|
11.5.2013
Thơ
Mỗi Ngày
Đọc lại thơ Adam Zagajewski
Out Walking
Sometimes
out walking, on a country road
or in a
quiet green forest,
you hear
scraps of voices, perhaps they're calling you,
you don't
want to believe them, you walk faster,
but they
catch up quickly,
like tame
animals.
You don't
want to believe them, then later
on a busy
city street
you're sorry
you didn't listen
and you try
to summon up
the
syllables, the sounds, and the intervals between them.
But it's too
late now
and you'll
never know
who was
singing, which song,
and where it
was drawing you.
Adam
Zagajewski: Mysticism for Beginners
Dã Ngoại
Đôi khi tản
bộ ngoài trời, trên con đường quê
Hay trong 1
cánh rừng xanh im ắng
Bạn nghe như
có tiếng người, giống như những mảnh vụn,
và những tiếng nói đó đang gọi bạn
Bạn không muốn
tin và bạn bước nhanh hơn lên
Nhưng chúng
bắt kịp bạn thật lẹ
Như những
con vật đã được thuần hóa
Bạn không muốn
tin, và sau đó,
Trên một con
phố bận rộn
Bạn than thở,
bạn xin lỗi,
rằng bạn đã không chịu lắng nghe
Và bạn cố chắp
nối, vá víu, những mảnh vụn,
Những âm thanh, những quãng ngừng giữa chúng
Nhưng quá trễ
mất rồi
Và bạn sẽ chẳng
bao giờ biết
Ai hát, và bài
hát nào,
Và nó kéo bạn
đi đâu.
AIRPORT IN AMSTERDAM
In memory of my mother
December rose, pinched desire
in the dark and empty garden,
rust on the trees and thick smoke
as if someone's loneliness were burning.
Out walking yesterday I thought again
about the airport in Amsterdam-
the corridors without apartments,
waiting rooms filled with other people's dreams
stained with misfortune.
Airplanes struck the cement
almost angrily, hawks
without prey, hungry.
Maybe your funeral should have
been held
- here-hubbub, bustling crowds,
a good place not to be.
One has to look after the dead
beneath the airport's great tent
We were nomads again;
you wandered westward in your summer dress,
amazed by war and time,
the moldering ruins, the mirror
reflecting a little, tired life.
In the darkness final things
shone:
the horizon, a knife, and every rising sun.
I saw you off at the airport, hectic
valley where tears are for sale.
December rose, sweet orange:
without you there can be
no Christmases.
Mint leaves soothe a migraine
...
In restaurants you always
studied the menu longest ...
In our ascetic family
you were the mistress of expression,
but you died so quietly ...
The old priest will garble your
name.
The train will halt in the forest.
At dawn snow will fall
on the airport in Amsterdam.
Where are you?
There where memory lies buried.
There where memory grows.
There where the orange, rose, and snow lie buried.
There where ashes grow.
Adam Zagajewski:
Without End
*
Phi
trường AMSTERDAM
Tưởng nhớ Mẹ
Hoa hồng vào Tháng Chạp, ước
muốn trái khoáy
trong khu vườn tối thui, trống trơn,
gỉ sét ở trên đám cây và khói dầy đặc
như thể nỗi cô đơn của ai đó đang cháy
Trong lúc lang thang ở ngoài
trời ngày hôm qua,
tôi lại nghĩ
về phi trường Amsterdam -
những hành lang không phòng ốc,
những phòng đợi đầy ắp những giấc mộng của những người khác,
những giấc mộng đầy tì vết của vận rủi
Phi cơ cào xiết trên nền xi măng
giận dữ, những con chim ưng
không có mồi, đói meo
Có lẽ đám tang của mẹ nên được
tổ chức
tại đây - những đám đông ồn ào, bát nháo
đúng là một nơi chốn tốt, bỏ uổng.
Một
con người nên lo lắng đến những người đã chết
ở bên dưới tấm lều lớn ở phi trường.
Chúng ta lại là những kẻ du mục;
Mẹ lãng đãng đi về phía tây trong cái áo dài mùa hè,
ngỡ ngàng vì chiến tranh, và thời gian,
những điêu tàn vụn nát, tấm gương
phản chiếu một cuộc đời nhỏ nhoi, mệt mỏi.
Trong bóng tối, những sự vật
sau chót sáng chói:
chân trời, một con dao nhỏ, và mọi mặt trời mọc
Mẹ rời phi trường, bề bộn
thung lũng là nơi nước mắt bán xôn.
Hồng tháng Chạp, cam ngọt:
Không có mẹ chẳng có Giáng Sinh.
Những chiếc lá bạc hà làm dịu
cơn nhức đầu...
Ở tiệm ăn mẹ luôn luôn nghiền ngẫm tờ thực đơn thật lâu....
Trong gia đình khổ hạnh của chúng ta
mẹ là bà chủ của diễn đạt
nhưng mẹ chết thật thầm lặng....
Vị linh mục già sẽ lắp bắp
xướng tên mẹ.
Xe lửa sẽ ngưng ở cánh rừng.
Bình minh tuyết sẽ rơi
ở nơi phi trường Amsterdam
Mẹ ở nơi đâu?
Nơi hồi ức vùi lấp.
Nơi hồi ức nẩy nở.
Nơi trái cam, bông hồng, và tuyết vùi lấp.
Nơi tro than nẩy nở.
Adam Zagajewski
Without End
[Note:
Bài thơ này, nguyên được in trong Mysticism for Beginners]
RESURRECTION
Poetry slips
into dreams
like a diver
in a lake.
Poetry,
braver than anyone,
slips in and
sinks
like lead
through a
lake infinite as Loch Ness
or tragic
and turbid as Lake Balaton.
Consider it
from below:
a diver
innocent
covered in
feathers
of will.
Poetry slips
into dreams
like a diver
who's dead
in the eyes
of God.
Tái sinh
Thơ
chui vô mộng
Như người lặn lao xuống hồ.
Thơ, can đảm hơn bất cứ ai,
Lặn và chìm
Như chì
Qua 1 con hồ vô cùng như hồ Loch Ness
Hay bi thương và đục như Hồ Balaton
Hãy nhìn từ dưới đáy:
Một người lặn
Ngây thơ
Phủ đầy lông chim
Là ước muốn của mình.
Thơ tuồn vô mộng
Như người lặn chết
Trong con mắt Chúa.
THE ROMANTIC
DOGS
Back then,
I'd reached the age of twenty
and I was
crazy.
I'd lost a
country
but won a
dream
As long as I
had that dream
nothing else
mattered.
Not working,
not praying
not studying
in morning light
alongside
the romantic dogs
And the
dream lived in the void of my spirit.
A wooden
bedroom,
cloaked in
half-light,
deep in the
lungs of the tropics.
And
sometimes I'd retreat inside myself
and visit
the dream: a statue eternalized
in liquid
thoughts,
a white worm
writhing
in love.
A runaway
love.
A dream
within another dream.
And the
nightmare telling me: you will grow up.
You'll leave
behind the images of pain and of the labyrinth
and you'll
forget.
But back
then, growing up would have been a crime.
I'm here, I
said, with the romantic dogs
and here I'm
going to stay.
Helen
Vendler Lecture
The Ocean,
the Bird, and the Scholar
"Poetry is
the scholar's art."
Wallace
Stevens, Opus Posthumous
Poetry and Criticism: Helen Vendler
Helen
Vendler là Bà Trùm phê bình thơ. “Góc độ thơ” của Bà phải nói khủng
khiếp,
nhưng cái đó chỉ là… phụ. Phải có cái gì đó của riêng bà khi đọc
thơ.
“Thơ
ca là nghệ thuật của những nhà tiến sĩ khoa bảng”, bà trích dẫn câu
trên, trong
bài diễn văn khi nhận giải thưởng thi ca. TV sẽ dịch bài này, sure, để
xác định điều, cái trò tự cao tự ngạo của giới viết lách, thì ai cũng
biết,
nhưng, bạn càng bảnh tới đâu, thì cái sự kiêu ngạo của bạn, của nghệ
thuật của
bạn, càng khó nhận ra đến đó.
Curlicues: Tóc Chị Hoài
A rich and
important novel that should not be missed
Her heroine,
Ifemelu, “grew up in the shadow of her mother’s hair. It was
black-black, so
thick it drank two containers of relaxer at the salon…and when finally
released
from pink plastic rollers, sprang free and full, falling down her back
like a
celebration.”
“Tôi lớn lên trong cái
bóng mái tóc của má tôi”.
Một cuốn tiểu
thuyết giầu có và quan trọng đừng bỏ qua.
Summer 2013
30.
4. 2013
Publié le 09
mai 2013 à 06h00 | Mis à jour le 09 mai 2013 à 06h00
Retour du
Vietnam
Le petit
commerce et l'esprit d'entreprise ont repris leurs droits au Vietnam,
sur les
trottoirs et les rivières, dans les marchés, les rizières et les deltas.
Rory
MacLean's top 10 books on Burma
From George
Orwell to Aung San Suu Kyi, author Rory MacLean looks at 10 books that
chart
the country's tumultuous history.
10 cuốn sách
tiêu biểu, Top 10, nói lên lịch sử Miến.
Bông
Hồng Thời Gian
Ai điếu
Viết cho
nạn nhân 4/6
Không phải
người sống mà kẻ chết
kết đoàn
cùng đi
dưới bầu
trời sậm đỏ tận thế
khổ nạn
dắt dìu khổ nạn
tận cùng
thù hận là hận thù
nước suối
cạn khô, lửa cháy triền miên
đường về
xa vời vợi.
Không phải
ông trời mà con trẻ
nguyện
cầu
giữa tiếng
loảng xoảng va đập của nón sắt và nón sắt
mẹ cưu mang
ánh sáng
bóng tối
cưu mang mẹ
những hòn
đá lăn, đồng hồ chạy ngược
nhật thực
đã tới
Không phải
xác thịt mà linh hồn
các bạn
cùng một lứa bên trời lận đận
mỗi năm
cùng đón sinh nhật một lần
tình yêu
mang đến cho người chết
một đồng
minh vĩnh cửu
các bạn ôm
chặt lấy nhau
trong danh
sách dài thật dài của nỗi chết không lìa.
Bei Dao
Dã Viên [dịch]
Sài Gòn 1963
Notes on a
voice: Le Carré
Ghi chú về 1
giọng văn:
Cơn giận
giữ có chừng mực của Le Carré
ROLE MODELS
He
owes much
to Graham Greene: his precision, lucidity and the ability to throw you
into a
scene with beads of sweat on your brow. Like Greene, he deserves to rub
shoulders with the seemingly more literary Joseph Conrad, whose lonely
single
men and corrupt officials seep into le Carré.
Note: Cả ba
ông, Le Carré, Greene, Conrad, có thể nói, đều là… Thầy
của Gấu Cà Chớn!
Điều này làm Gấu đếch giống bất cứ nhà văn Mít nào: Đếch nhà văn Mít
nào
có Thầy cả, vì thế, đếch có nhà văn Mít!
Nhưng chưa
thảm bằng, có những nhà văn Mít phịa ra… Thầy.
Sến phán, Thầy
của Sến là Nabokov và Kafka.
Gấu đếch tin!
Nhất là
Kafka. (1)
(1)
Cả hai nhà
văn gối đầu giường của tôi, Kafka và Nabokov, đều ít nhiều bỏ âm nhạc
ra ngoài trường
quan tâm của họ. Lần duy nhất Kafka nhắc đến âm nhạc, và không hẳn là
tích cực,
là trong “Josephine, nữ ca sĩ hay Dân chuột“, còn Nabokov thì liệt kê
âm nhạc,
nhất là âm nhạc làm nền cho những cuộc trò chuyện uyên bác, vào danh
mục những
thứ ông ghét cay ghét đắng.
Zadie nhìn lại, Zadie dans le rétro [nhại Zazie
dans le métro, của Raymond Queneau]
Le
Magazine Littéraire Avril, 2013
Nhắc tới
Nabokov & Kafka, có ngay cả hai:
Tôi đọc thăng
bằng như người ta nói ăn thăng bằng; nếu câu của bạn quá luộm thuộm,
hay kỳ cục,
bớt đọc…. Mai Thảo, và làm như Thầy của
mình, là Kafka, theo kiểu, mập quá bèn ăn rau sống, hay nhịn ăn, đi 1
đuờng
diet.
Nếu mỹ học của bạn bị đẩy tới chân tường, như người Mít nói, bị trĩ,
không rặn ra được 1 chữ, thì bye bye Nabokov, ôm lấy ông râu rậm
Dostoiesky; với ông
này văn phong không quan trọng bằng chất liệu.
Zadie Smith: Đổi ý
[Gấu dịch loạn,
theo kiểu dịch thảm họa, như trong nước đang chửi băng NN!]
Steiner,
không "gối đầu" bằng Kafka, nhưng 1 trong hai kho tàng hiếm quí của
ông, là 1 "thủ bản" của Kafka:
Dans sa demeure George Steiner
montre volontiers au visiteur les deux « trésors » auxquels
il tient
le plus et qui, d'une certaine manière, résument sa vie de critique et
de
nomade : une carte signée "Sigmund Freud" félicitant son père
pour son mariage à Vienne ; un des très rares exemplaires de la
bibliothèque de Kafka que l'auteur de La Métamorphose a signée
de son
patronyme suivi d'un point, comme c'est parfois l'usage dans les pays
germanophones.
Ai, ngoài Bruno Schulz, ảnh hưởng
tới ông?
Kafka, tuy nhiên, thật khó mà kiếm thấy một nhà văn không bị ảnh hưởng
bởi
Kafka, ngay cả khi người này không viết cùng một cái văn phong như của
Kafka.
Kafka là một giai đoạn văn học mà bạn bắt buộc phải vuợt qua [Kafka is
a
literary stage you have to go through]. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra
cái xen,
Kafka đứng, hai tay trên bờ cửa sổ, nhìn bên trong vào cuộc đời
[looking inside
into life]. Như thể ông nhìn ra phía bên ngoài từ cái chết, ngay cả khi
ông
đang còn sống. Tôi chưa tìm ra điều này, ở bất cứ nhà văn nào khác.
Trong Chết như là Cách Sống,
Death as a Way of
Life, ông phán: “Tôi không thuộc về số người coi Lò Thiêu là một sự
kiện đặc
thù Do Thái”.
Grossman: Tôi không nghĩ, người
ta có thể tách "tính Do
Thái", the Jewishness, ra khỏi Lò Thiêu, the Shoah, nhưng đây là một sự
kiện mắc mớ đến toàn nhân loại. Mọi người, bất cứ một người, ai cũng
nên đặt ra
cho chính mình, một vài câu hỏi liên quan tới Lò Thiêu.
(1)
Ông đọc Kafka
chưa? Milan Kundera hỏi tôi.
-Lẽ dĩ nhiên, tôi [Fuentes] trả lời. "Với tôi,
ông
ta là nhà văn không thể bỏ qua của thế kỷ 20."
Kundera cười một cái cười 'nham
nhở', [như kiểu viết Tạp
Ghi của Gấu]
-Ông đọc ông ta bằng tiếng Đức, hử?
-Đâu có.
-Vậy ông đâu đã đọc Kafka !
Fuentes: Kafka
Câu trả lời
của Kafka.
... but we
make no mistake: Kafka is not Kafka-ism... For the [sterile] old
question: why
write? Marthe Robert's Kafka substitutes a new question: how write? And
this
how exhausts the why: all at once the impasse is cleared, a truth
appears. This
is Kafka's truth, this is Kafka's answer [to all those who want to
write]: the
being of literature is nothing but its technique. (1)
Roland
Barthes: Kafka's Answer.
Câu văn
trên, Hai Lúa đọc, bằng nguyên bản tiếng Tây, ngay vào lúc chập choạng
bước vào
cõi văn, quả là một câu văn mặc khải.
Về già, Hai
Lúa hiểu thêm ra là, cái mà Kafka gọi là kỹ thuật đó, chính là đạo, đạo
ở đời.
Viết, đối với
mấy tên nhà văn nhà thơ, là một đạo ở đời.
Theo nghĩa
đó, Nguyễn Du viết, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
"Chữ
tâm kia", chính là kỹ thuật của nhà văn, vậy.
(1) Tạm dịch:...
Nhưng chớ có lầm: Kafka không phải là chủ nghĩa Kafka.... Đối với câu
hỏi cũ kỹ,
kiệt mọi đường sinh đẻ, tại sao viết?, [tác phẩm] Kafka của Marthe
Robert thay
bằng câu hỏi mới viết thế nào? Và chính cái "thế nào" quật cho cái "tại
sao" một trận
mê tơi, đến kiệt thở. Và thế là cùng tắc thông, sự thật xuất hiện. Sự
thật của
Kafka, câu trả lời của Kafka [cho tất cả những ai muốn viết]:
Hữu thể
[Linh hồn] của văn chương, chẳng là gì mà chính là kỹ thuật của nó.
Thầy Kuốc cũng
là 1 trong những Thầy phịa ra Thầy. Những Bloom, Barthes, Arendt… đều
là Thầy của
Thầy cả. Có những đấng Thầy của Thầy, Thầy viết sai cả tên, Gấu có sửa
giùm vài
lần, nhưng Thầy quên cám ơn, thí dụ, de Beauvoir!
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
Đen
Một người da
đen một khúc hát đen
Bầu trời đen
sâu không cùng
Những giòng
nước mắt
Xé nát thân
thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng
của máu của tủy của hồn bắt đầu ngày tháng
Giữa rừng
không lời rừng mãi trống không
Ném mình ném
đám đông vào trần truồng tủi cực hờn xác thịt
Tan vỡ hôm
qua hôm nay kể gì ngày mai
Tội rằng
không quên chẳng thể được quên
Vì Blues
không xanh vì điệu Blues đen
Trên mầu da
nức nở
Trong hộp đêm
Bắt đầu chảy
máu thầm kín khóc cổ họng mình
Ngón tay cấu
lấy ống kèn như bùa thiêng
Chọn ngoài
thể xác ngoài thương yêu ngoài dữ tợn
Chọn thế
giới va chạm những loài kim réo gọi
Thời gian mềm
Không gặp
thời gian
Không gian
quay thành những vòng kỷ niệm
Rồi một buổi
nào Blues hiện về xanh.
Thanh Tâm
Tuyền: Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy
TTT by Phan Lạc Phúc
Đại Lục Kim Dung
Quách Tường tiểu muội
Bài này, cũng
nhờ đầu tháng mà lòi ra.
QT là… nick của
Gấu Cái, khi viết cho 1 tờ báo địa phương, đúng bài viết vào dịp 30
Tháng Tư
1975, năm đầu tiên qua Xứ Lạnh.
Sau Gấu chôm, đưa vô “Tự Truyện”, và là cái thư
gửi Cô Út.
Bài viết của Huỳnh Ngọc Chiến, tuyệt, nhưng theo Gấu, chưa tới, chưa
hết được cái đẹp của "nhân vật" này.
Granta 100
Ta
sẽ nhớ mi vô cùng khi ta ngỏm
Đáng yêu nhất của những nụ cuời
Mềm mại nhất ở trên giường khi cả hai còn trẻ
Quách Tường của ta ơi
Hãy nhớ rằng khi ta ngỏm rồi
Mi sẽ sống mãi trong trái tim ngù ngờ của ta!
Ghi
chú
trong ngày
Nguyên
mẫu Bond girls
Krystyna
Skarbek, who
won a string of medals for her wartime exploits, was described as
having
mesmeric power over men.
There is no
evidence that Ian Fleming ever met her, but she is said to have
inspired his
duplicitous characters Tatiana Romanova in From Russia with Love, and Vesper
Lynd in Casino Royale.
Không có bằng
chứng là tác giả đã từng gặp nguyên mẫu, nhưng nghe nói là em đã gợi
hứng cho
tác giả tạo ra nhân vật Tatiana Romanova, trong “Từ Nga về với Tình
Yêu”, và
Vesper Lynd, trong “Casino Royale”.
Gấu đọc
James Bond đúng thời gian vừa ăn xong hai trái mìn Claymore của VC, may
quá, thoát
chết, và may quá hơn nữa, súng vẫn còn!
Và Gấu gặp lại Bond, cũng ở Trại tị nạn,
như gặp lại nhân vật
của Graham Greene.
Cuốn “Bond, tiểu sử không được phép” là của 1 tay
chấp bút
Fleming, vì ông đã ngỏm. Đọc 1 phát, thì lại nhận ra Bond rất giống
Gấu, chỉ
ở phút chót mới loé ra cách sống sót!
Trong có xen, tả Bond phải tới Budapest, đang
lúc cách mạng nổi dậy, để cứu một nữ nhân viên MI6. Đến, gặp, thì biết
em đã bị
cháy, và KGB dùng em làm bẫy nhử Bond. Chúng nhốt cả hai vô Sở
Thú, chuồng
dã nhân, làm thức ăn cho con vật, vì lúc đó, chẳng còn ai lo cho chúng.
Đúng vào
lúc con dã nhân tiến tới hai con mồi, thì Bond nhớ ra là, dã nhân rất
hay bắt chước, người làm sao, chúng làm vậy. Bond bèn kéo
cô gái tới hàng rào, giả đò lấy sức kéo doãng hai cây sắt. Thế là con
vật bắt
chước, kéo hai chấn song, vừa đủ rộng là cả hai bèn dọt ra bên ngoài,
trước khi
bỏ chạy
còn kịp bye bye, cám ơn ân [dã] nhân!
Hoàn cảnh của
Gấu chẳng đúng y chang ư. Xuống nhà hàng Mỹ Cảnh 1 phát, nghĩ ngay đến
ánh đèn
lấp lánh trên mặt sông, thế là bèn đi tới ghế cuối ở phía ngoài, nhường
hai ghế
trong cho hai ông bạn Phi, ngày hôm sau về Manila mang theo tí kỷ niệm.
Hai cái
lưng của họ hứng giùm Gấu những mảnh mìn….
Và phải cái
ghế chót!
Ghế kế bên cũng bỏ mẹ!
Ông trưởng đài ngồi ghế này, bị miểng mìn lọt
kẽ hở hai cái lưng, chơi luôn khẩu súng!
Ui chao, Gấu
không dám tưởng tượng bị mất súng nó ra làm sao! Khi dịch Mặt Trời
Vẫn Mọc,
Gấu cứ sờ sợ, và đâm ra thương hại anh chàng nhân vật chính, cứ mỗi lần
em đi
hoang, chán chường, gọi 1 phát, là bèn chạy ngay đến, chỉ để hửi….
Hà, hà!
Tục quá!
Nhà Tân Á. In
năm 1952, sau khi chịu kiểm duyệt của "Nha Thông Tin Nam Việt".
Blog NL
Ui chao, vậy
mà Gấu cứ nghĩ, Gấu là 1 trong những người đầu tiên, đọc Koestler, qua
bản dịch
cuốn trên, của Nhà Thông Tin Huê Kỳ, 1954:
Trong chuyến đi dài chạy
trốn quê hương, trong mớ sách vở vội vã mang theo, tôi
thấy hai cuốn, một của Nabokov, và một của Koestler. Tôi đã đọc
Darkness at
Noon" qua bản dịch "Đêm hay Ngày" do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ xuất
bản cùng một thời với những cuốn như "Tôi chọn Tự do"... Chúng vô
tình đánh dấu cuộc di cư vĩ đại với gần một triệu người, trong có một
chú nhỏ
không làm sao quên nổi chiếc chuồng giam giữ thời ấu thơ của mình: Miền
Bắc,
Hà-nội.
Lần Cuối Sài Gòn
Chi tiết là
Thượng Đế trong văn chương.
Cái chi tiết
Thượng Đế của “Đêm hay Ngày”, với Gấu, là khi "Tay Số 2" bị "Tay Số 1"
tống vô tù,
khi cánh cửa phòng giam đóng lại, chàng
bèn rút điếu thuốc, rít 1 hơi thật dài, rồi giơ cái bàn tay của mình
ra, giụi cái đầu
điếu thuốc cháy đỏ vô.
Khủng nhất,
là, khi chàng nhìn lên thì thấy cặp mắt của tên cai ngục từ
cái lỗ do
thám trên cánh cửa!
Hắn khinh bỉ nhìn, và, đóng sập lỗ hổng, bỏ đi!
Tuyệt! Quá
tuyệt!
Còn 1 chi tiết
nữa, cũng thần sầu, là Tay Số 2 biết trước, và đang đêm, chờ, để đệ tử
Tay Số 1 đến tóm.
-Đưa cho ta
cái áo đại quân!
Chàng hét tên VC 30 Tháng Tư đứng lóng ngóng với khẩu súng…
Enrique Vila-Matas
Hannah
Arendt lên phim
"A
Daughter of Our People":
A Response
to Gershom Scholem
Gershom Scholem
(1897-1982) was a
scholar who made a number of pioneering contributions to the study of
Jewish
mysticism. From 1925, his main academic base was at the Hebrew
University of
Jerusalem. For an appreciative review of his Major Trends in Jewish
Mysticism (1946
[1941]), see Arendt's 'Jewish History, Revised" (1948), published in
Feldman,
The Jew as
Pariah, pp. 96-105. Cordial relations between
Arendt and Scholem ended with the publication of Eichmann in
Jerusalem.
July 24,
1963 (New York)
Dear Gerhard.
TV sẽ post và
dịch thư này, vì cũng không dài lắm, và cũng thú lắm. Để so sánh với
những cú đụng
độ giữa đám nhà văn Mít!
“Người con gái
của Nhân Dân”:
Hannah
Arendt trả lời Gershom Scholem
Loạt bài về
Arendt trên TV, là nhân cuốn phim về bà, ra mắt khán giả Âu Châu [Đức
và sau đó
Pháp], trùng với kỷ niệm 130 năm ngày mất và 195 năm ngày sinh của
Marx, thành
ra nó xuất hiện song song với 1 số bài về Mác, như trên Blog của Sến cô
nương.
TV đã tính đi
cái thư Arendt trả lời Gershom Scholem, khi bị ông chê, không có tình
yêu dân
Do Thái, nhưng, nhân đọc bài của Thầy Cuốc, "tôi đếch chống Kộng", thấy
nhảm quá,
bèn đi bài sau đây của Arendt, “Hiểu chủ nghĩa CS”, “Understanding
Communism”, vì thấy cũng cần thiết. TV
scan bản tiếng Anh,
và sau đó, sẽ cố dịch, không dám hứa liều, sure, sure, nữa!
Understanding
Communism
[This review
of Bolshevism: An Introduction to Soviet Communism, by Waldemar
Gurian, Notre Dame, IN, 1952, was published in Partisan Review XX/5,
September-October 1953. While it gives important indications of
Arendt's growing concern at this time with the meaning of Marx's
thought, the review does not suggest the great depth of her feeling for
Gurian himself. She had known this "strange man," "a stranger in
the world, never quite at home in it, and at the same time a
realist," since the early thirties in Germany. For Arendt his was one
of the lives
that illuminated the darkness of the twentieth century. See "Waldemar
Gurian 1903-1954" in Men in Dark Times.]
Gấu, khi mới
lớn đọc Mác, như 1 triết gia, qua những đấng như Lukacs, Lefebvre....
Rồi kinh nghiệm Mác, qua cuộc chiến Mít.
Nhưng để hiểu Mác, như là 1 nhà thực hành, với đám đệ tử của ông như
Xì,
như Mao, thì là nhờ đọc Todorov, cuốn trên, mua hồi 1997, thời gian ở
Vancouver, thư viện toàn sách Tẩy!
Đọc 1 phát,
là thực hành liền, và đó là bài viết Kẻ Bán Xới, đã từng đăng trên mục Tạp Ghi
do Gấu phụ trách trên tờ Văn Học của
NMG.
Nhân cú chống
lại “Tôi không chống Kộng”, của thầy Kuốc, bèn lôi ra đọc lại, song
song với bài của Arendt,
khi bà đọc "Bolshevism: An Introduction to Soviet Communism".
Evil
Axis
Wagner & Zizek vs
Sến
Cả hai nhà văn gối đầu giường
của tôi, Kafka và Nabokov, đều ít
nhiều bỏ âm nhạc ra ngoài trường quan tâm của họ. Lần duy nhất Kafka
nhắc đến
âm nhạc, và không hẳn là tích cực, là trong “Josephine, nữ ca sĩ hay
Dân
chuột“, còn Nabokov thì liệt kê âm nhạc, nhất là âm nhạc làm nền cho
những cuộc
trò chuyện uyên bác, vào danh mục những thứ ông ghét cay ghét đắng.
PTH
Trong Wagner, có… Thiên
Sứ của.... Sến, theo Zizek, khi
ông nghe Wagner, và viết: Tiên tri & Thiên Sứ
Le Magazine Littéraire, Sept 2010
Zizek là 1 trong những chuyên
gia hàng đầu về chủ nghĩa toàn trị.
Đúng hơn, ông đọc lại chủ nghĩa toàn trị, khác cách đọc trước đó.
Ông như tiên đoán
sẽ vẫn còn nhiều tên mù sờ voi, viết nhảm nhí về chủ nghĩa
toàn trị, bèn… chửi:, thằng khốn nào nói tới chủ nghĩa toàn trị đó?
(Did
someboby say totalitariarism?, nhà xb Verso, London, in lần
đầu năm 2001)
Sĩ phu Bắc Kít
vs Dalai Lama
Nhà văn Nguyên Ngọc: Tôi
sinh ra ở Quảng Nam - Đà Nẵng, nhưng tuổi đời đẹp nhất của tôi lại
sống, chiến đấu và viết ở Tây Nguyên. Nếu không có Anh hùng Núp, cụ Mết
thì không có “Đất nước đứng lên”, không có “Rừng xà nu”… và đương nhiên
không có Nguyên Ngọc. Chính cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ của đồng bào Tây Nguyên, chính văn hóa Tây Nguyên với những mái
nhà rông, tiếng cồng chiêng vang giữa núi rừng, những đêm uống rượu cần
nghe già làng kể sử thi… tất cả khiến Tây Nguyên như một bầu sữa mẹ,
tạo nên ngôn ngữ văn chương Nguyên Ngọc. Tôi không nhận mình là một tài
năng văn chương, tôi chỉ ghi lại hiện thực đời sống nơi núi rừng Tây
Nguyên hùng vĩ thôi. (1)
Đây là nghịch lý của cuộc
chiến, thì cứ nói đại như vậy: Một khi chấp nhận anh hùng Núp, thì phải
chấp nhận cái gia tài cuộc chiến là một nước Mít như hiện nay.
Não bộ của những đấng VC tinh anh bị liệt 1 nửa, là vậy.
Chúng không làm sao chấp nhận sự thực, cái chế độ Ngụy mà chúng huỷ
diệt, đẹp hơn nhiều, so với bất cứ 1 chế độ mà dân Mít đã có được.
Đau thế!
Cả 1 cuộc chiến, chết 3
triệu người, chưa kể di tản, vượt biển, để đẻ ra cái chế độ cực kỳ khốn
kiếp như hiện nay, nhưng chưa khốn kiếp bằng cái chuyện, cứ sử thi cách
mạng, anh hùng Núp ca hoài, ca hoài, không hề thấy thúi, không hề thấy
nhục nhã!
Đây cũng là nghịch lý mà
Todorov nêu ra trong bài viết được TV giới thiệu (1)
Ngày mà chúng ta chấp nhận ý nghĩ bi thảm, khi tuyên bố, chủ nghĩa CS
là con đường nhức nhối (tortueuse) dẫn từ "chủ nghĩa tư bản" đến "chủ
nghĩa tư bản", khi đó, những người dân tại những nước cựu-toàn trị
chẳng thể nào nhìn ra, ý nghĩa cuộc đời này (Todorov, p.69, sđd).
Đúng như thế.
Dân Mít còn đau hơn thế: cái “chủ nghĩa tư bản” mà Mít đang có, là Tư
Bản Đỏ Mafia, của “chỉ” những tên Mafia Đỏ.
Ralkolnikov, trong Tội
ác và Trừng phạt (Dostoevsky), chủ trương “tội ác cần thiết”, nhưng
khi giết bà già cầm đồ, anh nhận ra sự thực, "tôi đang xả những nhát
búa lên chính tôi..."
Bạn của Todorov [VC Bulgarie], đã từng than thở với ông, ông ta thấy
mình như một nhân vật giả tưởng, trong một truyện ngắn của Maupassant:
Một bà, mức thu nhập khiêm tốn, mượn bà bạn nhà giàu, chuỗi hạt để đi
dự đám cưới, không may để trộm nẫng mất. Bà ta đã vay mượn một số tiền
lớn, mua một chuỗi hạt tương tự, và sau đó kéo cày trả nợ. Khi đã xác
xơ, già cằn, gặp lại bạn cũ, bà hãnh diện kể lại câu chuyện... Bà bạn
đau lòng than, "Tội nghiệp bạn quá, xâu chuỗi của tôi hồi đó là đồ dởm".
Ông bạn của Todorov đó, là
Nguyên Ngọc, chỉ khác, NN vẫn tin đó là.... đồ thực!
|
|