Tự Truyện
1945. Cách mạng,
Độc lập, Tự do, Dân chủ, Hạnh phúc... đến thăm gia đình anh rất sớm,
đem cha
anh đi biệt tích, để lại lá thư mời dự tiệc tất niên của một người học
trò cũ,
khi đó cầm đầu nhóm võ trang chiếm giữ huyện lỵ, nơi ông làm Hiệu
Trưởng trường
Tiểu Học.
Không ngờ đó
là một cái bẫy. Trong đầu óc non nớt của anh vẫn còn giữ lại cảnh
tượng, buổi
sáng đám người vũ trang chận đường khám xét, chủ ý là đòi tiền mãi lộ,
đòi thịt
cá, con gà, con vịt, mớ rau, mớ tép... của những người dân quanh vùng
đổ về thị
xã những ngày họp chợ. Có thể cha anh, với tư cách một người Hiệu
Trưởng, một
người thầy cũ, đã khuyên bảo người cầm đầu một điều gì đó. Nhưng tôi
không hiểu,
khi nhà trường đã đóng cửa nhân dịp Tết, và cha anh đã đem mấy đứa nhỏ
về quê ở
ngay bên kia sông, mẹ anh vì tiếc phiên chợ cuối năm nên nán ở lại, tại
sao tới
lúc đó người học trò mới có ý định thủ tiêu người thầy cũ. Nếu có thì
giờ, anh
nên tra cứu tìm tòi tài liệu, xác định thời điểm đám người vũ trang bỏ
chạy khỏi
Việt Trì, Vĩnh Phúc, có thể anh tìm ra nguyên nhân cái chết của cha anh.
Ông không ưa
người Pháp. Suốt quãng đời dạy học, ông bị đổi đi nhiều nơi. Lục Yên
Châu, Vĩnh
Yên (Phú Thọ) và Việt Trì (Vĩnh Phúc) là ba nơi sau cùng trên con đường
trở về
khúc sông định mạng. Ông như bị nó ám ảnh , dẫn dụ. Hồi nhỏ ông thường
bơi từ
bên này sông ra tới giữa sông, và những lần lặng sóng, tới tận bờ bên
kia, tới
Việt Trì, rồi lại bơi về. Có thể đám người vũ trang muốn ông theo bọn
chúng,
nhưng cái cảnh chận đường chiếm đoạt tiền bạc, tài sản đã làm ông bất
bình, và
lá thư mời là cơ hội, hoặc tội ác cuối cùng người học trò cũ hy vọng
thực hiện
trước khi bỏ chạy, hoặc trước khi chịu cùng một số phận như vậy.
Ông bị đám
người vũ trang thủ tiêu bằng cách buộc đá bỏ xuống sông, như lời một
người bạn
tù nào đó kể lại. Theo lời kể, cha anh đã không giả ngu giả dại như
người khác.
Cái tính lì lợm, bướng bỉnh nhưng dễ tin người, di truyền tới anh, trở
thành
ngu ngơ, khù khờ, nếu không muốn nói là đần độn. Có lần nghe anh kể tôi
thấy tội
nghiệp, đời thuở nhà ai chỉ vừa nghe nói tới tên cô bạn đã nghĩ ngay
đây là người
của mình, rồi lặn lội lên tận Đà Lạt, tới tận khu nội trú, chỉ để nghe,
ở đây
có một cô sinh viên có tên như thế nhưng đã về Sài-gòn.
Em anh tử trận
tại một khúc sông tại xã Trường Khánh, Sóc Trăng. Còn anh suýt mất mạng
ở nhà
hàng nổi Mỹ Cảnh, nơi bờ sông Sài Gòn. Có thể cha anh đã linh cảm được
số phận
của mấy đứa con trai nên tên đứa nào cũng mang sẵn dấu ấn của định mệnh.
"Thù
oán cá nhân... Cái thằng đó, ngoài tao ra, không coi ai là Thầy." Ông
giáo
Dực đã có lần giải thích khi anh từ vùng "hậu phương", tức vùng kháng
chiến, về Tề, vùng quốc gia, khoảng 1950, 51. Ông là thầy học của cha
anh, và gần
như của tất cả thanh niên trong làng. Sau khi người Pháp nhảy dù xuống
đồng bằng
Sơn Tây và cho lập một đồn binh ngay trên đê cuối làng, ông giáo Dực
trở thành
người thông ngôn cho dân quanh vùng, mỗi khi có bắt bớ, ruồng xét, chắc
có sự đồng
ý của đám du kích xã. Một lần ông dẫn anh theo tới tận đồn, và đó là
lần đầu
tiên anh nhìn thấy một người ngoại quốc.
Hồi nhỏ ông
cũng dạy anh học, và có thói quen phạt học trò bằng cách bắt nằm ngửa
trên một
cái ghế đẩu, hai chân, hai tay chạm đất. Ông nói với anh, bố mày ngày
xưa cũng
bị phạt như vậy, khi tao ra coi thì thấy bố mày ngủ khì. Ông lấy bà cô
ruột của
anh, theo thư của em anh cho biết. Chú Trực, một trong những người con
trai của
ông, hơn anh chừng một hai tuổi, khi đó có khiếu về âm nhạc. Chú dạy
anh chơi
đàn mandoline, và những bản nhạc thịnh hành hồi đó. Qua thư của em anh
cho biết,
chú vẫn còn giữ được một số tập vở, hình ảnh của anh, trong có tập "lưu
bút ngày xanh", hình như vậy.
"Không
ngờ đó là một cái bẫy", Bà nội anh khi còn sống vẫn thường đay nghiến
người
con dâu, phải chi mẹ anh giấu biệt lá thư, tai họa đã không xẩy ra.
Nhưng theo
tôi, mọi chuyện không giản dị như vậy. Gia đình bên nội anh ngèo. Cả
vùng đất vốn
nghèo nhưng được tiếng là đất văn học, có người đỗ đạt ra làm quan với
triều
đình. Làng Vân Xa, quê ngoại anh là một làng nổi tiếng về nghề trồng
dâu, nuôi
tầm, dệt tơ lụa. Ông ngoại anh, ông Bá Quán, là một điền chủ giầu có
nhất làng.
Năm đói, nhà ông bị cướp viếng. Họ tính bắt Bà Ba, bà vợ kế nổi tiếng
khắp vùng
vì độc ác với con chồng, với người ăn kẻ ở, tá điền, và cũng là người
giữ tay
hòm chìa khóa. Nhưng may cho bà đã kịp đóng chiếc cửa sắt, ngăn chặn
bọn cướp
không kịp tấn công vào sào huyệt là nơi cất giữ, chôn giấu vàng bạc,
của cải.
Sau này khi miền Bắc phát động đấu tố, bà cũng may mắn trốn thoát về
Hà-nội, để
ông chồng ở lại chịu tội với nhân dân, với đám tá điền. Nghe nói ông bị
bỏ vô
cũi, bị phơi ngoài nắng, bị đám tá điền tố đủ thứ tội nhưng mục đích
chính của
đội cải cách vẫn là của cải, vàng bạc. Trong một lần dẫn bọn họ đi tìm
vàng,
ông đã nhảy xuống sông tự tử.
Hình như anh
có quá nhiều kỷ niệm cay đắng về bà Ba, vợ kế của ông ngoại anh. Những
buổi bơi
lội bất đắc dĩ, gần như suốt ngày dầm dưới nước, đuổi theo đàn vịt trên
con đầm
chạy vòng từ làng Vân tới làng kế bên. Mấy đứa con của bà, Cậu Cầu, cậu
Tiệp, cậu
Lùn là những bạn học thời thơ ấu của anh. Cậu Toàn em ruột mẹ anh là
người
thương yêu, lo lắng kỳ vọng và sau này đã thất vọng về anh rất nhiều.
Sau 54, về
Hà-nội, cậu làm việc trong ban tuyên huấn, lo tờ Le Courrier du Viêtnam
dưới
quyền Nguyễn Khắc Viện. Cậu nói, suốt thời gian theo cách mạng, khi ở
rừng
không nói, khi được về thủ đô, ao ước lớn nhất của cậu là có một cái
bàn để làm
việc.
"Giàu
có không phải là một cái tội", mấy chục năm sau, gặp lại cô bạn ở xứ
người,
nghe cô bực mình tuyên bố, khi biết được trong thâm sâu người quen cũ
vẫn nuôi
dưỡng mầm thù hận đối với những con người xuất thân từ những gia đình
giầu có,
vẫn tin rằng đằng sau của cải vật chất là những âm mưu, lọc lừa những
tội ác, vẫn
khẳng định một điều, sự nghèo đói rồi sẽ cứu chuộc thế giới. Sau câu
nói biết
đâu còn một chút trách móc giận hờn, phải chi anh đừng ngu si đần độn,
cứng đầu
cứng cổ như vậy, mọi chuyện có thể đổi khác. Nhưng thế giới quá rộng cớ
chi đâu
mà anh lại đâm đầu về cái xó xỉnh địa đầu trái đất, tận cùng cuộc đời,
để tái
diễn thảm kịch.
"Anh chị
ạ, câu ngạn ngữ có nói, sông có khúc, người có lúc. Hay câu thịnh, suy,
bỉ,
bái. Sự vinh quang của dòng họ ta, gia phả ghi rất rõ. Họ Nguyễn ta ở
đất Thanh
Lạng, Thanh Trì, nay Phú Thịnh, Phú Cường, đã tồn tại 20 đời. Em và anh
thuộc đời
thứ 17. Các đời trước em không kể, vì quá dài dòng. Như anh đã viết
trong thư,
trường hợp anh cần, như một tài liệu để dựng lại lịch sử của một vùng
đất xuyên
qua sự thịnh suy của một dòng họ, biết đâu có thể tìm ra một chút
nguyên nhân
cái tai họa xẩy ra cho cả một dân tộc, em rất mong và sẽ sưu tầm dùm
anh. Ở đây
em chỉ tính đời thứ mười bốn trở đi, tới đám con cái của tụi mình.
Đời thứ 14,
cụ Nguyễn Ngọc Chất, đỗ cử nhân, vào Huế thi hội lấy Tiến sĩ, cụ qua
được hai
trường, đến trường thứ ba bị loại vì phạm húy. Như vậy cụ chỉ sau Tiến
sĩ có một
bậc. So với cả khu vực, tính từ Kiều Mộc trở xuống mấy xã lân cận, cụ
đã đỗ đạt
cao hơn cả. Lúc còn sống, cụ được làng Tiên Cát tôn làm Thành Hoàng.
Sau cụ về
làm giáo thụ tại huyện nhà và mất tại quê hương, thọ 64 tuổi, được 7
trai, hai
gái. Ông nội của hai anh em mình, cụ Nguyễn Tái Tịch, được 4 người con,
hai
trai, hai gái, không phải chỉ có hai người con trai như anh đã viết
trong tự
truyện gởi về cho gia đình. Bố chúng ta và Bác Giáo Thái đều là giáo
học, công
chức chánh ngạch, thuộc loại đàn anh trong làng, ngoài xã hội..." "Em
và anh, Bá Hiền, Bá Phúc, anh Sĩ (đời thứ 17) là chịu nhiều cay đắng
hơn cả. Bố
bị đảng phái thủ tiêu. Mẹ góa con côi. Bây giờ em có con, có gia đình
em mới hiểu
được lòng mẹ. Nhà ta ông Nội thì mất sớm, bà Nội bán thân bất toại. Ông
Ngoại,
Ông Bá Quán giầu nhất làng Vân Xa, nhưng cũng chỉ nhờ được những khi lỡ
bữa.
Cái khổ của Mẹ từ khi góa chồng, cái khổ của anh chị em mình có lẽ là
từ năm
51, 52 gì đó..."
"Cái
họa của gia đình mày là do trong
dòng họ đã có một người được thờ làm Thành Hoàng sống", Bà Trẻ có lần
nói.
"Theo như kể lại, vùng đất khi đó xẩy ra bệnh dịch, người chết như rạ.
Sau
cùng phải hỏi nguồn cơn ở cõi âm. Cô Đồng cho biết phải nhờ một người
có đủ đức
độ, có chức sắc, võng lọng của nhà vua ban cho, cầu xin người đó làm
Thành
Hoàng sống, chấp nhận lễ bái phẩm vật, rồi nhờ cái đức của người đó
trấn áp, quỷ
ma mới không làm nguỵ." "Chẳng biết trận dịch có lui không...",
Bà Trẻ buồn rầu nói tiếp, "nhưng hình như bao nhiêu tai họa của cả một
vùng đất, của bao nhiêu con người, đều dồn vào dòng họ mày, con trai
đều bất đắc
kỳ tử. Ông Giáo Dương, bố mày chết lúc hăm mấy tuổi. Ngày xưa đúng ra
là... Em
mày, thằng Sĩ chết năm hai lăm, hai sáu tuổi gì đó phải không, hình như
trước Mậu
Thân một năm. Nếu có may mắn sống sót như mày thì cũng sống một cách
khốn khổ
khốn nạn... Nhiều lần lẩn thẩn suy nghĩ, tao vẫn tự hỏi hay đây cũng là
số phận
chung cho cả... "
Ngày
nào, nếu trí nhớ của anh không bị lầm lạc
giữa những điều tưởng tượng, và những gì có thực, nếu anh tự cho mình
may mắn sống
sót, thực sự đau khổ để hiểu được những chuyện đó, có lẽ anh nên viết.
Anh nên
viết về người vợ, mấy đứa nhỏ, và một, hai người bạn. Một, hai người,
vì tôi biết
anh không có nhiều, một phần anh chỉ lo tìm bạn trong mớ sách vở, tôi
muốn nói
những người đã chết, một phần vì anh vốn chậm lụt so với cuộc đời. Anh
luôn đến
muộn, ở một cuộc vui đã tàn, mọi người đã bỏ đi hết. Có thể anh thực sự
muốn đến
sau mọi biến động. Khi mọi người cố gắng muốn quên đi, anh sợ hãi la
hoảng:
"Không được, không được!". Nếu anh cứ tiếp tục sống như vậy, một ngày
nào quá khứ sẽ đánh gục anh. Vả lại, trong những lần ham vui, anh ưa
nói về
mình, về cái tôi đáng ghét, và tôi nghĩ, một ngày nào, một, hai người
bạn anh
cũng chẳng còn.
Anh nên viết
về vợ con anh, như thể anh đã được yêu thương và được tha thứ, như thể
họ đã bỏ
qua cho anh tất cả những điên khùng rồ dại muốn tàn phá không chỉ đời
mình mà
luôn cả của họ, như thể anh đã sống lạm sang phần đời của vợ con anh.
Bà mẹ anh
khi còn sống vẫn thường nói, mấy đứa nhỏ thật vô phúc mới sinh nhầm cửa
nhà
này. Anh nên bắt chước một người bạn của anh, lấy giấc mơ thầm thường,
giản dị
của vợ con làm của mình, quên đi những mộng lớn, nhỏ, cũ, mới... Chúng
quá đẹp
nên không thực, hoặc chúng có quá nhiều ý nghĩa nên cuối cùng chẳng có
một ý
nghĩa nào.
Anh nên viết
về cha anh, mẹ anh, đứa em trai đã tử trận như thể họ đi xa và mang
theo một phần
đời của anh, như một dự trữ cho một cuộc đời sẽ tới, may ra, biết đâu
có thể có
được; nhưng cũng như thể anh đang sống đây là sống cho họ. Luôn cả cho
người chị
và đứa em trai còn ở Miền Bắc mà có thời anh muốn quên đi như cố thù
ghét thời
thơ ấu của mình.
Viết,
chỉ cho họ, bởi anh đâu cần một thiểu số
trí thức chọn lọc hay không chọn lọc, mắt xanh hay không mắt xanh; một
đa số thầm
lặng hay không thầm lặng, đặc quyền hay không đặc quyền, nhân dân hay
không
nhân dân. Anh đừng trông mong hai ba trăm năm sau có người nhỏ lệ. Anh
không thấy
bao nhiêu con người không kịp sống cuộc đời này chỉ vì một cuộc đời
ngày mai.
Bao nhiêu con người nhỏ lệ hôm nay, chỉ vì hy vọng hão huyền ngày mai
ca hát.
Anh chỉ cần những người thân hiểu, và tha thứ cho anh. Họ đã trông
mong, chờ đợi
ở anh quá lâu rồi. Bởi vì họ cũng chỉ có một đời để sống, và họ cũng sẽ
già, sẽ
chết, và anh sẽ hối hận vì không bao giờ dám thú nhận anh thương yêu họ
và làm
cho họ đau khổ biết là chừng nào.
Cách
Mạng viếng thăm gia đình anh rất sớm, đem
cha anh đi biệt tích, để lại một bà mẹ với bốn đứa nhỏ, đứa lớn nhất
chưa đầy
10 tuổi. Ông bị một người học trò cũ thủ tiêu. Một kỷ niệm anh còn giữ
được về
cha anh, đó là một bữa ông từ đâu chạy vội về nhà la lớn: "Nước nhà độc
lập
rồi!". Kỷ niệm ngày càng nặng chĩu sự đói khổ cơ cực, mặc cảm mồ côi ăn
nhờ
ở đậu hết ông chú bà bác bên nội bên ngoại, thêm nỗi lo sợ một ngày nào
đó mẹ
anh sẽ bước thêm bước nữa vì không chịu nổi những lời đay nghiến của mẹ
chồng,
sự độc ác của xã hội. Khi anh viết về những chuyện đó, tôi nghĩ anh cố
gắng tìm
ra ý nghĩa đầu tiên của thảm họa. Anh muốn nhìn một lần cho tất cả, từ
khởi thủy
đến tận cùng. Tôi biết anh còn muốn kể lại, lần đầu tiên anh đọc được ở
đâu hai
chữ kỳ lạ, tuy không hiểu nghĩa nhưng anh mang áp dụng ngay vào đứa em
ruột:
"Mày là một đứa bé mồ côi". Câu chuyện xảy ra ngay vào giây phút cuối
cùng của cha anh, đúng những ngày Tết kinh hoàng năm đó.
Tôi
biết anh còn muốn kể lại, lần đầu tiên anh
xuống xe đò, đi lang thang trên con lộ dẫn vào quận lỵ, khi đi ngang
cây cầu gỗ,
rồi tiếng đạn từ chi khu bắn đi nghe chát chúa bên tai. Đó là lần đầu
tiên anh
nhận ra chiến tranh có thật, và tất cả những gì anh tưởng tượng về cô
bạn đều
có thật. Mặt nước sông nhăn nhó để lộ sự giận dữ của thiên nhiên, vẻ
gớm ghiếc
của số mệnh. Cùng lúc anh nhận ra nỗi đau khổ, sự thông cảm. Sau mặt nạ
đầy hăm
dọa của dối trá, anh nhận ra một khuôn mặt khác, một cuộc đời khác,
đúng không,
đúng không?...
Bà
Nội anh, chồng chết sớm, ở vậy nuôi hai người
con trai. Mẹ anh có lần nói về sự hà tiện của cụ. Câu chuyện chắc do
cha anh kể
lại. Cụ kho một nồi cá, không dám cho con ăn một lần, cứ bắt để dành,
sau cùng
nồi cá biến thành ròi. Những ngày cuối cùng cụ bị bán thân bất toại,
không một
người con trai, con dâu nào kế bên, ngoài hai đứa cháu nội còn nhỏ, ham
chơi.
Tôi không hiểu bằng cách nào anh vẫn còn nhớ ước muốn cuối cùng của cụ.
Cụ
thèm một tô phở Trung Hà (tên một thị trấn
địa đầu tỉnh Sơn Tây, tiếp giáp Phú Thọ). Tôi nghĩ khi còn trẻ, phải
chạy ngược
chạy xuôi, buôn bán tảo tần nuôi con ăn học, chắc cụ đã có lần được
thưởng thức
một bát phở của một tay đầu bếp nhà nghề ở nơi thị tứ đông đúc đó. Đó
là hương
vị cuối cùng cụ còn giữ được của thế gian này.
Hồi
nhỏ, thời gian dài anh sống thường trực với
nỗi ám ảnh về cái chết của cha anh. Mỗi lần bơi lội cùng chúng bạn, anh
thường
lặn thật sâu, rồi cố gắng nín thở cho đến khi không còn chịu đựng nổi.
Mẹ anh kể
có lần bà trông thấy người mặc bộ đồ complet của cha anh. Tuy biết rằng
chồng
mình không còn, nhưng bà vẫn mơ hồ hy vọng, vẫn tất tưởi nơi này nơi
nọ, mỗi lần
nghe một ngừơi nào đó đã gặp một người tương tự như vậy, ở đây, ở kia.
Cho đến
khi bà mẹ chồng hết còn cáng đáng nổi, bà đem mấy đứa con gửi mỗi đứa
mỗi nơi.
Bốn anh chị em xa nhau từ ngày đó.
Một
ngày nào, anh nên viết về những chuyện đó
không phải bằng thứ ngôn ngữ vay mượn từ mớ sách vở mà cũng chẳng cần
văn hoa
chải chuốt. Anh thử viết bằng một thứ tình cảm không phải của anh mà
của vợ con
anh. Tôi biết anh là người thường che giấu tình cảm và đó là một trong
những
nguyên nhân gây ra thảm họa. Riêng về chuyện cô bạn, tôi hiểu và tha
thứ cho
anh. Tôi thông cảm những ngày tháng đó, những lần anh chạy xe như điên
trong
thành phố, tìm gặp từng hồn ma Mậu Thân để hỏi thăm tin tức đứa em
trai. Tôi
thông cảm nỗi đắng cay và tâm sự không sao tỏ bày. Tôi biết cô bạn đã
tha thứ
cho anh trong việc làm vô ích, tìm lại quãng đời đã mất...
Xì
Lô thân thương,
Xì
Lô, cô Út sinh ngày 13 tháng 4 năm 1975.
Sau này những lúc gia đình quá khổ sở, bố mẹ cô vẫn thường than thở,
phải chi
không có cô chắc là gia đình đã đi Mỹ từ những ngày tháng Tư năm đó
rồi. Bữa
nay sinh nhật thứ 21, bố mẹ chỉ có cô ở bên. Mấy anh chị của cô ở quá
xa, biết
ngày nào gặp lại. Bố mẹ chỉ còn biết cầu nguyện tất cả đều khỏe mạnh,
an lành.
Bố mẹ chỉ mong Xì Lô được hạnh phúc.
Người ta nói, những đứa trẻ
sinh ra từ một gia
đình vợ chồng không hòa hợp, nói rõ hơn, những đứa trẻ bất hạnh thường
dễ thành
công trên đường đời nếu chúng vượt qua được những mặc cảm tuổi thơ. Có
lần cô
nói, từ khi con qua đây, mới đó mà đã gần nửa năm, gạt nỗi nhớ anh chị
qua một
phần trái tim, mỗi lần thấy bố mẹ vui đùa con ứa nước mắt vì sung
sướng. Suốt
tuổi thơ chúng con chưa hề biết đến những giọt nước mắt hân hoan hạnh
phúc đó.
Thật cũng may, cuối cùng bố mẹ
lại tìm thấy
nhau, cho dù bố mẹ biết rất rõ, nếu cuộc đời được làm lại từ đầu, thì
mọi chuyện
vẫn y nguyên như vậy. Chắc là bố sẽ lo cho mẹ thêm một chút xíu, nhờ
vậy mẹ sẽ
bớt đi một chút, niềm tủi thân.
Như con biết đấy, gia đình
mình, ngoài chú Sĩ
đã tử trận, bố còn một người chị và một đứa em trai út ở miền Bắc.
Trong những
năm chống Mỹ cứu nước, chú Bảo bị qui thành phần có mẹ và anh di cư nên
không
được quyền đi bộ đội, sau đó chú làm công nhân cho nhà máy đường Việt
Trì, nhờ
vậy mà còn sống. Bá Hiền lấy chồng có được một đứa con gái. Chồng vào
Nam chiến
đấu mất tích. Qua đây gần một nửa thế kỷ, bố mới nhận được tin tức của
chị và
em. Đúng là nửa thế kỷ, bởi vì khi ông Nội mất tích ngay từ năm 1945 vì
tai họa
đảng phái, bà Nội phải đem mấy đứa con gửi mỗi đứa một nơi, bố không
gặp bá Hiền,
chú Bảo kể từ ngày đó.
Con đã đọc
thư chú Bảo thì biết gia đình mình ở ngoài Bắc. Đó là quê hương mà bố
phải từ bỏ,
theo bà Nội vào Nam, và khi chú Sĩ chết, bố tự nhủ sẽ chẳng khi nào trở
về. Đấy
là một phần lý do tại sao bố lấy mẹ. Bố muốn các con có một quê hương
Miền Nam,
các con sẽ cần tới nó như bố cần tới mẹ vậy.
Trước tháng
tư năm 75, ngoài công việc của một công chức, bố còn làm thêm cho một
hãng
thông tấn nước ngoài. Khi hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam
được ký
kết, bố thôi làm cho họ, tính bỏ Sài-gòn đưa gia đình về một tỉnh lỵ.
Nhưng biến
cố 30 tháng 4 năm 75 đã xóa sạch mọi dự tính. Ngày 28 hay 29 tháng 4 bố
không
còn nhớ rõ, thành phố đang trong cơn hỗn loạn, bố gặp lại người sếp cũ,
lúc này
làm cho tờ báo Time, tới Sài-gòn làm phóng sự về cuộc di tản. Lúc đó cơ
quan
DAO của Mỹ đã đóng cửa, không còn máy bay C.130, anh ta bảo chỉ có thể
đi bằng
trực thăng ra Đệ Thất Hạm Đội, và như vậy chỉ một mình bố đi được thôi.
Bố
không thể bỏ mẹ và các con trong lúc mấy chục binh đoàn Cộng Sản Bắc
Việt đang
chờ sẵn ở ngoại ô thành phố và viễn tượng biển máu đang chờ đợi người
dân
Sài-gòn. Chết một đống còn hơn sống một người, Bá Hiền viết thư qua cho
biết,
ngày xưa bà Nội đã nói với Bá như vậy, lần về đón Bá cùng đi vào Nam,
nhưng Bá
không đi vì còn mê phong trào. Bố đã ở lại. Phải chi ngày đó bố chạy
theo người
Mỹ, gia đình mình đã không gặp những cảnh ngộ đói khổ, tủi nhục như hầu
hết những
gia đình Miền Nam khi Cộng Sản Bắc Việt thắng trận. Nhưng chính những
ngày
tháng sống dưới chế độ Cộng sản, những ngày tù đầy, những nỗi đói khổ
mà gia
đình mình đã trải qua khiến bố mẹ hiểu nhau hơn. Vả lại, sự thành đạt ở
nước
người nhiều khi phải trả một giá quá đắt. Chắc chắn một điều, con không
thể
quên tiếng Việt. Đó là khí giới hữu hiệu nhất để chống lại sự tha hóa
mà đôi
khi người ta lầm lẫn là hội nhập. Và để chống lại sự cô đơn, niềm lãng
quên, và
tuyệt vọng.
Hôm nay là
sinh nhật của con, đúng ra chẳng nên nhắc chuyện đau buồn nhưng tháng
Tư vẫn
luôn luôn làm những ngưòi như bố mẹ cảm thấy bứt rứt. Có lẽ đã đến lúc
bố mẹ
đem cất kỹ lá cờ phủ trên quan tài chú Sĩ vào một nơi thật yên ổn, thật
thiêng
liêng là trái tim của mình...
Nguyễn
Quốc Trụ