tôi ra đời...
Tôi nhận ra một điều:
Cái lòng hận thù đó, là thù cái làn da khốn kiếp của tôi,
Cái thứ khốn kiếp, là chính tôi!
Hate
takes a long time
To grow in, and mine
Has increased from birth;
Not for the brute earth...
I find
This hate's for my own kind.
*
Thảo
nào, thằng cha Gấu thù chính nó, thù cái chất Yankee mũi tẹt của chính
nó! (1)
Coetzee
@ ML, Aout, 2012
Cali Nov
2012 With Sad Seagull
Muốn đếch muốn
gì hết!
Le Magazine Littéraire Hors-série, n # 14
Trường Gia
Long, Sài Gòn, cc 1966-72 (1)
Đây là
cái cổng trường Gia Long, phía bên hông, [đường Trương Định, băng qua
vườn Tao Đàn], GCC đưa đón BHD, đúng thời gian đó, 1966...
"Khi em đi vô cổng trường,
rồi anh đừng
có đứng lại lâu vì em sẽ biết anh đang nhìn em, em phải quay lại mỉm
cười nhìn
anh…”
…. vội vàng
chạy vô cổng trường rồi lại vội vàng chạy ra: nàng quên không dặn chàng
trưa
nay đừng đón nàng, vì nàng sẽ về chung với Lan Anh, bạn nàng...
Tứ
tấu khúc
Ui chao, nhìn
cái hình, cảm khái chi đâu. Nhìn vách tường, với ba tờ quảng cáo… thì
lại nhớ cái
thông báo của Ban Giám Hiệu, cấm cái trò đưa đón như trường hợp cặp Gấu
&
BHD!
Chỉ đến khi
có thông báo, thì Gấu mới thả Em cách cổng trường khá xa....
Bạo Miệng [Strong Opinions]
Ông viết cả
lố tác phẩm, nhưng người đời cứ gọi Nabokov là "người của Lolita",
ông có bực không?
Không. Lolita là 1 cục cưng của tôi, Lolita est ma
favorite toute particulière.
Cuốn sách khó viết nhất trong những cuốn của tôi - nó đề cập tới 1 đề
tài thật lạ
lùng, si étranger, cách thật xa cuộc đời tình cảm của tôi, si éloignée
de ma
vie affective, mà tôi thật thích thú gọi tới mọi cội nguồn "kết hợp",
để biến nó thành hiện thực.
Ông có ngạc
nhiên về sự thành công khủng khiếp của cuốn sách khi nó xuất hiện?
Tôi ngạc nhiên
về chuyện nó xuất hiện, giản dị có vậy [J’ai été surpris qu’il
paraisse, tout
simplement]
Lolita, có… thực không? [Et Lolita:
a-t-elle existé?]
Không,
Lolita không có khuôn mẫu [modèle]. Nàng sinh ra từ trí tưởng của tôi
[mon
esprit]. Nàng chưa từng hiện hữu… nàng là một trái cây từ trí tưởng
tượng của tôi, un fruit de mon imagination.
Chuyện Mùa Đông
Văn
Chương Kung Fu
Gấu cũng
có
nhiều kỷ niệm ở đây. Mép phía bên phải, có 1 tiệm hút, của 1 anh già.
Ch. một
thằng bạn của thằng em đã tử trận của Gấu, sau thành bạn của thằng anh,
gọi là Minh
Pháo Thủ. Vào cái hồi Gấu lên voi, có xế hộp, thường đưa Sĩ Phú tới.
Khi xuống
chó, Gấu mỗi lần lủi thủi tới, là nằm suốt buổi. Anh già phán, mi hợp
với cái món
này, khó bỏ lắm đấy, con ơi!
Phía bên trái,
xa chút nữa, là tiệm bán đồ gỗ, tủ, bàn ghế…. của
gia đình Tích, một ông bạn trong nhóm Ngô Khánh Lãng.
Anh bạn này, sau có thời ra tranh cử chức dân biểu Hạ Viện, rớt. Làm ở
Viện Giám
Sát, kế ngay bên Đại Học Văn Khoa hồi còn ở Nguyễn Trung Trực. Hiện ở
Úc.
Bạn bè
đến bây giờ còn ca ngợi Tích: Súng của anh bảnh lắm. Đứa nào trông thấy
cũng… thèm!
Bảnh nhất trong bọn.
Thời gian NtaV còn cái
nhà của ông cụ ở đường 20, kế chung cư Đô Thành, gần Chợ Vườn Chuối. Cả
bọn thường tụ tập ở đây. Một lần Tích xoay xoay 1 hồi, dựng
súng lên, choàng cho nó cả một lẵng hoa, đi đi lại lại trong phòng diệu
võ dương
oai. Sau này, đọc Người Tình Của Bá
Tước,
đến cái đoạn bà bá tước quỳ trước súng
của anh làm vườn, trầm trồ, ôi, sao mà nó đẹp trai, nó hùng vĩ, nó oai
vệ đến như
thế, là Gấu nhớ đến súng của bạn Tích!
Nhưng phải nghe nghe Lãng kể 1 giai thoại về Tích
mới lại càng thú!
Giai thoại này,
Lãng cho biết, do chính bà vợ của Tích kể, lần hai vợ chồng Mẽo du ghé
thăm vợ
chồng anh.
|
|