Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 



24.2.2014


Thơ Mỗi Ngày


Valentine's Day

Ma Soeur

                  Nguyễn Tất Nhiên           

Ðưa em về dưới mưa
Nói năng chi cũng thừa
Phất phơ đời sương gió
Hồn mình gần nhau chưa ?
Tay ta từng ngón tay
Vuốt lưng em tóc dài
Những trưa ngồi quán vắng
Chia nhau tình phôi thai
Xa nhau mà không hay
Hỡi em cười vô tội
Ðeo thánh giá huy hoàng
Hỡi ta nhiều sám hối
Tính nết vẫn hoang đàng !
Em hiền như ma soeur
Vết thương ta bốn mùa
Trái tim ta làm mủ
Ma soeur này ma soeur
Có dịu dàng ánh mắt
Có êm đềm cánh môi
Ru ta người bệnh hoạn
Ru ta suốt cuộc đời
Cuộc đời tên vô đạo
Vết thương hành liệt tim!
Ðưa em về dưới mưa
Xe lăn đều lên dốc
Chở tình nhau mệt nhọc!
Ðưa em về dưới mưa
Áo dài sầu hai vạt
Khi chấm bùn lưa thưa
Ðưa em về dưới mưa
Hỡi em còn nít nhỏ
Chuyện tình nào không xưa ?
Vai em tròn dưới mưa
Ướt bao nhiêu cũng vừa
Cũng chưa hơn tình rụng
Thấm linh hồn ma soeur

(1971)


*

THE ROMANTIC DOGS

Back then, I'd reached the age of twenty
and I was crazy.
I'd lost a country
but won a dream
As long as I had that dream
nothing else mattered.
Not working, not praying
not studying in morning light
alongside the romantic dogs
And the dream lived in the void of my spirit.
A wooden bedroom,
cloaked in half-light,
deep in the lungs of the tropics.
And sometimes I'd retreat inside myself
and visit the dream: a statue eternalized
in liquid thoughts,
a white worm writhing
in love.
A runaway love.
A dream within another dream.
And the nightmare telling me: you will grow up.
You'll leave behind the images of pain and of the labyrinth
and you'll forget.
But back then, growing up would have been a crime.
I'm here, I said, with the romantic dogs
and here I'm going to stay.

Chó lãng mạn

Vào cái hồi đó, khi tớ tới tuổi đôi mươi
Và tớ khùng.
Tớ mất một xứ sở
Nhưng được một giấc mộng
Một khi mà tớ còn giấc mộng
Thì đếch có gì đáng kể so với nó
Đếch cần làm, đếch cần cầu nguyện
Đếch học hành trong ánh sáng ban mai
Bên cạnh mấy con chó lãng mạn.
Và giấc mộng sống trong quãng trống của cái đầu của tớ.
Một cái giường gỗ
Móc lơ lửng trong nửa sáng nửa tối
Sâu, thật sâu trong những lá phổi nhiệt đới.
Đôi khi tớ lặn vô chính tớ
Và viếng thăm giấc mộng: một bức tượng vĩnh cửu hóa trong những tư tưởng, ý nghĩ lỏng như nước
Một con sâu trắng quằn quại
Trong tình yêu.
Một tình yêu bỏ chạy.
Một giấc mộng trong một giấc mộng.
Và một cơn ác mộng biểu tớ: Mi sẽ lớn lên, sẽ trưởng thành.
Mi sẽ để lại đằng sau mi những hình ảnh của nỗi đau và của mê cung
Và mi sẽ quên.
Nhưng vào cái lúc đó, lớn lên trưởng thành thì đúng là một tội ác.
Tớ thì ở đây, tớ nói, cùng với những con chó lãng mạn.
Và sẽ tiếp tục ở đây.

*

Trong những chuyện về… Valentine, có một, của Garcia Marquez, trên TV đã từng kể, và nay kể lại, vì có liên quan đến nhận xét của người tử tế là Trần Văn Thuỷ, cái gì gì, chỉ có thú vật thì mới quay lưng với…  thú vật, để chau chuốt bộ da của nó.

Một em thầy bói, bói được ngày chết của ẻn, và, cũng gần gần, thế là bèn dạy cho con chó cưng ngày ngày ra mộ của em, miệng ngậm bó hoa, vì em biết, sẽ đếch có ai làm cái việc đó, ngoài con chó, tất nhiên!

Thế rồi, trong 1 lần training chó như thế, em gặp 1 đấng coi cũng được lắm, đấng này mời em lên xe, chở về thành phố, vì nghĩa trang chắc là ở ngoại ô. Đến nhà, không lẽ không lịch sự mời vô làm ly cà phê, nghe Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ… Và trong lúc em loay hoay mở cửa thì bèn ngộ ra, những điềm báo của những con bài, không phải về cái chết, mà là về tình yêu.

Blues

Eighteen years I've spent in Manhattan.
The landlord was good, but he turned bad.
A scumbag, actually. Man, I hate him.
Money is green, but it flows like blood.

I guess I've got to move across the river.
New Jersey beckons with its sulphur glow.
Say, numbered years are a lesser evil.
Money is green, but it doesn't grow.

I'll take away my furniture, my old sofa.
But what should I do with my windows' view?
I feel like I've been married to it, or something
Money is green, but it makes you blue.

A body on the whole knows where it's going.
I guess it's one's soul that makes one pray,
even though above it's just a Boeing.
Money is green, and I am gray.
                                                  1992

Joseph Brodsky: So Forth

 

Blues

Mười tám niên của tớ qua đi ở Manhattan.
Tên chủ nhà lúc đầu OK, nhưng sau đó đếch được.
Một tên khốn kiếp. Man, sao tớ tởm hắn ta thế!
Tiền thì xanh, nhưng nó chảy như máu.

Tớ nghĩ, chắc là phải khăn gói quả mướp làm 1 chuyến qua sông
New Jersey gật đầu, vẫy vẫy, với khối ánh sáng rực lửa của nó
Nè, mười mí năm qua đi thì cũng không đến nỗi tệ.
Tiền thì xanh, nhưng nó không nẩy nở.

Tớ mang đi cái bàn, cái ghế, cái tràng kỷ cũ.
Nhưng làm sao bi giờ, với những lần đứng ở cửa sổ ngó trời đất, đường phố?
"Không hiểu vì sao, không đóng bao giờ: "
Tớ cảm thấy mình kết hôn với nó, lấy nó làm vợ, hay 1 điều gì đại khái như thế.
Tiền thì xanh, nhưng nó khiến bạn thành “blue”

Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà:
Cơ thể, trọn 1 cục, nó biết, nó đi đâu, cho dù chỉ là 1 chuyến giang hồ vặt
Tôi nghi là, hồn ai người nấy giữ, người đó cầu nguyện
Cho dù, phía bên trên kia, chỉ là cái Boeing.
Tiền thì xanh, và Gấu thì nhớ Hải Âu.

[To U. Merry Christmas. Take Care. GNV]

 Of memory, the unhappy man's home.
How to guess time of night by listening to one's own heartbeat
Why we can't see the end of our nose.
On the obscurity of words and clarity of things.

Why songbirds shit while they sing.
The truth about sneezing in church.
A few tips on how to make bad wine taste good.
What tunes to whistle while walking past a graveyard at night.
What to say to a mirror at four in the morning.
Plus a few thoughts regarding the little dolls she made that all looked like me.
How she stuck them with pins and hung them in a tree. 

Charles Simic

Chát Khuya

 
Về hồi nhớ, cái nhà của 1 thằng đàn ông bất hạnh.
Làm sao biết mấy giờ đêm, khi nghe tiếng đập của tim mình.
Tại làm sao chúng ta không thể nhìn thấy cái chỏm mũi của mình.
Về sự tối tăm của từ ngữ và sự sáng sủa của sự vật.

Tại làm sao mấy con chim lại hót khi ị.
Sự thực về những cú hắt hơi trong nhà thờ.
Vài cái mánh về làm thế nào cho rượu vang dở thành thứ xịn.
Những điệu nhạc nào bạn huýt sáo khi đi ngang nghĩa địa vào ban đêm.
Bạn nói với cái gương điều gì khi ngó cái bộ mặt của bạn ở trong đó, vào lúc 4 giờ sáng.
Thêm vài ý nghĩ nho nhỏ về những con búp bế mà em làm ra, tất cả đều giống tớ.
Bằng cách nào em đính chúng, và treo lên 1 cái cây


.**

Un « écrit non écrit », l'ombre de l'inconscient

Si Duras a toujours revendiqué son indépendance face à la psychanalyse, elle peut décrire le processus d'écriture en des termes évoquant les pensées freudienne ou lacanienne.
Par Florence de Chalonge

Viết như không viết.

Khi sử dụng cụm từ này, để miêu tả cách viết của Thảo Trần, qua cảm nhận của Thảo Trường và Nhật Tiến, khi đọc Nơi Dòng Sông Chảy Về Phía Nam; một vị độc giả của TV còn khen TT viết tự nhiên hơn Cô Tư, và Tara của TT mới đúng là Tara, của Cô Tư có mùi Cách Mạng, [nhân tiện đây, xin cám ơn], GCC không nghĩ là lại có người chôm của Gấu, để gọi cách viết của em Đầm thực dân đã từng sống ở Sa Đéc.
Nhưng với Florence de Chalonge, tác giả bài viết, "viết không viết" của Duras là viết dưới bóng của vô thức. Còn với TT, là sự tự nhiên của đời sống thực chuyển vào ngòi viết.
Khác nhau.

*

Ngày, tháng, năm

Má,

Má, xin má hãy tha thứ cho con. Khi còn nhỏ dại con đã nhiều lần xúc phạm đến má. Tuổi trẻ vô tri tàn nhẫn, thậm chí con còn trả lời bạn bè: tao mồ côi cả cha lẫn mẹ, bà đó khùng, tao đâu phải con bà. Con còn làm nhiều điều đại nghịch, bất hiếu bất nghĩa với má mà giờ đây mỗi khi nghĩ lại con đau khổ vô cùng.

Ngay từ khi bắt đầu bước chân ra đời, con đã nhận ra ngay lầm lỗi của con đối với má, nhưng bản tánh ngoan cố con đã ngụy biện đổ thừa cho hoàn cảnh này, hoàn cảnh nọ. Điều con nhận ra trước hết là khi sanh con ra, má mới 21 tuổi đời, chồng thì chết, nhà ngoại lại nằm trong vùng Việt Minh kiểm soát, Tây ruồng bố mỗi ngày lại thêm bọn cường hào ác bá dựa hơi tác oai tác phúc, mà má lại trẻ đẹp thì làm sao có thể ở vậy nuôi con. Lầm lỗi thứ hai của con là oán trách má đã không nhìn nhận con khi ngoại dẫn con đi thăm má sau 12 năm con sống với ba má nuôi, với người dưng nước lã, dù ba má nuôi con rất thương yêu con, nhưng những kẻ ác mồm ác miệng họ gọi con là đồ trôi sông lạc chợ. Lúc đó mọi chuyện đã an bài. Má không thể nhìn con để bỗng chốc đổ vỡ cái hạnh phúc mong manh của má và của mấy đứa em cùng mẹ khác cha với con. Lúc đó con nghĩ là má hạnh phúc trong cảnh nhà cao cửa rộng, lắm bạc nhiều tiền nên đã không ngó ngàng gì đến đứa con côi cút mà chính mình đã rứt ruột đẻ ra rồi bỏ rơi nó từ khi hai tuổi. Con nào hiểu được là ngoại đã đưa con đi thăm má không đúng lúc, ngoại cũng đâu biết gì, thấy con vừa thi đậu trung học đệ nhứt cấp, ngoại mừng quá nên muốn chia sẻ với má.

Người chồng sau của má, con trai thừa tự của một gia đình thế gia vọng tộc, đã có một người đàn bà khác, và sẵn sàng kiếm cớ để bỏ má. Vì phải bảo vệ quyền lợi của mấy đứa con, nên má đã ngậm đắng cay sống nhịn nhục, khổ đau và buộc lòng từ chối không nhìn nhận đứa con tội nghiệp mà mình đã bỏ nó hơn 12 năm trời.

Khi má ly dị xong xuôi, được hưởng phân nửa gia tài, lúc này má mới yên lòng và tìm cách đi thăm con, con còn nhớ năm đó con đã học xong trung học và đang học sư phạm, con đã từ chối không gặp má, không nhận bất cứ thứ gì má mua cho con dù con rất cần, vì ba má nuôi con nghèo, không thể cho con đủ những thứ cần thiết, mà một thiếu nữ ở tuổi con thời đó cần, con không thể quên được lần cuối cùng má đến trường thăm, con đã giận dữ đuổi má ra khỏi cổng trường, ném theo sau quà bánh vật dụng mà má đã mang cho con. Má bước đi chan hòa nước mắt, con đã làm cho má hết sức bẽ bàng với bạn bè con…  Má ơi mỗi lần nhớ đến đoạn này là con nghe tim mình đau buốt.

Ngày cưới con má cũng không về, năm đó nước lụt ngập tràn quốc lộ, phải rước dâu bằng thuyền, con sắp bước vào cuộc đời làm vợ, làm mẹ mà không hề nghe được một lời dặn dò thân thiết nào của ngay chính người đã sanh đẻ ra mình. Sau này con mới biết là ba má nuôi con không cho má hay, khi má hay thì con đã theo chồng. Ba má nuôi con đã yêu thương con như ruột thịt đã nuôi nấng cho con ăn học nên người, họ cũng không muốn mất con và cũng có nói xấu má, những điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức con, rồi khi lớn lên thêm ba mớ chữ nghĩa lại làm cho con hợm mình và tưởng đâu chính mình mới là người có quyền tha thứ cho đấng sanh thành.

&*

"Đập Ngăn Thái Bình Dương" được coi là tuyệt tác thế giới (Obs). GCC cũng chỉ mê có cuốn này của Duras. Vấn đề là, liệu có 1 sợi chỉ Adriane, nối kết Duras, với một Cô Tư, một Thảo Trần, một…. Mai Ninh?  TT viết, “nơi dòng sông chảy về phía Nam”, Duras thú nhận, "Quê hương tôi là một xứ nước, Mon pays, c’est une patrie d’eau". Cô Tư thì khỏi nói, văn của cô là cả 1 miền sông nước.

Nguyễn Ngọc Tư và Mai Ninh

&

Woolf vs Duras
abt Death

Note: Woolf, GCC cực mê. Còn Duras, chỉ mê “Đập ngăn TBD”.
Tuy nhiên Duras Sadec làm nhớ tới Cô Tư Camau.
Và "bấn loạn [vấn nạn]", liệu hai nữ văn sĩ này đều là đặc sản Nam Bộ, hoặc, có gì mắc mớ?

Một bà là sex và chế độ thực dân thuộc địa.
Một bà là “Cánh đồng bất tận”, bướm nhiều hơn muỗi rừng U Minh!

*

Đây là 1 khiá cạnh khác nữa, của "vấn nạn" “Oẳn Tà Roằn": Sắc dân và Sex, vào cái thời còn mẫu quốc.

*

Cắm Faulkner vô 1 vùng đất, Miền Nam Sâu Thẳm, thì không có nghĩa giản trừ, hoặc khoanh vùng - theo kiểu của 1 tên ngu  khi gọi NNT là "đặc sản Nam Bộ", thí dụ. Ngược hẳn lại... kẻ sáng tạo khủng khiếp những huyền thoại, được chuyển  động, múa may quay cuồng, từ luồng hơi thở sử thi, tác giả “Giáo Đường” - với NNT là “Cánh Đồng Bất Tận”, theo GCC, chẳng thua gì "Giáo Đường" - đã biến nó thành 1 vũ trụ tâm thần.

"Nghệ sĩ là kẻ sáng tạo bị kiềm chế bởi những con quỉ của người đó", Faulkner phán, trước khi chết ít lâu.
"Nghệ thuật thì đếch mắc mớ gì tới hài lòng, bình an".


Adieu & Bon Voyage, Nguyễn Quang Sáng!


**

*

*

Thơ Ở Đâu Xa

Lần đó, ông em kể lại, trong cuốn DVD đám tang ông anh, hai anh em còn ở chung trại. Cùng đi vác nứa, chỉ tiêu mỗi trại viên là 10 cây. Không ai lo nổi cho ai. Ai về trước thì được ăn bo bo trước.
Thường, cỡ năm giờ chiều là về đủ. Bữa đó, thiếu một mình ông anh. Phải đến chín giờ tối, ông anh mới về.

Cả trại lo, như ông em kể lại cho Gấu nghe, lần gặp ở San Jose, khi Gấu nghe tin ông anh mất, bèn bay vội qua Mẽo, và đó là lần đầu tiên gặp lại bạn Chất, sau cái lần gặp ở gần cầu Thị Nghè, bạn hình như vừa nhà thương ra, sau 1 ca mổ dạ dày thì phải, xanh lướt, và rút bóp đưa Gấu 1 tờ khá lớn. Bye bye bạn xong, là Gấu bèn quay trở lại hẻm 72 làm thêm cú nữa, hà hà!

Nhìn bức hình mấy đấng văn nghệ sĩ Ngụy ngồi hầu đàn, hầu rượu nhà văn Cách Mạng miệt vườn NQS - chắc cũng thời gian TTT vác nứa, có thể lắm, "một kỷ niệm xa xôi" - Gấu Cà Chớn bỗng nhớ tới bài tưởng niệm Nadezhda Mandelstam của Brodsky. Câu phán của ông, “Mỹ mới là Mẹ của Đạo Hạnh”, là cũng cùng cái ý "Chính Trị mới là Đỉnh Cao của Nghệ Thuật", như Coetzee giải thích:

“Trong diễn từ Nobel, Brodsky vạch ra một mỹ tín [aesthetic credo] mà cuộc sống đạo đức của dân chúng sẽ được xây dựng trên nền tảng đó. Mỹ học như ông nói, là mẹ của đạo đức, theo nghĩa, con người càng trọng mỹ tới đâu thì sàng lọc ra cái vô đạo tới đó. Và nếu như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về phía của cái tốt. [Good art is thus on the side of the good]. Cái ác, cái tà ma, về mặt còn lại, ‘đặc biệt là cái ác chính trị, luôn luôn là một thứ văn phong tồi tệ” [Evil, on the other hand, ‘especillay political evil, is always a bad stylist”. On Grief… trang 49].”
*

Có một điều gì trong ý thức của văn giới, nó không thể chịu nổi quan niệm về quyền uy tinh thần của một kẻ nào đó. Họ tự nén mình trước sự hiện hữu của một Đệ Nhất Bí Thư Đảng, hoặc một Lãnh Tụ, như trước một cái ác cần thiết, nhưng họ hăng say chất vấn một nhà tiên tri. Điều này như thế, chắc hẳn là vì, bị gọi là một kẻ nô lệ, là một thông tin ít làm ngã lòng hơn, so với bị gọi là một con số không, về mặt tinh thần. Nói cho cùng, một con chó bị suy sụp thì cũng chẳng nên đá nó làm gì. Tuy nhiên, nhà tiên tri đá con chó suy sụp không phải để kết liễu nó, mà để cho nó đứng thẳng chân trở lại. Sự đề kháng trước những cú đá đó, sự chất vấn về những tuyên xưng và cáo buộc của nhà văn, không tới từ ước muốn tìm sự thực, mà tới từ sự đắc chí về mặt khôn lanh, láu cá của kiếp nô lệ. Vậy thì, càng tệ lậu hơn, đối với giới văn học, khi quyền uy không chỉ riêng về tinh thần, mà còn về văn hóa - như là trong trường hợp của Nadezhda Mandelstam.

Mượn một câu của W.H. Auden, thơ ca lớn "xô đẩy" bà vào văn xuôi, [great poetry 'hurt' her into prose]. Đúng như vậy. Bởi vì gia tài của hai nhà thơ lớn này chỉ có thể phát triển và tỉ mỉ, chi li mãi ra, bằng con đường văn xuôi. Với thơ, họ chỉ có thể có đệ tử. Và điều này đã xẩy ra. Nói một cách khác, văn xuôi của Nadehda Mandelstam là môi trường độc nhất cho ngôn ngữ-chính nó, bởi vì chỉ có như vậy, ngôn ngữ mới thoát ra khỏi tình trạng ao tù, trì đọng. Tương tự như vậy, nó là môi trường độc nhất khả hữu, cho một cõi tâm linh được hai nhà thơ dựng lên, qua cách sử dụng ngôn ngữ của họ. Do đó, tuy hoàn tất thật là tuyệt vời hai chức năng - hồi ký và chỉ dẫn  về cuộc đời của hai nhà thơ - hai cuốn sách còn làm được điều lớn lao sau đây: Chúng thắp sáng ý thức dân tộc. Riêng phần này, ít ra, chúng thật đáng được lưu truyền, sao chép.

Tuy nhiên, vẫn còn chút ngạc nhiên nho nhỏ, rằng sự thắp sáng ý thức quốc gia dân tộc này, nó là hậu quả của việc tố cáo hệ thống, chế độ. Hai cuốn sách của Bà Mandelstam thực sự là đã nhắm tới Ngày Phán Xét trên thế gian, về thời của bà và văn chương của nó - một sự phán xét rất ư là chính đáng, bởi vì kể từ thời của bà, sự nghiệp vĩ đại có tên là xây dựng thiên đàng trên trái đất này được khởi công thực hiện. Chút ngạc nhiên nhỏ nhoi hơn, là, hai cuốn hồi ức này, đặc biệt là cuốn thứ nhì, đã không được ưa thích bởi phía bên kia Bức Tường Điện Cẩm Linh. Giới cầm quyền, tôi phải nói, họ tỏ ra thành thực [honest] hơn, so với đám trí thức, ấy là nói về mặt phản ứng do mấy cuốn sách gây ra. Họ chỉ nói, việc sở hữu những cuốn sách đó là phạm luật. Nhưng về phía đám trí thức, nhất là đám ở Moscow, họ nhao nhao lên, như là một cái chợ, trước những lời cáo buộc nhắm vào rất nhiều thành viên nổi tiếng, hoặc cũng nổi tiếng, nhưng in ít hơn, của nó, về chuyện thậm thụt với chế độ, và đám người vẫn xun xoe nơi xó bếp nhà bà nhờ vậy mà giảm đi rất nhiều.

Có những lá thư hở, hoặc nửa kín nửa hở, có những quyết định rất ư là tởm lợm, là sẽ không thèm bắt tay, có những tình bạn, những hôn nhân đổ vỡ, do chuyện, không hiểu bà đúng hay là sai, khi chỉ tay vào kẻ đó, và nói, đây là một tên chỉ điểm. Một tay ly khai nổi tiếng vừa tuyên bố vừa lắc lắc chòm râu: "Bà đã ỉa lên cả một thế hệ chúng ta". Những kẻ khác bèn chạy vội về nhà, đóng kín cửa lại, và ngồi viết phản-hồi ký! Đúng thế đấy, những năm đầu của thập niên 1970 đã bắt đầu như vậy, và chừng sáu năm sau đó, cũng đám người đó, đã xào xáo, chia năm sẻ bẩy, trước thái độ của Solzhenitsyn đối với những người Do Thái.

*

It was late afternoon, and she sat, smoking, in the corner, in the deep shadow cast by the tall cupboard onto the wall. The shadow was so deep that the only things one could make out were the faint flicker of her cigarette and the two piercing eyes. The rest—her smallish shrunken body under the shawl, her hands, the oval of her ashen face, her gray, ashlike hair—all were consumed by the dark. She looked like a remnant of a huge fire, like a small ember that burns if you touch it.

Tôi [Brodsky] gặp bà lần chót vào bữa 30 tháng Năm, 1972, tại nhà bếp của bà, tại Moscow. Lúc đó cũng xế chiều, và bà ngồi, hút thuốc, tại một góc bếp, trong bóng tối của cái tủ đựng chén dĩa in đậm lên tường. Đậm đến nỗi, người ta chỉ nhìn thấy đốm đỏ của điếu thuốc, và hai con mắt sáng rực của bà. Cái còn lại - một thân hình mỏng manh, run rẩy dưới chiếc khăn choàng, đôi cánh tay, khuôn mặt bầu dục nhợt nhạt, mái tóc xám mầu tro, tất cả đều bị bóng tối nuốt sạch. Bà giống như chút còn lại của một đám lửa lớn, đốm than hồng làm bạn bỏng tay, nếu đụng vô.

Ai Điếu Nadezhda Mandelstam [1899-1980]
Về "Khổ Đau và Cà Rem"
Cà Rem của Cà Rem là cái gì? (1)

2.12.2004
Đoàn Tiểu Long

Thế nào là “kẻ không gặp may cuối cùng” trong bản dịch Brodsky?

Trong tiếng Nga, tính từ “cuối cùng” (poslednyi) khi đi với một danh từ (thường là có nghĩa tiêu cực) thì không mang nghĩa “cuối cùng”, mà có nghĩa “thậm, cực kỳ”. Ví dụ: “kẻ ngu ngốc cuối cùng” chính là “kẻ thậm ngu, không thể ngu hơn”.

Vì thế, “kẻ không gặp may cuối cùng” trong bản tiếng Nga được bản tiếng Anh dịch thành “total failure” là rất chính xác, nghĩa là kẻ xui tận mạng, số đen như mõm chó… Cả câu có thể dịch là “thà làm kẻ mạt hạng trong chế độ dân chủ, còn hơn làm vương làm tướng trong chế độ chuyên chế”. Câu này khá giống câu nói nổi tiếng của Trần Bình Trọng: “Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc”. Dịch như anh Nguyễn Quốc Trụ “làm một kẻ cà chớn… là số dách, nếu không được, thì làm…” e không đúng tinh thần lắm.
*
Thà làm 1 thằng....  ghiền xì ke sau 1975, còn hơn làm thằng nghệ sĩ ngồi hầu đàn nhà văn CM!

Hà, hà!

Lại nói chuyện xì ke.

Sau 1975. GCC có gặp NTK một lần, đúng lúc vã thuốc khủng khiếp. Anh mừng quá, kéo về nhà, khi đó, anh thuê 1 căn hộ, ở chung cư Bưu Điện Đinh Tiên Hoàng, gần nhà Mười Mưu, 1 ông thợ Bưu Điện Gấu quen.
Từ biệt, Gấu có chôm 1 món đồ trong nhà, hình như là 1 cái cờ lê sửa xe, và bèn ra ngay Chợ Cũ, đưa ngay cho tên bán xì ke, mày cho tao 1 phát!
Chắc là anh biết, sau đó.

Sorry - không phải cái cờ lê, mà là bài viết này - NQT

*

GCC có tới hai cuốn “Con Chim Được Sơn, The Painted Bird”, mỗi cuốn có 1 chút râu ria về tác giả, cùng cuốn tiểu sử của ông. “Loài chim dị chủng”, 1 cái tít như thế, về mặt ẩn ngữ, hợp với cuốn sách hơn, theo GCC.

"Perhaps the book which has impressed me the most. More than realism, this book is a trip into the world of nightmare and anxiety, through a world of injustice which is our own."

-Luis Bufiuel

"To me, the Nazi experience is the key one of this century-they merely carried to the final extreme what otherwise lies within so-called normal social existence and normal man. You have made the normality of it all apparent, and this is a very important and difficult thing to have done."

-Arthur Miller

(in a letter to the author)

"One of the grimmest and yet most beautiful books ... One which will rank with The Diary of Anne Frank as a testament not only to the atrocities of the war, but to the failings of human nature. A book of striking intensity, written with a luminous apprehension .of the natural and supernatural worlds."

-Chicago Dally News

"Of all the remarkable fiction that emerged from World War II, nothing stands higher than Jerzy

Kosinski's “The Painted Bird”. A magnificent work of art, and a celebration of the individual will. No one who reads it will forget it; no one who reads it will be unmoved by it. “The Painted Bird” enriches our literature and our lives."

-Jonathan Yardley,

Miami Herald

Câu giới thiệu của Luis Bunuel, đúng nhất, tuyệt nhất: Có lẽ đây là cuốn sách gây ấn tượng khủng nhất lên tôi. Hơn cả hiện thực chủ nghĩa, cuốn sách là 1 chuyến đi vô cõi ác mộng, sao xuyến, âu lo, qua cái thế giới của bất công, chính là thế giới của riêng chúng ta.

Còn mấy câu sau, theo Gấu, đều nhảm cả. Khen "Loài Chim Dị Chủng" là 1 cuốn sách đẹp thì bằng chửi bố nỗi đau của nhân loại, hà hà!
Cũng cái kiểu khen này, 1 đấng khen Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, là trác tuyệt.
Đâu phải tự nhiên mà đấng con trai của Akhmatova chửi mẹ, bà "làm văn chương, làm thơ", trên nỗi đau của gia đình!

Hà, hà!

Trong những lời biện hộ cho Akhamatova, bảnh nhất, và đúng nhất, là của Brodsky, khi chỉ ra, có 1 cái gì đó, phân biệt nhà văn nhà thơ, với 1 người bình thường: Ở vào những giờ phút mấp mé điên khùng, nhà văn nhà thơ vẫn cố tìm cách tách ra khỏi số phận, hoàn cảnh, để nhìn nó, với  con mắt khách quan, như thể nỗi đau không thuộc về mình. (1)

(1)

Brodsky: Với tôi, tính kinh điển, thực tại thực, the main thing, của Kinh Cầu [thơ Akhmatova], là đề tài về sự xẻ đôi, về sự bất lực của nhà thơ không có được một phản ứng toàn vẹn [trước thực tại]. Akhmatova mô tả những kinh hồn thất đảm, những ghê rợn của Đại Khủng Bố của Stalin. Nhưng cùng một lúc, bà nói hoài hoài về cái tâm trạng mấp mé biến thành khùng của mình....

Brodsky. No, the text of Requiem is anything but straightforward.

Volkov. Sure, there are two levels here: real biography—Akhmatova and the fate of her arrested son; and the symbolic—Mary and her son Jesus.

Brodsky. For me the main thing in Requiem is the theme of splitting, the theme of the authors inability to have an adequate reaction. Akhmatova describes in Requiem all the horrors of Stalin's "great terror," but at the same time she is constantly talking about how close she is to madness. Do you remember?

   Already madness dips its wing
   And casts a shade across my heart,
   And pours for me a fiery wine

   Luring me to the valley dark.

   I realize that to this madness
   The victory I must yield,
   Listening closely to my own
   Delirium, however strange.

Khổ thơ sau có lẽ là tuyệt vời nhất của tất cả Kinh Cầu. Hai dòng chót nói sự thực lớn lao nhất. Akhamatova diễn tả tâm trạng của thi sĩ, khi nhìn mọi chuyện xẩy ra cho bà, như thể, bà đứng qua một bên, Với nhà thơ, sự kiện, viết ra, cũng quan trọng như, sự kiện, diễn tả nó: Nhà thơ bắt đầu trù ẻo mình: Anh là thằng điên khùng. Mi là một thứ quái vật chi, tại sao mi thản nhiên nhìn những sự ghê rợn như thế diễn ra trước mặt, như thể nó chẳng liên quan mắc mới gì tới mi?
Volkov: Chuyện trò với Brodsky

Tưởng niệm TTT

&

“Dieu partage avec l'homme la faute de la Création, car Dieu s'est absenté du monde, ce qui fut la cause de la Chute commune de Dieu et des hommes"
[Thượng Đế chia sẻ với con người lầm lẫn Sáng Tạo, bởi vì Thượng Đế tự ý chuồn, thành thử mới xẩy ra Sa Đọa chung, của Xừ Luỷ và con người].

LES LIVRES DU MOIS
HISTOIRE LITTÉRAIRE
retour aux classiques
par Linda Lê
UN MONDE SANS DIEU
La Célestine, un classique vieux de cinq siècles

Italo Calvino disait qu'un classique est un livre qui n'a jamais fini de dire ce qu'il a à dire. La Célestine de Fernando de Rojas, dans la belle traduction d'Aline Schulman, est de ces œuvres-là. Elle se présente comme une tragi-comédie en vingt et un actes. Mais elle relève aussi bien du théâtre que de l'art romanesque. Par sa forme même, elle est unique. Publiée pour la première fois à Burgos en 1499, elle sera réimprimée dès 1500 à Tolède et à Salamanque. Dans une lettre qui introduit le livre, l'auteur confie à un ami sa découverte du manuscrit du premier acte: pour se distraire de ses études de droit, il a eu l'idée d'en écrire la suite, ce qu'il fait en quinze jours. Le résultat est un joyau noir de la littérature universelle, car le divertissement que s'est proposé Fernando de Rojas, jeune homme de 23 ans, est à la fois satirique et poignant, touchant au mythe de l'amour tragique. En attribuant la paternité du premier acte à un anonyme qui a lancé le filet grâce auquel il a rapporté sa pêche miraculeuse, Fernando de Rojas, note Juan Goytisolo dans sa préface, cherche à dissimuler la charge subversive de son texte. Juif converti, il a vu son père, accusé de pratiques judaïsantes, brûlé vif sur le bûcher en 1488. Cette blessure reste dissi mulée dans la pièce, mais la vision du monde de son auteur s'en trouve altérée: La Célestine témoigne d'un pessimisme et d'une lucidité amère qui, même dans les moments de coméédie, laissent le lecteur confondu devant une si grande connaissance du cœur humain. « À travers le vaste palimpseste hispano-hébraïque qu'est La Tragi-comédie de Calixte et Mélibée (donc La Célestine), on lit les paroles du Zohar juif: Dieu partage avec l'homme la faute de la Création, car Dieu s'est absenté du monde, ce qui fut la cause de la Chute commune de Dieu et des hommes", dit Carlos Fuentes dans une conférence sur le livre de Fernando de Rojas.
Calixte et Mélibée sont, comme Pyrame et Thisbé, deux jeunes gens qui se sont épris l'un de l'autre et doivent franchir des obstacles. La pièce commence par leur première rencontre. Calixte déclare sa flamme à Mélibée, mais celle-ci le repousse. Plongé dans le désespoir, l'amoureux transi s'en va s'épancher auprès de son valet, qui le presse de demander l'aide d'une vieille entremetteuse, Célestine, capable, dit-on, de « provoquer les pierres à la luxure ». Célestine, pour son malheur, parviendra à ses fins et sa tâche est facilitée car Mélibée, en vérité, brûle d'amour pour le jeune noble rencontré. La comédie, où l'amour idéalisé ne s'acquiert pas sans les artifices d'une femme qui a la réputation de refaire leur virginité à celles qu'elle mène à la débauche, et dont Juan Goytisolo note qu'elle est un véritable personnage goyesque, s'achève en tragédie. Dans un monde sans Dieu, c'est l'argent qui fait tourner la roue des destinées .•

Note: Bài này, cũng tình cờ thấy lại được. Quên chưa dịch. Bạn thấy chưa, ở 1 bậc thầy, khi viết về ai, là bèn đi 1 đường trích dẫn, câu trích dẫn, rất quan trọng, và 1 phần nào đó, nó là viễn ảnh của bài viết.

“Italo Calvino phán, 1 cuốn cổ điển là 1 cuốn đếch bao giờ chấm dứt điều mà nó nói/viết/tưởng tượng....”.

Nhớ, 1 đấng bạn quí, hồi mới viết, chê GCC, bài của mày viết, thì thường là cũng thường thôi, chỉ được có mỗi câu trích dẫn.

Có lần kể lại cho NTV nghe, anh vỗ đùi, một câu khen tuyệt vời, bởi là vì khó nhất là kiếm ra được câu trích dẫn.

Bài này cũng quá tuyệt.

Nỗi mất và quên
Nguyễn Ngọc Tư

Mười năm trước, bạn không bao giờ gặp một nỗi mất mát mang tên “hư ổ cứng”.
Những năm đó, thỉnh thoảng bạn cũng buồn, mớ ảnh gia đình bị ố vàng đã làm lem luốc vài gương mặt người thân mà bạn không bao giờ còn gặp lại họ nữa, cuộn phim chụp ảnh đám cưới bạn bị cái nóng ẩm nhiệt đới làm cho mốc meo, quyển nhật ký bị chuột gặm nham nhở, hay những bài hát, bộ phim bạn yêu thích chảy nhão, trầy xước theo mớ băng dĩa cũ.
Hồi đó bạn biết trước sau gì chúng cũng mất, dù chậm hay nhanh, bằng cách này hay cách khác. Giống như bạn biết rồi mình sẽ già đi, nên thêm một tuổi bạn có buồn một tí hay nhiều tí nhưng cũng chấp nhận nó. Còn “thằng ổ cứng” (bạn xấu tính lắm, nghĩ cái gì liên quan tới cứng thì thuộc về… thằng), bạn tin rằng nó sẽ cất giữ kỷ niệm của bạn, hồi ức của bạn, phần đời của bạn, vài thứ bạn yêu thích… bền vững, lâu dài. Máy tính nhiều lần không thể khởi động, hệ điều hành nhiều lần bị lỗi phải cài đặt lại, nhưng ổ cứng có hề gì đâu.
Bỗng một ngày nó chết ngắt, cái chết như nụ cười mỉa vào những lời xưng tụng muôn năm muôn năm. Muôn năm là bao lâu, mãi mãi là bao lâu? Cái chết của nó mang theo bao nhiêu là hình ảnh, bài hát, ghi chép… Những tuồng cải lương hương xưa. Những bài thơ với giọng ngâm ngọt ngào, nức nở của Hoàng Oanh, Hồ Điệp… Bạn te tái xách ổ cứng đi tìm những anh chàng được mệnh danh là phù thủy phục hồi, khắc khoải giống như người yêu ôm người yêu đi tìm thầy thuốc. Và khi mấy phù thủy trong thành phố thở hắt lắc đầu, bạn mới tràn ngập cảm giác mất mát.
Những chuyến đi không còn dấu vết, khi không còn gương mặt người đã từng gặp, cảnh vật đã từng qua. Bạn nhận ra lâu nay, bạn nhờ máy ảnh nhìn, nhờ máy tính nhớ. Đi đến đâu lăng xăng chụp ảnh đến đó, về tuôn vào máy tính, lâu lâu giở ra coi lại, ờ bạn đã tới chỗ này chỗ này. Nó đẹp như vầy như vầy. Người ta lem luốc hồn nhiên vậy đó vậy đó. Chúng tồn tại để sẵn sàng khơi gợi lại cho bạn một ký ức. Bạn tưởng thời gian đã ngưng đọng trong những tấm ảnh đó, và bạn muốn quay lại những khoảnh khắc đã qua lúc nào cũng được. Không vội vàng, thiết tha chi cho lắm. Nhưng giờ bạn không còn manh mối, chỉ còn nhớ mơ hồ, ví dụ cỏ trên những ngọn đồi, nhưng bạn không biết chúng mượt và xanh như thế nào; những đứa trẻ chơi trên cát, bạn không nhớ nụ cười chúng ra sao, có bao nhiêu cái răng bị sún…
Hôm đó, bạn gọi mấy đứa nhỏ đó chỉ để chúng cười cho bạn chụp ảnh. Bạn không trực tiếp nhận nụ cười của chúng. Nếu bạn đừng bận bịu, chỉ chạy chơi với bầy trẻ thôi bạn được sống lại buổi chiều thiên đường ấy, bất cứ khi nào gió cũng lại thổi trên những triền cát nóng.
Giống như cách bạn nhớ chuyến đi Đà Lạt năm bạn mười hai tuổi. Hồi ấy bạn nghĩ, quá xa xôi để tới đây, và sau này không biết có thêm lần nữa. Bạn tận hưởng Đà Lạt bằng tất cả giác quan trẻ nít của mình, hít thở và ôm ngấu cảnh vật trong lòng. Hai mươi năm sau, bạn vẫn còn nhớ mùi nước đái ngựa trên cỏ, khói sóng vương vất dưới chân thác nước, tiếng những trái thông khô rơi, cái lạnh buốt của bàn tay người đàn ông lạ mà bạn nắm lấy giữa chợ vì tưởng tay bà bạn.
Không có tấm ảnh nào còn lại sau chuyến đi đó, bạn toàn tự nhớ thôi. Cả bài hát trên xe. Giọng nói của người tài xế. Chúng rồi cũng phai trước khi mất đi, lúc bạn đã già, nhưng nó kịp làm bạn rung cảm và xao xuyến cả một thời gian dài nên  không gây hụt hẫng và tiếc nuối.
Nó không đột ngột biến mất như ‘thằng” ổ cứng vừa mang theo một vùng ký ức ra đi. Những bài hát bạn sẽ tìm lại ở tiệm bán băng đĩa, hay trên mạng, nhưng sẽ mất một thời gian để bạn nhớ ra, mình đã từng thích bài hát nào, giọng hát nào, tại sao. Đôi lúc bài hát cũng gợi nhớ một người nào đó, một đoạn đời nào đó. Chúng ít nhiều miêu tả cuộc đời bạn. Tại sao những bài ca ngô nghê, ngớ ngẩn đó năm mười lăm tuổi bạn lại thích mê mẩn? Tại sao có những bản nhạc hồi hai mươi bạn không thể nghe nổi, thì năm năm sau, bạn không dứt ra được những “một ngày như mọi ngày / em trả lại tình tôi / một ngày như mọi ngày / ta nhận lời tình cuối / một ngày như mọi ngày/đời nhẹ như mây khói…”? Tại sao một bài sến chảy nước “Đừng nói xa nhau, cho tâm hồn đau khổ…” bạn lại giữ gìn cẩn thận, không phải vì một người dưng nào đó rưng rưng hát hôm hội tan bạn ra về? Giờ người đã xa, chuyến đi quá vãng, bài hát bị mất. Giờ ngang qua quán cà phê, hay xe kẹo kéo, bạn chắt chiu nhặt lại từng chút một, cho cái hồi ức đã bị rơi đi để trả giá cho sự làm biếng.
Làm biếng cảm thụ cuộc sống, làm biếng thương, thậm chí làm biếng nhớ. Nên cứ bắt máy móc nhắc nhớ giùm. Nên máy móc một hôm trăn trối, sẽ không giữ được gì nếu bạn không tha thiết.
Tình yêu cũng vậy. Cuộc sống cũng vậy. Bạn sực nhớ tới những thứ lớn lao này…
[Cùng nguồn trên].
*
Đọc cái câu gạch đít ở trên, là Gấu rùng mình vì lạnh, và bèn nhớ ra cái cảnh Gấu nắm tay BHD, giữa những bạt ngàn rừng thông một cõi Lost Domain Đà Lạt, và cái cảm giác lạnh đó, theo về tận Sài Gòn, sau đó:

Khi đứng dậy sửa soạn đi ra, đột nhiên chàng nói, "Tay em đến bây giờ vẫn còn lạnh". Lạnh, lạnh, chợt tôi rùng mình, có phải chàng định nói... Chàng nói đùa như để tôi quên, khỏi nghĩ ngợi, "Cô giáo chắc sẽ bắt em chép phạt một ngàn lần câu: "Em yêu anh, và cố gắng đi học đúng giờ". Đối với chàng, tôi vẫn chỉ là một cô bé con, chàng vẫn muốn sự vật đừng thay đổi, đời sống đừng thay đổi, chàng muốn tất cả vẫn như xưa, như cũ... "Em biết không, Ngọc chỉ chê anh một điều là anh hay cười." Ngọc là em trai một người bạn gái của tôi. Ngọc khoảng tuổi tôi, nghĩa là kém chàng khoảng chín, mười tuổi.... "Không hiểu Ngọc có nhìn thấy như anh không? Không hiểu Ngọc định tìm gì ở nơi em?"; tìm gì, tìm gì, tôi chỉ là một món đồ kỳ lạ, khác thường, nên mọi người muốn tìm tòi, khám phá, một món đồ làm gợi lại trí nhớ, làm sống lại tuổi thơ của chàng, hay là tôi là một cái cớ để giải thích tại sao chàng sống, tại sao chàng sẽ chết, anh, Ngọc, Quang, và cả Tuấn nữa, tại sao nhiều người yêu tôi vậy?... "Không phải đâu, em mang dáng điệu của một người đàn bà ngay khi còn bé con, và suốt đời em sẽ phải tập làm một đứa trẻ...".
Tứ Tấu Khúc

Nhưng tuyệt nhất, là cái cảm giác sến, của những bản nhạc sến, cái hồn của văn chương Miền Nam, được NNT lôi ra, "chắt chiu nhặt lại từng chút một, cho cái hồi ức đã bị rơi đi để trả giá cho sự làm biếng."



Russia The Wild East

*

What’s Left of My Books

300 năm sau còn ai đọc GCC

Hồi ức có cái chung với nghệ thuật, đó là, tính tuyển chọn, thích xoáy vào chi tiết. Khen đấy, mà chửi cũng đấy, ấy là bởi vì, hồi ức vốn chỉ chứa chi tiết, chứ không trọn gói, trọn hình; hãy gạch đít, gạch chân, highlights, nếu bạn muốn, nhưng đừng trọn cả “sô”! Theo tôi tin tưởng, thì đây là do con người, một khi phải nhớ trọn một em, thì thường là theo kiểu “mài mại”, và cái rất ư niềm tin để cho muôn thú muôn loài cứ thế mà tiếp tục cuộc đời của chúng, đó là “không nền”, groundless, đó là “mài mại”.

Hơn bất cứ cái gì khác, hồi ức của con người, nó giống một thư viện mất trật tự, hổ lốn, không theo một bảng xếp loại abc nào, với không tuyển tập, của bất cứ một ai.

Trong căn phòng rưỡi
Joseph Brodsky

There is nothing more mysterious and wonderful than the way in which some bit of language—a clever quip, a pithy observation, a vivid figure of speech found in a book or heard in a conversation—remains fresh in our memory when so many other things we were at one time interested in are forgotten. These days, I look in disbelief at many of the books on my shelves, from thick novels and memoirs to works of great philosophers, wondering whether it’s really possible that I devoted weeks or even months reading them. I know that I did, but only because opening them, I find passages and phrases I’ve underlined, which upon rereading I recall better than the plots, characters, and ideas I encountered in these books; sometimes it looks to me that what has made the lasting impression on my literary taste buds, to use culinary terms, are crumbs strewn on the table rather than the whole meal.

Charles Simic



Kafka Coupable


Le Promeneur Solitaire: W. G. Sebald on Robert Walser

Kẻ tản bộ cô đơn: Sebald viết về Robert Walser

Unrecounted

**

Người ghi chú cô đơn: The Solitary Notetaker

Please send me
the brown overcoat
from the Rhine valley
in which at one time
I used to ramble the night.

[Hãy gửi cho tôi
cái áo choàng mầu nâu
từ thung lũng sông Rhine
mà có lần tôi mặc dạo đêm].


Đi tìm phê bình gia Mít

**

Cuốn viết về sử gia Tẩy, Michelet, Gấu nghi ít người biết, đọc tuyệt lắm, vì cực lạ. Còn cuốn Đế Quốc Ký Hiệu, tên của Barthes phịa ra, để chỉ Đế Quốc Mặt Trời, nhưng với ông, “của” ký hiệu, trong những ký hiệu của nó, có thơ Hai Cu. Bài viết về Hai Cu tuyệt lắm, TV sẽ đi liền, cũng 1 cách để thêm 1 tiếng nói của hải ngoại cho tuyệt tác về thơ Hai Cu của 1 đấng ở trong nước, hà hà!

"If Japan did not exist, Barthes would have had to invent it - not that Japan does exist in Empire of Signs, for Barthes is careful to point out that he is not analyzing the real Japan but rather one of his own devising. In this fictive Japan, there is no terrible innerness as in the West, no soul, no God, no fate, no ego, no grandeur, no metaphysics, no 'promotional fever' and finally no meaning ... For Barthes Japan is a test, a challenge to think the unthinkable, a place where meaning is finally banished. Paradise, indeed, for the great student of signs."
-Edmund White
The New York Times Book Review

Nếu không có Nhật Bản, thì Barthes sẽ phịa ra nó. Nhưng nước Nhật ở trong Đế Quốc Ký Hiệu cũng không thực, như Barthes cẩn trọng nói với chúng ta là, ông không nghiên cứu nước Nhật thực, mà là một nước Nhựt của riêng ông, do ông ‘chế’ ra. Trong cái nước Nhựt giả tưởng này, thì không hề có cái "bên trong" khủng khiếp như là ở Tây phương. Không linh hồn, tâm hồn, không Thượng Đế, không số mệnh, không cái tôi, không vinh quang, không đỉnh cao, không siêu hình, không “cơn sốt lên lương, lên chức, vô Đảng, vô BCT” và sau cùng, không có cái gọi là ý nghĩa.

Với Barthes, Nhật Bản là một thí nghiệm, một thách đố để suy nghĩ về cái không thể suy nghĩ, một nơi chốn mà ý nghĩa thì sau cùng bị loại trừ. Thiên đường, thực sự là vậy, cho một tay sinh viên lớn, về ký hiệu. (1)


MẶC ĐỖ

Trưa Trên Đảo San Hô

Malraux, còn lại gì?

*

Thơ Ở Đâu Xa

Malraux mất năm 1976, nếu tính theo biên niên thì cũng đâu có quá xa xôi, vậy mà nghe như ông cách xa thời đại của chúng ta hàng thế kỷ. Như Sartre, và Camus, họ là những kiện tướng của văn học trường lớp của chúng ta. Nhưng vào giờ này, tôi nhận thấy sinh viên hết còn thích thú với Phận Người của Malraux.
Nói thực ra, tôi nhận thấy văn của Malraux hơi bụi. Ở Malraux có sự ám ảnh của vinh quang, của tượng đài, và sự thờ phụng vĩ nhân. Tiểu thuyết của ông luôn rao giảng những thông điệp phổ cập. Theo nghĩa này thì ông luôn cùng pha [ngược với “lệch pha” của Thầy Cuốc] với thời của ông, thập niên 1930, khi mà những ý tưởng lớn đang được mùa với đám đông. Nhưng chính vì thế, mà ngày nay, ông trở thành lỗi thời, cùng với thứ tiểu thuyết luận đề. Chúng, tất cả đều tuân theo 1 cấu tạo hai mặt (xen hành động, xen tranh luận), và cuốn tiểu thuyết chỉ được sử dụng như là 1 cái xe chuyên chở tư tưởng siêu hình – Cái Thiện, Cái Ác, Cái Số Mệnh…. Ở đó, có 1 thứ chủ nghĩa nhân bản cằn cỗi, quá đát.

Note: Trang thơ trên, trong bài thơ Vài khúc dạo tặng tri âm, không thấy có trong bản trên talawas.
"Trắng xóa bão giông" chắc đúng hơn.
TV sẽ post toàn bài thơ.
NQT

*

*



*

À mots ouverts
Que reste-t il de Malraux?
Malraux, còn lại gì?
GCC thực sự không tin, cõi văn Mít lại có 1 cuốn như Một Chủ Nhật Khác.

Khủng nhất, là đoạn Kiệt tiễn Hiền đi, rồi lại trở về, với vợ con, với cuộc chiến, để chết.
Như vậy là Kiệt đã đi tới cõi bên kia, lo xong cho Hiền, rồi lại trở lại cõi bên này.

Trong vương quốc của những người đã chết
Tôi vẫn thường tha thẩn đi về

Thơ của Gấu

Gấu ngờ rằng nơi mà Kiệt đưa Hiền tới, rồi trở về, để chết, cùng với cuộc chiến, là Lost Domain, Miền Đã Mất, ở trong Le Grand Meaulnes.
Bài Giáng cũng có một cõi Lost Domain của ông, là thời gian 15 năm chăn dê, vui đùa với chuồn chuồn, châu chấu, trước khi trở về đời, làm Ông Khùng giữa cõi Bọ.
Hậu thế sau này, có thể sẽ coi Một Chủ Nhật Khác, là tác phẩm số 1 của thời đại hoàng kim Miền Nam VHCH, hẳn thế!

Hơn thế, chứ sao lại hẳn thế!


Malcolm Pryce's top 10 expatriate tales

Michael Caine in The Quiet American.

Michael Caine as Fowler in The Quiet American. Photograph: PR
Một số tiết lộ về cuộc chiến từ tài liệu CIA

Greene viết Người Mỹ Trầm Lặng, là cũng từ nguồn này, qua lần gặp gỡ một anh Xịa, khi đi thăm Le Roy, trên đường trở về Sài Gòn. (1)

(1)

Giấc mơ lớn của Mẽo, từ đó, cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng  bật ra, khi Greene, trên đường trở về Sài Gòn, sau khi qua một đêm với tướng Leroy, Hùm Xám Bến Tre, như ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, Ways of Escape.
"Cách đây chưa đầy một năm, [Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp tùng Le Roy, tham quan vương quốc sông rạch, trên chiến thuyền của ông ta. Lần này, thay vì chiến thuyền, thì là du thuyền, thay vì dàn súng máy ở hai bên mạn thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa nhạc, và những vũ nữ.
Bản nhạc đang chơi, là từ phim Người Thứ Ba, như để vinh danh tôi.
Tôi dùng chung phòng ngủ với một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là CIA, [an American attached to an economic aid mission - the members were assumed by the French, probably correctly, to belong to the CIA].  Không giống Pyle, thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less innocence]. Anh ta bốc phét, suốt trên đường từ Bến Tre về Sài Gòn, về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực lượng thứ ba ở Việt Nam.
Cho tới lúc đó, tôi chưa bao giờ cận kề với giấc mộng lớn của Mẽo, về những áp phe ma quỉ, tại Đông phương, như là nó đã từng, tại Phi Châu.
Trong Người Mỹ Trầm Lặng, Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York Harding – cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có vẻ ngây thơ, nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo. Người Mẽo tìm kiếm một nhà lãnh đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn quốc gia, an incorruptible, purely nationalist Vietnamese leader, người có thể kết hợp, unite, nhân dân Việt Nam, và tạo thành một thế đứng, một giải pháp, đối với Việt Minh CS."
Greene rất chắc chắn, về nguồn của Người Mỹ trầm lặng:
"Như vậy, đề tài NMTL tới với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực lượng thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó, những nhân vật theo sau, tất cả, [trừ một, Granger], là từ tiềm thức bật ra."
Ways of escape
*
Ostensibly it is about the eponymous quiet American – a naive and idealistic CIA agent in Saigon during the French colonial war of the 50s. But what lingers is the relationship between the world-weary newspaper correspondent, Fowler, and his beautiful girl Phuong. Greene perfectly skewers the superfluity of western notions of love that invariably inform such situations. Undermining the idyll is the mercenary elder sister, painfully aware of the need to use Phuong's beauty to secure a provider for the family while her beauty still has currency.
Cuốn Người Mỹ trầm lặng được một tay trên tờ Guardian coi là Top Ten, trong số 10 câu chuyện xa xứ, trong có cả cuốn Hãy nói lên hồi ức của Nabokov.
Cái cách đọc Người Mỹ Trầm Lặng của tay này mới thật là đểu: Undermining the idyll is the mercenary elder sister, painfully aware of the need to use Phuong's beauty to secure a provider for the family while her beauty still has currency. [Bên dưới cuộc tình thơ mộng là sự tính toán của bà chị, lợi dụng nhan sắc cô em để đảm bảo cuộc sống gia đình].

Nhưng mà đúng y chang!
*

Trong 10 tác phẩm về những kẻ xa xứ, có.... "Tứ Tấu Khúc về Sài Gòn và BHD" của Gấu, nhưng than ôi, Malcolm Pryce “chọn lầm” là Tứ Tấu Khúc về thành phố Alexandria, tức là nguồn của nó:

3. The Alexandria Quartet by Lawrence Durrell

After reading this many years ago I vowed never to visit the city. How could it possibly live up to its fictional portrayal? An unnamed English teacher on a Greek island looks back on his sojourn in Alexandria between the wars. He considers the intertwined fates of the people he met there; they are numerous, but the real protagonist is the city herself, exquisitely presented in all her shifting moods and lemon-tinged light. Some tastes might find the relentlessly extended languor a touch too much, in which case John Crace's satirical digested read [http://www.guardian.co.uk/books/2008/nov/29/digested-classics-justine-lawrence-durrell] of the first book, Justine, is a perfect antidote.

Những dòng tay này viết về “Tứ Tấu Khúc Alexandria”, và chọn Justine, tuyệt nhất, đúng như Gấu phán, thú thế.

Bạn không  tin ư?  Hãy đọc, “Sài Gòn nghĩa là gì?”

GCC tự hỏi, làm sao mà ông lại bỏ quên Paris của "thế hệ bỏ đi"?

Không quên, nhưng thay vì "Mặt Trời Vẫn Mọc" thì anh ta chọn "Paris là 1 ngày hội", trong khi tờ Obs chọn đúng cuốn Gấu dịch.

*


5/1/09

Họ bắn vào hòa bình, chúng tôi bắn vào hòa bình

Về Bảo Ninh, nếu muốn phản đối việc người ta cứ nói là cả đời ông ấy chỉ có mỗi Nỗi buồn chiến tranh, thì có thể nêu tên truyện ngắn "Gió dại". Nhưng nếu bảo ngoài hai cái đó nữa còn có gì, thì thực sự là khó. Bảo Ninh còn cả loạt truyện ngắn đặc sắc, nhiều truyện rất hay, như truyện về Hà Nội hồi những năm trước 1975 có "Người anh hùng thời đại" để ria theo lối chất nghệ (tên Vinh hay sao?), hay gần đây hơn là "Bội phản". Thỉnh thoảng viết bút ký cũng rất giỏi, chẳng hạn như gần đây nhất là "Đêm cuối cùng ngày đầu tiên". Nhưng cái hay của những cái ấy là cái hay bình thường. Đặc biệt thì chỉ có Nỗi buồn chiến tranh và "Gió dại".

"Gió dại" trên Internet: đọc tại đây, bản dịch tiếng Anh của Phan Huy Đường và Nina McPherson ở đây.

Thời gian của truyện là giai đoạn ngay trước 30/4/1975. Ẩn dụ "gió dại" ngay lập tức cho thấy tính chất vô nghĩa, nhỏ nhoi, thảm hại của con người, và của cái chết, trong một cuộc chiến tranh như cuộc chiến tranh Việt Nam. Cái nhìn của người kể chuyện đặt ở bên phía bộ đội, lúc đó đóng quân tại một vùng vừa chiếm được, một vùng theo đạo có ông cha cố, và nhất là có một cô ca sĩ vì loạn lạc mà bị kẹt lại và sống luôn ở đây, đêm đến vẫn thường tiếp khách đàn ông, đều là bộ đội.
Chuyện tình duyên giữa Diệu Nương cô ca sĩ và anh lính phụ tá anh nuôi nhanh chóng trở thành một thảm kịch. Thảm kịch này giống như là một tiếng thở dài, rất dài - sở trường của văn Bảo Ninh. Văn của Bảo Ninh phải đi theo từng hơi một, cay đắng, buồn bã, không thể vui được, và những trường hợp tác phẩm khác không được thành công lắm có lẽ là bởi vì cái hơi này không đủ dài.

Và đặc biệt là "Gió dại" có một câu kết không thể nào quên: "Chúng tôi đã bắn chết những người báo trước hòa bình, vậy mà hòa bình vẫn đến." Nghe nói câu văn này một thời đã gây sóng gió (truyện này hình như được viết cuối những năm 1990), thậm chí một thời gian đã bị cắt khỏi truyện, như một hình thức kiểm duyệt. "Những người báo trước hòa bình" là cô ca sĩ Diệu Nương và người tình bộ đội của mình trên đường chạy trốn, khi bị bắt gặp họ xin được tha mạng vì "chẳng làm hại gì cả", "không chống lại ai", nhưng các đồng đội của anh lính (trong đó có "tôi", người cũng đã từng nhiều lần ngủ với Diệu Nương) đã xả súng qua đám cây. Sau khi bắn xong rồi họ mới nhìn thấy xác hai con người kia, quấn chặt vào nhau.

Bây giờ cứ mỗi dịp 30/4 xem người ta kỷ niệm hào hùng mà thấy mệt. Phần lớn khăng khăng tô màu đỏ màu hồng rộn ràng cho một cuộc chiến đáng tởm. Một số khác tìm cách chứng minh rằng tất cả đều rất tởm, nhưng chúng tôi ít tởm hơn, và một số khác nữa: tất cả đều rất tởm, nhưng chúng nó tởm hơn chúng tôi.

Blog Nhị Linh.

Note: Bài này tuyệt quá, tình cờ mò ra được. Post lại, gửi bạn quí, họa sĩ NTK, và những ngày ở nhà in của linh mục Cao Văn Luận, cũng trên đường NBK, gần nhà Gấu, làm tờ Mây Hồng, dịch sách cho ông Nhàn, nhà xb Vàng Son.


Bảo Ninh by Việt Chiến

Có lẽ phải đến hơn 3 tháng sau khi được trả lại tự do, tôi mới gặp lại nhà văn Bảo Ninh, bạn đồng niên 1952 thân thuộc và đã cùng nhau một thời quân ngũ gian lao. Hẹn gặp nhau ở quán “cũ” cuối phố Phan Đình Phùng (Hà Nội), Bảo Ninh nhắn “Tôi mang một chai rượu chivas ngon đến, các ông chờ tôi…”. Tôi cùng 2 nhà thơ Nguyễn Bình Phương và Trần Anh Thái ngồi chờ. Một lúc sau, Bảo Ninh đi taxi đến, tay ôm khư khư chai rượu ngoại. Tóc anh bạc hết cả rồi mà cuốn tiểu thuyết mới vẫn chưa viết xong (sau “Nỗi buồn chiến tranh” không hiểu anh viết về “nỗi buồn” gì đây?).
Có người nói như đinh đóng cột, dạo này Bảo Ninh “kiêng rượu để viết chuyện” nên không hay la cà với bạn bè. Hôm nay, anh lại cho phép mình uống rượu chắc vì sự có mặt của tôi chăng? Hình như thế mà không phải thế. Vì nhìn cách Bảo Ninh nhấm nháp rượu mạnh một cách sành sỏi như một người Tây uống rượu Scot (cứ phải “lim dim” nhẩn nha ngửi ngắm khá kỹ trước khi nhấp môi) là đủ hiểu anh ngày nào cũng phải uống cũng như ngày nào cũng phải viết chục trang tiểu thuyết, phải không Bảo Ninh?


Đọc, nhớ lần gặp thứ nhì Bảo Ninh, khi về Hà Nội lần thứ hai. Cũng có chai rượu ngoại, cũng lời giới thiệu, “Tôi có chai Chiva này…”, đại khái như vậy, nhưng Gấu, dân nhà nghề, vừa ngó chai, nói liền, vẫn chai lần gặp trước, năm trước, chắc là hết mùi rượu rồi, khiến NVH vừa cầm lên, hoảng quá, bèn đặt chai trở lại chỗ cũ.

NVH mới là tay uống rượu cừ, theo lời giới thiệu của NHT. Gấu chưa từng uống lần nào với anh, nhưng đụng trận với NTS thì khá nhiều.

Nghe nói “Em của Gấu”, nữ thi sĩ, cũng thuộc loại có hạng, Gấu cũng chưa có hân hạnh hầu rượu, và ba thứ linh tinh khác!

Gấu biết NVH tay hảo hán trong làng rượu, là do NHT, lần Gấu mời ông, nhưng ông lắc đầu, và hẹn sẽ đưa thằng em ra để thay mặt ông anh, chấp nhận cuộc thách đấu.

Kỷ niệm trận rượu thần sầu quỉ khốc của Gấu, với tay NTS, là ở một cái hầm, nơi có đủ thứ ăn chơi của Hà Nội, chắc thế, nhưng Gấu, do chỉ lo nốc, thành ra chẳng để ý gì đến những mặt khác.

Gần như bò ra khỏi hầm, và khi sắp lên xe, tay chủ quán chạy ra, gửi lại ông anh cái hộp đựng thuốc lào mặt hổ phù Vang Bóng Một Thời, ấy chết xin lỗi, ba thứ lẩm cẩm Gấu bỏ quên, trong có cái camera, "cây gậy thần", như ông cậu Toàn của Gấu đặt tên cho nó, trong lần trở về thăm lại làng Vân Xa, thăm lại dinh cơ của ông Bá Quán, tức ông ngoại của Gấu.


Một lần tôi vào xóm chơi bời, đi theo một đứa con gái vào một căn phòng nhỏ, hôi hám, chật hẹp. Ngọn đèn dầu le lói chiếu sáng căn phòng đỏ lờ đờ. Khi tôi quay lại nhìn, cô gái nằm trên giường, thản nhiên chờ đợi, chẳng thèm để ý tới tôi. Đúng lúc đó, tôi chợt nhớ đến một buổi tối ở nhà T. Lúc đó T. đang ngủ. Nàng ngồi choàng dậy, thảng thốt nói: "Không, ai dậy anh làm vậy?" Tôi cười gượng gạo: "Đó chỉ là khám phá bản thân, khám phá thân thể em và anh." Tôi nói gần như thét với đứa con gái: "Cởi quần áo ra!" Sự hổ thẹn theo tôi tới tận lúc đó.

Những Con Dã Tràng

Bà cụ C. khi đọc Những Con Dã Tràng, truyện ngắn đầu tay của Gấu, được ông anh nhà thơ khen um lên, bèn lắc đầu, thằng này bịnh, chắc là cụ muốn nói đến cái đoạn trên. Tuy nhiên một anh bạn phán, khủng khiếp nhất, sex nhất, là cái xen đánh đu:

Bấy giờ gió thổi mạnh, cành lá xào xạc ở phía trên đầu. Đám phi lao ngập ngừng chuyển mình, nửa muốn phụ họa gió, nửa muốn kéo dài giấc ngủ im lìm buổi trưa. H. cùng đứa em đánh đu ở phía trước. Hàng cây che khuất tầm nhìn của tôi. Mỗi lần chiếc đu trở lui về phía sau, thân hình người con gái lại hiện ra giữa hai thân cây phi lao, rồi lại mất đi một cách đều đặn. Tiếng cười giòn, nhẹ và ấm vọng tới chỗ chúng tôi. Rồi gió thổi mạnh làm át đi tất cả; trong gió có những con vật bé li ti, những chiếc lá cây, và những hạt cát.

Sau này, Gấu đọc Steps, của Jerzy Kosinki, có 1 truyện, trong có đoạn, y chang đoạn trên, nhưng bịnh hơn nhiều, tuyệt hơn nhiều. Cảnh cái đu tới, rồi lui, rồi lui, rồi tới, được tái tạo, qua 1 tấm gương.

GCC hăm he hoài với chính mình, phải chôm, giới thiệu với độc giả TV. Cái đoạn này còn làm GCC nhớ đến 1 ông bạn trong Thất Hiền, là Phạm Năng Cẩn, có người yêu là cô Phượng, hình như vậy. Cô này, bạn học cùng lớp, thường đóng học phí giùm cho bạn Cẩn, GCC kể đâu đó rồi. Trước khi cô lấy chồng, hẹn gặp bạn Cẩn ở 1 phòng khách sạn. Bạn Cẩn mừng quá, sướng run lên, và khi gặp, cô ra lệnh, anh quay mặt đi, khi nào tôi cho phép thì hãy quay lại. Và khi Cẩn quay lại, thì nhìn thấy cặp oản trắng nõn của cô qua tấm gương trong phòng.

Tuyệt, nhỉ! (1)

*

GCC đọc Steps, qua bản tiếng Tây, Les Pas, Những Bước Chân, khi còn nhà sách Xuân Thu, còn Sài Gòn. Cuốn khủng khiếp của ông, là The Painted Bird, GCC cũng đọc, qua bản tiếng Tây, dịch là Con Chim Sặc Sỡ, L'oiseau Bariolé. Trên TV cũng đã giới thiệu Jerzy Kosinski. Ông sau tự tử.


(1)

GCC biết đến Jerzy Kosiński rất sớm từ những ngày còn Sài Gòn, khi cuốn sách của ông nổi đình nổi đám, và được tờ Văn nhắc tới, và dịch cái tít theo bản tiếng Tây là Loài Chim Dị Chủng, L'Oiseau bariolé, và liền sau đó, nghĩa là, liền sau khi cày thêm 1 job cho UPI, Gấu bèn ghé Xuân Thu tậu 1 cuốn của ông, cũng thật là bảnh, Les Pas, bản tiếng Tây của Steps.

Đúng là thần sầu.

Thần sầu hơn nữa, là, 1 cái truyện ở trong đó, rất giống trường hợp đã xẩy ra với bạn Phạm Năng Cẩn, 1 trong Thất Hiền của Gấu.
Bạn còn nhớ ông bạn Cẩn này, hồi đi học, sống nhờ ông anh, có bà chị dâu tàn khốc, và do đó, thường là quên đóng học phí, và được 1 em học cùng lớp thương, cứ nhét tiền vào trong vở bạn Cẩn, trả học phí giùm.
Sau em đi lấy chồng, và trước khi đi lấy chồng hẹn gặp bạn Cẩn ở.... khách sạn.
Ui chao bạn Cẩn tới, sợ run, mừng run, và em ra lệnh, anh quay mặt đi chỗ khác.
Cẩn không chỉ quay mặt đi chỗ khác, mà còn nhắm kín cả hai mắt. Khi em ra lệnh, quay mặt lại, và mở mắt ra, thì Cẩn nhìn thấy cái lưng trần của em và hai trái táo bự ơi là bự, ở trong gương!
Cẩn chỉ được hưởng hương, hưởng hoa, trước khi em đi lấy chồng.
Trong Les Pas có 1 truyện tương tự, nhưng khủng hơn nhiều, bịnh hơn nhiều, chứ không thanh cao, trong trắng như trong trường hợp của bạn Cẩn.

Gấu Cà Chớn cũng gặp 1 trường hợp tương tự bạn Cẩn. Trước khi lấy Gấu Cái, cũng 1 em đến gặp, tự động phơi hến ra, như cái em trong bài thơ của Sebald, cho anh đấy, hàng "zin", anh nhìn hai cái núm vú đỏ hỏn của em thì biết, nhưng chỉ với điều kiện, phải lấy em, phải bỏ cái cô có bầu với anh.
Gấu không thể bỏ Gấu Cái, thế là đành lắc đầu, dù rất thèm!

Hà, hà!

Cô này, lần Gấu về lại Sài Gòn, gặp lại. Có chồng, nhưng bỏ nhau đã nhiều năm, 1 mình lo cho đàn con. Gấu rủ đi chơi, OK, nhưng tới khi đề nghị kiếm… khách sạn thì cô lắc đầu, ngày trước, còn zin, cho không anh, anh chê, bây giờ nát bấy như quê hương mỗi người chỉ có một, có đáng gì nữa, nhưng chỉ sợ anh già rồi, chẳng làm gì được, hến của tôi lại thẹn thêm một lần nữa.

Dã man thật.

Mà có thể thế thật!

*

Cả hai cuốn đều tuyệt cú mèo. Gấu nhớ, hồi đó đó, đọc tờ Paris Match, kể về Kosinski, học tiếng Anh bằng cách gọi cho mấy cô ở Tổng Đài, và, cùng lúc, viết tiểu thuyết bằng tiếng Anh.
Sau vỡ ra là ông phịa.
Cuốn tiểu thuyết khủng khiếp số 1 của ông, cũng là phịa, trong khi ông cứ khăng khăng chuyện thực.
Và sau tự tử để chứng minh, nó là thực.
Vưỡn chẳng ai tin.
Ngu thế. Giả mới bảnh chứ thực thì…. chán chết.
Gấu coi sách, coi phim, mà thấy câu 'dựa trên chuyện thực' là vứt vô thùng rác.


+ Đọc blog của Nguyễn Quang Lập (cái này chắc ai cũng biết rồi chẳng cần quảng cáo thêm): ngày xưa tôi đọc Những mảnh đời đen trắng thấy chán, xem mấy cái phim thấy sến, giờ đọc kiểu viết blog thấy nhiều cái hay, đầy tài năng, nhưng là tài năng của cái nhìn phía dưới đầu gối, thỉnh thoảng cũng nâng lên trên, cách được khoảng hai gang tay.

Nhị Linh's Blog.

Đọc NQL mà hiểu như vậy, thì hơi khí nặng tay với tác giả.

Phải đọc, như những truyền kỳ, về một thế giới hồ ma của Liêu Trai, hay như những "cửa sổ" nhìn ra thế giới bên ngoài, như cách Kundera đọc Kafka, trong Những di chúc bị phản bội, hay đọc song song với "Ba thằng lăng nhăng" của Tô Hoài...

Biến thái của nó, sau 30 Tháng Tư, là dòng văn Bóng Đè, dòng thơ Mở Miệng, dòng thơ đóng đinh thập tự của Nguyễn Viện...
Đây cũng là cách Mishra đọc Ma Jian, Tiananmen's wake, coi sexual love là antidote chống lại sự kiểm soát của Đảng!

(1) Nên nhớ NQL là thuộc thế hệ Chống Mỹ Cứu Nước, khác hẳn thế hệ... Nhị Linh. Thay vì chọn cách viết của mấy ông kia, hay những ông như Đào Hiếu, Lữ Phương, ông chọn cách viết "truyền kỳ".
Cũng là một cách nhìn lại thời của ông! (1)

(1)
Không có đời mình trong đó, nhưng đọc thấy đời mình, đời bạn bè mình, thấy lại trước mắt năm tháng đã qua, những năm tháng hiện hữu trong các câu chuyện và cả ở khoảng trống giữa các câu chuyện. Thời thơ ấu, tuổi học trò, mối tình đầu, tang thương chiến tranh, đời văn, quê nhà và tha hương lang bạt. Trần Vàng Sao. Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đoàn Anh Thắng. Phùng Quán. Bạn bè ở Huế…", Bảo Ninh bày tỏ.