|
May 17, 2012
Rio De
Janeiro
Summer
2012, Downtown Toronto
Tribute to Horst Faas
Thơ Mỗi Ngày
Nhớ không
Thuần cánh cửa sổ
nhìn xuống
con phố quận 13 Paris
mưa lầy lội
mưa ướt thảm lá vàng mùa thu
đêm khuya đi
chuyến métro về Porte d’ Ivry
những chuyến
métro chưa quen
tiếng kèn buồn
của người đàn ông
như đến từ
các xứ Bắc Phi
nghe như ngọn
gió thổi buốt trên sa mạc
nhớ không
Thuần cánh cửa sổ
khu chung cư
ấy đêm về mở ra
bạn đứng phà
hơi thuốc nhớ Nhã Hương
kêu điện thoại
khó khăn bấm số thẻ dài dòng
có đêm nấu
hai tô mì gói ghé mua ở chợ Tàu
thấy ngon,
thêm mấy lon bia Heineken
bạn ưng uống
bia hơn chát đỏ
Lê Tài Điển
thì điểm tâm đã một chai La Fleur Pauillac…
nhớ không
Thuần cánh cửa sổ ấy
nhìn xuống
con đường mưa
Paris gió lạnh,
chiều lang thang trên đồi Montmartre
Place du
Tertre như thấy lại mình trên đường bay nét cọ
chân dung
thiếu nữ qua mấy nét chì than
ghé quán ngồi,
Lê tài Điển nói đã ngồi đó với Ngọc Dũng
chúng ta còn
đứng trên cầu Mirabeau
nhìn sông
Seine mà nhớ sông Hương
nhớ không
Thuần cánh cửa sổ ấy
khu chung cư
ấy ở quận 13 chúng ta đã ở
những đêm ngồi
cùng bạn bè ở quán Monge về
bây giờ quán
Monge đã đóng cửa
Paris và những
chuyến métro chưa quen
tình bạn ấm
cúng ở đó, làm sao chúng ta không trở lại … (1)
Virginia, 10
May 2012
Đinh Cường
Note: Cái
quán thuốc lá, chủ quán, cũng có nhiều chuyện lý thú lắm.
Thêm bài thơ
sau đây. Những nhà thờ của xứ Tẩy
Thiền Sư
TTM, chủ quán thuốc lá, ngày nào với cái tên Lucky,
thay vì như bây giờ
Quà &
Thuốc
THE CHURCHES
OF FRANCE
For Czeslaw
Milosz
The churches
of France, more welcoming than its inns and its poems,
Standing in vines like
great clusters of grapes, or meekly, on hilltops,
Or drowned
in valleys, on the floor of a green sea, in a dry
landscape,
Abandoned
buildings, deserted barns
Of gray
stone, among gray houses, within gray villages,
But inside pink or white or
painted by the sun coming through
stained glass.
Little
Romanesque shrines with stocky frames, like craftsmen shaped
by their labor,
Pascal's
invisible church, sewn into canvas,
And slim cathedrals like herons above the
cities, seen clearly from
the highway,
the loveliest is in Chartres,
Where stone
stifles desire.
The mills of the Cistercians, turning water in Sunday streams,
and
their ponds,
Synagogues, elder sisters, betrayed and plundered so often, discreet,
The
ruined abbey in Normandy, where among the raspberry
bushes a
black adder basks in the heat,
A small
tree, growing on the roof of a village church, a young ash
that will become a
monk,
The basilica
in Vezelay, belonging to Magdalene, pink as a wild
strawberry's mouth.
Claudel's
church, thickset, almost neckless, inspired, sometimes
full of spite
And the
church in Tournus, whose arches must make the Arabs
proud too,
The moss-covered
walls of modest chapels that have forgotten
their names
And
the fortified basilica in Albi, a masterwork of military art,
sheathed in a
dragon's skin,
And in the square the peddlers of nuts, holy pictures, and
aniseed
cakes.
But at night
the peddlers vanish and only walls and windows,
blind as kittens, remain,
And the vast
night and much silence and sometimes a dying
comet's
roar.
Romanesque
columns in cloisters, as if carved by brilliant children.
Meadows,
where lovers meet.
The stone
Jeremiah in Moissac, with a kind face.
The church
of Maurice, who learned my language and lives in
Warsaw among
the poorest.
The churches
of France, dark vessels, where the shy flame of a
mighty light
wanders.
Adam
Zagajewski
Phan Tấn Hải
Bùi Vĩnh
Phúc, Cao Bá Minh, Cao Xuân Huy, Châu Văn Thọ, Đỗ KH, Đỗ Ngọc Yến,
Hoàng Khởi
Phong, Hoàng Phủ Cương, Hoàng Xuân Sơn, Hồ Đình Nghiêm, Hồ Minh Dũng,
Khánh Trường,
Khế Iêm, Khiêm Lê Trung, Lâm Chương, Lê Bi, Lê Thứ, Lê Thị Thấm Vân, Lê
Thọ
Giáo, Lưu Nguyễn, Lưu Hy Lạc, Luân Hoán, Mai Kim Ngọc, Mai Ninh, Nguyễn
Đăng
Thường, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Hương, Nguyễn Hoàng Nam, Nguyễn Đình
Thuần,
Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Ngọc Nhung,
Nguyễn Quí Đức,
Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Văn Sâm, Nhã Ca, Nhật Tiến, Nguyễn Xuân
Hoàng,
Nguyễn Tiến Văn, Nguyễn Quốc Trụ, Phạm Trần, Phạm Phú Minh, Phạm Việt
Cường,
Phan Thị Trọng Tuyến, Phan Tấn Hải, Phùng Nguyễn, Tạ Chí Đại Trường,
Thân Trọng
Mẫn, Thảo Trường, Thường Quán, Trầm Phục Khắc, Trân Sa, Trần Dạ Từ,
Trần Doãn
Nho, Trần Vũ, Trịnh Y Thư, Trúc Chi, Triều Hoa Đại, Trương Vũ, Tưởng
Năng Tiến,
Tường Vũ Anh Thy, Vũ Huy Quang.
Trên đây là danh sách
những nhà văn Mít hải ngoại ký tên vô cái thư gửi cho me-xừ
Grass, đề nghị can thiệp cho vợ chồng nhà văn nhà thơ ra đi từ miền
Bắc, và có
ý chọn Đức làm quê hương thứ hai của họ, nhưng bị bác đơn. (1)
Danh sách
trên, do thiền sư TTM phịa ra.
GCC đoán thế, bởi là vì có lần gặp BVP, nhắc tới nó, nhà phê bình ngạc
nhiên,
danh sách nào, và khi vỡ ra, anh cười, chắc là thiền sư nhớ ra tên ai
là nhét
vô, chứ cũng chẳng cần gọi điện thoại.
Lần đó, GCC
gửi lá thư ngỏ cho Grass tới Việt
Báo online, và thiền sư Phan Tấn Hải bèn "đi" liền, cùng
lúc order Thân Trọng Mẫn lên cái danh sách như trên.
Thân Trọng Mẫn
có ông anh ruột, là Thân Trọng Hinh, kỹ sư Bưu Điện,1 trong những ông
thầy của
GCC, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện. Kỹ sư thật, học ở Tây về, nhưng
thực sự
chẳng biết tí kỹ thuật; không chỉ ông, mà đa số như vậy. Sau Bưu Điện
đành sử dụng
ông vào chức Trùm Bảo Vệ Cơ Sở, và vì thế, những ngày nhốn nháo, hoảng
loạn trước 30 Tháng Tư 1975, ông nhận được thư của đám
VC nằm vùng, báo cho biết, ông có tên trong danh sách được làm thịt!
Hình như bạn
ta, nhà thơ Du Tử… Cà [Lê không phải, Táo cũng không, thì Cà vậy, Cà
Chớn!],
thời gian đó, cũng nhận được “Lệnh Xé Xác” của VC?
Hà, hà!
Lần về Hà Nội,
gặp Nguyên Đầu Bạc, anh cho biết, là người đầu tiên đọc lá thư, bèn lập
tức copy
1 bản, đi một đường tới nhà của ông cụ/bà cụ của vị được nhắc tới.
Anh cũng đưa
Gấu tới nhà hỏi thăm, và được mời ở lại ăn cơm, món Bắc Kít.
Akhmatova
At certain
periods of history it is only poetry that is capable of dealing with
reality by
condensing it into something graspable, something that otherwise
couldn't be retained
by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of
Akhmatova-which
explains her popularity and which, more importantly, enabled her to
speak for
the nation as well as to tell it something it didn't know.
She was,
essentially, a poet of human ties: cherished, strained,
severed. She showed these evolutions first through the prism of the
individual
heart, then through the prism of history, such as it was. This is about
as much
as one gets in the way of optics anyway.
These two
perspectives were brought into sharp focus through prosody, which is
simply a
repository of time within language. Hence, by the way, her ability to
forgive -
because forgiveness is not a virtue postulated by creed but a property
of time
in both its mundane and metaphysical senses. This is also why her
verses are to
survive whether published or not: because of the prosody, because they
are charged
with time in both those senses. They will survive because language is
older
than state and because prosody always survives history. In fact, it
hardly
needs history; all it needs is a poet, and Akhmatova was just that.
1982
Joseph
Brodsky: The Keening Muse
Bài Intro cho tập thơ của Akhmatova, được in
trong tập tiểu luận Less Than One,
với cái tít trên, The Keening Muse [Bà
Chúa Thơ Than Khóc].
Liu Xiaobo
Bi Khúc Bốn
Tháng Sáu
Bi Khúc 2
Standing
in
the Curse of Time
Đứng trong
Nguyền Rủa của Thời Gian
Nguyên tác chữ Hán
IV
Tuyệt thực
Ngưng thủ
dâm
Nhặt một cuốn
sách từ trên đống đổ nát
Cảm thán sự
khiêm nhường của thi thể
Mơ một giấc
mộng đen đỏ
Ngay bên
trong bụng muỗi
Lại gần lỗ
giám sát (*) trên cánh cửa sắt
Đối thoại với
quỷ hút máu
Giờ đâu cần
phải cẩn trọng tỉ mỉ đến thế
Cơn co thắt
dạ dày đột ngột
Ngay trước
phút lâm chung, mang đến cho tôi dũng khí
Nôn ra một lời
nguyền rủa:
Năm mươi năm
huy hoàng
Chỉ có Đảng
Cộng Sản
Không có nước
Trung Hoa mới
Cái tít của
bi khúc, “Thời Nguyền Rủa”, cho thấy sự tương phản giữa hai
câu thơ
Câu
chuyện đông phương cổ xưa ấy
Bỗng muốn nhỏ xuống từng giọt tươi rói
Liu Xiaobo
Và
Giọt mưa trời
khóc ngàn năm trước
Sao còn ướt
trên lưng bàn tay
TMT
Brodsky phán:
Xuyên suốt
cuộc đời 1 người, Thời gian nói [address] với Con Người trong muôn vẻ,
variety,
ngôn ngữ; ngôn ngữ của sự ngây thơ, tình yêu, niềm tin, kinh nghiệm,
lịch sử, ...
Trong những ngôn ngữ đó, ngôn ngữ của tình yêu rõ ràng là một lingua franca, ngôn ngữ bắc cầu. Bộ từ điển
của nó, its vocabulary hấp thụ, nuốt, absorb, tất cả những tiếng nói
khác,
other tongues, và sự phát ra của nó, its utterance, thí dụ, anh
thương em, làm hài lòng, gratify, một
chủ thể, a subject, cho dù vô tri vô giác,
inanimate, cỡ nào. Bằng cách thốt ra như thế, anh thương em,
chủ thể sướng điên lên, và cái sự sướng điên lên đó,
nói lên, làm vọng lên, echoing, cả hai chiều: chúng ta cảm nhận những
đối tượng
của những đam mê của chúng ta, và cảm nhận Lời Chúa [Good Book’s
suggestion], và Chúa là gì, as to what God is.
Tình yêu thiết
yếu là một thái độ được gìn giữ,
maintain, bởi cái vô cùng đối với cái hữu hạn. Sự đảo ngược, the
reversal, tạo
nên, hoặc niềm tin, hay thi ca.
Đoạn trên,
theo GCC, là cơ bản thiết yếu, của thơ Brodsky.
Nói rõ hơn, thơ của ông là thơ
tôn giáo, thơ của một nhà thơ Ky Tô. Chính vì thế, GCC khó nhập vô thơ
ông, vì
là 1 tên ngoại đạo. GCC viết ra, để phúc đáp 1 vị độc giả, tại sao Gấu
lèm bèm
hoài về Brodsky mà không dịch thơ Brodsky!
30.4.2012
and Mother's Day
By
Richie
To U, my Mom, with Love.
Mother's Day, 2010
Nóng
Mẹ
chồng và nàng dâu sống
cùng nhà với nhau thời này đã hiếm, nàng dâu và mẹ chồng thân nhau như
mẹ con
ruột lại còn hiếm hơn. Tôi may mắn có được cả hai thứ hiếm hoi ấy.
Thành ra,
tôi luôn bỏ chữ “chồng” đi liền sau chữ “mẹ”, kể cả khi kể chuyện…
Cuối tuần trước, mẹ gọi tôi
ra góc vườn, nơi có chiếc xích đu dưới bóng mát cây bàng, ngọt ngào:
- Ngồi xuống đây con, mẹ con
mình tâm sự…
Tôi ngồi xuống, nắm lấy tay
mẹ, nheo mắt cười:
- Mẹ lại muốn kể chuyện thời
oanh liệt phải không?
Mẹ cười hiền, bẹo má tôi:
- Bao nhiêu oanh liệt thời
quá khứ mẹ kể cho con nghe hết rồi còn gì. Hôm nay mẹ muốn nói chuyện
tương lai
kia.
Tương lai có gì mà đáng nói?
Chồng tôi là con một, là người thừa kế duy nhất căn biệt thự này. Thằng
cu Beo
sau này cũng sẽ là người thừa kế duy nhất khi hết đời vợ chồng tôi.
Tương lai
của cái nhà này xem ra có thể đoán trước được rồi. Nhưng có vẻ như mẹ
đang muốn
nói về cái tương lai khác. Mẹ thở dài, nhìn xa xăm:
- Từ ngày về hưu, ba mày sinh
ra đổ đốn!
Điều này tôi biết và cứ ngỡ
là giấu được mẹ để bà ấy khỏi buồn. Tôi nắm chặt tay mẹ hơn:
- Thôi mẹ ạ, ba sinh tật vài
bữa rồi lại chán thôi.
Mẹ lắc đầu:
- Không đâu con, càng ngày
càng hư đốn. Chuyện ông ấy đi bia ôm bia iếc với bạn mẹ không thèm để
ý. Nhưng
hôm rồi mẹ mới phát hiện ra ông ấy đang cặp bồ với một con bé còn nhỏ
hơn cả
tuổi của con…
Tội nghiệp mẹ, tôi an ủi:
- Dù sao ba mẹ cũng có đến
mấy chục năm hạnh phúc!
Mẹ cười, giọng vui vẻ hơn:
- Thì vậy! Thiệt ra bây giờ
mẹ chỉ lo nhiều hơn buồn.
Tôi trấn an với tư cách chủ
tài khoản gia đình:
- Mẹ khỏi lo, ba toàn cho
gái… à, không, toàn xài bằng tiền lương hưu và quỹ đen giấu giếm lâu,
không ảnh
hưởng đến kinh tế gia đình đâu ạ.
Mẹ nhếch mép:
- Không phải mẹ lo chuyện
tiền bạc. Mẹ lo sau này con dâu của mẹ cũng lâm vào hoàn cảnh như mẹ
bây giờ.
Con biết đó, thằng chồng con, con trai mẹ… nó là thằng đào hoa có
tiếng. Hồi
chưa cưới con nó đã “quậy” có tiếng rồi.
Chuyện này tôi cũng biết,
nhưng tôi ngạc nhiên:
- Nhưng như thế thì có liên
quan gì đâu hả mẹ?
Mẹ nhìn tôi thương hại:
- Sao lại không? Cha nào con
nấy! Ba nó trước kia đàng hoàng biết bao nhiêu mà giờ còn hư hỏng vậy
huống chi
là nó. Mai kia nó mà… già thì con sẽ khổ gấp nhiều lần so với mẹ bây
giờ, con
dâu ạ!
Tôi giật mình, không phải là
không có lý!
Tối hôm ấy, tôi nói hết những
băn khoăn sau buổi trò chuyện với mẹ cho chồng nghe. Anh ấy bật cười,
ung dung
đứng dậy đi lấy cho tôi một cuốn… tiểu thuyết và nhẹ nhàng:
- Đúng là cha nào thì con
nấy. Anh ví dụ như anh và ba cùng đọc cuốn tiểu thuyết có phần đầu đầy
trắc trở
và phần kết rất có hậu này. Nhưng anh đọc xuôi từ đầu đến cuối, còn ba
thì đọc
ngược lại, em hiểu không?
Tôi lắc đầu, ngơ ngác. Chồng
tôi thở dài rồi nói như hét vào mặt tôi:
- Nghĩa là anh bắt đầu “quậy”
ngay từ thời trẻ, “quậy” chán rồi nên càng về già anh càng đàng hoàng.
Còn ba,
ông ấy trẻ không chơi nên già sinh đổ đốn, em hiểu chưa?
Lần này thì tôi hiểu nhưng
vẫn gắt chồng:
- Anh làm gì mà hét lên vậy,
không sợ thằng cu Beo nó nghe thấy à?
Tôi bực bội mở cửa ra ngoài.
Thấy cu Beo đang ngồi đọc truyện, tôi lại gần, ôm vai con:
- Con đọc xuôi hay đọc ngược
vậy con?
Beo trố mắt nhìn tôi:
- Đọc xuôi chứ, sao mẹ lại
hỏi vậy?
Tôi thở phào:
- Tốt, đọc xuôi là tốt con à.
À, mà này... con đã thích bạn gái nào trong lớp chưa?
Con trai tôi trợn mắt:
- Dạ chưa, mà sao mẹ lại hỏi
vậy?
Tôi ấp úng:
- Thì nếu có, mẹ… mẹ sẽ cho
con tiền dẫn bạn gái đi ăn kem và xem phim!
Quý tử của tôi há hốc miệng
nhìn mẹ lắc đầu rồi cúi xuống lẩm bẩm:
- Chắc tại mấy hôm nay trời
nóng quá…
Nguồn: Blog Cô Gái Đồ Long.
Còn cái
này thì thuổng trong
số báo Granta, Winter, 2004, về
Mẹ, Mothers.
Bác sĩ:
Báo tin buồn cho cô
biết, bà mẹ chồng của cô chết vì đau tim.
Cô con dâu của bà mẹ chồng Bắc Kít trợn mắt, hét:
Vô lý!
Đến lượt ông bác sĩ trợn mắt:
Sao?
Bả đâu có tim!
[To O., from K/GNV]
Trong số báo
này, có 1 bài của Ryszard Kapuscinski, thần sầu, “Tụi mình nói chuyện
30 Tháng
Tư khi nào nhỉ”.
GCC tính dịch
hoài mà quên hoài.
Chán thiệt.
Dưới
đây là
khúc chót, của bài viết, “Khi nào thì có chuyện trò về 1945”
WHEN
THERE IS TALK OF 1945
RYSZARD
KAPUSCINSKI
the writer
dreams of shoes, and shooting.
But
above
all war lived on within us because for five years it had shaped our
young
characters, our psyches, our outlooks. It tried to deform and destroy
them by
setting the worst examples, compelling dishonorable conduct, releasing
contemptible emotions. 'War,' wrote Boleslaw Micinski in those years,
'deforms
not only the soul of the invader, but also poisons with hatred, and
hence
deforms, the souls of those who try to oppose the invader'. And that is
why, he
added, 'I hate totalitarianism because it taught me to hate.' Yes, to
leave war
behind meant to internally cleanse oneself, and first and foremost to
cleanse
oneself of hatred. But how many made a sustained effort in that
direction? And
of those, how many succeeded? It was certainly an exhausting and long
process,
a goal that could not be achieved quickly, because the psychic and
moral wounds
were deep.
When there
is talk of the year 1945, I am irritated by the phrase, 'the joy of
victory'.
What joy? So many people perished! Millions of bodies were buried!
Thousands
lost arms and legs. Lost sight and hearing. Lost their minds. Yes, we
survived,
but at what a cost! War is proof that man as a thinking and sentient
being has
failed, disappointed himself, and suffered defeat.
When there
is talk of 1945, I remember that in the summer of that year my aunt,
who
miraculously made it through the Warsaw Uprising, brought her son,
Andrzej, to
visit us in the countryside. He was born during the uprising. Today he
is a man
in late middle-age, and when I look at him I think how long ago it all
was!
Since then, generations have been born in Europe who know nothing of
what war
is. And yet those who lived through it should bear witness. Bear
witness in the
name of those who fell next to them, and often on top of them; bear
witness to
the camps, to the extermination of the Jews, to the destruction of
Warsaw and
of Wroclaw. Is this easy? No. We who went through the war know how
difficult it
is to convey the truth about it to those for whom that experience is,
happily,
unfamiliar. We know how language fails us, how often we feel helpless,
how the experience
is, finally, incommunicable.
And yet,
despite these difficulties and limitations, we should speak. Because
speaking
about all this does not divide, but rather unites us, allows us to
establish
threads of understanding and community. The dead admonish us. They
bequeathed
something important to us and now we must act responsibly, To the
degree to
which we are able, we should oppose everything that could again give
rise to
war, to crime, to catastrophe. Because we who lived through the war
know how it
begins, where it comes from. We know that it does not begin only with
bombs and
rockets, but with fanaticism and pride, stupidity and contempt,
ignorance and
hatred. It feeds on all that, grows on that and from that. That is why,
just as
some of us fight the pollution of the air, we should fight the
polluting of
human affairs by ignorance and hatred. +
TTT 2012
Ghi
chú
trong ngày
5/14/12
Speak,
Memory I, 1
Cái nôi đung
đưa phía trên một vực thẳm, và lương tri dạy cho ta rằng sự tồn tại của
ta chỉ
là chút ánh sáng ngắn ngủi le lói qua cái khe kẹp giữa hai vĩnh cửu
bóng tối. Dẫu
cho chúng có là một cặp song sinh giống hệt nhau, thì theo lẽ thường
con người
vẫn bình thản hơn lúc nhìn vực thẳm trước khi sinh so với lúc nhìn vực
thẳm anh
ta đang tiến tới (ở tốc độ bốn nghìn năm trăm cú đập tim một giờ). Tuy
nhiên,
tôi biết một thằng bé mắc chứng ám ảnh sợ thời gian bị lên cơn hoảng
hốt khi lần
đầu tiên xem những đoạn băng video do người nhà nó quay cách vài tuần
trước khi
nó ra đời. Nó thấy một thế giới gần như không có chút biến đổi nào -
vẫn ngôi
nhà ấy, vẫn những con người ấy - và rồi nhận ra ở đó nó không hề tồn
tại và chẳng
ai khóc thương cho sự vắng mặt của nó. Nó thoáng thấy mẹ nó đứng vẫy
tay từ một
cửa sổ tầng trên, và cử chỉ bất thường này khiến nó phát hoảng, vì cứ
như thể
đó là một lời chào vĩnh biệt đầy bí ẩn. Nhưng nó sợ nhất lúc thấy một
cái xe
nôi cho trẻ sơ sinh mới cứng nằm đó dưới hàng hiên, với cái vẻ tự mãn,
ngạo mạn
của một cỗ quan tài; cỗ quan tài trống trơn, thế nhưng cứ như thể đến
cả xương
cốt của nó cũng rã rời trong dòng thời gian chảy ngược.
Blog NL.
W.G. Sebald
có 1 bài viết về cái đoạn mở đầu trên
Dream
Textures
A brief note
on Nabokov
Ngay ở đoạn
vừa mở ra cuốn tự thuật "Hồi ức kia ơi, hãy lên tiếng", của Nabokov,
có câu chuyện, một người đàn ông, mà chúng ta tin chắc, anh ta còn rất
trẻ, và
anh ta bị một cú sợ đến té đái, đó là khi được cho coi mấy đoạn phim
ngắn, chụp
cảnh trong gia đình, của chính anh ta, chỉ vài ngày trước khi anh ta ra
đời. Tất
cả những hình ảnh đang run rẩy trên màn ảnh kia, thì thật quá quen
thuộc với
anh ta. Anh ta nhận ra mọi điều, mọi thứ, và, đột nhiên anh ta mặc khải
ra rằng
là, không có ta ở trong đó.
Mặc khải này
khiến anh sợ đến té đái. Sợ hơn nữa, thê lương hơn thế nữa, là, mọi
người xem
ta chẳng tỏ ra một chút bùi ngùi nào, về sự vắng mặt của chàng.
Khủng khiếp
hơn hơn nữa, là hình ảnh bà mẹ, đứng bên cạnh một cửa sổ, đưa tay vẫy
vẫy, và
anh chàng tưởng tượng ngay ra được rằng, đây là một cái vẫy tay chào
giã biệt,
nhưng, giã biệt cái gì cơ chứ, và, chàng nhìn thấy, ở ngay cổng ra vào
căn nhà,
một chiếc xe nôi của trẻ con, giống như một cái hòm, và, mặc dù không
có đứa bé
con ở trong cái nôi, nhưng chàng tưởng tượng, đứa bé đó là chàng, và
"nó" đang tan ra thành hư vô, thành cát bụi, [trong dòng thời gian chảy
ngược].
Đây là
Nabokov đang mời gọi chúng ta, những độc giả của ông, cùng tham dự vào
một cuộc
thí nghiệm, thâm nhập cái chết trong hồi ức, của một thời gian trước
khi có cuộc
sống, một điều khiến người coi [anh chàng rất trẻ kia] trở thành một
thứ hồn
ma, trong chính gia đình của mình.....
One
1
THE CRADLE
rocks above an abyss, and common sense tells us that our existence is
but a
brief crack of light between two eternities of darkness. Although the
two are
identical twins, man, as a rule, views the prenatal abyss with more
calm than
the one he is heading for (at some forty-five hundred heartbeats an
hour). I
know, however, of a young chronophobiac
who experienced something like panic when looking for the first time at
homemade movies that had been taken a few weeks before his birth. He
saw a
world that was practically unchanged-the same house, the same
people-and then
realized that he did not exist there at all and that nobody mourned his
absence. He caught a glimpse of his
mother waving from an upstairs window, and that unfamiliar gesture
disturbed
him, as if it were some mysterious farewell. But what particularly
frightened
him was the sight of a brand-new baby carriage standing there on the
porch, with
the smug, encroaching air of a coffin; even that was empty, as if, in
the
reverse course of events, his very bones had disintegrated.
Remembering
Maurice Sendak
Childhood
terrors
Dịch giả Lê
Quang: “Sách Nobel có khi còn sai chính tả”.
Ông này không
chỉ cho thấy sai chính tả như thế nào. Sai chính tả theo cái kiểu lỗi
nhà in?
Hay sai văn phạm? Sai cấu trúc câu?
Lỗi thủ công
là cái lỗi gì? Lỗi của ông thợ sắp chữ? Thế thì liên can gì đến người
viết, nhà
văn?
Tiếng Việt,
của… Cô Tư, đầy lỗi chính tả, đâu có
sao? Nhà văn lớn bạn quí của GCC, dân Nha Trang, viết hỏi ngã trật tùm
lum, có
sao đâu?
Phán trời ơi
như thế, thì ai cũng phán được hết. Nhà thơ hải ngoại NDT nghe tông
tông Thiệu đọc
diễn văn mất nước mà còn nhận ra sai văn phạm nữa là… sách Nobel!
Phán kiểu này
mà dịch sách Nobel mà dịch 1 tác giả như Elfriede Jelinek, Gấu nghi quá!
Bà này đâu phải thứ thường?
Press
Release
The Nobel
Prize in Literature 2004
The Nobel
Prize in Literature for 2004 is awarded to the Austrian writer Elfriede
Jelinek, "for her musical flow of voices and counter-voices in novels
and
plays that with extraordinary linguistic zeal reveal the absurdity of
society's
clichés and their subjugating power".
The Swedish Academy
Giải Nobel
văn học năm 2004 được trao tặng cho nhà văn Áo, Elfriede Jelinek, cho
"dòng chảy âm nhạc của những tiếng nói và những tiếng nói đối nghịch
của
bà, trong những tiểu thuyết và kịch bản, mà, bằng nỗi đắm say phi
thường về
ngôn ngữ, những tác phẩm đó phơi ra sự phi lý của những khuôn sáo xã
hội và cái
quyền lực chế ngự của chúng." (1)
Tiểu sử
Elfriede
Jelinek sinh ngày 20 tháng Mười 1946 tại thành phố Murzzuschlag, vùng
đất
Styria thuộc Áo quốc. Cha, gốc Do Thái-Tiệp Khắc, là một nhà hóa học,
làm việc
trong ngành sản xuất kỹ nghệ quan trọng có tính chiến lược, nhờ vậy mà
thoát vụ
bách hại trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến.
"My
writings are limited to depicting analytically, but also polemically,
the
horrors of reality. Redemption is the speciality of other authors, male
and
female."
[Viết của
tôi hạn chế trong việc miêu tả, theo cách phân tích, mà cũng có tính
tranh luận,
những điều ghê rợn của thực tại. Cứu chuộc là biệt tài của những cây
viết khác,
nam và nữ].
Elfriede
Jelinek trả lời phỏng vấn.
Khi Adorno
nói, sau Auschwitz mà còn làm thơ thì thật là dã man, ông muốn nói,
theo như
tôi hiểu, hai điều:
Một là: Không thể làm thơ sau Auschwitz.
Hai là: Nếu sau Auschwitz vẫn có thơ, thì phải có Auschwitz trong cái
gọi là
thơ đó.
*
Sau những tội ác của chủ nghĩa toàn trị ở thế kỷ 20 và nhất là những
tội ác của
Nazi, chúng ta đều là những cái xác sống. Chúng ta đều chết, mà không
biết,
mình đã chết.
Jelinek
Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng
Hai, 2007, có "cuộc
phỏng vấn
lớn", grand entretien, nữ văn sĩ Elfriede Jelinek, Nobel văn chương, lương tâm tự vấn của nước
Áo, nhân
cuốn sách mới ra lò của bà đang gây chấn động, về cả hai phía, hoan hô
và đảo đảo: Enfants des morts,
Những đứa trẻ của những người chết [Nguyên bản
tiếng Đức:
Die Kinder der Toten, Olivier Le Lay dịch ra tiếng Tây, Seuil, 25 Âu
Kim].
Nobel 2004
Tác phẩm mới
nhất của Jelinek. Winterreise. Có
thể nói, có tới bốn cách đọc nó [bốn bậc dẫn giải, quatre
niveaux d'interpretation], quấn quít vào nhau, được tân tạo, tái tạo,
[remodeler]
theo hiện đại tính của chúng ta và theo những ám ảnh riêng của
tác giả.
Non cogito,
ergo sum
Gấu đếch
nghĩ, vậy là Gấu hiện hữu!
Unthinking
is the ability to apply years of learning at the crucial moment by
removing
your thinking self from the equation. Its power is not confined to
sport: actors
and musicians know about it too, and are apt to say that their best
work
happens in a kind of trance. Thinking too much can kill not just
physical performance
but mental inspiration. Bob Dylan, wistfully recalling his youthful
ability to
write songs without even trying, described the making of "Like a
Rolling Stone"
as a "piece of vomit, 20 pages long". It hasn't stopped the song
being voted the best of all time.
To
make good
decisions in a complex world, Gigerenzer says, you have to be skilled
at
ignoring information.
Để có quyết
định tốt bạn phải học bí quyết vờ thông tin.
If a rat is
faced with a puzzle in which food is placed on its left 60% of the time
and on
the right 40% of the time, it will quickly deduce that the left side is
more
rewarding, and head there every time, thus achieving a 60% success rate.
Nếu 1 chú
chuột đứng trước bài toán hắc hiểm, cục thịt được đặt 60 % thời gian ở
bên trái,
và 40 % thời gian ở bên phải, nó bèn suy ra liền phía bên trái dễ đợp
hơn…
Không
suy nghĩ là khả năng áp dụng những năm tháng học hỏi vào đúng thời điểm
quyết định,
bèn gạt bỏ cái ngã suy nghĩ
của mình ra khỏi phương trình. Quyền năng của nó không hạn hẹp trong
ngành thể
thao; nghệ sĩ và nhạc sĩ cũng biết nó, và có thể biết, khi nào, tác
phẩm bảnh
nhất của
họ phọt ra trong 1 cú xuất thần.
Nghĩ nhiều quá có thể giết không phải
chỉ cuộc
trình diễn thể chất, mà luôn cả hứng khởi tinh thần.
Bob Dylan
đăm chiêu
nhớ lại khả năng hồi trẻ, viết nhạc chẳng cần cố, viết như không viết,
và chàng
đã viết "Like a Rolling Stone", “20 trang
dài,
như 1 cú ói mửa”, và bản nhạc vẫn được bình bầu, số 1 của mọi thời.
Lolita
vs BHD
Âm
nhạc của trái cầu
J. Banville
Chúng ta chẳng
bao giờ trưởng thành - chỉ nhiều tuổi thêm lên, rồi thì già – và sự cần
thiết đồ
chơi của chúng ta thì không bớt đi. Tôi vẫn nhớ rõ ràng thật là khủng,
những giọt
nước mắt cay đắng, giận dữ, mà 1 thằng bé là tôi ngày nào, nhỏ ra ròng
ròng, khi,
trong một lần cả gia đình làm chuyến dã ngoại, vào một bữa Chủ Nhật,
buổi chiều,
ở Cistecian Abbey, ở Mount Melleray, ở County Waterford và bà má của
tôi đã từ
chối mua cho tôi, trong một tiệm bán quà lưu niệm ở đó, một cuốn thánh
kinh thu
nhỏ, có cái bìa bằng da dê màu trắng mà tôi đã nhắm nhìn nó, thèm muốn
nó đến đỏ
cả con mắt.
Vào những
ngày này, tôi viết những cuốn tiểu thuyết của tôi trong những cuốn vở
được làm
bằng tay, riêng cho tôi, bởi một trong vị tổ sư làm sách đương thời,
Tom Cains.
Những cuốn sách đẹp ơi là đẹp, được phủ bằng giấy Cockerell với những
cái gáy
sách bằng giấy thuộc da bê, chúng thì hơn hẳn những đồ chơi, tất nhiên,
nhưng,
mặc ai nói gì thì nói, tôi lúc nào vẫn nhìn thấy, ở trong những cuốn
sách làm bằng
tay đó, một sự an ủi, một sự hoài nhớ thì đúng hơn, về cái cuốn thánh
kinh đã
quên, hụt có, suốt đời thiếu nó, ngày nào.
Một lần khác,
thì lại là một món đồ thèm muốn khác, và nó là 1 trái cầu liền, không
có vết nối,
hàn, bằng bạc, ở một tiệm bán ba thứ thứ đồ chơi vặt vãnh mà dân Tẩy
rất rành, và chủ tiệm thì là một phu nhân, ở một độ tuổi nào đó, d'un
certain age, [tiếng Tây
trong nguyên tác tiếng Hồng Mao], đẹp, buồn hiu
hắt [“ám
ảnh phố phường, đèn vàng phố thị, hiu hắt tóc xanh”!]
Nơi chốn
Arles, chừng hai chục năm gì đó, trước đây. Cầm trái cầu bạc lên, nó
bèn phát ra
tiếng nhạc tuyệt vời, thứ âm thanh ở giữa những tiếng “tinh tinh” của
sợi dây đàn
clavico và những tiếng thì thầm lâng lâng của chiếc khẩu cầm bằng thuỷ
tinh. Tôi
muốn nó - ối giời ơi là giời, tôi muốn nó. Nhưng tôi cũng muốn một cái
hộp âm
nhạc với 1 anh Pierrot nhảy cẫng ở trên cái nắp hộp, và mở ra, thì nó
chơi một điệu
nhạc từ Chiếc Sáo Thần, và tôi không
làm sao chọn được, con tôm thì cũng tiếc, mà con riếc thì cũng muốn.
Chừng 10 phút sau, trong khi tôi ngồi nhấm nháp cà phê, trong
1 cái ly nho nhỏ màu trắng, a petit blanc, tại một
quán ngoài trời,
thì những người bạn của tôi, sau khi quay lại cái quán đồ chơi, trở về,
với
trái cầu âm nhạc. Họ rành tôi hơn cả tôi, và biết tỏng đi rằng thì là,
một khi
rời khỏi Arles, thì tôi sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho tôi, nếu không tha
về, ít
nhất là con tôm, hoặc con tép.
Và họ có lý, lẽ tất nhiên!
Bạn quí mà,
hiểu nhau quá!
Ui chao tôi
mê trái cầu bạc nho nhỏ, ngớ ngẩn, dại khờ, yêu cuồng yêu dại, yêu man
yêu rợ,
yêu mê yêu tín. Tôi chẳng đi đâu mà không có nó, xe lửa không, ghe
thuyền không,
máy bay không, nếu không có nó trong túi, trong bị. Cũng thật lạ kỳ,
chẳng bao
giờ nó phát ra 1 tín hiệu báo động: như 1 kẻ vô hình, tôi bước
qua cổng kiểm tra, không giầy, không giây nịt, không bóp ví, nhưng luôn
có trái
cầu bạc bằng trái bom nhỏ xíu của 1 tên cuồng tín, nằm im lìm trong
túi,
thế mới thần sầu, thế mới quái dị.
Trong những
lần đi tua đọc sách, bao nhiêu căn phòng khách sạn cô đơn mình ên tôi
bò vô,
vào cuối ngày, rã rời sau khi đóng đã đời - đóng vai của chính mình,
nhà văn nhớn
đóng vai nhà văn nhớn nói về văn chương, văn chương của chính mình –
và, cầm
lên trái cầu, nghe âm thanh của nó, thấy mình đúng là anh chàng Lỗ Bình
Sơn, nơi
“đảo xa”, áp cái vỏ sò vào sát tai mình, và nghe, ới ới, thứ tiếng Mít,
tiếng gọi
của quê hương!
Và rồi một
ngày nó bỏ đi. Khi
đó, tôi ở Úc, và, trở về nhà lục
tung mấy bị hành lý không thấy nó. Úc châu! Đống cỏ khô và cây kim quí
giá của
tôi nằm đâu đó ở trỏng. Đáy biển mò kim, tôi lần tìm những khách sạn
Sydney,
Melboune,
Adelaide đã từng ghé, nhà bạn bè đã từng thăm, tôi cầu xin lòng thương
hại của
mấy hãng máy bay. Vô ích, vô phương, không dấu vết, tăm hơi.
Trong một trong những tác phẩm của Nabokov - thì cũng lại
là 1 trong những mất đi tìm lại được của tôi - một nhân vật kể về một
nhân vật đánh mất một cái gì đó - một cái nhẫn. Hình như tại một cái ao
đá cuội ở
một nơi nào đó ở Riviera, và một năm sau trở lại, vào ngày đó, và kiếm
lại được
cái nhẫn đúng tại nơi đã mất, nhưng cái thứ này chỉ xẩy ra trong 1 ấn
bản thần
tiên của một tay phù thuỷ Nga của cái thế
giới buồn nản ham thu nhập thay vì mất mát của chúng ta.
Elizabeth
Bishop đã làm điều thật đẹp của bà, khi an ủi tôi bằng một bài thơ,
“Một Nghệ
Thuật”. Bài thơ tuyệt vời, buồn trong cái dáng thong dong của nó. Qua
bài thơ,
bà khẳng định, đánh mất là 1 nghệ thuật, và trở thành sư phụ trong
nghệ thuật
đánh mất thì cũng không khó, và có rất nhiều điều “hình như hăm hở, hớn
hở, ham
hố… để được mất, để cho cái sự mất mát của chúng không là một thảm
họa”.
Và
bà quả quá đúng.
Bà quả đúng như vậy, một nhà thơ mẫn cảm, và thực tiễn.
Và nếu
như
thế, thay vì, “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”, thì hãy “Đánh mất một
điều gì đó
mỗi ngày” ['Lose something every day'] - bởi
vì, bất cứ một vật gì, cho dù lẩm cẩm, cà
chớn, như trái cầu của tôi, một khi đánh mất như thế, nó làm vọng lên
hai câu thơ của
Thế Lữ, “Anh đi đường anh, tôi đường tôi, tình nghĩa đôi ta có thế
thôi” [a
break for freedom].
Và rồi, cách
đây một năm, trong khi sửa soạn cho một chuyến đi xa, tôi lôi cái túi
đã lâu không
dùng tới, kể từ chuyến đi Úc, và tôi bỗng nghe thấy 1 âm thanh yếu ớt,
nhẹ nhàng,
như có ý trách
móc, rên rỉ, làm nũng, "đừng bỏ em một mình," “bàn chân ai rất
nhẹ, tựa hồn những năm xưa”, vọng về.
Và ơ rơ ka, nó đây rồi.
Có những món
đồ chơi, như tình cũ, không rủ cũng về.
Bàn
chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa…
Như người
xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền, GCC,
khi còn
Sài Gòn, vưỡn lâu lâu trở lại chốn xưa, tìm vết giầy trên lớp bụi thời
gian, và
tiếng cười của BHD vẫn còn văng vẳng đâu đây!
Thứ tình
yêu đầy những passion mà anh có đó, em không có, hay thứ tình yêu gồm
một phần
ba là confiance, một phần ba là respect, một phần ba là "je ne sais
quoi" , có lẽ, hình như em đã yêu anh như vậy...
Già rồi, vãi...
linh hồn hoài, không sợ con nít nó cười cho ư?
Hồn Đông Phương thất lạc,
buồn Tây
Phương:
Đọc thêm cái
này nữa
par Linda Le
L'ÂME
ROMANTIQUE
Reédition de
l'anthologie consacrée aux romantiques allemands
NOVALIS
disait qu'une traduction, ou bien est grammaticale (littérale), ou
interprétative
(adaptation), ou bien mythique. «Les traductions mythiques sont des
traductions
de haut style: elles reproduisent dans sa pureté et sa perfection le
caractère
de l'oeuvre d'art dans son individu. Ce n'est pas l’oeuvre d'art
elle-même,
réellement, qu'elles nous donnent, mais bien son idéal.» Les
traductions
d'Armel Guerne correspondent à cette définition. Elles révèlent, plus
qu'un
texte, l'âme même de l'ceuvre. Poète, traducteur incomparable,
notamment de Moby Dick, Armel Guerne est aussi
l'auteur
d'un écrit sur le romantisme, L’Âme
insurgée, paru chez Phebus. Le rnême éditeur reédite aujourd'hui l'
anthologie, publiée en 1963, que Guerne a consacrée aux romantiques
allemands.
C'est à un voyage aux sources du rêve que nous sommes conviés. Toute
une
géneration de prophètes et de voyants s'offre à nous dans sa diversité.
Et il
est difficile de résister au fabuleux océan verbal du romantisme
allemand sur
lequel, dit Guerne, « resplendissent les jeunes feux de l'aube et les
splendeurs du crépuscule ».
« Oh ! Que
cette voyance, ce sanctuaire soit mon verbe ! ». s'exclame Holderlin
sur lequel
s'ouvre l'anthologie. Bettina von Arnim le comparait à un piano dont il
aurait
lui-même arraché les cordes. Holderlin, à la recherche du divin de
lire, est l'image
même du poète en quête de la langue des plus purs. En lui, le moi
cherche à
échapper au chaos originel et la puissance mystique du verbe tente de
réparer
la disharmonie fondamentale.
Le recueil
fait la part belle aux saturnales littéraires de Novalis : «Le devoir
le plus
haut de la culture est de s'emparer de son moi transcendantal, d' être
en même
temps le moi de son moi.» Il n'est d'écrivain qu'habité par la langue.
Jean
Paul est de ceux-là, qui trouve dans le lyrisme un moyen de concilier
le moi et
le cosmos. L'anthologie donne à lire des texts fameux du romantisme
allemand,
comme le Lenz de Buchner, les
intermèdes de Hoffmann sur Don Juan et Mozart, Ondine de
La Motte-Fouque ou le fragment du Robert Guiscard,
manuscrit brulé par Kleist dans un moment de
désespoir, Mais l'interêt de l'ouvrage est aussi de faire découvrir ou
redécouvrir des figures plus méconnues, comme Bonaventura, l'auteur des
Veilles. A ses cotes, figurent Ludwig
Tieck, l'ami de Novalis, Contessa, qui raconte l'histoire d'un peintre
aux
prises avec le démon, Karoline von Gunderode, la suicidée des berges du
Rhin à
laquelle Bettina von Arnim rend hommage dans un texte frémissant.
Ajoutons,
pour parfaire ce tableau où l'ironie et le mystère forment un couple
indissociable, les reflexions de Schlegel sur le Witz,
le sel de l'esprit, un conte à la Edgar Poe d'Achirn von
Arnirn, une fable de Chamisso, le créateur de l'inoubliable Peter
Schlemihl,
l'homme qui a perdu son ombre, quelques pages d'Eichendorff, l'auteur
des Scènes de la vie d'un propre à rien,
sur un chasseur qui
cherche sa soeur et devient fou, et enfin une confrontation de Don Juan
et de
Faust, par Christian Dietrich Grabbe, qui figure dans l'Anthologie
de l'humour noir de Breton.
D'une
lecture passionnante, ouvrant les fenêtres sur le rêve et le
fantastique, cette
somme est à placer au rayon des ceuvres rares, aux cotés de l'essai
d'Albert
Begum sur l'âme romantique, et de l'anthologie, plus philosophique,
parue chez
Corti, et intitulée La Forme poétique du
monde .+
Les Romantiques allemands
Textes
rassemblés
et presentés par Armel
Guerne,
traduits de l'allemand par Armel Guerne, Albert Beguin et al.
Ed. Phebus/libretto,
961 p., 14,90 e.
NOVALIS
disait qu'une traduction, ou bien est grammaticale (littérale), ou
interprétative (adaptation), ou bien mythique. «Les traductions
mythiques sont
des traductions de haut style: elles reproduisent dans sa pureté et sa
perfection le caractère de l'oeuvre d'art dans son individu. Ce n'est
pas
l’oeuvre d'art elle- mnême, réellement, qu'elles nous donnent, mais
bien son
ideal.»
Novalis phán,
dịch thuật thì hoặc có tính văn phạm (dịch sát, theo nghĩa đen), hay
dẫn giải
(phỏng theo), hoặc huyền hoặc. “Dịch huyền hoặc là hách nhất, nó tái
tạo, trong
tinh nguyên và tuyệt hảo của nó, tính chất của nghệ phẩm, ở trong cái
cá nhân của
nó. Không phải nghệ phẩm chính nó nữa mà chúng đem tới cho chúng ta,
nhưng đúng
là cái lý tưởng của nó."
Day |
Number of visits |
Pages |
Hits |
Bandwidth |
01 May 2012 |
363 |
4,083 |
5,893 |
252.08 MB |
02 May 2012 |
210 |
1,683 |
3,544 |
202.82 MB |
03 May 2012 |
205 |
1,761 |
3,619 |
205.05 MB |
04 May 2012 |
203 |
409 |
2,042 |
150.61 MB |
05 May 2012 |
198 |
387 |
1,381 |
93.62 MB |
06 May 2012 |
316 |
508 |
1,555 |
95.36 MB |
07 May 2012 |
316 |
591 |
2,186 |
149.28 MB |
08 May 2012 |
260 |
737 |
2,000 |
118.35 MB |
09 May 2012 |
213 |
994 |
3,082 |
163.42 MB |
10 May 2012 |
337 |
548 |
3,130 |
278.62 MB |
11 May 2012 |
548 |
3,144 |
7,450 |
444.37 MB |
12 May 2012 |
351 |
923 |
3,951 |
183.75 MB |
13 May 2012 |
321 |
574 |
2,655 |
154.14 MB |
14 May 2012 |
936 |
2,061 |
6,315 |
355.06 MB |
Con số visitors,
bữa nay, giờ này, 11:55 PM local time, là 936!
Terrible!
Tks.
NQT
Con số chính
thức: 979.
Đỉnh của đỉnh!
Tks again.
NQT
|
|