Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 


12.3.2013



*

Bếp Lửa Ottawa


Romania

Herodotus once said that
Our ancestors, the Tracs
Might have become all-powerful
If each did not against the other fight.

But for them, there was never
a desire for unity.
Gods in vain have told them to relent.
They have fought, and fight again.

We, descendants of their blood,
Have walked their roads for centuries.
But never, and nowhere
Have we found the healing flowers.

To argue is our way
as their cursed schemes remain.
We are wedded to the conflicts
That Herodotus knew well.

ALEXANDRU CETATEANU

Asia Literary Review. Winter 2009

ALEXANDRU CETATEANU was born in Romania, which he escaped during the Ceausescu regime to Canada where he now lives.
He edits Destine Literare and runs Scricorii Romani, an association of expatriate Romanian writers. Cerateanus published works include A Romanian in Canada (Helios, 1995), Canada- Country of Hyperboreans (Amim Ivireanul/Edition Langues et Cultures Européennes, 2004), and A Foreigner in America (Junimea, 2007).
ALEXANDRU CETATEANU gốc Romania, bỏ chạy quê hương, chuồn qua Canada.

Xứ Mít

Sử gia Ngô Sĩ Liên có lần phán
Giống Mít đúng ra là
Đả Biến Thiên Hạ Vô Địch Thủ
Nếu chúng đừng đâm chém lẫn nhau

Nhưng với lũ Mít
Chẳng hề có chuyện kết hợp thành 1 khối
Thần Thánh năn nỉ chúng hoài
Hãy tha thứ cho nhau, hãy thư thả,
Đừng giết nhau dữ quá,
Ít ít thì còn được!
Chúng đâu có chịu nghe.

Chúng ta, lũ hậu duệ của Con Rồng Cháu Tiên,
Không thể ở với nhau đời đời được
Có cái máu làm thịt lẫn nhau từ thời dựng nước
Và cứ tiếp tục con đường máu của tổ tiên để lại hoài

Tìm hoài, tìm hoài,
Chẳng bao giờ, và chẳng nơi đâu,
Những bông hoa chữa lành
Vết thương hình chữ S

Cái Xứ mình nó thế
Sử gia họ Ngô biết rất rành điều này
Hà, hà!

In the Library

For Octavio   

There’s a book called
”A Dictionary of Angels.”
No one has opened it in fifty years,
I know, because when I did,
The covers creaked, the pages
Crumbled. There I discovered

The angels were once as plentiful
As species of flies.
The sky at dusk
Used to be thick with them.
You had to wave both arms
Just to keep them away. 

Now the sun is shining
Through the tall windows.
The library is a quiet place.
Angels and gods huddled
In dark unopened books.
The great secret lies
On some shelf Miss Jones
Passes every day on her rounds.

She’s very tall, so she keeps
Her head tipped as if listening.
The books are whispering.
I hear nothing, but she does. 

Trong thư viện

Gửi Octavio

Có 1 cuốn sách kêu là
Từ điển thiên thần
Năm muơi năm không có ai đụng vô
Gấu biết, ấy là vì khi mở ra
Cái bìa kêu “cục” 1 phát,
Những trang giấy bở ra.
Và Gấu khám phá 

Thiên thần ngày xưa nhiều lắm
Như muỗi rừng Cà Mâu thời Miền Nam Sâu Thẳm
Vào buổi chiều, chúng bay đặc trời
Bạn phải lấy cả hai tay xua
Để chúng bỏ đi

Bây giờ, mặt trời chói chang
Qua những khung cửa sổ cao
Thư viện lặng lẽ
Thiên thần, thánh thần
Bèn chui vô những cuốn sách đóng kín, tối thui
Niềm bí ẩn lớn nằm
Trong kệ sách nào đó
Miss Jones mỗi ngày
Đi vòng vòng

Em cao ơi là cao
Em bèn cúi cái đầu
Như thể đang lắng nghe
Những cuốn sách thì thầm
Gấu chẳng nghe thấy cái chó gì hết!
Nhưng Em, nghe.
 

ARS POETICA

To look at the river made of time and water
And remember that time is another river,
To know that we are lost like the river
And that faces dissolve like water.

To be aware that waking dreams it is not asleep
While it is another dream, and that the death
That our flesh goes in fear of is that death
Which comes every night and is called sleep.

To see in the day or in the year a symbol
Of the days of man and of his years,
To transmute the outrage of the years
Into a music, a murmur of voices, and a symbol,

To see in death sleep, and in the sunset
A sad gold-such is poetry,
Which is immortal and poor. Poetry
Returns like the dawn and the sunset.

At times in the evenings a face
Looks at us out of the depths of a mirror;
Art should be like that mirror
Which reveals to us our own face.

They say that Ulysses, sated with marvels,
Wept tears of love at the sight of his Ithaca,
Green and humble. Art is that Ithaca
Of green eternity, not of marvels.

It is also like the river with no end
That flows and remains and is the mirror of one same
Inconstant Heraclitus, who is the same
And is another, like the river with no end.

-W.S.M.

J.L. Borges

ARS POETICA

Nhìn dòng sông dệt bằng thời gian và nước
Bèn ngộ ra thời gian là 1 dòng sông khác.
Và ngộ thêm ra rằng chúng mình thì cũng sẽ mất nhau, như dòng sông
Và khuôn mặt đôi ta rã ra như là nước

Và để ý rằng thì là, những giấc mộng thức, thì không phải là ngủ
Nó là một giấc mộng khác,
Rằng cái chết,
Cái chết mà xác thịt chúng ta sợ hãi nó,
Là cái chết hàng đêm chúng ta quen gọi là giấc ngủ. 

Là nhìn ra, trong ngày, hoặc trong năm, một biểu tượng
Của những ngày của người, và những năm của nó
Thế là bèn chuyển hóa cơn giận dữ của những năm
Vào âm nhạc, vào tiếng thì thầm, vào một biểu tượng

Để nhìn ra trong giấc ngủ sâu như cái chết, trong hoàng hôn,
Một nỗi buồn vàng – và cái đó gọi là thơ ca của Miền Nam, là nhạc sến
Nó thì mới bất tử, và nghèo nàn làm sao. Thơ
Trở lại như rạng đông và hoàng hôn.

Có những lúc vào buổi chiều, một khuôn mặt
Nhìn chúng ta từ những chiều sâu thăm thẳm của 1 chiếc gương
Nghệ thuật thì như thế đấy,
Như tấm gương đó
Nó vén lên, như 1 em vén váy, làm lộ ra cho chúng ta,
Bộ mặt riêng của chúng ta
Một bướm đẹp tuyệt trần

Người ta nói là Anh Cu Gấu,
Chán chường những điều huyền diệu của tụi mũi lõ,
Và quá tởm Lò Thiêu
Khóc những giọt nước mắt thương yêu khi nhìn thấy Xề Gòn
Xanh vô cùng, khiêm tốn vô cùng
Nghệ thuật là Xề Gòn đó
Xề Gòn của Niềm Xanh Vĩnh Cửu.
Đếch phải những huyền diệu, kỳ tích.

Nó cũng là dòng sông chẳng tận cùng
Trôi đi và ở lại và là tấm gương của vẫn một
Heraclitus không hằng hằng,
Kẻ vẫn thế,
Và kẻ khác,
Như dòng sông không tận cùng.

ELEGY

Three very ancient faces stay with me:
one is the Ocean, which would talk with Claudius,
another the North, with its unfeeling temper,
savage both at sunrise and at sunset;
the third is Death, that other name we give
to passing time, which wears us all away.
The secular burden of those yesterdays
from history which happened or was dreamed,
oppresses me as personally as guilt.
I think of the proud ship, carrying back
to sea the body of Scyld Sceaving,
who ruled in Denmark underneath the sky;
I think of the great wolf, whose reins were serpents,
who lent the burning boat the purity
and whiteness of the beautiful dead god;
I think of pirates too, whose human flesh
is scattered through the slime beneath the weight
of waters which were ground for their adventures;
I think of mausoleums which the sailors
saw in the course of Northern odysseys.
I think of my own death, my perfect death,
without a funeral urn, without a tear.

-A.R.

J.L. Borges

Bi Khúc

Có những khuôn mặt từ đời nào đời nảo
Ở hoài với tôi:
Một là Đại Dương, lèm bèm hoài với Claudius
Cái nữa, là Miền Bắc, với cái tính khí cà chớn của nó,
hung dữ, man rợ, cả vào rạng đông cũng như hoàng hôn
Cái nữa, là, Thần Chết,
Một cái tên khác mà chúng ta ban cho
Thời gian,
Nó lẵng nhẳng như đỉa đói, có bao giờ tha làm phiền chúng ta đâu?
[Kiếp trước mi đúng là con đỉa
Như 1 nữ thi sĩ mắng Gấu Cà Chớn
Nên kiếp này mi làm phiền ta hoài,
Ta bận chồng, bận con
Bận làm thơ,
Đâu có thì giờ dành cho mi]
Cái gánh nặng trường kỳ của những ngày hôm qua
của lịch sử, xẩy ra, hoặc, mơ xẩy ra.
Chúng đè dí tôi xuống, riêng tư, cá nhân, như là tội lỗi.


Beckett, portrait

"THE USES OF POETRY"
by Anne Atik
FOR S.B. (13 APRIL 1906-22 DECEMBER 1989)

I 

A Bible-reading man, he came and left
between two holy days he didn't much observe:
the Good Friday of his birth, near the Christmas of his death.
His life between, a pilgrim's progress with a smile
for what he saw along the way and wrote of,
oversleeping, age and hope and sloth.
Then saw, and wrote of, wrenched along the way,
age and hope and helpless weeping. But
he would have, reading those two states, rejected both
as most remotely holding but one part
or more than minute dose
of the inexpressible, whole truth
of how it is, it was.

II

He showed the shortest way to get across
a line like this:
crossed out such words as these to get to
speechlessness.
He crossed out rivers to get to their stones.
To get to the bottom, when the crisis is reached
and truth-telling begins.
Whatever he knew he knew to music.
He found the pace for misery,
matched distress to syncope, and joke
to a Beethoven stop at the punch line.
But thought that he'd failed to find failure's pulse.
What that says about failure,
music and us.


Orwell

*

Tay này, Gấu mới đọc đây thôi, nhân chuyến đi Mẽo thăm bạn, vớ vội 1 cuốn của ông ở quầy, trong khi chờ lên máy bay, không ngờ đọc được quá. Trước, cứ đinh ninh, "dưới trung bình", như những thi sĩ Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, "dưới trung bình", so với đại thi sĩ, đại nhạc sĩ, đại biên khảo…. Nguyễn Tôn Hịt!

Mua, còn 1 phần vì hai bài trong đó, đọc loáng thoáng lúc ở tiệm sách.
Một, viết về Trại Loài Vật, và một, Hội Chứng Mít [thay vì đọc Bên Thắng Nhục!]

Ui chao, về nhà đọc, mới thú. Bài về Greene, "đúng y chang" của Gấu!
Hitchens lôi đúng cái bài viết của Greene mà Gấu đã từng xuýt xoa, trên Tin Văn, liên quan đến “vấn nạn”, có mấy NQT.
Hà, hà!

Còn nhiều bài tuyệt lắm!
*

Regis Debray, có thời mê Che qua làm quân sư quạt mo cho xừ lủy. Đã từng sáng lập triết lý bi đát, la philosophie tragique, thời kỳ Gấu mới lớn. PCT giới thiệu triết lý bi đát cho Mít đọc, Chu Tử bèn mượn luôn, vờ PCT!
Nhớ, bạn quí lắc đầu than, ông CT này nhảm quá!


Trăm Năm Camus


 Koestler



Văn chương lạnh

Vấn đề là, chiến tranh tiếp nối chiến tranh, cách mạng tiếp nối cách mạng, phong trào, lực lượng chính trị, xung đột giữa họ trên đất TQ  hàng trăm năm qua đã ảnh hưởng lên mọi tầng lớp  trí thức. Tiếng nói ly khai không được khoan thứ, nhà văn bắt buộc phải trở thành chiến sĩ, họ không có một cách nào khác để tạo một cuộc sống. Họ thất bại trong việc cứu vớt đất nước, hay dân tộc, và thường là phải hy sinh tài sản, mạng sống. Văn chương lạnh chỉ có thể khả hữu một khi những áp lực chính trị không còn, có thể tránh được, và cuộc sống được bảo đảm. Chính vì thế mà khó khăn vô cùng cho văn chương Tẫu có thể có thứ "lạnh" này.
Từ đó, có thể nói, văn chương lạnh xúi người ta bỏ chạy để sống sót; đó là thứ văn chương từ chối bị bịt miệng để tìm sự cứu chuộc. Tôi tin rằng, 1 sắc dân đếch làm sao ban cho người dân da mùi của nó – da trắng chúng đâu cần, chúng muốn viết gì thì viết -  thứ văn chương "đếch có ích" 1 tí gì, như là văn chương lạnh, thì điều này không chỉ là bất hạnh cho nhà văn, mà còn là dấu chỉ đích danh sắc dân này quá cà chớn, nếu không muốn nói là, quá nghèo nàn, về tinh thần, về tinh anh, về đỉnh cao chói lọi.
Chính vì những lý do đó mà tôi đề nghị: Văn Chương Lạnh.

*

Interview: Gao

... on exile.

Exile is salvation. Exile is a writer's salvation. The goal is not exile. The goal is to write. There have been so many writers who have been forced to flee in order to write. Sometimes the oppression isn't even that extreme, but they still leave. Like James Joyce. It wasn't political oppression. But Joyce and Beckett, they never went back. It was psychological oppression in Ireland; the Catholic Church made them exile themselves. No, a writer cannot defeat a society. But he can save himself, which has been the case from ancient times until today.After Mao died [1976J, after the Cultural Revolution, Chinese society had a relative period of liberalization and I could travel and look at things. Lingshan was about seeking a starting point for consciousness, looking for an entry point on a spiritual level. It was mostly written in China and finished in France, but I had to wait until after Mao died and even then I couldn't think of having it published. I began writing Lingshan in 1982.    

Về lưu vong

Lưu vong là cứu rỗi. Lưu vong là cứu rỗi của nhà văn. Mục đích không phải là lưu vong. Mục đích là viết. Có rất nhiều nhà văn bị ép buộc phải bỏ chạy để viết. Đôi khi sự đàn áp không đến nỗi tới chỉ khiến họ phải bỏ đi, nhưng vẫn phải bỏ đi. Thí dụ James Joyce. Nhưng Joyce và Beckett, cả hai chẳng hề quay trở lại. Có một sự đàn áp về tâm lý ở Ái nhĩ lan: Nhà thờ Ky tô khiến họ tự lưu vong. Không, một nhà văn không thể đánh bại một xã hội. Nhưng anh ta có thể tự cứu mình, đây là một trường hợp từ cổ xưa cho mãi tới ngày này. Sau khi Mao chết [1976], sau Cách Mạng Văn Hóa, xã hội TQ có một thời kỳ tương đối cởi mở, và tôi có thể đi du lịch, nhìn tới nhìn lui những sự vật, con người. Lingshan, Linh Sơn, là về sự tìm kiếm một khởi điểm cho tâm thức, kiếm điểm nhập tầng tâm linh. Nó hầu hết được viết ở TQ và xuất bản ở Pháp, nhưng tôi phải đợi sau khi Mao chết, vậy mà khi đó vẫn không nghĩ có thể in nó ra. Tôi bắt đầu viết nó vào năm 1982.


Ghi chú trong ngày
Nhà văn X
Phản ứng của PMH về Nhà Văn X

Ghi chú bên lề của Gấu Cà Chớn
Truyện Nhà văn X của ND, gốc của nó, là 1 truyện của Alphonse Daudet, trong loạt truyện Tartarin de Tarascon, Gấu đọc hồi mới lớn, mê quá.
Daudet có cái truyện "Những Vì Sao" mà chẳng thần sầu ư?
Truyện của Daudet, là về 1 anh chàng nói phét tổ sư, lên xe đò, tự nhận mình là 1 tay thợ săn số 1 chuyên săn sư tử. Thế rồi có 1 tay trên xe mới hỏi, có quen tay tổ sư chuyên săn sư tử tên là… X, không. Anh ND này mới “ui dào”, ông ta là bạn quí, bạn thân tui, và nhân đó, chê bạn quí, bạn thân đủ đường, thua tui xa, về cái tài thiện xạ!
Thế rồi, tới 1 chỗ xe ngưng, ông khách xuống xe, chào tất cả… Ông ta đi rồi, ND mới quay hỏi mọi người trên xe, ông nào đấy.
Thì bạn quí của ông chứ ai nữa. Nhà săn sư tử số 1 đó.

Nội dung đúng bài viết của ND.
Không ngờ là anh lại còn nhắm ý khác nữa.
Chán thiệt!


Coetzee: Notes on a Voice

THE SAVAGE THRIFT OF J.M. COETZEE
 Tính tằn tiện dã man của J.M. Coetzee

Ghi chú về 1 giọng văn: Simon Willis khui ra 1 giọng văn gầy còm, không có tí mỡ, và đe dọa. 

Đọc Coetzee thì như bơi trong 1 biển, mặt biển phẳng lặng, và sóng dội từ bờ, mới hung bạo làm sao. Những câu văn của ông thì còm cõi, những đề tài, đe dọa [Trên tờ TLS Gấu mới đọc, kiếm hoài không thấy trong mớ sách báo, 1 bài viết về ông, theo đó, hai đề tài chủ yếu của ông là race and rape, sắc dân và hiếp dâm]: quyền lực, sắc dân, quyền của thú vật, và thú tội. Trong những tác phẩm sau này, có sợi chỉ tôn giáo và cứu chuộc. Cuốn tiểu thuyết mới có tên “Tuổi thơ của Chúa Ky Tô”.

Sinh tại Nam Phi, 1940, ông trải qua tuổi đôi mươi, đau nỗi đau nôn mửa, khi đối diện trang sách trống rỗng – Mít kêu là trang giấy trắng tinh – Cơn bịnh bớt đi, khi, vào năm 1974, ông cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay, “Dusklands”. Kể từ đó, ông viết những tác phẩm thấm thiá về thời kỳ phân biệt, và hậu phân biệt chủng tộc – bao gồm “Đời và Thời của Michael K” (1983) và Ô Nhục, Disgrace (1999), cả hai đều đợp Booker Prize, cũng như là những tiểu thuyết quá tiểu thuyết đến trở thành những tiểu luận, và những hồi ức, memoirs, quá memoir đến trở thành tiểu thuyết. Ông đợp Nobel năm 2003.

Trước khi là tiểu thuyết gia, thì là 1 nhà toán học, nhà khoa bảng, và câu văn của ông sáng lên nhờ cái sự khắc khổ và rõ ràng, trong sáng. Vài “Thầy Cuốc” phê là cứng quá, cằn cỗi quá. Nhưng, như là 1 văn phong, như Michael Wood chỉ ra, nó đưa bạn “qua 1 xứ sở còi cọc, nhưng tới một miền của nỗi chán chường, tuyệt vọng”.

Quyết định Chìa Khoá.

Đi Mẽo [Austin, Texas]. Vào năm 1965, Coetzee tới đó, làm cái luận án Tiến sĩ. Ở thư viện đại học, ông vớ được những bản thảo đầu của cuốn tiểu thuyết “Watt” của Samuel Beckett. Ông la lên, “ơ rơ ka”, kiếm thấy rồi! Beckett đem đến cho Coetzee một “sound” [âm, vọng, tiếng, giọng…]. Bạn có thể nghe thấy nó, rõ ràng nhất, mạnh mẽ nhất, khỏe nhất, ở trong những độc thoại "xa rồi diễm ơi, nhạt nhòa như mưa", của “Dusklands”, và “Ở Trái Tim của Xứ Xở” (1977). Bài học quan trọng nhất của tất cả, là, sự kiềm chế, cố nén. “Tư tưởng thì như con chó thèm cục kít," [Em như cục kít trôi sông/Anh như con chó chạy rông ven bờ], Coetzee viết, “văn xuôi thì như sợi dây [kìm con chó].


Viết bên lề "Bên Thắng Nhục"

Gulag của Solz, cơ bản khác hẳn những cuốn trước - những hồi ức cá nhân, trong có những phát hiện có tính xã hội - không chỉ vì trong đó là hàng hàng chứng tích, từ những hàng hàng lớp lang con người, với những cuộc sống khác nhau, từ đó phản chiếu cả một xã hội, cả một dân tộc; ấn tưọng hơn nữa, là, Solz đặt để tác phẩm, với kinh nghiệm của bao nhiêu con người trong có của riêng ông, vào trong nội dung của lịch sử dân tộc, tôn giáo, ý hệ của nó, từ đó, làm bật ra cả một hệ thống kìm kẹp từ đỉnh đến đáy, sự đồng lõa của toàn thể dân chúng, của toàn thể một dân tộc, cùng tham dự vào tội ác, với tất cả những chiều hướng ngang dọc, cao thấp mà chỉ chế độ Nazi mới tương xứng với nó.

Sự đồng lõa của toàn thể dân chúng, chỉ có Nazi mới tương xứng....: Có Thái Dúi, tà lọt Osin... trong số ‘dân chúng’đó không? Chắc là còn bé quá, khi Bắc Kít ăn cướp Miền Nam, nên đếch có tội?

*

Foreword to the Abridgment

If it were possible for any nation to fathom another people's bitter experience through a book, how much easier its future fate would become and how many calamities and mistakes it could avoid. But it is very difficult. There always is this fallacious belief: "It would not be the same here; here such things are impossible."
Alas, all the evil of the twentieth century is possible everywhere on earth.
Yet I have not given up all hope that human beings and nations may be able, in spite of all, to learn from the experience of other people without having to live through it personally. Therefore, I gratefully accepted Professor Ericson's suggestion to create a one-volume abridgment of my three-volume work, The Gulag Archipelago, in order to facilitate its reading for those who do not have much time in this hectic century of ours. I thank Professor Ericson for his generous initiative as well as for the tactfulness, the literary taste, and the understanding of Western readers which he displayed during the work on the abridgment.

ALEKSANDR I. SOLZHENITSYN
Cavendish, Vermont December, 1983

Lời nói đầu cho bản Bản Rút Gọn

Nếu khả hữu cái chuyện, bất cứ một dân tộc nào cũng có thể cưu mang kinh nghiệm bi thương cay đắng của 1 dân tộc khác, tương lai của nó mới dễ dàng làm sao, và chỉ còn có cái may mắn, mọi khuyết điểm lầm lẫn chẳng hề xẩy ra.
Những đúng là chuyện cực nhảm, khó bằng trời. Luôn luôn có niềm tin cà chớn: “Ở xứ Mít, thí dụ, làm sao có chuyện đó xẩy ra. Nước Việt Nam là một, vậy mà tụi Mỹ, Ngụy dám nói xưng xưng là Bắc Kít là đồ ăn cướp, đồ xâm lăng!”
Than ôi, Con Quỉ Gulag của thế kỷ thứ 20, chỗ nào mà chẳng có.
“Oan ức” gì cái chuyện được đi tù Cải Tạo?
Tuy nhiên, tôi không hề buông xuôi mọi hy vọng rằng con người và những quốc gia có thể, mặc dù mọi chuyện, học được kinh nghiệm của dân tộc khác mà, 1 cách cá nhân, không phải sống nó.
Vì thế, tôi cám ơn giáo sư và chấp nhận đề nghị tạo bản rút gọn bộ sách gồm ba cuốn của tôi, Quần Đảo Gulag, để tạo sự dễ dàng khi đọc nó, đối với những độc giả không có nhiều thời giờ dành cho cái thế kỷ sôi nổi, [đầy máu và nước mắt] của chúng ta….



Ghiền

Bondage

In 1975, at the age of twenty-three, Ian Fleming’s only child, heir to the Bond millions, ended his life with a deliberate overdose.

Vào năm 1975, đứa con trai độc nhất của Ian Fleming, kẻ thừa kế gia tài hàng triệu triệu, của kẻ sinh ra nhân vật giả tưởng Bond, chấm dứt đời mình bằng một liều ken quá liều                                             


Đại Lục Kim Dung

Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

  *

*

*

Thời gian anh Mẽo Johnson chụp mấy bức hình này, cũng là thời gian Gấu gửi hình Bope Hope vừa tới phi trường Biên Hòa vừa bị VC pháo kích, và anh hề phán, Ui chao sẵn mấy cái hố, làm cái sân golf thì thật là tuyệt.
Giấc mộng thanh bình của anh, phải chờ Râu Kẽm mang tiền về, làm tên tội đồ sám hối, xin được xây dựng quê hương, xây cái nhà Mít bằng trăm bằng muời cái nhà cũ, thì mới trở thành hiện thực.
Cũng là thời gian Sếp UPI đầu tiên của Gấu tới Sài Gòn nhận nhiệm sở, Dirck Halstead. Nhìn những bức hình Gấu gửi đi, như bức của Bope Hope, trên nhật báo Mẽo, anh mang lên Đài cho Gấu coi, Dirck phán, hình trên báo còn bảnh hơn hình original.
Một lời khen thật tuyệt dành cho anh bồi Mít.
Một năm sau khi Gấu ăn mìn VC, 1965.
Cũng là thời gian BHD đậu xong Trung Học, vô Đại Học Y Khoa, đang học năm thứ nhất, tại Đại Học Khoa Học.
Tức là thời gian viết Khu Rừng Trong Đêm, 1 trong tứ tấu khúc về BHD và Sài Gòn.
Trên trang web của anh,
TheDigitalJournalist, Dirck viết, chiến tranh Mít xực hết cả tuổi trẻ của anh và đồng bọn.
Anh vờ 1 điều thật là đau thương, nó xực luôn cô vợ xinh đẹp của anh, hai vợ chồng bỏ nhau vì cuộc chiến Mít.
Gấu may hơn, có thể nói như vậy, chăng?
Vì Gấu cũng mất BHD đúng vào những ngày đó!
Cũng năm đó, bệ Gấu Cái từ Cai Lậy về Sài Gòn, trên con thuyền Noé!
Hà, hà!

Khu Rừng Trong Đêm

Ngày 28 tháng 3, tôi gặp lại H. lần cuối cùng. Trời bữa đó mưa. Trận mưa mở đầu mùa. Thời tiết thay đổi, khí hậu ẩm ướt làm cánh tay trái của tôi trở nên đau nhức, khó chịu. Tôi ra Sài Gòn, tìm một quán nước, vừa uống cà phê vừa ngó mưa. Quán này, ngày trước tôi và H. thỉnh thoảng có ghé. Tôi còn nhớ, một lần ngồi đây, cũng tại bàn này, tôi uống bia, và chợt có ý định muốn hôn nàng. Lúc đó buổi trưa, trong quán chỉ có một hai người ngoại quốc đang dùng bữa. Họ vừa ăn vừa cắm cúi đọc báo. Ngày hôm sau, nàng bảo tôi, nàng biết ý định của tôi lúc đó, và phải quay đi, để che giấu nụ cười.
Đang ngồi, đột nhiên nhớ đến nàng, đột nhiên tôi có ý định phải gặp nàng, và chỉ cần nhìn mặt nàng lúc này, là tôi biết rõ, nàng có còn yêu tôi hay không. Tôi đến Đại Học Khoa Học, và ngồi ở hiên ngoài, cũng là nơi tôi vẫn thường ngồi với bạn bè, hoặc ngồi một mình đọc sách, thay vì ngồi bên trong giảng đường nghe giáo sư giảng bài.

Tôi ngồi chờ nàng thật lâu. Cơn mưa vẫn tiếp tục. Cuối cùng, tôi chạy vào bên trong trường tìm nàng. Tôi gặp nàng đứng nói chuyện cùng mấy người bạn học. Nàng rời đám bạn, và hai đứa chúng tôi vừa đứng đợi ngớt mưa, vừa nói chuyện, những câu nói nhạt thếch. Khi mưa ngớt, chúng tôi thản nhiên chào nhau ra về, mỗi người đi một ngả đường. Khi nàng đi được một quãng khá xa, đột nhiên tôi quay lại, và chạy theo, chạy thật nhanh. Tôi bắt kịp nàng, và hỏi, nàng còn yêu tôi hay là không. Nàng lắc đầu. Tôi bảo nàng nói. Nàng nói. Nàng nói thêm, nàng chưa hiểu tình yêu là gì. Tôi mệt và giận, muốn đánh nàng, bất chợt, tôi nhìn thấy tôi, trong tấm kiếng chiếc xe hơi đậu kế bên đường: đầu tóc rũ rượi, thở hổn hển, cánh tay trái lòng khòng, nước mưa rỏ trên khuôn mặt hốc hác, tôi đột nhiên nhận ra khuôn mặt thảm hại của tình yêu, tôi đột nhiên có cảm tưởng đã sống hết đời tôi, đã sống hết mối tình. Tôi bảo nàng đi về, tôi bảo tôi đi về. Tôi hiểu rằng tình yêu của tôi đối với nàng đã hết.
*

Nhờ mấy tấm hình, thì Gấu mới suy ra được là, 28.3, là 28.3.1966

Trung tâm USO, nhà IH của Mẽo ở Nguyễn Huệ, được thành lập sau cú Mỹ Cảnh.
Bưu Điện lúc đó, qua đề xuất của ông trường đài, không cho Mẽo tới Đài nữa.
Và cũng do sự bành trướng, leo thang của cuộc chiến, thành ra mới có những USO, IH, Press Center dành cho ký giả Mẽo.
Trước họ kéo nhau lên Đài.
Trúc Chi, phóng viên làm cho BBC, có lên Đài, đã từng gặp Gấu, chuyên viên của Đài. Nhưng ra đến hải ngoại, thì mới thực sự quen nhau. Gấu viết về anh, về TCDT...  trong Một chuyến đi.
Bài viết cũng là 1 cú adieu băng Văn Học của NMG

*

Betsy Halstead, nữ ký giả UPI, 23 tuổi, trẻ nhất trong số ký giả, vợ Dirck Halstead, sếp UPI của GCC

Gấu lấy vợ, chỉ có Betsy & Dirck & Sawada là có quà mừng. Sawada, khi nghe Gấu nói, mới lấy vợ, anh hỏi, sao không mời tao. Gấu nói đám cưới mãi tít Cai Lay, many VC there. Anh cười kéo Gấu băng qua đường Catinat, đến khách sạn Majestic, bấm thang máy, lên sân thượng khách sạn, đãi 1 chầu ăn sáng, về văn phòng nói với Dirck, anh đưa tiền mua quà mừng, ký tên chung ba người.
Ngoài ra là chấm hết. Đám bạn quí vờ, chẳng thằng nào chúc mừng. Thư Trung, tức TPG, đi 1 đường trên Văn, như để cảnh báo mấy nữ độc giả. Gấu nhớ là Xìn Phóng cũng đếch thèm chúc mừng, mà là, “nên vợ nên chồng”!
Khốn nạn nhất là cái ông bạn quí đến nhà chơi xì tẩy, thua, mượn tiền Gấu Cái, em đâu có tiền, lắc đầu, thế là ông bạn quí nhìn thằng nhóc đang ngủ trong nôi gần bàn xì, hất hàm hỏi Gấu, sao tao thấy nó chẳng giống mày tí nào?
Dã man thật!
Về già, nhớ lại, hình như chưa thằng nào khen GCC, bài này, bài nọ… mày viết được đấy. Chỉ độc nhất 1 lần, khi  đọc TSVC, bạn quí thấy bài dịch James Joyce, ký Lý Thương Ẩn, được quá, chắc thế, tính khen, nhưng nghi sao, hỏi Gấu, mày hả, thấy gật đầu, mặt 1 đống!

Khi Gấu bắt đầu làm cho UPI, chưa có sếp. Dirck sau đó đâu chừng 1  hay 2  tháng mới qua, đúng dịp Bobe Hope và cả đám qua trình điễn giúp vui GI. Đúng thời gian phi trường Biên Hòa bị VC pháo kích. Bobe Hope nhìn những lỗ pháo, phán, làm sân golf thật tuyệt. Nhưng phải đến khi Râu Kẽm hồi chánh thì giấc mơ lớn của anh hề Mẽo mới được thực hiện.
Betsy qua sau, Gấu nhớ là Dirck có đưa lên Đài giới thiệu. Gấu có khen em gì đó, không nhớ, em ghé tai Gấu nói nhỏ, Dirck “gia trưởng”, và ghen dữ lắm.
Vào những ngày Sài Gòn thất thủ, Dirck, khi đó làm Time, qua làm phóng sự di tản. Anh ở khách sạn Oscar, đường Nguyễn Huệ, Gấu ghé, thấy anh khác hẳn trước, để râu ria xồm xoàm, rất híp pi. Gấu hỏi thăm Betsy, anh nói, ly dị rồi. Mới đây, khi liên lạc lại được, gọi phôn, anh cho biết, độc thân. Cuộc chiến Mít làm hai người xa nhau, vì có lần Gấu nghe anh than, Betsy nổi tiếng hơn anh. Chắc là nhờ nữ ký giả, trẻ, đẹp, đi đâu cũng lọt.