|
June 9 2012
Jennifer
with School Friends
on
Quebec City Tour
Thơ Mỗi Ngày
Poetry and Utopia
Charles
Simic
Thơ
&
Không
Tưởng
Vào năm 1972, tôi thấy tên tôi trên lịch trình những tác giả sẽ lèm bèm
về thơ tương lai tại Hội Thơ Struga Poetry Festival, ở Macedonia. Đúng
ra, là một vị khác, nhà thơ Mẽo W.S. Merwin, và do bận bịu lo cho cô
bạn gái, ông nhờ tôi thế chỗ, và tôi thì không thể từ chối một vị “bạn
quí”, nhiều tuổi hơn tôi, nổi tiếng hơn tôi nhiều, tôi thực tình quá
mến mộ.
Thế là buổi sáng đẹp trời bữa đó, tôi bèn tưng tửng mò tới Hội Thơ,
chẳng có tí thơ nào trong đầu, và cũng chẳng nghĩ mình sẽ nói cái chó
gì nữa.
Thơ tương lai, ư?
Tôi thực
sự khủng, khi thấy mấy đấng nhà thơ trong lịch trình, ông nào cũng khăn
áo chỉnh tề, và được chuẩn bị tới chỉ, nào tài liệu ghi chú, hay là,
nếu là 1 vị đến từ Liên Xô, thì là một bản viết dài, tiên đoán về một
thời hoàng kim của thơ trong một thế giới biến thành Quỉ Tha Ma Bắt,
lần đầu tiên sống hoà thuận với thơ và với bạn thơ trong lịch sử nhân
loại.
Tới lượt
tôi đăng đàn, và tôi lúc đó thì gần như ở trong tình trạng hôn mê, sau
chuyến đi dài 24 tiếng đồng hồ từ San Francisco, gần như chưa được 1 tí
ngủ. Nhưng, chơi thì chơi, sợ chó gì, cờ đến tay ai người đó phất, và
thế là tôi bèn cao giọng phán, tiên tri về thơ trong tương lai là
chuyện mất thì giờ, nhảm, cực nhảm, bởi là vì thơ hầu như chẳng thay
đổi gì, cơ bản mà nói, trong… 25 thế kỷ vừa qua, và tôi nghi
rằng, nó sẽ vưỡn “vũ như cẩn” trong… 100 năm tới.
Tới đó thì tôi kể như xổ ra hết chút năng lực, nhiên liệu, nội lực còn
sót lại, và bèn rơi vào im lặng, không hề mở miệng ra một lần nào nữa
suốt Hội Thơ.
Về những
bạn thơ cùng lịch trình, tôi chẳng nhớ có ai phản biện phản biếc về
điều tôi phán, và hình như tất cả đều tiếp tục lèm bèm về thơ tương
lai.
Điều mà
tôi phán bữa đó, gây kinh ngạc, không chỉ cho tôi, mà còn cho bất cứ ai
trong phòng, bởi vì như danh tiếng mà tôi có được, thì tôi được dán
nhãn siêu thực, một người thường tuyên bố có niềm tin vào đám…
Hậu Vệ.
Tôi và
bạn bè của tôi khi đó, cũng giống đám cựu Mạc Xịt, những người rất
“xua”, sure, họ hiểu luật tiến hóa của lịch sử. Nghĩa là, thí dụ, hội
họa hình tượng ngỏm thì mới lượt trừu tượng, thơ tự do thì phải có mặt
sau thơ vần….. vân vân và vân vân… Với tôi, cái mới, cái còn trinh thì
tất nhiên là thơm hơn cái mất trinh [cái này hơi bị nhảm, nhưng thuổng…
Thầy Cuốc!], và nó vưỡn như vậy, từ thuở có đờn bà, hà hà!
Tôi thì
đồng ý với Wallace Stevens, khi viết:
Sống
trong nước không phải trên đá
Thời đồ
đá qua rồi, hết rồi.
Với sự
thích đáng, phần lớn Đồ Đạc Hồng Mao
Thì được
Cớm Trị bởi hy vọng Giáng Sinh
Với
ông, lịch sử là 1 tiến trình qua đó, không có chuyện, thực tại chấm
dứt, và thơ
là 1 phần của tiến trình chuyển biến của thực tại. Một nhà thơ đáng
đọc, sống trong hiện tại, và hiện tại liên tục thay đổi thành 1 cái gì
khác. Cái gì OK hôm qua cho thơ, thì không OK hôm nay cho thơ, và nhà
thơ không có chọn lựa nào khác, ngoài việc tìm những phương tiện đối
đầu với thời mà anh ta sống ở trong đó. Tuy nhiên, điều không thay đổi,
là chúng ta "vũ như cẩn", từ hàng hàng thế kỷ trước đây.
JUNE IN
SIENA
-we shall
never be in touch with something
greater than
ourselves – Richard Rorty
Flat days
came to pass, when doubt governed,
days of
obvious accord.
Summer cried
loudly like vegetable sellers
in Parisian
markets.
Lovers,
spliced together on benches, began to tally
future gains
and losses,
months of
happiness and contention.
June in
Siena: on every small square the boys
practiced
their kettledrums before the Palio-
the brown
city quivered like troops before a battle.
Dry lips
waited for rain.
Adam
Zagajewski: Unseen Hands
Tháng Sáu ở
Siena
-Chúng ta sẽ
chẳng bao giờ tiếp xúc với một điều gì
lớn hơn chính chúng ta - Richard Rorty
Ngày tẻ nhạt
tới, qua đi, khi nghi ngờ quản lý
Ngày tán thành,
hiển nhiên.
Mùa Hè la lớn
như mấy bà bán rau ở chợ Paris
Những tình
nhân quấn bên nhau trên băng ghế
Bắt đầu tính
toán thua lỗ tương lai
Những tháng
hạnh phúc và cãi cọ
Tháng Sáu ở
Siena, quảng trường nhỏ nào cũng có những đứa trẻ tập đánh trống trước Palio –
Thành phố nâu rùng mình
như những đoàn quân trước một trận đánh
Môi khô chờ
mưa.
WRITING
POEMS
Writing
poems is a duel
that no one
wins-on one side
a shadow
rises, massive as a mountain range
viewed by a
butterfly, on the other,
only brief
glimpses of brightness,
images and
thoughts like a match flame
on the night
when winter is born in pain
It's trench
warfare, a coded telegram,
long
watching, patience,
a sinking
ship that sends out signals
and stops sinking,
a cry of triumph,
loyalty to
the old, silent masters,
calm
contemplation of a brutal world,
explosive
joy, ecstatic, unsatisfied,
regret,
everything passes, hope, nothing is lost,
a
conversation without a final word,
a long break
at school when the students
are gone,
the defeat of one weakness
and the
start of another, endless waiting
for the next
poem, a prayer, mourning
for a
mother, a momentary truce,
complaints
and whispers in a charred confessional,
rebellion
and magnanimous forgiveness,
squandering
the whole estate, remorse, assent,
sprint and
stroll, irony, cold gaze,
profession
of faith, diction, haste,
the cry of a
child who's lost his greatest treasures.
Adam
Zagajewski: Unseen Hands
Làm thơ
Làm thơ là một
trận tử đấu tay đôi
Chẳng bên nào
thắng - một bên,
một cái bóng
lớn lên, to lớn, nặng nề như một rặng núi,
được nhìn bởi
một con bướm, một bên,
chỉ là những
chấm sáng ngắn ngủi,
những hình ảnh,
những ý nghĩ như ánh lửa của 1 cây quẹt
vào một đêm
khi mùa đông sinh ra trong đau đớn.
Đó là chiến
tranh hầm hố, giao thông hào –
cái gì gì, ‘mẹ nằm dưới cơn mưa, nơi địa đạo Củ
Chi’:
một điện tín được mã hóa của… PXA?]
thức, canh, đợi
dài người, kiên nhẫn,
một cái tầu
chìm, đánh ra tín hiệu cầu cứu
và ngưng chìm,
một tiếng la của chiến thắng
trung thành
với những vị thầy cổ xưa, im lặng
chiêm ngưỡng
lặng lẽ thế giới tàn bạo
niềm vui bùng
ra, cực sướng, cực khoái, đếch hài lòng,
ân hận, mọi
chuyện qua đi, hy vọng, chẳng có gì mất
một cuộc lèm
bèm không có lời cuối
một cuộc nghỉ
hè dài, khi những sinh viên đã ra đi,
sự thất bại của kẻ yếu
và sự khởi đầu
của một cái khác, chờ đợi khôn cùng
bài thơ tiếp,
một nguyện cầu, một tưởng niệm
dành cho một người mẹ, một cuộc hưu chiến ngắn
ngủi, tạm bợ,
những phàn nàn,
những thì thầm trong một phòng xưng tội hoá thành than,
sự nổi loạn, và sự tha
thứ cao thượng,
sự phung phí trọn gia tài của mẹ, hối hận, phê chuẩn
chạy nước rút
và đi tản bộ, hài hước, cái nhìn lạnh lẽo,
nghề của niềm
tin, cách chọn từ, hấp tấp
tiếng khóc của
một đứa bé mất những kho tàng lớn lao nhất của nó.
Bi Khúc Bốn
Tháng Sáu
Bi Khúc 3 [nguyên tác]
Memory
Bi Khúc 3: Hồi nhớ
30.4.2012
Kẻ
thù của nhà nước VC
Alexa
Ranking, June 4, 2012
Tin Văn: 1,242,390
Gió To: 1,475,097
Da Mùi:
1,874,281
Một mình một
ngựa mà trùm thiên hạ, thế mới ghê chứ!
Hà, hà!
Lâu lâu thì
cũng phải cho GCC phởn 1 tí chứ!
Cứ....
Lò Thiêu
hoài, mệt quá!
TV có nhiều cộng tác viên
“thầm lặng”, chứ 1 mình GCC, sức mấy mà bảnh như
thế!
Tks all.
NQT
They Ate Their Sleep
Họ đợp giấc
ngủ của họ
Can Literature Bear Witness?
Văn
chương làm chứng?
“When I read
the books of other
authors, writing resembles speech. When I write my own, I only speak
inside my
own mouth, and the writing resembles silence.” I often hear writers
talk about
"voice" and treat it as an essential element of storytelling. Maybe
it is, but Müller, at least in her own writing, is more interested in
the
silence of storytelling than in the voice of the storyteller.
"Khi tôi
đọc văn của “bạn quí”, viết giống nói. Khi tôi viết cái của tôi, tôi
chỉ nói ở
bên trong cái miệng của riêng tôi, và viết giống như im lặng."
Herta Muller
ZEPPELIN
Herta Muller
Đằng sau nhà
máy là một nơi không có những lò than, quạt hút, ống hơi nước, những
chiếc xe tải
chạy tới đó rồi ngưng, nơi tất cả chúng tôi nhìn từ miệng hầm thì là
một đống gạch
đá, cỏ dại nở hoa, một mảnh đất trần trụi đáng thương ở mép bờ hoang
dã, chằng
chịt những lối đi nát bấy dấu chân người. Ở nơi đó, vượt ra khỏi mọi
cái nhìn của
tất cả, ngoài mây trắng trôi dạt xa xa dọc theo thảo nguyên từ ngọn
tháp lạnh lẽo,
thì là 1 cái ống nước gỉ sét khổng lồ, một cái ống bằng thép bị bỏ
hoang từ trước
chiến tranh dài chừng 7, 8 mét, cao 2 mét, một đầu cuối ống hàn vô hầm. Một cái ống hùng vĩ, chẳng ai biết làm
sao nó lại được hàn vô đó như thế. Nhưng mọi người thì đều biết nó được
dùng
vào việc gì, kể từ khi chúng tôi tới Trại tù. Và nó có tên là Zeppelin.
Cái ống
Zeppelin hẳn là không lơ lửng, lững thững trôi nổi, bằng
bạc trên bầu trời, nhưng quả là nó làm cho cái đầu của chúng tôi trôi
nổi, lững
thững, lêu bêu, bàng bạc. Nó là một khách sạn - kế bên – nhà, được
ban quản
trị nhà tù, và những ông Trùm – cho
phép, nơi hò hẹn của những đàn bà trong Trại với đám tù nhân Đức,
những
người làm công việc dọn dẹp gạch vụn ở những khu đất hoang, hay ở những
nhà máy
bị bom đạn cày nát. Những đám cưới mèo hoang, như Anton Kovacs nói: hãy
lâu lâu
mở mắt nhìn, trong khi xúc than, anh ta bảo tôi.
Mùa hè
Stalingrad, chậm lắm là vào thời kỳ đó, mùa hè cuối cùng ở hành lang
nhà, một
giọng đàn bà thèm khát yêu đương phát ra từ chiếc la dô, giọng đúng
giọng đến
thẳng từ… Bắc Bộ Phủ [Reich]: Mỗi phụ
nữ... Bắc Kít thì đều có bổn phận phải dâng cho Bác Hát một đứa
con. Cô của
tôi, cô Fini, hỏi má tôi: Làm sao chúng ta có thể làm được điều đó?
Chẳng lẽ
Bác Hát hằng đêm tới Siebenburgen, hay là chúng ta phải từng người, xếp
hàng một,
trình diện Người ở… Bắc Bộ Phủ?
TTT 2012
Bếp Lửa trong văn chương
Ghi
chú
trong ngày
FRIDAY, 8
JUNE 2012
Đạo đức học
của sự nổi giận là cái gì?
Nguyễn Hưng
Quốc là người đầu tiên dùng thuật ngữ đạo đức học của sự nổi giận trong
một bài
viết trên VOA nêu cách ông nhìn sự giận dữ từ góc độ đạo đức học. Ở một
bài viết
khác ông cho biết:
Tôi biết có
thứ đạo đức học của sự tha thứ (ethics of forgiveness) nhưng tôi không
hề tin
vào thứ đạo đức học của sự quên lãng (ethics of forgetting).
Nhờ vậy ta
có thể đoán ra đạo đức học của sự nổi giận, theo cách dùng của Nguyễn
Hưng Quốc,
chính là ethics of anger trong tiếng Anh hay éthique de la colère trong
tiếng
Pháp của Michel Foucault.
Ethics trong
tiếng Anh và éthique trong tiếng Pháp có khi là đạo đức (nếu chỉ một hệ
thống
giá trị đạo đức), có khi là đạo đức học (nếu chỉ ngành học nghiên cứu
cái hệ thống
giá trị ấy). Trong tiếng Pháp, người ta có thể chê một anh nghiên cứu
sinh đạo
văn là không có éthique de la recherche (tiếng Anh là research ethics),
tức là
không có đạo đức (của nhà) nghiên cứu, không phải chuyện đạo đức học
của sự
nghiên cứu. Tương tự, ta có business ethics (tiếng Anh) là đạo đức kinh
doanh.
Thuật ngữ của Weber ethics of responsability (tiếng Anh) / éthique de
la
responsabilité (tiếng Pháp) thành đạo đức trách nhiệm trong tiếng Việt.
Có người
đề nghị dịch work ethics (tiếng Anh) là văn hóa làm việc, chính xác hơn
đạo đức
làm việc, và chưa từng có ai dịch thành đạo đức học của sự làm việc.
Nói tóm lại,
không phải từ gốc tiếng Anh là ethics và tiếng Pháp là éthique thì tự
nhiên tiếng
Việt phải là đạo đức học. Thậm chí cũng không nhất thiết phải là đạo
đức.
Note:
Hóa ra, Foucault
nổi giận, không phải Thầy Kuốc!
Thậm chí
cũng không nhất thiết phải là đạo đức: Tuyệt!
GCC chỉ nhỏ
thêm tí…. mắm thúi:
Thậm chí
cũng đếch phải nổi giận!
Hà, hà!
Thường, người
ta cho biết nguồn những cụm từ “bảnh” như trên.
Thầy Kuốc không thấy chuế sao,
khi “nổi giận bằng sự nổi giận” của kẻ khác?
On 'As I Lay
Dying'
Về "Khi
tôi nằm hấp hối"
La Condition humaine
Phận
Người
Kẻ Xa Lạ
Kẻ Xa Lạ phải
chết
Nhà phê bình
phát triển luận cứ trên một cách thuyết phục nhất, là Robert Champigny,
trong
“Về 1 vị anh hùng tà đạo” [chắc là thuổng Kẻ Tà Đạo của bạn quí của GCC], Sur
un héros paien, [Gallimard, 1959]. Ông phán, Meursault bị kết án vì
vứt
thùng rác cái gọi là kịch đời, đúng hơn, “xã hội kịch”, “theatrical
society”, 1
xã hội theo anh ta, không được làm nên bởi những con người tự nhiên,
natural
beings, nhưng trong đó đạo đức giả ngự trị. Với cái chất “tà đạo” [như
của bạn quí của
GCC], Meursault là một thách đấu sống, a living challenge, đối với
“huyền thoại
tập thể”, “collective myth”. Từ đó, là cái chết trên máy chém. “Kẻ Tà
Đạo”
Meursault bị xã hội làm thịt như là 1 kẻ tự do, và đây là một hành động
anh
hùng, khai trí, a heroic and edifying act!
Hà, hà!
Cách nhìn này,
về cuốn tiểu thuyết, theo tôi [Vargas Llosa] cục bộ, không đủ, partial
and
insufficient. Chẳng nghi ngờ chi, cái cách theo đó vụ án của Meursault
được “chỉ
đạo” [conducted] thì “cà chớn” về mặt đạo hạnh và luật pháp, ethically
and
legally scandalous, một trò hề [a parody: nhạo nhại] công lý, bởi vì,
bị kết
án thì không phải việc giết tên Ả Rập mà
là thái độ chống xã hội của kẻ bị buộc tội, đường hướng qua đó, tâm lý
và đạo đức
[morality] của anh ta không ăn khớp với những tiêu chuẩn của xã hội.
Thái độ, cách
cư xử của Meursault cho chúng ta thấy sự bất toàn, khiếm khuyết của
việc điều hành
công lý và còn hé cho chúng ta thấy cái thế giới nhơ bẩn của báo chí.
Nhưng khởi đi
từ đó, để mà đi đến sự kết án xã hội “kịch cợm”, và dựa trên “huyền
thoại tập
thể”, thì đi quá xa. Xã hội hiện đại thì không kịch cợm nhiều so với
bất cứ 1 xã
hội nào khác; mọi xã hội, không ngoại lệ nào khả hữu, thì đều đã, đang,
và sẽ “kịch
cợm” cả, mặc dù “sô” diễn khác đi trong mỗi trường hợp. Sẽ đếch có xã
hội, đếch
có 1 hình thức cùng chung sống, coexistence, nếu không có đồng thuận,
theo đó mọi
người nên, phải, bắt buộc phải… tuân theo một số hình thức, hay nghi
lễ. Nếu không
có sự thoả thuận này, thay vì xã hội, thì là rừng
rú, nơi
kẻ mạnh thì thắng. Với cách hành xử, thái độ của mình, “kẻ tà đạo”
Meursault
chơi vai của xừ lủy: một cá nhân ở cực điểm, chửi bố mọi
tiêu chuẩn
xã hội.
Vấn đề của cuốn tiểu thuyết, theo tôi, không phải như thế, mà
là: liệu
thái độ của Meursault được lòng [đáng ưa, preferable], đối với đám ngồi
xét xử anh
ta?
Đây là 1 cú đáng
lèm bèm, debatable. Mặc dù tác giả hàm ngụ này nọ, ông vờ cú này, chẳng
đưa ra
1 kết luận nào, và để cho độc giả tùy nghi, muốn quyết định sao tùy hỷ,
it is
left to readers to decide.
“Huyền thoại
tập thể” là 1 hợp đồng ngầm cho phép những con người như là những cá
nhân sống
trong một cộng đồng. Nó có 1 cái giá mà đàn ông và đàn bà phải trả -
cho dù họ
biết hay không biết: họ phải từ bỏ, relinquist, chủ quyền tuyệt đối,
absolute
sovereignty, cắt bỏ một vài lạc thú, xung động, kích động, cú hích,
desires,
impulses, và những cái khoái tỉ quái đản, khác thường, fantasies, khi
chúng có
thể gây nguy hiểm cho những người khác. Cái thảm kịch mà Meursault biểu
tượng,
the tragedy that Meursault symbolizes, là của 1 cá nhân mà sự tự do của
anh thì
đếch ăn ý, cà chớn, impaired, để mà “ăn đời ở kiếp”, to make life,
trong một xã
hội khả hữu. Cái chủ nghĩa cá nhân hung dữ, không thể đè nén, kiềm chế
được của
nhân vật của Camus làm chúng ta cảm động, và làm sống dậy ở trong chúng
ta tình
liên đới, đoàn kết phôi thai: ở trong sâu thẳm của chúng ta có một tên
nô lệ hoài
nhớ, một tù nhân muốn “hung hăng con bọ xít”, spontaneous, frank, and
antisocial, như anh ta!
Koestler
by Steiner
Elfriede
Jelinek
Lolita
vs BHD
Orhan Pamuk
cũng có 1 bài thật tuyệt về Nabokov và Lolita của ông, trong Những Sắc Màu
Khác.
TV sẽ post
và lèm bèm tiếp về cuộc Hoa Sơn Luận… Sắc, giữa Lolita và BHD, song
song với cuộc
song đấu giữa tuổi thơ Nga của Nabokov và tuổi thơ Bắc Kít của GCC.
Như tôi từng
lèm bèm, có những nhà văn mặc dù họ dạy chúng ta đủ điều về đời, về
viết, về
văn, và, mặc dù chúng ta đọc họ với tình yêu và sự nóng bỏng: họ nằm
trong quá
khứ của chúng ta. Nếu chúng ta có trở lại với họ sau này thì không phải
bởi vì
họ vưỡn nói với chúng ta, nhưng mà là do hoài nhớ, do cái thú được trở
lại với
những ngày đọc họ lần đầu tiên trong đời. Hemingway, Sartre, Camus, và
ngay cả
Faulkner thuộc về băng đảng này. Bây giờ, khi tôi cầm họ lên, thì không
phải là
tôi hy vọng lại sững sờ vì những điều mới mẻ, chưa từng đuợc khám phá
ra ở nơi
họ, nhưng tất cả những gì tôi muốn, là nhớ lại, họ đã ảnh hưởng tôi ra
sao, đã
tạo ra vóc dáng linh hồn tôi như thế nào, họ là những nhà văn lúc này
lúc nọ
tôi thèm muốn, nhưng không phải là những người tôi vẫn cần.
Mặt khác, mỗi
lần tôi cầm 1 cuốn của Proust lên, thì là để nhắc nhở mình, ông đã quan
tâm vô
bờ bến tới những đam mê của những nhân vật của ông như thế nào.
Khi tôi đọc Dos, bởi vì, tôi cần được nhắc nhở, mặc dù những âu lo xao
xuyến và
những mẫu mã kiểu cọ mà ông có, cái quan tâm chính của Dos là chiều
sâu.
Như thể sự vĩ đại của những nhà văn như thế, một phần là còn do lòng
mong mỏi
sâu thẳm của chúng ta về họ.
Nabokov là một nhà văn khác nữa mà tôi đọc đi đọc lại hoài và tôi nghi
rằng, chẳng
bao giờ tôi “bỏ qua”, cho ông ở trong quá khứ của tôi.
Khi tôi làm 1 chuyến đi xa, sửa soạn hành lý cho 1 chuyến nghỉ hè, rời
nhà đến
1 phòng khách sạn để kết thúc 1 cuốn tiểu thuyết, khi tôi nhét vào
trong túi
hành lý những cuốn Lolita, Pale Fire, hay Speak, Memory
[cuốn này
theo tôi cho thấy văn xuôi của Nabokov đã đạt đến độ thần sầu], trang
nào thì
cũng quăn góc, tại làm sao mà tôi lại cảm thấy như là mình đang mang
theo một hộp
thuốc mà tôi cần sử dụng mỗi ngày?
Cái thứ cần mỗi ngày đó, là văn xuôi Nabokov. Vẻ đẹp của nó.
Nhưng gọi vẻ đẹp văn xuôi
Nabokov chẳng cắt nghĩa gì ở đây. Bởi vì ẩn
tàng ở
bên dưới cái đẹp đó, là 1 cái chi “tởm lợm, nham hiểm”, “sinister”
[Nabokov
cũng đã từng sử dụng từ này cho 1 trong những cái tít của ông. Bend Sinister. NQT], một cái
mùi của
độc tài Bắc Kít [thì cứ phán đại như vậy!]. Nếu “vô thời gian” của cái
đẹp là một
ảo tưởng, thì chính nó cũng là 1 suy tưởng về đời và thời của Nabokov.
Và nếu
như thế, làm sao mà tôi bị “nhiễm” bởi cái đẹp này, như thể nó là bản
hợp đồng
Faust [con quỉ ở chuồng heo của Kafka] với sự độc ác và quỉ ma?
Khi chúng ta đọc những xen thần
sầu – Lolia chơi tennis; Charlotte
chậm rãi xuống [hồ]Hourglass Lake; Humbert, sau khi mất Lolita, đứng ở
bên
đường ở trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ, lắng nghe những đứa trẻ chơi đùa ở
trong 1
thành phố nhỏ (một Breughel không có tuyết) và sau đó gặp một người nào
đó mà
ông yêu khi còn trẻ ở trong rừng; lời cuối, [lời bạt, afterword], cho
[cuốn] Lolita, [ông cho biết phải mất 1 tháng mới viết xong,
chỉ 10
dòng]; Humbert tới
tiệm hớt tóc ở thành phố Kasbeam; hay những cảnh gia đình đông người
trong Ada – đáp ứng đầu tiên của tôi [Pamuk], là, đời thì như
thế
đấy, that life is
just like this, nhà văn nói cho chúng ta biết những sự vật mà chúng ta
đã biết,
nhưng bằng 1 sự thành thật thật sốc, và thật dứt khoát, with a shocking
and
resolute honesty, đến nỗi tôi ràn rụa nước mắt, vào đúng thời điểm đó,
at just
the right moment. Nabokov – một nhà văn tự hào, proud, và tự tin,
confident,
với một hiểu biết đúng, exact knowledge, về tài, về những thiên bẩm của
ông,
his gifts, một lần phán, tôi thật cừ, good, trong việc, đặt “đúng từ,
đúng
lúc”, “the right word in the right moment”, cái thật cừ, his flair, tìm
đúng
từ, “le mot juste”, chữ của Flaubert để chỉ cái sự chọn lựa
sáng ngời
này, this brilliant selectivity, đem đến cho dòng văn xuôi của ông cái
chất
thần sầu, ngất ngư còn tầu đi, gần như siêu nhiên, a dizzying, almost
supernatural quality.
Nhưng có một sự độc ác nằm bên dưới, nằm đằng sau những từ uyên
nguyên này, pristine words, mà thiên tài, và sự tưởng tượng của ông, đã
cho
ông.
Để hiểu rõ điều mà tôi gọi là sự độc ác của Nabokov, chúng ta hãy đọc
đoạn
Humbert làm 1 cú đi thăm anh thợ hớt tóc ở thị trấn Kasbeam - chỉ để
cho qua 1
tí thì giờ, gần như liền sau khi Lolita thật tàn nhẫn (và thật đúng,
and
rightfully) bỏ ông.
Orhan Pamuk
Ui chao, GCC lại nhớ cái cảnh
chạy theo BHD ở nơi cổng trường Đại
Học Khoa Học, Đại Lộ Nguyễn Hoàng, kế ngay bên trường Pétrus Ký, Sài
Gòn!
Ở ngay đoạn mở ra “Hãy lèm bèm
đi, hồi ức”, Speak, Memory,
Nabokov phán,
“Để hưởng thụ đời, chúng ta đừng nên thưởng thức nó nhiều quá” [In
order to
enjoy life, we should not enjoy it too much].
Nhưng chính ông, ông cự lại phán quyết này, về cuộc đời. Và theo GCC,
cái độc,
cái ác của văn ông, còn là do vặc lại chân lý “đừng thưởng thức cuộc
đời nhiều
quá”!
Theo GCC, để hiểu sự độc ác của
văn Nabokov, chúng ta cũng nên đọc Speak, Memory.
Đó là 1 anh
thợ cạo già, miệt vườn [“mưa đêm tỉnh lẻ”, đúng hơn, provincial] bẻm
mép, và,
trong lúc phục vụ khách, lèm bèm về đứa con trai, cầu thủ banh bầu dục.
Ông ta
chùi cặp kính tấm tạp dề trên người khách, để cây kéo
xuống, đọc
những mẩu báo mà ông ta ký cóp sưu tầm về đấng con trai. Chỉ một vài
câu văn thần
kỳ, Nabokov cho ông thợ cạo nhập vào đời [Nabokov brings this barber to
life in
a few miraculous sentences]. Với chúng tôi, dân Thổ nhĩ kỳ, ông thật
thân quen,
như thể sống ở Thổ. Nhưng đúng vào khoảnh khắc cuối, Nabokov phóng ra
cây bài
chót, cực kỳ “sốc” của ông. Humbert đếch thèm quan tâm 1 tí chó gì tới
những lẻm
bèm lèm bèm của anh thợ cạo già, về đứa con cầu thủ banh bầu dục, cho
đến giây
phút cuối, anh “Hăm Hăm” này mới để ý đến cái điều là, đứa con trai
trong những
mẩu báo, đã chết từ tám hoánh nào rồi, từ ba chục năm về trước.
Bây giờ tới
lượt BHD.
“It's my
turn”, she said.
|
|