Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Passage Eden | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác | Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường
 Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 

*

















 









May 16 2014

Happy Mother's Day

30.4.2014

Ca Sĩ Khánh Ly Sao Không Như Ca Sĩ Gloria Estefán

Note: Tks. NQT

Theo GCC, không thể so sánh như vầy được.
Trường hợp KL liên quan tới những ngày trước 1975, tiếng hát của KL cùng thứ âm nhạc của TCS là công cụ của con quỉ chiến tranh đưa đến sụp đổ đền thiêng MN, như Gấu đã viết.
Đây cũng là ý của Gide, khi viết về Dos, tác phẩm lớn có sự tham dự, đóng góp của Quỉ: Quỉ Đỏ đã muợn hai vị này làm Miền Nam thất trận!
Ở Miền Bắc, là con quỉ ở…  chuồng heo, như cách Oz đọc “Y Sĩ Đồng Quê” của Kafka.
Vị y sĩ nghe tiếng gọi của con bịnh Miền Nam, bèn tất tả xẻ dọc Trường Sơn đi kíu nước, cần cặp ngựa thắng vô bộ xe, con quỉ bèn biếu cặp ngựa, bù lại, nó làm thịt cô hầu gái, chưa đã, bèn lấy thêm biển đảo, trừ nợ!
Rồi sau 30 Tháng Tư tiếng hát đó lại cất lên từ mồ sâu biển cả, từ tầng đáy ngục tù, qua những bản nhạc hải ngoại, 1 phần nào đã đem an ủi tới cho những người bị CS vùi dập, bách hại.

Danh ca Khánh Ly đã về Việt Nam

Họ Trịnh đã từng hầu đờn Hồ Tôn Hiến, lấy ly rượu, thì tại làm sao người tri kỷ của ông không hầu đờn Bắc Bộ Phủ cho đủ cặp?

Trên TV có kể chuyện sinh thời, Sáu Dân Hồ Tôn Hiến, mỗi lần rảnh việc triều đình, thường cho vời họ Trịnh tới hầu đờn. Và có lần họ Trịnh kéo theo một bạn thơ. Lần sau, kêu bạn thơ cùng đi, ông lắc đầu, than, thấy mi gân cổ hạc gầy, hát lấy ly rượu, thảm quá, tao thà ở nhà còn hơn nhìn thấy bạn mình bị “Cách Mạng” làm nhục!

*

Viết ở Trại Tị Nạn Thái Lan

Thành thử cái chuyện bà này về hầu đờn Bắc Bộ Phủ quả là quá khủng khiếp, hay dùng từ thường dùng, áp dụng vô cú Lò Thiêu, đếch nói được!

Hà, hà!


*

*

Ukraine Cuộc thảm sát ở Odessa. Đếch có tên cớm nào cả, les policiers sont les grands absents de la journée. Ils ont disparu pendant les combats.
Paris Match. 7-14 Mai, 2014
Trong hình, 1 anh pro…  Bắc Kít cầm gậy tính đập 1 anh pro… Ngụy, quấn trong lá cờ ba que!

Hà, hà!


Thơ Mỗi Ngày

*

*

Love in a mist
Yêu trong sương mù

Trên TV, độc giả đã từng 'chứng kiến' 'anh cu Gấu' chạy theo BHD nơi cổng trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn.
Chưa ghê bằng Apollinaire, tác giả câu thơ mà GNV thuổng, "Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant", còn là tác giả Mùa Thu Chết, và còn là tác giả của cái cú chạy theo em nữ quản gia, suốt con kênh nối liền Pháp và Anh, để năn nỉ.
Thua, và bèn làm bài thơ trên, nguyên tác tiếng Tây, GNV sẽ lục tìm, và dịch sau… (1)

[Hình, TLS Oct 1, 2010]



*

NYRB May 8 2014

*

Poems on the Underground

Thơ dán trên Xe Điện Ngầm London

Exile and Loss 

My Voice

I come from a distant land
with a foreign knapsack on my back
with a silenced song on my lips

As I travelled down the river of my life
I saw my voice
(like Jonah)
swallowed by a whale

And my very life lived in my voice

Kabul, December 1989  

Partaw Naderi

Translated by Sarah Maguire and Yama Yari

The Exiles

The many ships that left our country
with white wings for Canada.
They are like handkerchiefs in our memories
and the brine like tears
and in their masts sailors singing
like birds on branches.
That sea of May running in such blue,
a moon at night, a sun at daytime,
and the moon like a yellow fruit,
like a plate on a wall
to which they raise their hands
like a silver magnet
with piercing rays
streaming into the heart. 

Poems on the Underground Exile and Loss

Iain Crichton Smith

Translated from the author's own Gaelic

Rilke

Spring has come again. The earth
is like a child who knows poems by heart;
many, so many! ... For the work
of such long learning, she wins the prize.

Her teacher was demanding. We'd grown fond
of the white in the old man's beard.
N ow when we ask her what the green and the blue are:
she can tell us, she knows it, she knows!

Earth, lucky earth, on holiday, play
with the children now. We want to catch you,
happy earth. And the luckiest will.
What her teacher taught her! So many things,
and what's imprinted in the roots and on the long
difficult stems: she sings it, she sings!

Rilke


Kafka's Prague

KAFKA WAS BORN IN A building on the square of Prague's Old Town on July 3, I883. He moved several times, but never far from the city of his birth. His Hebrew teacher recalled him saying, "Here was my secondary school, over there in that building facing us was the university, and a little further to the left, my office. My whole life-" and he drew a few small circles with his finger "-is confined to this small circle."

The building where Kafka was born was destroyed by a great fire in I889. When it was rebuilt in 1902, only a part of it was preserved. In 1995, a bust of Kafka was set into the building's outer wall. A portent of the Prague Spring, Kafka was finally recognized by the Czech communist authorities, hailed as a "revolutionary critic of capitalist alienation."

In a letter to a friend, he wrote: "There is within everyone a devil which gnaws the nights to destruction, and that is neither good nor bad, rather, it is life: if you did not have it, you could not live. So what you curse in yourself is your life. This devil is the material (and a fundamentally wonderful one) which you have been given and which you must now make use of. . . . On the Charles Bridge in Prague, there is a relief under the statue of a saint, which tells your story. The saint is sloughing a field there and has harnessed a devil to the plough. Of course, the devil is still furious (hence the transitional stage; as long as the devil is not satisfied the victory is not complete), he bares his teeth, looks back at his master with a crooked, nasty expression and convulsively retracts his tail; nevertheless, he is submitted to the yoke. . . ."


Two Cities by A

CRACOW

CITIES THAT ARE too beautiful lose their individuality. Some of the southern towns cleaned up for tourists remind one more of glossy photo ads than of organic human settlements. Ugliness creates individuality. Cracow cannot complain of a dearth of infelicitous, heavy, melancholy places.

Những thành phố đẹp quá mất mẹ nó căn cước cá nhân của chúng. Một vài thành phố phía Nam rửa ráy làm sạch chúng, để chào đón khách du lịch làm nhớ tới những tấm bưu thiếp, những tấm biển quảng cáo hơn là những nơi cư ngụ của bầy đàn con người. Cái xấu xí tạo căn cước cá nhân. Cracow chẳng có gì để mà phàn nàn, về những nơi chốn, địa điểm không may, bất hạnh, nghèo nàn, dơ dáy, nặng nề, buồn ơi là buồn của nó.
Ui chao, đọc 1 phát là bèn nhớ liền những con hẻm, Hẻm Đội Có, Xóm Mả Đỏ, Xóm Gà, Ngã Ba Chú Ía… của Xề Gòn của Gấu Cà Chớn!


GGM Tribute

We learn much about the rivalry between Vargas Llosa and Garcia Marquez, for instance, but get little palpable sense of what must have been a richly textured friendship for the short time it lasted (mutual friends described them as being as close as "brothers"). The friendship ended when Vargas Llosa knocked Garcia Marquez semiconscious in the lobby of a crowded theater, ostensibly because of Garcia Marquez's relationship with Vargas Llosa's wife. With characteristic hyperbole, Martin calls it "the most famous punch in the history of Latin America," but offers no fresh insight into the rupture. What he does convey, convincingly, is the enormous social distance Garda Marquez has traveled. He has become something of a one-person literary theme park. Just a few weeks ago his announcement that he was still writing at age eighty-three made international news; and in 2007, on the fortieth anniversary of the publication of One Hundred Years of Solitude, he returned to Aracataca by train, with thousands of people along the route calling out his pet name- "Gabo, Gabo"- as if he were one of his invented caudillos. Yet he has lived with what Martin perceptively calls a "permanent note of aristocratic identification," frequenting Latin American billionaires, lending them the credibility of his populist glow, while in turn receiving support for the foundation for writers he set up in Cartagena. Such connections reflect a jarring fact of Latin American cultural life, where writers such as Garda Marquez and Vargas Llosa have leapt from the lower classes straight to the upper echelons of power, with no social space in between. In 1999, he eulogized Latin America's twentieth century with a note of Bolivarian despair:
We ended up as a laboratory of failed illusions. Our main virtue s creativity, and yet we have not done much more than live off reheated doctrines and alien wars.... Let us get on quietly with our Middle Ages

One Hundred Years of Solitude and The Autumn of the Patriarch are the fullest description we have of those Middle Ages. As for Colombia, Garcia Marquez told Martin, "The country will always be the same. There has always been civil war ... and there always will be. It's a way of life there."

In his foreword Martin writes that the current book is the abbreviated version of a much longer biography that he plans to publish in a few years. Perhaps a deeper portrait of the writer will emerge in this future book. One hopes that it will. In a way Garcia Marquez's extraordinary life is a record of Latin America's twentieth-century war with itself.

Michael Greenberg: Looking for the Patriarch

Điểm cuốn tiểu sử GGM, của Gerald Martin, GGM: A Life

NYRB, July 16, 2009

Trăm Năm Cô Đơn và Mùa Thu của vị Trưởng Lão là mô tả đầy đủ nhất mà chúng ta có về Thời Trung Cổ ở đó - ở Mỹ Châu La Tinh.
Về xứ Colombia, GGM nói với Martin, "Xứ sở  muôn năm, đời đời  mang nick “Vũ Như Cẩn”. Có 1 cuộc nội chiến, sẽ có 1 cuộc nội chiến….”

Xứ Mít nó như thế, HNH phán.

Vết thương hình chữ S, Gấu phán.

Liệu, thời Trung Cổ ở…  đó,  là cũng ám chỉ 1 xứ Mít, như Mỹ Châu La Tinh, và điều này giải thích Mít mê GGM?


 William Burroughs


Akhmatova: Nửa Thế Kỷ Của Tôi

James Ellroy, le justicier magnifique


Truyện ngắn: Mission Impossible
Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

10 tác giả Nghệ Thuật



Khí hậu ẩm ướt trong thế giới tiểu thuyết NDT

Những ngày sau này, kể từ ngày quán cà phê La Pagode phải đóng cửa để sửa chữa, chỗ gặp mặt dễ dàng và quen thuộc của một số bạn bè quen thuộc không còn nữa. Cũng không còn trông thấy một bóng dáng gầy ốm, gầy ốm đến nỗi không thể gầy ốm hơn được nữa, lọt thỏm trong chiếc ghế bành thấp và rộng…

Như thế, khi Gấu quen NDT, Quán Chùa vẫn còn những chiếc ghế bành thấp và rộng, tường nhà hàng, những bệ bê tông thấp, bạn đang đi trên hè đường, nhảy 1 phát, là vô bên trong, và nếu như thế, thì vụ sửa chữa, là để biến nhà hàng thành 1 nơi an toàn hơn, sau cú VC đặt mìn nhà hàng nổi Mỹ Cảnh.

Sau cú đó, ông trưởng đài liên lạc VTD thoại quốc tế, tọa lạc trên tầng lầu trên cùng, tòa building số 5 Phan Đình Phùng SGN đề nghị ông Tổng giám đốc Bưu Điện, cũng là 1 trong những ông thầy của Gấu, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện, chuyển đám Mẽo đi nơi khác. Một trung tâm dành cho lính Mẽo nói chuyện với gia đình được thành lập - Gấu nhớ, tên gồm hai chữ IH [?], tại đường Nguyễn Huệ - và Trung Tâm Báo Chí, Press Center, ở đâu khu rạp REX, dành cho đám ký giả. Trước, tất cả đều lên Đài VTD để thực hiện những cú gọi.


19, April, 2014


Garcia Marquez: Poet of a magical Latin American world

Tình Yêu Và Những Quỷ Dữ Khác

Ghi 1/chet_vi_tinh.html 

Thời gian Gunter Grass "xưng tội trước bàn thờ", có dư luận bắt ông trả lại Nobel văn chương. Một ông nhà văn Tây phán, nếu thế, thì phải đòi lại, cả cái của Garcia Marquez.

Không hiểu ảnh hưởng rất lớn của Garcia Marquez lên những nhà văn Việt Nam, là theo kiểu tốt hay là xấu.
Tốt, thì không thể, hoặc chưa thể, vì, cho tới nay, chúng ta chưa đọc được một tác phẩm nào nói lên được cái tính nhiệm mầu, như của Garcia Marquez, theo như Rushdie dẫn giải. Cũng có, nhưng là đồ dởm, thí dụ như Rung Chuông Tận Thế.
Còn nếu xấu, thì hãy coi chừng bể mặt!
Bởi vì "đạo đức", như mắm mì Rosa phán, "là vấn đề thời gian", già như mấy ông, ông nào cũng nghĩ là mình xứng đáng... bị thoi!
[But "morality", as Rosa, the brothel-keeper, observes, "is a question of time", and now the old man believes he deserves such a gift.]
*

Gấu biết một người không phải nhà văn, nhưng rất mê trở thành nhà văn, và rất mê Garcia Marquez.
Anh này, một cách nào đó, đã ngộ ra được cái "tinh thần Garcia Marquez", và áp dụng đúng vào ngày 30 Tháng Tư, 1975.
*

1 giờ sáng

Luồng gió lạnh tẩm đầy thứ sương sớm ẩm độc của miền núi theo nhau ùa xuống thung lũng Sikiew. Bóng đen sẫm của khối núi phía sau Trại đè nặng lên mớ lều lùn tịt. Ánh trăng mầu huyết dụ rùng mình giữa đám lá cây. Một con cú từ họng núi xa, nhắm căn lều vỗ cánh loạn xạ. Tiếng đập cánh làm một con chó hoang rướn cổ tru dài. Con cú đảo một vòng quanh lều, rúc lên một hồi. Một con mèo đen, từ một xó xỉnh nào, bỗng nhẩy xổ lên mặt bàn. Mấy chiếc ly giật mình kêu loảng xoảng. Ngọn đèn cầy chao nghiêng, rỏ xuống mặt bàn mấy giọt nến làm dấu.

Đột nhiên nhận ra sự hiện diện của đám người ngồi quanh bàn, con cú đảo về phía núi, đầu ngoái lại như tiếc rẻ. Câu chuyện đang từ đề tài muôn thuở, thanh lọc, bỗng chuyển qua điềm triệu. Một anh chàng trung niên, cựu sĩ quan, quả quyết chính mắt nhìn thấy một con cú khổng lồ trên nóc dinh Độc Lập, đúng đêm 30 tháng Tư năm nọ. Nó cứ rúc lên từng hồi. Mọi người rướn dài cổ, há hốc mồm... "Hỡi các anh em binh sĩ, sĩ quan, hãy buông súng đầu hàng!" (1)



  Thơ Mỗi Ngày

tan. hoang 

tan. hoang vết bầm. ngày
thời gian. tím mang. mang
tan. hoang con lốc. xoáy
tan. hoang khi người. qua
 
đi. qua từng. kniệm
em dỗi. ngày hôm. qua
mẩu. thời gian ngắn. lại
đượm bóng. con phcòm

vỡ. trong nhau. từng lúc
rrượi lời. kinh xa
dấu. hôn nào. lại
có. người vừa đi. qua 

tan. trong lần ở. lại
hoang. vắng. lần ra. đi
ngập ngưng. âm lời. vọng
chỉ. một tôi hoang. tàn 

tan. hoang em có. biết
 

bụi. chiều

những. ngôi nhà đứng. im
trả lại. thời gian. màu sơn. màu gạch. ngói
những. cánh cửa nhắm. mắt
bụi chiều xốn. xang
nụ hôn. đùa giỡn cuối. con phố
chiếc ghế xiêu. vẹo
hiên nhà mái. lở
tiếng cười nắng. khan
những. nụ hồng khô. tím bầm
đã nở. một lần. trắc trở những. điều còn lại
xa vắng tìm. về tìm. trong những
âm vang. quen thuộc hơi thở. ngày cũ
tan. trong buổi. chiều muộn

Đài Sử

PIGEONS AT DAWN

Extraordinary efforts are being made
To hide things from us, my friend.
Some stay up into the wee hours
To search their souls.
Others undress each other in darkened rooms.

The creaky old elevator
Took us down to the icy cellar first
To show us a mop and a bucket
Before it deigned to ascend again
With a sigh of exasperation.

Under the vast, early-dawn sky
The city lay silent before us.
Everything on hold:
Rooftops and water towers,
Clouds and wisps of white smoke.

We must be patient, we told ourselves,
See if the pigeons will coo now
For the one who comes to her window
To feed them angel cake,
All but invisible, but for her slender arm.

Charles Simic


**

Hàng mới về. “Hai Thành Phố” hoá ra cuốn tiểu thuyết Gấu hăm he viết, ngay từ lúc bắt đầu tập viết.

Lần Cuối Sài Gòn

Và trộn vào giấc mơ tuổi thơ, là cơn mộng đời rực rỡ. Sẽ trở thành nhà văn. Sẽ viết một truyện dài nối liền được hai thành phố.

           

EGOISM

IN HER MEMOIRS, Lidia Chukovsky, who knew Solzhenitsyn well, tells how The Gulag Archipelago came to be. Solzhenitsyn devoted every free moment to this work. He had no time for conversation. After eating dinner he rushed from the table and returned to work. He stopped seeing friends. Friends bitterly accused him of egoism.

Trong Hồi Ký, Lidia Chukovsky, rất rành về Solz, kể, Gulag đã được viết như thế nào.
Solz dành trọn thời giờ cho nó, đếch có thì giờ ngồi uống cà phe với bạn quí ở Starbucks.
Ngưng gặp bạn quí luôn.
Thế là bạn quí cay đắng phán, thằng khốn đó ích kỷ quá.
 

THREE HISTORIES

THERE ARE AT least three different human histories, not one: the history of force, the history of beauty, and the history of suffering. Only the first two are cataloged and recorded, more or less. They have their professors and their textbooks. But suffering leaves no traces. It is mute. That is, mute historically. A scream does not last long, and there is no note symbol to represent it and make it last. That is why it is so difficult to understand the essence of Auschwitz. From the point of view of the history of force, it was an episode, undeserving of closer study. How much more interesting was the Battle of Wagram, for example. As the history of suffering, Auschwitz was fundamental. Unfortunately, the history of suffering does not exist. Art historians are not interested in Auschwitz either. Mud, barracks, low skies. Fog and four skinny poplars. Orpheus does not stroll this way. Ophelia doesn't choose to drown here.

Ba lịch sử.

Có ít nhất là ba lịch sử con người khác nhau, không phải một. Lịch sử sức mạnh. Lịch sử nhan sắc, và lịch sử của sự đau khổ. Chỉ hai cái đầu là được nghiên cứu, xếp loại, ghi chú, ghi âm, ghi nhận… nhiều hoặc ít. Chúng có những vị giáo sư, những sổ sách. Nhưng đau khổ đếch để lại một vết tích. Nó câm. Nghĩa là, câm, về mặt lịch sử mà nói. Một tiếng la đâu có kéo dài. Và đếch có 1 biểu tượng, sử dụng như là ghi chú, tiểu chú cái con mẹ gì đó, để thay mặt nó, trình nó ra, và làm cho nó có tuổi thọ.
Chính vì thế mà thật là khó khăn khi tìm, hiểu, cái gọi là yếu tính của Lò Thiêu. Nhìn từ quan điểm lịch sử của sức mạnh, thì nó là một thời kỳ, không đáng để bỏ công nghiên cứu, gần hay không gần, xa hay không xa. Cuộc chiến tranh thần thánh đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, thí dụ, bảnh hơn nhiều, cần nghiên cứu cho ngàn ngàn đời sau.
Nhìn từ lịch sử của khổ đau, Lò Thiêu là cơ bản, là chủ yếu. Nhưng than ôi, làm đếch gì có thứ lịch sử của khổ đau?
Những sử gia của nghệ thuật cũng đếch thèm để ý đến Lò Thiêu. Bùn, trại tù dây kẽm gai, bầu trời lùn tịt. Thềm sương mù lù tà mù, rừng bạch dương trơ xương. Orpheus đâu có đi dạo hướng đó. Ophelia đâu chọn nơi chốn tệ hại như thế để mà trầm mình.

Adam Zagajewski: Two Cities


Thơ Tháng Tư


Octavio Paz, 31/3/1914 – 19/4/1998

Ngôn ngữ của đam mê, là tên 1 cuốn tiểu luận của Llosa Marquez. Đúng hơn, tên bài viết ở trong, dùng là tựa cho toàn tập, và là bài viết về Octavio Paz:

“Khi André Breton mất, Octavio Paz đi 1 đường tribute, nói tới người thành lập, founder, chủ nghĩa siêu thực mà không sử dụng thứ ngôn ngữ của đam mê, là không thể. Chúng ta cũng có thể nói như thế về Paz”.


Rilke by Zaga


Gió Nói

The Poetic Torture-House of Language

Mondial Kundera

“La Fête de l’insignifiance”, Lễ Hội Kủa Kái Vô Nghĩa.
Gấu lầm là tên của ngày 30 Tháng Tư 1975.
Đúng là THNM


Steiner: Unwritten Books


HIS AIR OF MENACE

Notes on a Voice: Nicholas Shakespeare on the lean lucidity of Graham Greene

FALLING OUT OF TIME

What grips is the emotional suspense that Grossman articulates: that remembering and forgetting can be as bad as each other, that finding a way to understand what happened risks cheapening it.
Rằng nhớ hay quên thì có thể cũng khốn nạn như nhau, và cái chuyện cố tìm cách hiểu, chuyện gì xẩy ra, có thể đưa đến rủi ro, làm bửn nó.


30.4.2014

Akhmatova: Nửa Thế Kỷ Của Tôi

Chỉ ít lâu sau khi Một ngày trong đời Ivan Denisovich xuất hiện trên Novy mir, Tháng 11, 1962, Kopelev sắp xếp cho Akhmatova và Solz gặp nhau. Đọc tác phẩm đầu tay của nhà văn 43 tuổi, Akhmatova tự hỏi, liệu anh ta đủ mạnh để ứng phó với hoàn cảnh, khi mọi sự chú tâm xoáy vào anh, như bà đã từng, hay gần nhất, Pasternak cũng đã từng, và cảnh cáo, “Anh có biết chỉ trong vòng 1 tháng anh trở thành người nổi tiếng nhất trên thế giới?” “Tôi biết. Nhưng nó không kéo dài." “Anh chịu nổi danh vọng, Can you endure fame?” “Tôi cứng cựa lắm. Tôi chịu nổi trại tù Stalin”. “Pasternak không chịu đựng nổi danh vọng. Thật khó chịu đựng nổi danh vọng, nhất là thứ đến muộn trong đời”. Mặc dù họ kính trọng lẫn nhau, nhưng cuộc gặp gỡ chẳng được thoải mái. Solz, đã từ lâu quen với việc “dím” bản thảo, không thể dễ dàng trưng ra những bản văn xuôi khác của mình, 1 điều sau ông rất hối tiếc, và coi là lầm lỡ. Thay vì vậy, ông cho bà coi thơ của mình, và bà nói thẳng, đừng làm thơ, thứ đó không hợp với nhà văn, là ông. Đến lượt bà, bèn đọc Kinh Cầu, và sau đó, Solz nói với Kopelev:

Một bài thơ hay, lẽ dĩ nhiên Đẹp. Rổn rảng. Nhưng nói cho cùng, cả nước đau khổ, hàng chục triệu con người, và bài thơ thì là về một trường hợp cá nhân, về 1 bà mẹ và đứa con trai… Tôi nói với bà là bổn phận của 1 nhà thơ Nga là viết về những đau khổ của nước Nga, vượt lên khỏi nỗi đau cá nhân, và nói về nỗi đau của cả nước…Bà im lặng, suy nghĩ. Có thể bà không thích tôi nói như thế. Bà quen được thổi. Nhưng, đúng là 1 nhà thơ lớn.

Tất nhiên, Akhmatova đâu quên “hàng chục triệu con người”, như phần epilogue, kết, của Kinh Cầu cho thấy. Nhưng nhận xét của Solz cho thấy sự khác biệt cơ bản về bản tính của hai nhà văn. Lý tưởng nghệ thuật của Solz là về 1 cuốn tiểu thuyết hiện thực lớn lao của thế kỷ 19, thứ tiểu thuyết như được hiểu bởi Tolstoy, và Balzac, và George Eliot, với sự hiểu biết sâu xa của nó, về như thế nào, những sức mạnh xã hội nhào nặn những cuộc đời của những cá nhân con người. Ngược hẳn lại, Akhmatova, cơ bản là một nhà thơ trữ tình, với những đề tài chính, là yêu đương, mất mát. Vào những hoàn cảnh thích hợp những đề tài này có thể có mùi, có ý nghĩa xã hội, chính trị: khi quê nhà thân thương của bà bị nguy hiểm; Akhmatova là 1 nhà thơ yêu nước; khi con trai của bà và những người thật thân cận, thật quí giá đối với bà, của bà, bị giựt ra khỏi bà - bị bắt, bị tra tấn, và đôi khi bị giết - những bài thơ sẽ từ những mất mát đó trở thành hành động, chứng tích chống lại những tội ác của nhà nước.


10 bài viết về 10 tác giả trên Nghệ Thuật

Note: Viên Linh viết về Võ Phiến.
Ra hải ngoại, một bữa VL được VP gọi điện thoại, thông báo, tôi có đi đường về anh. VL mừng quá. chờ hoài, đếch thấy. Quê quá, phôn hỏi, ông Trùm cho biết, tính đi rồi, nhưng anh đụng nặng với tụi LV, đăng, không tiện!
Giai thoại này “đích thân” VL kể GCC nghe, lần ghé thăm anh, lần đầu tiên, ở Quận Cam, cc 1998. NQT


Truyện ngắn: Mission Impossible

"Death in Venice" vs "Trăng Huyết"

Vargas Llosa, trong 1 bài viết về Chết ở Venice, của Thomas Mann, đã coi nó xứng đáng đứng kế Hóa Thân của Kafka, Cái chết của Ivan Ilyich của Tolstoy. Độc giả dù đọc đi đọc lại, cũng cảm thấy có 1 điều gì đó, vượt ra khỏi tay họ, the text is still withholding a mystery even from the most attentive reader. Một điều gì đó, u ám, dữ dằn, và có thể nói, đê tiện, abject, ở nơi nhân vật chính, và còn là 1 kinh nghiệm chung của nhân loại. Freud gọi nó là “death wish”, Sade, “ao ước tự do”, desir in freedom, còn Bataille, evil.

Lạ, là đọc bài viết, Gấu bèn nhớ đến Trăng Huyết của Ngọc Minh [tức Minh Ngọc sau này]


Trăng Huyết

Lời giới thiệu của Đinh Bá Anh [Diễn đàn eVăn, cũ]:

Khi nhận được Trăng Huyết của Nguyễn Thị Minh Ngọc, tôi không hề biết rằng truyện ngắn này đã được viết cách đây trên ba mươi năm. Tôi đã đọc nó như đọc một tác phẩm mới được sáng tác, nghĩa là với một hình dung nhất định về tâm thế của các tác giả đương đại. Đọc xong mấy lần, vẫn thấy phân vân, tôi đưa cho một người bạn có cảm thụ đặc biệt về văn học xem và đề nghị cô cho biết ý kiến. Cô nói: "Đây có lẽ là truyện ngắn của một cô gái cỡ hai mươi tuổi. Nó in đậm dấu ấn tâm lý của tuổi ấy. Dù sao, truyện rất hay. Rõ ràng là một tài năng."

Tôi không khỏi ngạc nhiên về nhận xét của cô bạn. Qua trao đổi với tác giả (trước đó tôi chưa hề biết Nguyễn Thị Minh Ngọc), tôi biết rằng chị đã viết Trăng Huyết vào khoảng năm 1970-1971, tức là khi mới 17-18 tuổi (chị Ngọc sinh năm 1953). Lúc ấy chị đang sống ở Phan Thiết. Khi truyện ngắn này được đăng trên tờ Thời Tập (Viên Linh phụ trách), giới văn nghệ Sài Gòn thời ấy đã "phát hoảng" bởi sự lạ lùng của nó. Tuy vậy, đã không có những bài phê bình đáng kể - người ta ghi nhận nó trong một giới hẹp. Hơn hai mươi năm sau, năm 1993, Trăng Huyết được tái bản trong tập Ngọn nến bên kia gương (NXB Trẻ), song cũng không gây được sự chú ý của công chúng văn chương. Nguyễn Thị Minh Ngọc được biết đến trước hết như một nghệ sĩ kiêm đạo diễn kiêm kịch tác gia sân khấu, người thỉnh thoảng có viết văn và đoạt một số giải thưởng cho văn học thiếu nhi và văn học tuổi xanh. Bản thân tác giả thừa nhận, sân khấu đã phá hỏng văn của chị và hiện nay, chị đang cố gắng tìm lại phong độ của thời Trăng Huyết.

Thứ Tư 25/8/2004

*

Trăng Huyết có post trên Tin Văn, Gấu còn nhớ mài mại, câu chuyện ông anh và cô em cùng lớn lên, ông anh cứng cỏi, hung bạo, có lần đèo cô em đi chơi bằng xe máy, [xe đạp], làm em té, bị thương, đi cà nhắc, thành thử cô em cần tới ông anh, đủ hai ba thứ đường cần, anh là anh, là người yêu, là nguời bảo vệ, là người đền bù, vì làm em què dở, rồi ai…  lấy em?...

Thế rồi ông anh có bồ, cô em cảm thấy bị phản bội, cũng kiếm một ông bồ già, để trả thù. Tất cả những chuyện đó, cùng một lúc, xẩy ra vào lần đầu tiên cô thấy cô có kinh, vào đúng tuần trăng khủng khiếp đó.
Thành thử cái ông ban cho 'sáng tác đầu tiên' của ổng, cái tên Trăng Huyết, hoặc là ông không hiểu thế nào là trăng huyết, hoặc hiểu, nhưng vẫn coi đây là trăng huyết, theo nghĩa, tác phẩm đầu tiên của nhân loại, chăng?
Đông Phương Bất Bại chẳng đã ao ước, giá như là đàn bà, như Thánh Cô, thì hạnh phúc biết là dường nào!
Những lèm bèm về Trăng Huyết, ở trên, là do Gấu tưởng tượng ra, truyện chưa chắc đã như vậy. 

Huyên hơn tôi gần mười tuổi nên khi chơi với Huyên, tôi có cái dáng lúc thúc của một con gà con. Đúng hơn là con gà què. Một chuyến lên núi Tà Cú nhân dịp Trung Thu, cái bánh xe đạp sau quấn nghiến bàn chân tôi, Huyên cõng tôi vào bỏ trong bụng ông Phật nằm, dài 49 thước, để đi kiếm thuốc. Trăng đêm đó cũng là trăng huyết. Hơi trăng hắt sáng qua khe mắt Phật rọi trên gót chân bầm tím của tôi lạnh như ai rắc băng trong tủy. Sau này tôi đi hơi cà nhót. Sao chẳng lúc nào tôi tỏ ý - dù ý thầm - oán giận Huyên.

*

Về chu kỳ hành kinh, vấn đề kinh nguyệt của phái nữ, đực rựa không được phép lèm bèm, nhưng đây quả là một vấn nạn, không chỉ dành riêng cho một nửa nhân loại.
Trong bộ Thần Thoại của Lévi-Strauss, [hình như trong cuốn Les manières de table, Những cách đặt bàn ăn], ông đã mất công sắp xếp, lắp đặt, cả một lô những huyền thoại, thành một con đường - của một chiếc thuyền độc mộc, theo những dòng sông dẫn tới mặt trăng - chỉ để chứng minh, chúng nói về con đường hành kinh của người phụ nữ.
Cô thiếu nữ, trong
Những Dòng Sông, như con cá hồi lần hồi tìm về con kinh, con rạch ngày nào, khi còn một đứa con nít, cô vẫn thường bơi lội, và chợt nhớ ra, lần đang tắm, như một đứa con nít, thấy dòng nước hồng hồng ấm ấm từ trong mình tỏa ra con kinh, biết rằng mình hết còn là con nít, và lần này trở về, không còn là con nít, là thiếu nữ, là phụ nữ, mà là một hạt bụi, cái chu kỳ hành kinh như thế, là cả một đời người.
Có những đấng đàn ông - phần nhiều là có thiên hướng gay - rất lấy làm buồn phiền ông Trời, tại làm sao mà 'delete' một trong những thú đau thương nhất nhất tuyệt tuyệt như thế, đối với cái PC của họ. Và cái ông nào đó, khi đặt tên đứa con tinh thần chỉ có một nửa, bằng cái tên Trăng Huyết, một cách nào đó, là đòi 'save' cái thú đau thường kỳ tuyệt này, ít ra là cho riêng ông ta.
Nhưng, đây là một lời nguyền, một sự trù ẻo, hay một ân sủng?

*

Có những giây phút, những thời điểm "lịch sử" giầu có vô cùng. Khi phải nhìn lại lịch sử văn học miền nam - lịch sử của đám chúng tôi! - văn học những năm 1960 quả là giầu có vô cùng.

Chỉ với một vài truyện ngắn của nó.

Nếu đi hết biển

*

Trăng Huyết còn nhiều tên gọi.
Với Tuý Hồng, nó có tên là Vết thương dậy thì. [Lẽ dĩ nhiên vết thương dậy thì có thể còn một phụ nghĩa, khác]
Giới khoa học gọi bằng cái tên Vết Thương Khôn, The Wise  Wound: tên tác phẩm của Penelope Shuttle & Peter Redgrove, bàn về kinh nguyệt và về mỗi/mọi đàn bà [everywoman]

Trăng huyết? Does the Moon Menstruate?
Liệu vầng trăng kia cũng có... tháng?
Quả có thế. Trong tiếng Anh cổ, chu kỳ kinh nguyệt, the menstrual cycle, menstrual  từ tiếng La tinh mens, mensis, có nghĩa là month, month/ moon. (1)

(1) Does the Moon Menstruate?

....

But why? What event in human lives corresponds in any way to the moon's events? Is there any connection between human fertility and the moon? It seems a strange coincidence, if coincidence it is, that lost of the medical books say that the average length of a woman's menstrual cycle is twenty-eight days. This might be no more than a coincidence, since, as Paula Weideger has pointed out, the figure is only an average one composed of the cycle-length of thousands of women added together and divided by the number of women. She says that it is quite possible in the statistical samples that no woman had a twenty-eight-day cycle, since it is quite normal to have fifteen-day cycles or forty-one-day cycles. What she says is true – nevertheless is also true that the vast majority of cycles cluster round this figure of twenty-eight. Around four weeks is a very usual length of cycle. The coincidence is that the length of the moon's cycle from new moon to new moon also averages out at about four weeks, or 29*53 days (mean synodic month). Even the name of the cycle, the menstrual cycle, according to the OED, comes from the Latin mens, mensis, leaning 'month', and the same authority also reminds us that nonth' means 'moon'. Partridge's dictionary goes further. If you look up 'month' there, you will be referred to 'measure'. He tells us that the changes of the icon afforded the earliest measure of time longer than a day. Under “Menstruation' we are referred also to 'measure'. The paragraphs tell s that 'menstruation' does come from 'month' which comes from noon'. Moreover, he tells us that the following words for ideas come from the measurement that the moon makes in the sky: measurement, censurable, mensuration, commensurate, dimension, immensity, metre, metric, diameter, parameter, preimeter, meal, and many others. A suspicion grows that perhaps many of our ideas come from the moon-measure. All the words for 'reason’ certainly come from 'ratus', meaning to count, calculate, reckon; and all the words for mind, reminder, mental, comment, monitor, admonish, mania, maenad, automatic and even money appear to be associated with this Latin word mens, or Greek menos, which both mean 'mind' or 'spirit'; or the Latin for 'moon' or 'monthly'. The Greek word for moon is mene.

The Wise Wound

Death in Venice

The Call to the Abyss

Mời Gọi xuống Vực Thẳm

Despite its brevity, Death in Venice tells a story that is as complex and deep as any that Thomas Mann would develop more extensively in his vast novels. And he achieves this so economically and with such stylistic perfection that this short novel deserves to figure alongside masterworks of the genre like Kafka's Metamorphosis or Tolstoy's The Death of Ivan Ilyich. All three are beautifully crafted, tell a fascinating story and, above all, set up an almost infinite number of associations, symbols and echoes in the mind of the reader.

After reading and rereading it on numerous occasions, we are left with the unsettling feeling that the text is still withholding a mystery even from the most attentive reader. Something murky and violent, almost abject, which can be found in the protagonist and which is also a common experience of humankind: a secret yearning that suddenly reappears, frightening us, because we thought that it had been banished once and for all from our midst through the work of culture, faith and public morals, or simply as a result of our need to live together in society

How can we define this subterranean presence which works of art usually reveal involuntarily, indirectly, a will-o'-the-wisp that suddenly appears without the author's permission? Freud called it the death wish, Sade desire in freedom and Bataille, evil. It is the quest for the integral sovereignty of the individual that predates the conventions and rules that every society - some more, some less - imposes in order to make coexistence possible and prevent society from falling apart and reverting to barbarism. The core of any definition of civilization is that individual desires and passion must be reined in so that private desires, stimulated by imagination, do not endanger social organization. This is a clear and healthy idea whose benefit for the human race cannot be denied rationally because it has enhanced life and kept at a distance, usually at a great distance, the precarious and harsh primordial lives that preceded the horde and the cannibal clan. But life is not formed just by reason but also by passions. The angel that lives within men and women has never been able entirely to defeat the devil that also lives within, even when it seems that advanced societies have managed to do so. The story of Gustav von Aschenbach shows us that even these fine examples of healthy citizens, whose intelligence and moral discipline seem to have tamed all the destructive forces of personality, can succumb at any moment to the temptation of the abyss.

Reason, order and virtue ensure the progress of human society but they rarely suffice to make individuals happy, for instincts, that are kept in check in the name of social good, are always on the lookout, waiting for an opportunity to come out and demand of life both intensity and excess that, as a last resort, lead to destruction and death. Sex is the privileged domain where these transgressive demons lurk, in the recesses of our personality, and in some circumstances it is impossible to keep them at bay because they are also part of human reality. What is more, even though their presence always implies a risk for the individual and a threat of dissolution and violence for society, to exile them completely would impoverish life, depriving it of euphoria and elation - fiesta and adventure – which are also integral to life. These are the thorny issues that Death in Venice illuminates with its twilight tones.

May mắn tôi là người rời nhà đầu tiên. Huyên có tổ chức một buổi rượu tiễn. Dành cho tôi bất ngờ, anh có mời ông Hạo. Huyên kiêm luôn chức đầu bếp. Món thịt nướng anh làm thật tuyệt. Đủ cả tỏi, quế, ngũ vị hương, cà-ri cay... Mấy chai Mai Quế Lộ được đào lên... càng về khuya tôi càng sợ hãi trước sự bình tĩnh của Huyên và vẻ mặt ngây ngô của ông Hạo. Dưới sự điều động của Huyên, ông khóc cười như một đứa trẻ. Lòng tôn quý của tôi đối với ông tiêu tan như nỗi buồn không còn đọng vết trong mắt ông. Huyên bây giờ độc ác như một gã phù thủy. Mắt anh đỏ những đường gân chằng chịt, cơ hồ rượu đổ ngụt vào hai cái hố khủng khiếp ấy. Tôi chịu hết nổi. Chạy vòng ra sau nhà. Thấy Tần ngồi khóc bên đống lông chuột, tôi nghĩ rằng chị đã hiểu lờ mờ. Nhưng tôi thì hiểu thấu suốt mọi sự. Tôi cào nát cổ vẫn không ói được khối thịt thơm phức đã nuốt vào khi nãy. Ông Hạo đang chệnh choạng múa may bước ra cổng và ngã sóng soài giữa bậc đá. Má tôi mang khăn ướt ra lau vết bầm trên trán cho ông. Huyên liệng ra một tấm mền. Tôi ngẩng lên. Không phải hai con mắt lửa. Mà đó chính là hai vầng trăng huyết độc ác và thê lương sẽ theo đuổi tôi suốt cả cuộc đời. Trong chuyến đi xa ngày mai, tôi sẽ không còn lo phòng những bất trắc. Đánh đổi lại, sẽ là những mảnh tình không. Ông Hạo! Ông Hạo! Và những ai sau này nữa. Hãy tha thứ cho tôi. Hãy tha thứ cho anh em tôi... 

Độc giả phải hiểu như thế nào, về lời xin lỗi của cô em gái?

V/v evil, trong Trăng Huyết. 

Có lần nói chuyện với MN, GCC đưa ra nhận xét, có 1 cái gì đó rất ma quái ở trong Trăng Huyết. MN gật đầu, nhà em có 1 người ghiền. Cái "ma quái" mà anh nói đó, có thể do ghiền, và vì anh cũng ghiền, nên nhận ra.


Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Cali 2012 With HA

*

Liệu bạn có thể tưởng tượng cuốn sách khổng lồ, là Bách Khoa Toàn Thư Tin Văn Toàn Tập, và cuộc gặp gỡ trên, là giữa GCC và… độc giả TV, trong 1 buổi ra mắt sách ở Tiểu Sài Gòn?

Yes, sure, why not?


The Moon
for Maria Kodama

There is such loneliness in that gold.
The moon of the nights is not the moon
Whom the first Adam saw. The long centuries
Of human vigil have filled her
With ancient lament. Look at her. She is your mirror.
-W.B.

J.L. Borges

Trăng

Có cái cô đơn khủng khiếp như thế đó ở trong mảnh trăng vàng.
Trăng của đêm không phải trăng Adam đầu tiên nhìn thấy
Những thế kỷ dài của những lời khẩn cầu của con người
Đã tẩm vào nàng lời than van xưa, cũ.
Hãy nhìn nàng kìa.
Nàng là tấm gương của em đó.

Với Borges, chúng tôi sống ở bên ngoài thực tại.
"Avec Borges, nous vivions en dehors de la réalité"

Nhân ghé Paris vào dịp Hội Sách vinh danh Á Căn Đình, Maria Kodama, cuộc tình lớn sau cùng của nhà văn nhớn Borges, đã dành cho chúng tôi [báo Pont de vue] 1 cuộc trò chuyện nhỏ, nhưng nó vén bức màn bí mật về 1 Borges riêng tư, vượt ra khỏi những huyền thoại quen biết về nhà thơ mù. 




Cảnh đẹp VN

Giới Thiệu Sách, CD

Nhã Tập
Truyện Kiều ABC

*

Art2all
Việt Nam Xưa
Talawas
VN Express
Guardian
Intel Life
Huế Mậu Thân
Cali Tháng Tám 2011

Thơ JHV

NTK

TMT

Mùa hè Còn Mãi
NCK

Trang đặc biệt

Tưởng nhớ Thảo Trường

Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

TTT 2011

Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz

Tribute to PCL & VHNT
VHNT tái xuất giang hồ

War_Pix
Requiem

TheDigitalJournalist

Sebald
IN MEMORIAM W. G. SEBALD

Hình ảnh chiến tranh
Việt Nam của tờ Life


Vĩnh Biệt
Bông Hồng Đen

6 năm BHD ra đi


Blog 360 plus
Blog TV


Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây