|
24.7.2014
Vĩnh biệt nhà văn Nobel
Nadine
Gordimer
My hero: Nadine Gordimer by
Gillian Slovo
JM Coetzee
As a writer
and as a human being, Nadine Gordimer responded with exemplary courage
and
creative energy to the great challenge of her times, the system of
apartheid
unjustly and heartlessly imposed on the South African people. Looking
to the
great realist novelists of the 19th century as models, she produced a
body of
work in which the South Africa of the late 20th century is indelibly
recorded
for all time.
Như là 1 nhà văn và như là 1 con người, Nadine Gordimer đã đáp ứng bằng
1 sự can đảm mẫu mực và bằng 1 năng lực sáng tạo, trước sự thách thức
lớn lao của thời của bà, là chế độ phân biệt chủng tộc, bất công, không
tim, đặt để lên con người Nam Phi. Lấy những nhà tiểu thuyết hiện thực
lớn lao của thế kỷ 19 như là khuôn mẫu, bà sản xuất ra cả một bộ tác
phẩm trong đó cái xứ sở gọi là Nam Phi của hậu thế kỷ 20 đã được ghi
nhận, lưu trữ… cho mọi thời, đếch làm sao tẩy xoá đi được
nữa.
She liked to say that nothing is as
true as her fiction; it is certainly true that her fiction shone an
unwavering light on the human suffering of apartheid.
Bà thích nói, chẳng có gì thực hơn là
giả tưởng của tôi.
Quả thế thực, cái gọi là giả tưởng, tức những cuốn tiểu thuyết của bà,
chiếu rực lên, phận người thê lương dưới chế độ phân biệt chủng tộc.
World Cup
Số này, có mấy
bài viết OK. Cái tiệm sách báo Tẩy dẹp luôn rồi. Gấu, theo lời chỉ dẫn
của bà
chủ tiệm, tới 1 tiệm có bán báo Tẩy. Lèo tèo một hai tờ. Hỏi sách Tẩy
lắc đầu,
làm gì có thứ đó ở đây!
Thơ
Mỗi Ngày
ODE WRITTEN
IN 1966
No one is
the homeland. Not even the rider
High in the
dawn in the empty square,
Who guides a
bronze steed through time,
Nor those
others who look out from marble,
Nor those
who squandered their martial ash
Over the
plains of America
Or left a
verse or an exploit
Or the
memory of a life fulfilled
In the
careful exercise of their duties.
No one is
the homeland. Nor are the symbols.
No one is
the homeland. Not even time
Laden with
battles, swords, exile after exile,
And with the
slow peopling of regions
Stretching
into the dawn and the sunset,
And with
faces growing older
In the
darkening mirrors,
And with
anonymous agonies endured
All night
until daybreak,
And with the
cobweb of rain
Over black
gardens.
The
homeland, friends, is a continuous act
As the world
is continuous. (If the Eternal
Spectator
were to cease for one instant
To dream us,
the white sudden lightning
Of his
oblivion would burn us up.)
No one is
the homeland, but we should all
Be worthy of
that ancient oath
Which those
gentlemen swore-
To be
something they didn't know, to be Argentines;
To be what
they would be by virtue
Of the oath
taken in that old house.
We are the
future of those men,
The
justification of those dead.
Our duty is
the glorious burden
Bequeathed
to our shadow by those shadows;
It is ours
to save.
No one is
the homeland-it is all of us.
May that
clear, mysterious fire burn
Without
ceasing, in my breast and yours.
J.L. Borges
[Translated
by W. S. Merwin]
THE ORTHODOX
LITURGY
Deep voices
beg insistently for mercy
and have no
self-defense
beyond their
own glorious singing-though no one
is here,
just a disc spinning
swiftly and
invisibly.
One soloist
recalls the voice
of Joseph
Brodsky reciting his poems
before
Americans, unconvinced
by any sort
of resurrection,
but glad
that somebody believed.
It's
enough-or so we think-
that someone
believes for us.
Low voices
still sing.
Have mercy
on us.
Have mercy
on me too,
unseen Lord.
Adam
Zagajewski: Eternal Enemy
Note: Lâu lắm
mới vớ được 1 bài của Adam Zagajewski, hình như chưa dịch.
Tuyệt!
WAR
Old age in
the towns.
The heart
without an owner.
Love without
any object.
Grass, dust,
crow.
And the
young ones?
In the
coffins.
The tree
alone and dry.
Women like a
stick
of widowhood
across the bed.
Hatred there
is no cure for.
And the
young ones?
In the
coffins.
MIGUEL
HERNANDEZ
translated by Hardie St.
Martin
The Rag and Bone Shop of
the Heart:
A Poetry Anthology
Robert Bly,
James Hillman, and Michael Meade Editors
Chiến Tranh
Tuổi già
trong thành phố
Trái tim không
có chủ
Êu không đối
tượng
Cỏ, bụi, quạ
Thanh niên đâu
rồi?
Ở trong hòm
Cây trơ, khô
Đờn bà như cây
gậy
Của góa phụ,
bên kia giường
Thù hận làm
gì có thuốc trị
Thanh niên đâu?
Trong quan tài.
FAITH
The word Faith means when
someone sees
A dew-drop or a floating leaf, and knows
That they are, because they have to be.
And even if you dreamed, or closed your
eyes
And wished, the world would still be
what it was,
And the leaf would still be carried down
the river.
It means that when someone's
foot is
hurt
By a sharp rock, he also knows that
rocks
Are here so they can hurt our feet.
Look, see the long shadow cast by the
tree;
And flowers and people throw shadows on
the earth:
What has no shadow has no strength to
live.
CZESLAW MILOSZ
translated by Robert Hass
and Robert Pinsky with Renata Gorczynski
Niềm tin
Cái từ Niềm
Tin này thì có nghĩa
Khi kẻ nào đó
nhìn thấy một hạt sương rơi hay một cái lá bay la đà
Thì bèn phán
rằng, chúng thế đó, bởi là vì chúng phải như thế đó.
Và ngay cả nếu
bạn nằm mơ, hay nhắm mắt
Và ước muốn,
thế này, thế nọ, thì thế giới sẽ vưỡn cứ là thế giới
Và cái lá sẽ
trôi theo giòng nước, về nơi cuối trời!
Nó có nghĩa,
Khi chân bạn
bị đau,
Bởi một hòn đá,
Bạn biết liền
tù tì là hòn đá có đó là để chơi cho bạn 1 phát!
Coi kìa, cây đổ xuống thành cái bóng dài
Hoa & Em thả bóng xuống mặt đường
Cái gì không
có bóng thì đếch có sức lực để mà sống.
Gấu đọc bài thơ trên, thì bèn
nhớ ra bài
viết dưới đây:
Người Về
Câu thơ "Muời năm còn quen
ngồi một mình trong bóng tối" làm nhớ một chi tiết về một nhà thơ trong
nhóm Nhân Văn, [không nhớ là
ai, NMG có nhắc tới trong một số Văn
Học], ông quen ngồi một mình đến nỗi bóng in lên tường, thành
một cái vệt, thời gian không làm sao xóa mờ.
Nếu như thế, một người quen ngồi một mình trong bóng tối, cái bóng của
người đó in lên tường mới khủng khiếp làm sao.
Không ai có thể nhìn thấy nó, để mà hỏi thời gian, khi nào xoá mờ!
Man Booker
2014: more global, less diverse
Wider
eligibility criteria have given this year's longlist an Anglo-American
feel – but
it's also overwhelmingly white and male
Giải văn chương
Man Booker 2014: Toàn cầu hơn, bớt “linh tinh', nhưng đực và trắng
vưỡn lấn lướt
Longlist,
long faces
[Prospero]
1914-2014
Kẻ bất trung thực cuối cùng
The
Defense of a Jewish Collaborator
Tại sao mi sống
sót?
[Pourquoi avez-vous survécu?]
Còn mi thì
sao?
[Et vous?]
“Kẻ bất
trung thực cuối cùng”, là 1 phim đối trọng, contre-poids, với phim Lò Thiêu, Shoah, cũng của Lanzmann. Tên
phim cũng là nick của nhân vật chính trong phim, 1 tên Do Thái đã từng
cộng tác
với Nazi, một trong những Trưởng Trại của một ghetto kiểu mẫu, được
thiết lập để
trình ra cho nhân loại thấy, ở tù Nazi sung sướng như thế nào.
The specter
of Hannah Arendt haunts every film Claude Lanzmann has made, beginning
with his
nine-and-a-half-hour epic Shoah, released in 1985. Arendt believed that
the
Nazi experience could be understood, and had to be, since only through
understanding can “we come to terms with, reconcile ourselves to
reality, that
is, try to be at home in the world.” This would mean reconciling
ourselves, in
some sense, even to the Holocaust. “To the extent that the rise of
totalitarian
governments is the central event in our world,” she once wrote, “to
understand
totalitarianism is not to condone anything, but to reconcile ourselves
to a
world in which these things are possible at all.”
Lanzmann
refuses to understand the Holocaust, let alone make peace with the
world that
made it possible. A short essay only three paragraphs long is his most
powerful
retort to Arendt:
All one has
to do, perhaps, is pose the question simply, and ask, “Why were the
Jews
killed?” This shows its obscenity. There is an absolute obscenity in
the
project of understanding. Not understanding was my iron law during all
the
years of preparing and directing Shoah: I held onto this refusal as the
only
ethical and workable attitude possible…. “Hier ist kein Warum”: this,
Primo
Levi tells us, was the law at Auschwitz that an SS guard taught him on
arriving
at the camp: “Here there is no why.”
Bóng
ma Hannah Arendt ám ảnh mọi phim của Claude Lanzmann, bắt đầu với sử
thi Lò Thiêu dài 9 tiếng
rưỡi, ra lò năm 1985. Arendt tin rằng
kinh nghiệm Nazi có thể hiểu được,
và sự tình phải như thế, bởi là vì, chỉ thông qua hiểu biết chúng ta
mới có thể
xoay sở được với thực tại , nghĩa là, cố “ở nhà” với thế gian, coi nó
là nhà của
mình.
Theo nghĩa đó hãy cố mà sống, ngay
cả với Lò Thiêu…
Lanzmann
đếch chịu thế, hà, hà!
Amos Oz cho
biết, khi coi phim Shoah, une
histoire orale de l’Holocauste, của đạo diễn Claude Lanzmann, một
trong những xen rất ư là bình thường, chẳng có tính điện ảnh, nhưng bám
chặt vào ký ức ông. Đó là xen, kéo dài chừng 15 phút, chiếu cảnh
Hilberg - ngồi trong căn phòng xinh xắn, tại nhà của ông, ở Vermont,
[người ta nhìn thấy, qua cửa sổ, bên ngoài cây cối, tuyết, bên trong,
những cuốn sách, ngọn đèn bàn] - giải thích cho nhà đạo diễn Claude
Lanzmann, nội dung một tài liệu đánh máy, tiếng Đức, chừng 15 dòng, gồm
những dẫy số.
Một “ordre de route”, (lệnh chuyển vận) của chuyến xe lửa số 587, do
Gestapo Berlin,
chuyển cho Sở Hoả Xa Reich, “lưu hành nội bộ”.
Một bí mật nằm ở nấc thang chót, của bộ máy giết người.
Hilberg giải thích: “Chìa khóa tâm lý của toàn thể chiến dịch, là:
không bao giờ được sử dụng những từ có ý nghĩa hoàn toàn rõ rệt. Tối
giản tối đa, chừng nào còn có thể tối giản, ý nghĩa của chiến dịch sát
nhân, đưa người tới Lò Thiêu. Ngay cả dưới mắt của chính những tên sát
nhân.”
Thú thực, trước đây, nói gì thì nói, Gấu vẫn không hiểu tới tận nguồn
cơn, tại làm sao mà lại gọi "đi tù" là "đi học tập cải tạo", tại sao
lại dùng một mỹ từ như thế, cho một từ bình thường như thế, như thế,
như thế... cho đến khi đọc Oz. (1)
CHÚC
MỪNG PVH
Gấu đã tính
mở ra cuốn tiểu thuyết đầu tiên vào cuối đời của mình, bằng những hồi
ức về quãng
đời quen bạn Hàm, sau khi đậu Trung Học, được bà cô ở bên Pháp viết
thư, ra lệnh,
hãy học tiếp, tháng tháng ta gửi tiền về. Và thế là Gấu bèn bye bye
cái khu
Chợ Vườn Chuối, sang Thủ Thiêm đóng vai một học sinh thực thụ, không
phải vừa
đi học, vừa làm bồi bàn nơi nhà hàng Chả Cá Thăng Long, ở đầu đường
Phạm Đăng Hưng,
kế bên cầu Sài Gòn.
Tuy nhiên,
đúng vào thời gian này, thì thiên hạ bèn mở ra cái vụ kỷ niệm 60 năm di
cư, thế
là Gấu bèn tự bảo mình, làm sao mi không “bắt đầu bằng bắt đầu”, để cho
cuốn tiểu
thuyết của mi có tí mùi… lịch sử?
Hà, hà!
Hồi ức di cư
của Gấu chắc chắn là bảnh nhất, so với ba cái lăng nhăng Gấu vừa mới
lướt qua
trên net. Chắc chắn như vậy, vì ba thứ hồi ký đó, thì toàn của những
người ra
đi vào lúc sớm sủa, trong khi, Gấu, không hề có ý định di cư, và chỉ đi
vào lúc
sắp sửa hết hạn 300 ngày dành cho Hải Phòng, cánh cửa Miền Bắc sẽ vĩnh
viễn
đóng sập xuống, cho đến ngày 30 Tháng Tư, 1975, nó lại mở ra và nuốt
trọn Miền
Nam vào họng nó!
22/01/2010
Tôi được đọc
bài thơ "Biển" của ông trong Tin Văn, nó làm cho tôi thấy buồn quá.
Xin gởi tặng
ông hình của "tôi" bên bờ biển, như một lời chào.
Trang Tin
Văn của ông thật bổ ích và thú vị. Chỉ có điều tôi không biết cái
index, map của
website Tin Văn như thế nào, vì trong "Nhật Ký" chỉ lưu từ 2003 đến
2007, mong ông chỉ cho. Tôi nhiều khi bị lạc vì các ngã ba ngã tư trong
bài,
nhưng lại bắt gặp thêm nhiều kỳ thú.
Chân thành cảm
ơn ông.
H/A
Mới
đó mà 4 niên rồi!
Take Care
Biển
Buổi
chiều
đứng
trên bãi Wasaga
Nhìn hồ
Georgian
Cứ
nghĩ thềm
bên kia là quê nhà.
Sóng
đẩy
biển
lên cao, khi xuống
kéo theo mặt
trời
Không gian bỗng
đỏ
rực
rồi
đêm tối
trùm lên tất
cả
Cát
ở
đây được
con người
chở
từ
đâu tới
Còn ta bị
quê hương
ruồng
bỏ
nên phải
đứng
ở
chốn
này
Số
phận
còn thua hạt
cát.
Hàng
cây trong công viên bên đường
nhớ
rừng
Cùng thi nhau vươn
cao như
muốn
trút hết
nỗi
buồn
lên trời
Chỉ
còn ta cô đơn
lẫn
vào đêm
Như
con hải
âu già
Giấu
chút tình sầu
Vào
lời
thì thầm
của
biển...
Bolano
Suốt
từ đầu, họ nói chuyện bằng tiếng
La Tinh. Bây giờ, họ chuyển qua
tiếng Đức.
Borges vẫn bị
chê là không màng đến đời thường, mà chỉ mân mê cái vĩnh cửu. Nhưng
theo Gấu, mấy
bài của ông về Nazi mà chẳng khủng sao. Sư Phạm Học của hận thù, Mít
chết vì cú
này. Cả một miền đất chăm chăm trồng người bằng cách dậy con nít hận
thù, từ
khi vừa
mới chui ra khỏi… bụng mẹ, trong khi Miền
Nam đặt chính trị ra bên ngoài trường học, kể cả ở Đại Học, một đại học
tự trị,
nhà nước đi chỗ khác chơi. Lũ khốn kiếp nằm vùng quá rành điều này.
Cái dòng trên
cho thấy Borges không hề bỏ qua “đương thời”, đời thường: Trong ngôn
ngữ La
Tinh, thì có phép lạ, trong ngôn ngữ Đức, chỉ có Lò Thiêu.
Chỉ 1 câu văn thôi,
thế mới ghê!
Tin Văn sẽ post cái truyện
ngắn "Bông Hồng" để cho... Gấu Cà Chớn
đọc lại,
vì trang Tin Văn đúng là…. BHD, sống
lại từ tro than cuộc chiến Mít!
Hà, hà!
Trong
cuốn này, có 1 bài ngắn, đọc trên subway, viết về “Bông Hồng của
Paracelsus”, của
Borges. Trên TV đã giới thiệu truyện này rồi, khi tưởng niệm Nguyễn
Nhật Duật.
Truyện có 1
chi tiết, ít ai nhận ra, GCC tò mò đọc. Bolano cũng không nhận ra,
và cách ông đọc truyện đó khác hẳn GCC. (1)
Note:
Do đọc loáng thoáng, cóc nhẩy, trên subway trên đường về nhà, Gấu viết
bậy:
Bolano
không hề bỏ
qua chi tiết quan trọng trên. Ông còn nhấn mạnh cái từ “when” ở trong
truyện "Bông
Hồng của Paracelsus".
Khi nào.
Từ này quan trọng hơn chi tiết về ngôn ngữ “La
Tinh vs Đức”.
“Khi
nào”, với Adorno, là “sau” Lò Thiêu, thí dụ.
Tin Văn post
bài viết của Bolano, về "Bông Hồng của Paracelsus", và sorry abt that!
Trong
Ngoặc
Of what is
lost, irretrievably lost, all I wish to recover is the daily
availability of my
writing, lines capable of grasping me by the hair and lifting me up
when I'm at
the end of my strength.
ROBERTO
BOLANO, Antwerp
PREFACE:
SELF-PORTRAIT
I was born
in 1953, the year that Stalin and Dylan Thomas died. In 1973 I was
detained for
eight days by the military, which had staged a coup in my country, and
in the
gym where the political prisoners were held I found an English magazine
with
pictures of Dylan Thomas's house in Wales. I had thought that Dylan
Thomas died
poor, but the house looked wonderful, almost like a fairy tale cottage
in the
woods. There was no story about Stalin. But that night I dreamed of
Stalin and
Dylan Thomas: the two of them were at a bar in Mexico City, sitting at
a little
round table, a table for arm wrestling, but instead of wrestling they
were
competing to see who could hold his liquor better. The Welsh poet was
drinking
whiskey and the Soviet dictator was drinking vodka. As the dream went
on,
however, I was the only one who seemed to feel queasier and queasier,
ever
closer to the verge of nausea. Well there you have the story of my
birth. As
for my books, I should say that I've published five collections of
poetry, one
book of short stories, and seven novels. Almost no one has read my
poems, which
is probably a good thing. My books of prose have some loyal readers,
probably
undeservedly. In Consejos de un discipulo de Morrison a un fandtico de
Joyce
[Advice from a Morrison Disciple to a Joyce Fanatic] (1984), written in
collaboration
with Antoni Garda Porta, I talk about violence. In The Skating Rink
(1993), I
talk about beauty, which is fleeting and usually meets a disastrous
end. In
Nazi Literature in the Americas (1996), I talk about the pathos and
grandeur of
the writing career. In Distant Star (1996), I attempt a very modest
approximation of absolute evil. In The Savage Detectives (1998), I talk
about
adventure, which is always unexpected. In Amulet (1999), I try to give
the
reader the impassioned voice of a Uruguayan woman who should have been
born in
ancient Greece. I omit my third novel, Monsieur Pain, whose plot is
indecipherable.
Though I've lived in Europe for more than twenty years, my only
nationality is
Chilean, which in no way prevents me from feeling deeply Spanish and
Latin
American.
In my life
I've lived in three countries: Chile, Mexico, and Spain. I've worked at
every
job in the world, except the three or four that anybody with a little
pride
would turn down. My wife is Carolina Lopez" and my son is Lautaro
Bolafio.
They're both Catalan. In Catalonia, I learned the difficult art of
tolerance.
I'm much happier reading than writing.
Borges
& Paracelsus & Rose
I tell you that the rose
is eternal, and that only
its appearances may change.
The stranger says that he's ready to endure every necessary hardship
alongside Paracelsus, but before he takes the final step he needs some
proof. Paracelsus, troubled, doesn't ask what proof he demands, but when
he wants to see this proof. Immediately, the stranger answers. "They
had begun their discourse in Latin; they now were speaking German,"
writes Borges. "You are famed," says the stranger, "for being able to
burn a rose to ashes and make it emerge again, by the magic of your
art. Let me witness that prodigy. I ask that of you, and in return I
will offer up my entire life."
The Rose of
Paracelsus
Người trẻ tuổi
cầm bông hồng trên bàn, và ném vào lửa. Một khắc, tựa thiên thu, trôi
qua; anh
ta chờ đợi phép lạ.
Vị đại sư ngồi
bất động. Ông nói, bằng một giọng giản dị:
"Tất
cả những nhà vật lý, dược sĩ tại
thành phố Basel này nói tôi là đồ dởm. Có lẽ họ nói đúng. Có tro than
vốn xưa
là bông hồng, sẽ chẳng còn là bông hồng nữa."
Người
trẻ tuổi cảm thấy xấu hổ. Anh chỉ là một
kẻ lén lút xâm nhập nhà vị thầy, vậy mà còn ép buộc ông thú nhận, huyền
thuật của
ông chỉ là đồ dởm.
Anh ta quì
trước vị đại sư và nói:
"Điều
tôi làm thật không thể tha thứ được. Tôi thiếu niềm tin, trong khi
Thượng Đế
đòi hỏi, chỉ một điều, tin tưởng. Hãy cho tôi được tiếp tục, nhìn tro
than. Tôi
sẽ trở lại, khi nào mạnh mẽ hơn, và sẽ là đệ tử của Ngài, và ở cuối Con
Đường,
tôi sẽ nhìn thấy bông hồng".
Anh ta nói với
một niềm đam mê thực sự, nhưng đam mê này chỉ là lòng thương hại vị
thầy già.
Ta là ai, hỡi Johannes Grisebach này? Ta là kẻ, bằng bàn tay thiêng
liêng ném
bông hồng vào lửa, đã khám phá ra rằng, đằng sau mặt nạ, chẳng có một
người
nào.
Để lại đống
vàng có thể là một hành động làm cho những kẻ nghèo đói "bực mình",
anh ta lượm tất cả lên. Vị đại sư tiễn khách ra tới cửa, và nói anh
luôn luôn
là vị khách quí tại nơi đây, nếu trở lại; nhưng cả hai đều biết rõ một
điều, chẳng
bao giờ còn có lần thứ hai.
Vị đại sư lại
cô đơn một mình. Trước khi thổi tắt ngọn lửa, ông trút tí tro than từ
lòng bàn
tay này qua lòng bàn tay kia, lẩm nhẩm một từ đơn độc. Bông hồng xuất
hiện trở
lại.
Note: Nguyên tác, đăng
trên NYRB:
The Rose of
Paracelsus
Jorge Luis
Borges
August 13,
1998 Issue
GCC đọc lần đầu
ở số báo này, ghi a new story. NTV lắc đầu, nói,
đọc rồi!
Tuy
nhiên, đây quả là 1
truyện được viết muộn của Borges. Ở đây, có bản dịch khác, cùng nguyên
tác tiếng TBN:
The first time translation from Spanish into English of a later story
by Jorge Luis Borges, together with brief notes from the translator. (2)
Nghe nói đã được Diễm Châu dịch qua tiếng Việt, ở
đây
NYRB điểm cuốn
tiểu sử mới ra lò WB: A Critical Life
Note: Bài này, Gấu tính
dịch, nhưng chưa làm sao dịch được, chán thế!
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Đô
Thị vs Bất Hạnh
Trong lịch sử
văn học Việt Nam hiện đại, từ đầu thế kỷ 20 đến nay, có lẽ không có
giai đoạn
nào chịu nhiều bất hạnh như giai đoạn từ 1954 đến 1975 ở miền Nam. Theo
nhà văn
Võ Phiến, đó là nền văn học được đánh dấu bằng hai cuộc di cư: một,
cuộc di cư
của gần một triệu người từ Bắc vào Nam; và hai, cuộc vượt biên ồ ạt của
cả triệu
người hoặc trên đường bộ, băng qua Campuchia hoặc trên biển cả với cả
mấy trăm
ngàn người bị chết hoặc do hải tặc hoặc do bị đắm thuyền.
Chưa hết.
FB Thầy Cuốc
Một nền văn
học sống sót hai cuộc lưu vong, di cư 1954 & vượt biển 1975, cùng
với biết
bao tai ương của chúng, sống sót một cuộc phần thư, sống sót hội nhập
nơi quê
người…. liệu
có thể gọi là 1 nền văn học… bất hạnh?
Một nền văn
học của cả một miền đất đất, bị huỷ diệt, cho đến bây giờ, vẫn thường
xuyên được khai quật [những bài viết của Gấu, nhờ vậy mà lại có lại
được], liệu có
thể gọi là 1 nền văn học... đô thị?
Với GCC, cả
hai nhận xét, đánh giá như trên thì đều…. cứt đái như nhau!
Lại nhớ, hồi
mới ra ngoài này, thấy ông sĩ quan nhà văn Ngụy hăm he “save” tên lính
Ngụy giữa
những vòng dây kẽm gai của lịch sử, bèn ngứa miệng lèm bèm, bị ông ta
thù cho đến
tận giờ!
Brodsky
rất tởm cái trò vạch lưng cho người ta coi vết thương, phán, làm đếch
gì có thứ thi sĩ... nạn nhân.
GCC bèn
làm tới, làm đéo gì có thứ văn chương... bất hạnh?
NQT
Võ Phiến, nhà văn Bình Định
Những độc giả say mê Võ Phiến, những tác phẩm
đầu tay của ông như Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Thác Đổ Sau Nhà... chắc
chắn là nhận ra khí hậu Zweig ở trong đó. Nhân vật của Võ Phiến, đều
như bị con quỉ của sự tò mò hớp hồn, dẫn dụ, và khi đã hoàn hồn, có vẻ
như nhờm tởm thế nhân: cô gái trong Thác Đổ Sau Nhà, sau gặp lại người
tình của một đêm, đã ngạc nhiên không thể tưởng tượng được tại sao mình
lại đã có lần ngã vào một con người thô kệch, cù lần đến như thế! (Vì
không có văn bản trong tay, tôi viết lại theo trí nhớ, ở đây là những
cảm giác còn giữ được, khi đọc Võ Phiến hồi học trung học. Không hiểu
đọc lại, những chi tiết có đúng, và cảm nghĩ có thay đổi hay không).
Những nhân vật tiểu thuyết hiện đại đều bước
ra từ cái bóng của Don Quixote; ta có thể lập lại, với những nhân vật
của Võ Phiến: họ đều bước ra từ Người Chơi Cờ. Tôi không hiểu, ông đã
đọc nhà văn Đức, trước khi viết, nhưng khí hậu 1945, Bình Định, và một
Võ Phiến bị cầm tù giữa lớp cán bộ cuồng tín, đâu có khác gì ông B.
(không hiểu khi bị bắt trong vụ chống đối, Võ Phiến có ở trong tình
huống đốt vội đốt vàng những giấy tờ quan trọng...). Nhân vật "cù lần"
trong Thác Đổ Sau Nhà, đã có một lần được tới Thiên Thai, cùng một cô
gái trong một căn lều, giữa rừng, cách biệt với thế giới loài người, có
một cái gì thật quen thuộc với đối thủ của ông B., tay vô địch cờ tướng
nhà quê vô học, nhưng cứ ngồi xuống bàn cờ là kẻ thù nào cũng đánh
thắng, đả biến thiên hạ vô địch thủ?
"Nhưng đây là con lừa Balaam", vị linh mục
nhớ tới Thánh Kinh, về một câu chuyện trước đó hai ngàn năm, một phép
lạ tương tự đã xẩy ra, một sinh vật câm đột nhiên thốt ra những điều
đầy khôn ngoan.Bởi vì nhà vô địch là một người không thể viết một câu
cho đúng chính tả, dù là tiếng mẹ đẻ, "vô văn hoá về đủ mọi mặt", bộ
não của anh không thể nào kết hợp những ý niệm đơn giản nhất. Năm 14
tuổi vẫn phải dùng tay để đếm.
Cuộc đụng độ giữa nhà vô địch với ông B. đúng là khí hậu của cả thế kỷ
được dồn nén vào trong một ván cờ!
Hãy so sánh với sự thất bại của hầu hết những nhân vật của Võ Phiến,
trước cuộc đời: những ông Ba Đồng Thời, Bốn Thôi...
"Vết thương không thể lành", Levi viết trong
Những Kẻ Chết Đuối và Những Người Được Cứu Thoát. Lò Thiêu địa ngục thứ
nhất, hậu Lò Thiêu, địa ngục thứ nhì. Tadeusz Borowski, tác giả Quí Bà
Và Quí Ông, Đường Này Tới Lò Thiêu, thoát cả hai lò thiêu Auschwitz và
Dachau, năm 1951, ông chưa tới 30 tuổi, ba ngày sau khi cô con gái chào
đời, ông đã trở lại nơi lò thiêu ngày xưa: tự tử. Nhà thơ Paul Celan:
tự tử. Còn nhiều nữa...
Người ta nói tới không khí hiu hắt, cô đơn trong văn phong của Võ
Phiến. Phải chăng đây cũng là một tình trạng "không thể lành", sau kinh
nghiệm 1945? Tính cách bất toàn, luôn bám lấy một tư tưởng cố định,
idée fixe, coi thường chính mình, của những nhân vật Võ Phiến? Nếu sau
này, Võ Phiến có giọng viết như nói, như trò chuyện thoải mái, tôi nghĩ
đó là do ảnh hưởng Miền Nam. Võ Phiến thời đầu
không có giọng văn này.
Có thể có người cho rằng người viết quá đáng, từ một văn phong hiu hắt,
cô đơn suy ra hậu quả một thời gian vào bưng? Nhưng hãy coi trường hợp
Tam Ích, một Mác-xít, cuối cùng tự tử. Hãy coi trường hợp Văn Cao, sau
"Mùa Thu", đành làm một người câm, người què gánh tội. George Steiner
còn đi xa hơn, khi khẳng định: so với phi nhân, văn chương nghệ thuật
là vứt đi, kịch Racine
là cái thá gì, so với [ngục] Bastille, thơ Mandelstam chịu nổi một giờ
của Stalin? (The flowering of the humanities is not worth the
circumstance of the inhuman. No play by Racine is worth a Bastille, no
Mandelstam poem an hour of Stalin) (5). Nhìn như thế mới thấy vinh
quang và bất hạnh của Võ Phiến, nhà văn Bình Định. Nên nhớ, ông đã có
một người em theo Cộng Sản và đã tử trận. Bạn văn cùng một thời Bách
Khoa với ông: Vũ Hạnh. Theo như người viết được biết, "phía bên kia" đã
từng móc nối, kéo ông về với "Cách Mạng".
Vết thương không thể lành, nhưng con người
vẫn cố chữa trị, làm sao không? Giọng văn bỡn cợt ảnh hưởng Maurois,
nói trạng ảnh hưởng miền Nam. Nhưng Maurois không
phải là người học trò duy nhất, hiểu thầy nhất của Alain. "Học trò
cưng"của ông, phải là Simone Weil. Như Zweig, bà tự huỷ bằng cách tuyệt
thực vào năm 1943. Trong bài viết "Thánh Simone - Simone Weil" (trong
No Passion Spent, nhà xb Yale
University,
1996), G. Steiner cho rằng khí hậu thế kỷ của chúng ta sẽ không thể
hiểu được nếu bỏ qua phần đóng góp của Simone de Beauvoir, Hannah
Arendt, nhưng trên hết vẫn là Weil. Trong cuộc thoại với những người
chết (những nghiên cứu về những người như Weil), chúng ta cần đi sâu
vào một Dostoevsky, và lòng từ bi bác ái của một vị thánh, mới có thể
hiểu được một người như Weil. Bà đã từng đưa ra nhận xét, ngay phút đầu
tiên những binh đoàn Đức Quốc Xã tiến vào Paris: đây là một ngày trọng đại, cho
Đông Dương (cho tất cả những dân tộc bị Pháp đô hộ), thấy hết sự thuần
khiết lạnh lùng, của một câu châm ngôn khắc kỷ. Trong lúc dân tộc của
bà đi vào lò thiêu, Weil đã từ chối rửa tội, vì "Ca-tô-giáo La-mã vẫn
quá Do-thái" (Roman Catholicism was still too Jewish).
Khi đọc Alain, Võ Phiến không nhìn ra một
Weil ở phía sau. Do đó, ông không đọc được Đỗ Long Vân, một người cũng
say mê Alain. Cuộc sống ẩn dật, từ chối mọi đặc quyền của Đỗ Long Vân
(suốt đời sống ẩn dật, khi bị bắt đi trình diện nhập ngũ đã không trưng
bằng cấp, giấy tờ chứng minh giáo sư đại học, bằng lòng làm binh
nhì...) có thể bị coi là không bình thường, nhưng chưa trầm trọng như
Weil: ngay cả người thân của bà, André Weil, cũng kết luận, tính khí
của bà vượt quá mức bình thường. Còn tướng de Gaulle nói thẳng thừng:
người đàn bà này khùng.
Đỗ Long Vân, theo tôi, không chọn con đường tự huỷ, có lẽ vì đã đọc,
rất mê, và đã từng viết về Kim Dung, và đã nhận ra, chỉ ở trong thế
rỗng ruột (hư trúc), mới giải được ván cờ ma quái. Hư Trúc (nhân vật
trong chuyện chưởng của Kim Dung) khi đi nước cờ, không hề nghĩ chuyện
thua thắng: đấy mới là vấn đề. Võ Phiến khi đọc Zweig, không thấy
Dostoevsky, không nhận ra sự thiếu sót của phân tâm học, muốn đơn giản
con người như một sinh vật bị bịnh. Theo như tôi được biết Võ Phiến
không chịu được những trào lưu "thái quá", không phải chỉ về tư tưởng,
mà cả ở trong ngôn ngữ. Có vẻ như ông không chịu nổi thơ dịch. Không
chịu nổi Thanh Tâm Tuyền.
Võ Phiến rời Việt Nam
ngay 1975, ông không có "cơ hội" ở lại chịu chung với cả miền Nam
những cay đắng khổ nhục sau đó. Ở lại là chết, nhưng do bỏ đi "sớm",
ông không cảm nhận được nỗi vinh quang và nhục nhằn của kẻ ở lại: một
cách nào đó, ông không cảm nhận sự thực, về "thất bại trong chiến
thắng", đối với những người Cộng Sản, và do đó ông không "trực giác" cơ
hội thống nhất đất nước, không phải theo kiểu chiếm đoạt Miền Nam: chỉ
ở trong nhục nhã cay đắng của Miền Nam thất trận, chúng ta mới có thể
hiểu những năm tháng ghê rợn cả một miền đất sống dưới tai trời ách
nước là chủ nghĩa Cộng Sản; và ôm lấy những đồng bào ruột thịt Miền Bắc
(6).
Đây là một tất yếu lịch sử. Những chuyện Bắc
Tiến, giải phóng Miền Bắc, những ngày 1954 chỉ để nói cho vui, để lên
tinh thần... tại sao vậy? Bởi vì nếu coi ngôn ngữ mới là căn phần của
con người, văn chương Miền Nam không hề mang chất đế
quốc, không hề nhắm tới quyền lực. Từ một văn chương như thế làm sao có
thể đi xâm chiếm Miền Bắc, cho dù là để giải phóng?
Văn Học Tổng Quan của Võ Phiến, đoạn nói về
nhà văn Miền Bắc thoắt chốc vào Nam ra Bắc, dưới những bút hiệu khác
nhau, rồi giả dụ Miền Nam cũng làm như vậy, là quá tếu và không hiểu cả
hai miền, còn hạ giá (hay quá đề cao?)nhà văn Miền Nam.
Bởi vì, văn chương Miền Nam, bản chất của nó, không mắc mớ gì đến tinh
thần chiếm đoạt, tranh ăn thua, còn Miền Bắc, vẫn nằm trong dạng khai
hoá, vẫn tự coi như là quyền năng chính thống, theo kiểu, cần dậy cho
mày một bài học, và phải trả bằng xương máu, bằng đất đai: Đấy là ý
nghĩa của nhiệm vụ khai hoá! Một cách nào đó, nếu chúng ta nhìn ra
tương quan dây mơ dễ má, giữa Cách Mạng Pháp, và chủ nghĩa Cộng Sản,
cùng lúc chúng ta nhận ra tính thực dân của văn học hiện thực xã hội
chủ nghĩa: đây vẫn là một thứ văn chương quyền lực. Nhìn theo cách thế
đó, chúng ta còn nhận ra tính giai đoạn của dòng văn chương phản kháng
ở trong nước. Nó phải qua đi, để lộ ra con người với ngôn ngữ, những
lời nói lành lặn của nó...
"Tại sao ta không thể yêu, những gì chúng
yêu, nếu chúng chiếm được cuộc đời, ta đành chọn hư vô", mê cung dành
cho nhân vật trong Cát Lầy của Thanh Tâm Tuyền là vậy. Đừng nhìn thơ tự
do, dòng văn chương Sáng Tạo, Văn Chương Kinh Nghiệm Hư Vô (Huỳnh Phan
Anh), như là một "cái đuôi" của dòng văn chương hiện sinh Pháp. Chúng
là những con chim báo bão, cho một hư vô huỷ diệt, của những trại tù
sắp tới... Khi bị những nhà phê bình Miền Bắc "tra hỏi" (Trong khi họ
xây dựng miền bắc xã hội chủ nghĩa, những nhân vật tôi mọi nô lệ này đi
đâu?) tác giả Bếp Lửa đã "nhẹ nhàng" yêu cầu, hãy đặt những câu hỏi đó
ra cho chính các ông. Nên nhớ, những nhà văn Miền Nam,
những tác phẩm "chống Cộng" của họ chỉ có, khi "bị đòn": Giải khăn sô
cho Huế, Địa Ngục Có Thực, Mùa Hè Đỏ Lửa, Vòng Đai Xanh... Ngay cả Võ
Phiến cũng vậy; sợ Cộng Sản, sợ mất Miền Nam quá ông mới la làng, còn
nhẩn nha được là ông lại nghiên cứu chiều sâu con người, dò tìm cội rễ
của một bài chòi!
Chúng ta đã lầm một cách thê thảm, Mac Namara
nói vậy, không đúng mà cũng không sai: người lính Việt Nam Cộng Hòa
không thua trên chiến trường, mà thua vì tính người: họ chưa bao giờ
coi người lính Miền Bắc là kẻ thù tuyệt đối.Họ không hề được trang bị
bằng một thứ văn chương quyền lực.
Nhìn theo cách đó, chúng ta mới thấm được
những dòng thơ "thiền", giọng điệu cảm khái, tráng sĩ "biên đình" của
những Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy Yên... hay những lời ca "đồn anh đóng bên
rừng mai, nếu mai nở làm sao biết mùa xuân đã về". Đánh giặc, súng nổ
ầm ầm, thần chết hỏi thăm từng giây, từng phút, bất cứ lúc nào, nhưng
cứ hở ra được một chút là lại "thiền"! Vinh danh người lính Việt Nam
Cộng Hòa là đúng, chẳng có gì chuế cả, nhưng cố vực họ dậy, giữa vòng
dây oan nghiệt của lịch sử là bi thảm hoá một huyền thoại, là tự hài
lòng với nỗi bi thảm: nạn nhân của phi nhân. Thua trận, nhục nhã thật,
nhưng thà rằng thua, mà vẫn giữ được "con người"! Làm người lính thiền,
chắc chắn là hơn làm đao phủ thiền! Thi sĩ không bao giờ là nạn nhân
(J. Brodsky). Mỗi người lính, như Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy Yên, Khoa
Hữu, Cao Thoại Châu, Luân Hoán... là một nhà thơ, người lính bảo vệ
ngôn ngữ, và trong khi bảo vệ ngôn ngữ, chống lại những điều dối trá,
phi nhân, họ bảo vệ con người. Nhà văn một kẻ sống sót, là vậy.
Blood
Brothers. Một chiến thắng bị trù eỏ, nguyền rủa [Cursed Victory: A
History of
Israel and the Occupied Territories].
Bài điểm sách trên The Economist
làm Gấu
liên tưởng tới chiến thắng của Bắc Kít:
Chúng ra sinh ra đời để thực hiện nó,
như là 1 lý tưởng kéo dài suốt lịch sử dựng nước của giống Mít, đến
đúng ngày 30 Tháng
Tư, 1975, chiến thắng hoàn toàn, thống nhất đất nước, tới lúc đó, lời
nguyền mới
biến thành hiện thực.
Một đứa con nít như Thầy
Cuốc, đậu cái bằng tú tài đúng vào
những ngày 30 Tháng Tư 1975, tức là cái bằng của VC, làm thầy dậy học
cho chế độ
đó, biết cái gì về văn học Miền Nam trước 1975?
Đó là sự thực.
Chỉ nội cái tên “bất
hạnh” gán cho nền văn học đó, đã là 1 sỉ nhục nặng nề rồi. NQT
Note: Bài điểm sách, TV sẽ
post liền, vì phải scan từ báo giấy, do hết credit đọc free!
“Nền tân nhạc
Việt Nam có nhiều tác phẩm nghệ thuật nhất, và đáng nhớ nhất vì còn
được hát
ngày nay, là ở miền Nam, trong giai đoạn 1954-1975. Trước đấy thì chưa
có và
sau đó thì không còn...”
Quỳnh Giao (1)
Theo GCC, câu viết của QG
có thể áp dụng ở đây:
Bất
hạnh đúng ra là phải dành cho đám nhà văn VC, "bất hạnh", vì không được
viết
theo
con tim, dưới ngọn đèn lương tâm, thay vì vậy, dưới ánh sáng của Đảng,
với lương tâm mù, hay đám
VC nằm vùng [đám này thì đại bất hạnh].
Gấu bỗng nhớ đến "giai
thoại' về cà cuống và bọ hung, một, mang
túi tinh dầu thơm, một, thúi.
Bỏ cái túi thơm/thúi đi,
thì chúng như nhau. Rang/chiên lên, nhậu, như
nhau.
Thầy
Kuốc, chắc là không biết giai thoại này, nên.... lộn.
|
|