|
16.2.2014
Ghi
chú
trong ngày
Vĩnh biệt
nhà văn Nguyễn Quang Sáng: Người kể chuyện với nhiều chi tiết đắt giá
Note: Thì
lâu lâu cũng phải cho GCC khóc đồng nghiệp Đỏ 1 phát chứ!
“Để không bị
lộ bí mật nơi đóng quân trong rừng, cấp trên đã ra lệnh may yết hầu con
gà trống
vì sợ nó gáy. Nhà văn cho rằng, làm gà trống mà không được gáy thì thà
chết còn
hơn”.
Nhà thơ Cách
Mạng 30 Tháng Tư, tác giả bài thơ "Quê Hương Mỗi Người Có Một", cuối
đời, cố gáy
được 1 lần, khi xì ra, trên Đài của Đế Quốc Mẽo, VOA, “vế tiếp theo,
đếch phải của tớ”!
Tay Nguyễn Quang
Sáng này, suốt đời chỉ mong "tối" 1 lần, mà cũng đếch được.
Chán thế!
Cái này là
giai thoại, Gấu nghe qua bạn quí của Gấu.
Khi nộp đơn xin vô Hội Nhà... Thổ, anh cho biết, phải
có nhà văn VC thứ thiệt đỡ đầu, và, với anh, đó là NQS.
Và khi có tiếng xì xào giữa đám "Khỉ Ở Rừng U Minh", NQS bèn "đứng về
phe
Ngụy", và phán, nếu nó mà
không được vô Hội, thì thằng nào
xứng đáng vô?
Nếu đúng như
thế, thì đây là tiếng gáy của NQS!
Hà, hà!
Note:
Câu văn
thật đắt của NQS, cũng chính là câu của Milosz, dưới đây:
“Đó
là một nhóm người, như hòn đảo nhỏ trong một đám đông, và đám đông này
thiếu một
điều chi rất ư riêng biệt để cho nó trở thành một cuộc sống của con
người khiêm
tốn, và bình dị."
Cả 1 Hội Nhà
Thổ VC hiện nay, thì đúng là 1 con gà trống, bị thiến mẹ mất tiếng gáy!
V/v GCC khóc
đồng nghiệp Đỏ, nhà văn cách mạng Nguyễn Quang Sáng.
Thật là tình cờ, Gấu cùng
lúc, đọc 1 bài viết của Zbigniew Herbert, 1 nhà thơ trong "Đồng Nai Tam
Kiệt" của
xứ Ba Lan - gồm Milosz, Szymborska, và ông – trong tuyển tập văn xuôi, The
Collected Prose 1948-1998.
Bài viết đúng là vinh danh... Gấu Cà Chớn, tếu thế, và
Hertbert gọi đó là, "Lòng khoan dung của tên đao phủ thủ", "The Mercy
of the
Executioner"!
Chả là Gấu đang
đọc cuốn này. Đi giang hồ vặt, về nhà Lào thăm mấy đứa con, thèm đọc
quá, về lại Canada, bèn
vớ lấy cuốn đó.
Thần sầu. Gấu sẽ đi vài bài ngắn ngắn trong đó, trong những kỳ
tới.
Zbigniew
Herbert, “Ba Lan Tam Kiệt” [hai “kiệt” còn lại là, Milosz, Szymborska
đều đợp
Nobel văn chương], như "Đồng Nai Tam Kiệt" của xứ Mít Nam: Bùi Giáng,
Tô
Thuỳ Yên,
Thanh Tâm Tuyền, như NTV đã từng gọi.
Gấu biết tới
Herbert, là qua 1 bài viết của Coetzee, "Thế nào là cổ điển?" (1)
Nhưng
để đọc
được ông, thì cũng mới đây thôi, một phần vì cuốn nào của ông thì cũng
dày cộm,
và vì ông là thi sĩ, mà cái món thi sĩ, thì Gấu cũng mới đọc được, mới
đây thôi!
Đọc 1 phát, là dịch ào ào, điếc không sợ súng!
Về sự lưu vong của con người: On
Not Going Home (London Review of Books 20-2-14) -- Bài của
James Wood, hay tuyệt! (Ám chỉ những người như THD có "luxurious
freedom", hơi đau, nhưng đúng!)
No còm!
V/v câu của
Edward Said ,“Exile
is strangely compelling to think about but terrible to
experience”, James Wood trích dẫn - Tin Văn cũng đã từng. Tính gõ
Google Desktop tìm lại coi trong bài nào, nhưng cái Google Desktop này,
nay N/A.
Nhớ là trong 1 bài viết về
Thầy Kuốc, và câu phán thần sầu của Thầy về
lưu vong, về viết khi lưu vong, cái gì gì, như 1 kẻ cuồng dâm, khổ dâm
cái con
mẹ gì đó!
Hà, hà!
Máy PC của
GCC đi xa về, lại bị trục trặc. Chán thế!
Note: Kiếm
ra rồi.
Hồi ức thủng
lỗ
'Lẽ dĩ nhiên,
một cách nào đó, con đường từ St. Petersburg tới Stockholm đi qua địa
ngục,
nhưng một con người với nghề nghiệp như tôi, ý niệm đường thẳng - con
đường ngắn
nhất nối hai điểm - đã mất hết sự quyến rũ của nó từ lâu rồi.'
(Joseph
Brodsky, Diễn văn nhận Nobel văn
chương)
Di dân, kẻ
lưu đầy, người xa xứ, gã tị nạn, tay suốt đời lang thang, người của mọi
nơi...
ý nghĩa những từ cứ thế thay đổi, nhưng chúng đều chỉ một trạng thái
chung:
không (ở) nhà, hoặc đâu cũng là nhà; hai mặt của một đồng tiền. Trong
hầu hết
trường hợp, nó có nghĩa: có một khoảng cách với tiếng nói mẹ đẻ.
Như vậy thì
sao? Không còn cơ hội 'đi thực tế', để 'viết'? Hay ngược lại, đây là
kích thích
tố sáng tạo, như Hannah Arendt khẳng định, trong 'Chúng tôi, Những
người tị nạn':
Để xây dựng lại cuộc sống, người ta phải mạnh, và lạc quan. Do đó,
chúng tôi rất
lạc quan. Sự lạc quan của chúng tôi thật đáng mến, ngay cả khi chúng
tôi chỉ rì
rầm với nhau, về chuyện đó.' Dù nhăn nhó, dù chua chát cỡ nào, đây là
một con
dao hai lưỡi: 'Lưu vong thật hấp
dẫn, một cách kỳ cục, khi nghĩ tới, nhưng thật
khủng khiếp, khi (phải) kinh nghiệm.' (Edward Said). Rồi ông
tiếp tục hỏi: 'Nếu
lưu vong thực sự, là: thôi rồi chẳng còn chi, ra đi là hết rồi; tại sao
nó biến
thành 'motif' giầu có, đầy hấp lực, của văn hóa hiện đại?... Văn hóa
Tây phương
Hiện đại, một phần lớn tác phẩm là của những lưu đầy, di dân, tị nạn.
Và ông kết
luận: lưu vong có cái thú riêng của nó. (Cứ bật cái computer lên, là đã
thấy ở
nhà rồi. Phạm Thị Hoài, Gió Đông 3). Ở đây, theo Said, là ý nghĩa đặc
biệt, về
thành tựu, cống hiến, mà con người có được, theo kiểu 'viết như chẳng
có gì xẩy
ra, làm như vẫn ở nhà'!
Tôi không là
di dân, mà cũng chẳng bị tống xuất.
Thế giới bị
huỷ diệt không phải của tôi. Tôi chẳng hề biết nó.
(I neither
emigrated nor was deported.
The world
that was destroyed was not mine. I never knew it.
Henri
Raczymow, 'Memory Shot through with
Holes').
Đối với 'hậu
duệ' của những kẻ sống sót từ Lò Thiêu, chúng là những lưu vong từ một
thế giới
không còn hiện hữu, đã bị xóa, erased, deleted; một thế giới chúng
chẳng hề
nhìn thấy, sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy. Ở đây, lại là một ước muốn khác,
không
chỉ cảm, và hiểu, mà còn là 're-member', tái dựng, tái nhập, thay thế,
sửa chữa
(re-build, re-incarnate, replace, repair). Với những kẻ sống sót từ một
thế giới
điêu tàn, hồi ức không chỉ là một hành động nhớ lại, mà còn là tưởng
niệm, một
tưởng niệm với đầy đau thương, giận dữ, chán chường. Cho dù như vậy,
mối nối vẫn
còn. Với con cái của họ, đứt đoạn hoàn toàn, hết mong xây cầu, bắc
nhịp. Hồi ức
của chúng là ở bậc nhì, hồi ức 'hậu-hồi ức'.
Hậu hồi ức của
lưu đầy xứ người, là một hình thức thật mãnh liệt, bởi vì nối kết của
nó với đối
tượng, hay cội nguồn, không được suy nghiệm thông qua nhặt nhạnh
(recollection), nhưng qua đầu tư tưởng tượng, và sáng tạo. Hậu hồi ức
Holocaust
toan tính chuyện xây cầu, không chỉ cho một chia lìa nhất thời
(temporal
divide). 'Nhà' đối với những hậu duệ này, luôn luôn là ở đâu đó, bất cứ
đâu, chẳng
đâu; ngay cả khi họ có dịp trở về Vienne, Berlin, Paris... bởi vì những
thành
phố mà họ có thể trở về đó, không còn là những thành phố cha mẹ họ đã
sống, như
'nhà' Do-thái trước diệt chủng; thay vì vậy, những thành phố, nơi diệt
chủng đã
xẩy ra, từ đó, hồi ức của chúng bị tống xuất.
Hậu hồi ức
có nhiều dạng, nhiều tên gọi: hồi ức trống (absent memory), hồi ức
thủng lỗ
(mémoire trouée, bị bắn thủng, memory shot through with holes). Cuộc
sống
diasporic của những thế hệ hậu-chiến là một 'diaspora des cendres'.1
Với nhà
văn nữ Nadine Fresco, hồi ức trống này có nghĩa: nơi nguồn cội chỉ còn
là tro
than (the place of origine has been reduced to ashes). Không có trở về,
(làm
sao có chuyện một nghĩa như nhau?). Nhà văn người Pháp, Henri Raczymow
nhấn mạnh:
sự thiếu, trống đó là điều kiện phải được gìn giữ, và đừng bao giờ 'xây
cầú:
'Trong việc làm của tôi, một trống vắng như thế có thể khả hữu, do hồi
ức thủng
lỗ mà tôi đã nói tới. Với tôi đây là động cơ viết. Những cuốn sách của
tôi
không phải để lấp đầy sự trống vắng, khâu vá những lỗ thủng - Tôi đâu
có tầm
thường như vậy: viết để chống lại sự quên lãng; nhưng mà là để trình
bầy nó,
đúng như một trống vắng'. Ở đây, ông mượn ý niệm thời gian mang tính
không gian
(spatial conception of time) của Kafka (những năm 1920): Nếu trái đất
quay về
bên phải..., tôi phải quay về bên trái, để bắt kịp quá khứ. 'Si la
terre tourne
à droite..., je dois tourner à gauche pour rattraper le passé').
Do-thái
Âu-châu hậu chiến quay về trái hoài hoài, nhưng chẳng bao giờ bắt kịp
quá khứ.
'... quá khứ
của chúng tôi là một xứ lạ mà chẳng bao giờ chúng tôi hy vọng thăm
viếng.'
'Tôi không
phải là một di dân, tôi chẳng hể bị tống xuất, cái thế giới bị huỷ diệt
không
phải của tôi... Nhưng tôi, như cả lũ chúng tôi, là những đứa trẻ mồ côi
của thế
giới.'
Tôi là tên
già, còn anh là kẻ truy tìm quá khứ.
Tôi chẳng biết gì về Konsk. Ai
có thể nói với
tôi về Konsk, một cái bóng của những cái bóng, và không có mồ?
Tên của những
người đã chết không phải là để giỡn chơi, Simon?
(Raczymow:
Những câu chuyện Lưu đầy, và Lãng quên).
Thời kỳ những đợt sóng di
dân đầu tiên từ Đông
Âu qua Tây phương, tiếp theo những vụ làm cỏ Do-thái đầu thế kỷ, có một
truyền
thống giữa những cộng đồng diasporic, dựa trên những tập tục tưởng niệm
xa xưa,
và thời trung cổ, cốt cho con cháu họ đừng quên nguồn gốc, qua yizker
bikher,
những cuốn sách tưởng niệm. Do-thái sống sót sau Lò Thiêu cũng tiếp nối
truyền
thống đó (Có cỡ chừng trên 400 cuốn sách như vậy, chỉ riêng của cộng
đồng
Ba-lan). Chúng chứa đựng những dữ kiện lịch sử, cuộc sống cộng đồng
trước khi bị
huỷ diệt, và những chi tiết về tội ác diệt chủng nhằm xoá sạch họ;
những hình ảnh,
từng người, từng nhóm, như muốn khơi dậy cuộc sống, trước đó. Những cố
gắng tìm
kiếm tro cốt những người thân trong gia đình, mong sao có ngày nắm tro
than được
chôn cất đàng hoàng, với những lời cầu siêu tưởng niệm dành cho người
đã chết.
Đây là một cố gắng, nói theo Raczymow: tạo mồ mả, cho những người không
có mồ
(thay take the place of graves for those who had no graves). Cuốn Những
câu
chuyện Lưu đầy và Lãng quên (Contes
d'exil et d'oubli) của ông cũng
tương tự,
nhưng nó có một hình thức hoàn toàn khác biệt, khắc hoạ sự khác biệt
giữa hồi ức
và hậu hồi ức. Trong khi những cuốn yizker chứa đựng những chứng tích,
hồi tưởng,
làm sống lại, những câu chuyện của Raczymow là những tái cấu trúc,
chúng không
giả đò giấu diếm, nguỵ trang, về một liên hệ với quá khứ 'vô danh'
unknown: Tôi
chẳng biết gì về Konsk, nhân vật Mathieu Schriftlich, một sử gia nhấn
mạnh.
Trong khi Simon kể chuyện, Mathieu để mặc cho mình trôi vào trống vắng
hồi ức.
Cuốn sách của
ông không có hình ảnh, chỉ là lời nói, lời viết. Không có những bức
hình về con
người, đường phố Konsk:
Làm sao người
ta có thể hoài hương, từ những bức hình như thế, đó chỉ là dơ dáy, buồn
rầu,
nghèo đói? (Comment peut-on avoir la nostalgie de ce que représentent
ces
photos, c'est à dire saleté, tristesse, pauvreté?)
(Từ bài viết
của Susan Rubin Suleiman, Dẫn nhập,
và của Marianne Hirsch, Past Lives:
Postmemories in exile,
trong Exile and Creativity,
nhà xb Duke
University
Press, 1998)
1. Diaspora
của tro than. Diaspora: Do-thái lưu vong kể từ năm 538 trước Công
nguyên.
Nguyễn
Quốc Trụ
Kafka
Coupable
Le
Promeneur
Solitaire: W. G. Sebald on Robert Walser
Thơ
Mỗi Ngày
PRIDE OF
PLACE
Past the
gaga experiments
to ginger
high school thriller days
I wheel
fragile issues: a fight on there,
bulbous
antennae, a herald
carved alone
in the archer position-sweet!
We had a few
people over to
celebrate
the monotony of the new place.
Meatless
meat loaf. Roger. Over to
you. I took
a piece of plain foolscap,
my American
University in Baku stationery,
sole thing
to be underestimated here,
and set down
just words that wrote something,
probably as
close as I want to keep to it,
all the
water and stringiness.
It feels
like Sunday today
but it's
Saturday. What does Saturday feel like
on Sunday?
Not that it's that
hard to
remember. I'd always be grinning and opened.
No protocol;
heck, no manners
on flood
watch. She's one of the famed Gowanus sisters.
It hasn't
affected the weather yet.
Do you get a
sense of white table settings,
the
so-called vacant stare that afflicts them
as adults on
a sit-down strike?
Listen up,
tenderfoot. Who says you need to be awake
to
appreciate poetry? The landlady, that's who.
Where are
they now?
-John
Ashbery
NYRB Feb 6, 2014
Đi tìm phê
bình gia Mít
Valentine's Day
The Wind and
the Rose
Once in a garden there grew a
rose. A wind fell in love with her.
They were completely different, he-light and fair; she immobile and
heavy as
blood.
There came a
man in wooden clogs and with his thick
hands he
plucked the rose. The wind leapt after him, but the man slammed the
door in his
face.
-O that I might turn to stone-wept the unlucky one-I
was able to go round the whole world, I was able to stay away for
years
at a time, but I knew that she was always there waiting.
The wind understood that, in order really to suffer,
one has
to be faithful.
Gió và BHD
Ngày xưa,
trong một khu vườn, có BHD. Anh Cu Gió bèn tương tư nàng. Chúng mới
khác nhau
làm sao. Anh Cu Gió, thì bông lơn, cà chớn, lêu ba lêu bêu, nhẹ hều,
còn Nàng
thì bất động, và nặng, như máu.
Rồi tới 1 ngày, một tên đàn ông, đi guốc mộc, tới
vườn. Hắn dùng tay dày ngắt bông hồng. Gió đuổi theo, nhưng gã đàn
ông đóng sầm cửa vào mặt nó.
-Ui chao, thế
này thì ta biến thành đá mất – Anh Cu Gió bất hạnh khóc. Ta có thể đi
khắp đó đây,
ta bà thế giới, ta có thể cô đơn 1 một mình, hàng năm trời, ở trong cái
xó xỉnh
nào, nhưng ta biết, Nàng chẳng bao giờ còn ở đó nữa, để mà đợi ta.
Anh Cu Gió
ngộ ra 1 điều là, để thực sự đau khổ, người ta phải thành thực, hết
lòng, một lòng
một dạ, tin tưởng, trung thuỷ….
*
Khi Milosz coi sự từ bỏ của
ông, cái lô
gíc toàn trị - một lô gíc có vẻ nuốt sạch mọi hoàn cảnh trí thức ngang
ngược,
khó bảo, trái nghịch… vào chính nó – như là “một cuộc nổi loạn của cái
bao tử”,
thì đây không giản dị là một chuyển động tiêu cực, nhưng là một cách
gìn giữ niềm
tin với những trực giác về điều tốt và giá trị thực.
Cố gắng giải thích, trong Cầm Tưởng, 1953, hoàn cảnh của mình,
ông miêu
tả một khoảnh khắc trong thời kỳ Đệ Nhị Chiến, khi, trong một đám đông
dầy đặc
luần quần tại một nhà ga xe lửa tại Ukraine, giữa những đinh tai nhức
óc của
những khẩu hiệu phát ra từ những chiếc loa phát thanh, ông nhìn thấy
một ông
chồng, bà vợ và hai đứa con thầm thì với nhau.
“Đó là một nhóm
người, như hòn đảo nhỏ trong một đám đông, và đám đông
này
thiếu một điều chi rất ư riêng biệt để cho nó trở thành một cuộc sống
của con
người khiêm tốn, và bình dị."
Ui chao, đây đúng là ý nghĩ của
Gấu, khi
đang ăn hỏa tiễn của VC, co rúm người lại, vậy mà vưỡn không quên nhớ
đến… cô
bạn:
Những ngày Mậu Thân căng thẳng,
Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi
nhớ bám
riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng
cơn hấp
hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những
giờ phút
lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung
quanh
thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu
thương
cô bạn một cách thánh thiện, nghĩa là, một cách bình thường, giản dị
như thế
nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
NKTV
Rừng
Tràm
Tôi ngồi
trên chiếc ghế dựa, nghe mấy bản nhạc phổ thơ của con gái tôi. Thơ và
nhạc đưa
tôi về quê cũ, xa thật xa, mãi tận bờ cát bên sông Vị hoàng. Tôi nghe
vang vang
trong cơn ngủ mê, lời thơ, tiếng gọi êm ái của con gái: Bố ơi…
Bên kia núi là sông,
một
nửa trái đất rộng,
sao
cứ chạy vòng vòng,
về
nơi nào hư không.
Một người đem giấc mơ,
vào
hội ngộ bất ngờ,
tưởng
gần mà xa lắm,
còn
lại sông bơ vơ
Một
nửa vẫn đợi chờ
bao
năm rồi cứ mãi
đi
tìm nửa đời nhau,
đợi
chờ ngày qua mau
mong
đêm dài thôi lâu.
Sương mù trong bóng đêm,
mặt
trời nhỏ lặng yên,
tơ
trời đan chiều tím
hong
dài nhớ thương thêm.
Sông núi có bình yên,
nỗi
nhớ nào cuồng điên,
tìm
nhau nơi vạn dặm,
buồn
vỡ oà trong tim.
Bố biết rồi, Bố cũng mong đêm dài thôi
lâu. Nhưng Bố cũng vẫn là một kẻ mãi mãi đi tìm nhau nơi vạn dặm. Hôm
nay, Bố tạm
dừng chân ở đây. Nơi rừng tràm này. Bố cũng mệt mỏi lắm rồi, tưởng có
lúc sắp bỏ
cuộc, bởi vì Bố vốn là một kẻ thất trận! Bố không nuôi con ngày nào. Bố
cũng
không đặt tên cho con. Nhưng Bố vẫn là Bố của con phải không? Thế cho
nên từ
khu rừng tràm này, một bản sao chiến địa, hôm nay, Bố nghĩ tới con và
nghe thơ
con, đứa con làm thơ trưởng thành của Bố. Hỡi, Hư- Không-Hà-Thu-Thủy.
(SB 11/2008)
Thảo Trường
Hôm
sau
gặp một sĩ quan bạn làm tiền
sát viên pháo binh đi theo đơn vị bộ binh vào lục soát
vùng mục tiêu, hỏi:
- Ông thấy gì trong đó?
- Chẳng thấy mẹ gì cả.
- Là sao?
- Là sao là sao?
- Quân địch ấy, những tiểu đoàn của
Miền ấy?
- Ai mà biết. Chỉ thấy những vết máu và
các ruộng dứa bị cày nát.
- Dứa là cái gì?
- Nói chuyện với ông chán bỏ mẹ đi ấy.
Dứa là trái thơm, trái khóm để nấu canh chua cá bông lau đó, biết
không? Không
nghe nói khóm Bến Lức bao giờ à?
- Ờ, ờ, biết rồi. Nghĩa là trong ấy
không thấy có xác người, chỉ có những trái dứa nhuốm máu, dứa để nấu
canh chua
cá bông lau, ông nói thế, phải không?
- Ừ thì đại khái là như vậy, dứa,
xuồng ba lá, ghe tam bản, chuồng trâu, chòi lá, nóp, cuốc xẻng, súng
ngựa trời
v..v.. tất cả đều “banh sà rông” vì đạn pháo của ông. Người thì có thể
nó chuồn
đi nơi khác rồi. Người thì ở chỗ nào nó cũng có thể dại và cũng có thể
khôn.
Ông sao thắc mắc làm mẹ gì những chuyện vớ vẩn ấy.
*
Em yêu như đòi nợ. Anh phá hại đời em
thì anh phải đền bù. Anh không được tỉnh bơ quịt nợ được. Nợ thì phải
trả. Nhất
là nợ tình. Hơn thế nữa đây là nợ đời. Phá nát cả một đời con gái đâu
có thể xí
xoá phải không anh. Anh không có gì để trả thì anh phải đem cái thân
già của
anh ra mà gán nợ. Hãy trả bằng những gì anh có.
*
Note: Gửi ông cái tôi mới chế.
Thăm ông bà mạnh khoẻ Tết Tây Tết Ta. OK Salem.
Tôi mới trải qua một cơn bệnh nhưng đã qua khỏi và mới đi nghỉ hai tuần
lễ ở South Carolina về.
*
Cái khúc bắn pháo vào làng dân làm Gấu nhớ đến kỷ niệm của Gấu, và cùng
với nó, là cú pháo vào trường tiểu học Cai Lậy, đã một thời tốn sinh
mạng con nít, tất nhiên, và biết bao nhiêu là giấy mực, lời qua tiếng
lại giữa đôi bên. VC nói pháo VNCH. Nhưng VNCH nói, VC bắn, đổ
tội cho họ.
*
Tôi biết anh
còn muốn kể lại,
lần đầu tiên anh xuống xe đò, đi lang thang trên con lộ dẫn vào quận
lỵ, khi đi
ngang cây cầu gỗ, rồi tiếng đạn từ chi khu bắn đi nghe chát chúa bên
tai. Đó là
lần đầu tiên anh nhận ra chiến tranh có thật, và tất cả những gì anh
tưởng
tượng về cô bạn đều có thật. Mặt nước sông nhăn nhó để lộ sự giận dữ
của thiên
nhiên, vẻ gớm ghiếc của số mệnh. Cùng lúc anh nhận ra nỗi đau khổ, sự
thông
cảm. Sau mặt nạ đầy hăm dọa của dối trá, anh nhận ra một khuôn mặt
khác, một
cuộc đời khác, đúng không, đúng không?...
Tự truyện
MẶC ĐỖ
Trưa
Trên Đảo San
Hô
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Ngô Khánh
Lãng & Vũ Bạch Tuyến & Nguyễn Hải Hà
Trụ ơi !
Tớ
còn nhớ là Hải chở tớ đến nhà Trụ khoảng hè 1972, Trụ còn rủ bọn này đi
"bát phố Bonnard" như ngày nào năm xưa mà.
Hơn cả nửa năm 1956, ngày nào Trụ cũng đòi ngồi trên sườn xe đạp của tớ
từ nhà
anh Nguyễn Hoạt (Hiếu Chân) ở căn gác sau BV Bình Dân đến trường Thành
Công của
Ô. Chu Tử trên đường Lê Văn Duyệt, Trụ còn nhớ Ngô Tùng Lam, Đoàn Đức
Long, Mai
Ngọc Liên, Vũ Ngọc Hải ...ngày ấy không ? (tất cả đều không còn nữa!)
Hình ngồi trong tiệm phở, tay to con, Nguyễn Hà Trỵ đó. (1)
Rất tiếc là Chánh Biện Lý Phạm Văn Hàm đi Úc đến 18/9 mới về nên không
gặp và hẹn
Lãng sáng hôm sau gặp mặt Nguyễn Trọng Văn và Quyên Hải quân
nữa....nhưng Lãng
có chuyện đột xuất ....đành hẹn kỳ sau vậy.
Nghe Lãng nói có thể Trụ sẽ có dịp về nam Cali. khoảng tháng 10 này,
phải không
? Nếu nhất định được ngày gìờ thì cho Tuyến biết, có thể chúng
mình sẽ gặp
lại nhau sau 40 năm đó.
Giữ gìn sức khỏe để còn gặp lại nhau nhé
Thân,
Tuyến
Ngô Tùng Lam
thì nhớ quá chứ, còn mấy bạn kia quên sạch.
Mai Ngọc Liên?
Có phải anh bạn ở bên Thủ Thiêm, rớt Tú Tài I, đi Đà Lạt ngay
khóa đầu?
Tớ chơi xì ke chừng vài
chục năm [cc
1970-1989, cỡ đó] khi “hồi phục”, mất hẳn 1 khoảng thời gian, không làm
sao nhớ
lại được.
May là còn
ngờ ngợ ra bạn!
Tháng tới, tớ
qua Cali, sẽ gặp nhau
Gửi lời chúc
tới gia đình và tất cả bè bạn
NQT
Đây là Phà
Thủ Thiêm, nhưng trong hình, không có con phà, mà chỉ có những con đò.
Thời gian trọ
học bên Thủ Thiêm, gần ngay bờ phía bên kia, hàng ngày đi học, Gấu dùng
phà, vì
có giá đặc biệt cho học sinh. Chỉ tới sau 1975, thì mới qua lại bằng
bến đò Thủ
Thiêm, nơi cột cờ Thủ Ngữ, vì phiá bên kia là khu xóm chích.
Quen Phạm Văn Hàm ở
bên đó, vì cùng trọ học. Hàm dân Hố Nai, sau học Luật, ra trường làm
lớn, ở Tòa
Sài Gòn. Anh nhớ nhiều về thời gian trọ học, Gấu gần như quên sạch.
Đầu tiên
người chủ trọ là 1 ông đàn ông, sau ông ngày nhường mối cho 1 người bà
con, có
chồng, nhưng chồng mất, có mấy đứa con, hình như đều là con trai.
Để căn chừng
người đàn bà có con không có chồng, là ông bố chồng. Hàm còn nhớ tên
tất cả, có
lần qua Cali, Gấu hỏi, anh trả lời, nhưng lúc này, Gấu chẳng nhớ.
Nhưng nhớ cái
kỷ niệm thật đáng nhớ về bà chủ trọ, kiêm nấu cơm trọ, cho 1 đám thanh
niên mới
lớn.
Gấu nhớ là,
đứa con trai của bà rất thông minh, và hay quấn quýt với Gấu. Một lần,
bế thằng
bé, Gấu chỉ trái bầu trên giàn, hỏi trái gì, nó nói, trái bầu, hỏi tiếp
trái bầu
giống cái gì, nó nghĩ và trả lời, giống cái chai, hỏi nữa, nữa, sau
cùng trở
lại với trái bầu, và khi Gấu hỏi trái bầu giống cái gì, nó khóa họng
Gấu bằng câu
trả lời:
-Giống 1 trái
bầu khác!
Tuyệt!
Gấu xoa đầu thằng bé khen
um lên, bà mẹ cũng mừng quá, cười quá là
cuời, cái cảnh
Gấu bế thằng bé, tung lên trời rồi ôm vào lòng, và hình như là bắt đầu
thương.... Gấu,
đúng vào lúc đó!
Hà, hà!
Phải đến
chót đời, thì Gấu mới hiểu được người đàn bà có chồng một mình nuôi con
này
thương… Gấu, khi nhớ lại một buổi trưa, nhà chẳng có ai, Gấu và thằng
bé đang
nô đùa, người đàn bà nói, ông cụ nhà tôi chửi tôi mê trai, Gấu ngạc
nhiên, hỏi
mê trai, mà mê ai chứ, người đàn bà mặt đỏ ửng, bẽn lẽn nói, mê... cậu.
Gấu khi đó, thực sự không
biết ba cái chuyện này, ngu thế.
Thành
thử nghe
xong, cũng… bỏ qua, chán thế!
Về già, tiếc hùi hụi!
|
|