Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Noel 2011
Nunc
Dimittis
Cây Noel Nhà, năm ngoái,
năm nay.
@ Espresso
"Sẽ phải
có điều tra. Rất có thể khó gạt đám báo chí ra ngoài. Chắc chắn việc
đầu tiên
tôi phải làm ngày mai là gặp ông Bộ Trưởng Nội vụ ( Hù dọa ta đây...Thử
lần nữa...Mình
luống tuổi rồi ....Phải nghĩ đến hưu trí ...Thất nghiệp cũng nên ...
Nhưng ta
không chia sẻ sự dối trá của ngươi đâu, Maston ạ.) "Tôi phải nắm toàn
bộ sự
kiện, Simley. Tôi phải làm bổn phận của tôi. Nếu có bất cứ chuyện gì
anh cảm thấy
nên cho tôi biết về cuộc phỏng vấn, bất cứ chuyện gì anh chưa ghi lại
trong hồ
sơ chẳng hạn, bây giờ cho tôi biết để tôi thẩm định ý nghĩa của nó."
"Thật sự, chẳng còn điều gì để
thêm vô hồ
sơ, và những gì tôi vừa nói với ông hồi hôm . Có lẽ ông cũng nên biết,
( Tiếng
"Ông " có vẻ hơi gằn một chút), có lẽ ông cũng nên biết tôi tiến hành
cuộc phỏng vấn trong bầu không khí hết sức thoải mái. Lời cáo buộc
Fennan khá mỏng
manh - Sinh viên vào Đảng thập niên 1930, tiếng đồn mơ hồ hiện nay vẫn
là cảm
tình viên. Phân nửa Nội các những năm 30 đều vào Đảng".
Maston nhíu
mày.
"Khi tôi tới văn phòng anh ta tại bộ Ngoại
giao, lúc đó hóa ra khá đông người ra vào, nên tôi đề nghị cả hai ra
công viên
đi dạo " .
"Tiếp tục đi".
"Vậy là chúng tôi đi dạo. Bữa đó trời nắng,
lạnh, và khá dễ chịu. Chúng tôi ngắm bầy vịt ".
Maston tỏ dấu nóng nảy.
"Chúng tôi ở công viên chừng nủa giờ.
Toàn là anh ta nói. Thông minh, lưu loát, lôi cuốn. Nhưng bồn chồn,
cũng đúng
thôi. Những người như vậy ưa nói về họ, và tôi nghĩ anh ta mừng vì có
dịp được
nói một lần cho xong. Anh ta kể toàn bộ câu chuyện - có vẻ khoái nêu
tên từng
nhân vật trong cuộc - và rồi chúng tôi tới một quán cà phê espresso mà
anh ta
quen ở gần Millbank ".
"Tới đâu ?".
"Quán cà phê hơi espresso. — đó họ bán loại
cà phê đặc biệt một hào một ly. Chúng tôi làm vài ly . "
Gọi Người Đã
Chết
GCC tính dịch
cuốn này mà cứ bận bịu hoài.
I wish U will have another
book...
Joyeux Noel.
NQT
The
collapse of the Soviet Union
Russia’s imperial agony
The cost of the Soviet collapse has been huge and ongoing
“THE dying process has begun”,
wrote Alexander Kugel, a journalist
and theatre critic, a few months after the bloody Bolshevik revolution
of 1917.
“Everything that we see now is just part of the agony. Bolshevism is
the death
of Russia. And a body the size of Russia cannot die in one hour. It
groans.”
The agony lasted over 70 years. On December 25th 1991 Mikhail
Gorbachev, on
television, relinquished his duties as the last president of the USSR.
The
hammer and sickle flag was lowered from the Kremlin without fanfare.
The empire
expired with a sigh.
Liên Xô dẫy chết.
Bài điểm này tuyệt quá. Chỉ vài tháng sau khi Cách Mạng Bôn Xê Vích bắt
đầu, mà
đã ngửi ra cái chết, 70 năm sau đó.
Thơ
Mỗi Ngày
LATE-NIGHT
CHAT
Of memory,
the unhappy man's home.
How to guess
time of night by listening to one's own heartbeat
Why we can't
see the end of our nose.
On the
obscurity of words and clarity of things.
Why
songbirds shit while they sing.
The truth
about sneezing in church.
A few tips
on how to make bad wine taste good.
What tunes
to whistle while walking past a graveyard at night.
What to say
to a mirror at four in the morning.
Plus a few
thoughts regarding the little dolls she made that all looked like me.
How she
stuck them with pins and hung them in a tree.
Charles
Simic
Chát Khuya
Về hồi nhớ,
cái nhà của 1 thằng đàn ông bất hạnh.
Làm sao biết
mấy giờ đêm, khi nghe tiếng đập của tim mình.
Tại làm sao
chúng ta không thể nhìn thấy cái chỏm mũi của mình.
Về sự tối tăm
của từ ngữ và sự sáng sủa của sự vật.
Tại làm sao
mấy con chim lại hót khi ị.
Sự thực về
những cú hắt hơi trong nhà thờ.
Vài cái mánh
về làm thế nào cho rượu vang dở thành thứ xịn.
Những điệu
nhạc nào bạn huýt sáo khi đi ngang nghĩa địa vào ban đêm.
Bạn nói với
cái gương điều gì khi ngó cái bộ mặt của bạn ở trong đó, vào lúc 4 giờ
sáng.
Thêm vài ý
nghĩ nho nhỏ về những con búp bế mà em làm ra, tất cả đều giống tớ.
Bằng cách nào
em đính chúng, và treo lên 1 cái cây.
GCC
vừa phán ẩu, thi sĩ Mít tuyệt giống, thì hân hạnh đọc cuộc thảo luận
của các
nhà thơ Việt trên trang litviet của PNH, mở ra bằng câu của Simic, trên.
“Poetry
is an orphan of silence. The words never quite equal the experience
behind
them.”
Vì
không hiểu Simic phán như trên trong trường hợp nào, và thế nào là đứa
trẻ mồ
côi của im lặng, và nó liên quan gì tới thơ, và nhất là, tới thơ
Mít [Nhà thơ Việt còn rắc rối hơn, y bị đặt trước nhiều
vấn nạn…], GCC tò mò lần net, ra bài tiểu luận sau đây, qua đó cho
thấy, đứa trẻ
mồ côi của im lặng liên quan tới “maternal silence”…
Poetry
is understood by the poet to be a child that has lost its mother. A
connection between the experience of the "maternal silence" and
language cannot, it seems, be established. The relation of experience
and
language is tragic like the relation of an orphan to his mother.
Orphan
of
Silence : An
Introduction
Đọc
loáng thoáng bài tiểu luận, thì có vẻ như
đây là kinh nghiệm của riêng Simic, ít ra là như vậy. Ông là nhà thơ
mất mẹ nó
tiếng mẹ đẻ, và phải dùng tiếng Anh để làm thơ.
GCC
vs Mít Poets
Trên
Gió O, GCC mới đọc bài của NY, viết về thơ, và những
người bình thơ. Thấy cũng nhột nhột, đành đi 1 đường.
Nói rõ ra
thì là như thế này, GCC chưa từng
đọc thơ của mấy đấng như NY, TQ, PNH... không phải thơ của họ không
hay, mà vì
không hợp tạng. Thơ NXT thì chỉ đọc được tập thơ tù. Sau thấy lạt quá,
không đọc
nữa.
GCC nhắc tới mấy đấng này, là về vấn đề họ sử dụng tiếng Việt tệ quá
chứ không
phải làm thơ tệ quá.
Cẩn bạch. NQT
Hát Sau Lò Cải
Tạo
Miền Nam mất vì chúng ta
vưỡn
nghĩ, VC
Bắc Kít cũng 1 thứ Mít, như chúng ta. Chúng ta vẫn hy vọng, chiến tranh
chấm dứt,
và nước Mít độc lập thống nhất, không còn chiến tranh chắc chắn phải
hơn hai nước
Mít thù nghịch nhau. Làm sao Miền Nam "tiên đoán" ra được Lò Cải Tạo,
khi chắc mẩm, 10 ngày cơm nắm mang theo, ăn hết thì lại về nhà hú hí
với vợ con? Nếu không có vụ anh Tẫu
đánh Miền Bắc Bắc Việt, và Bắc Bộ Phủ tống hết cả Miền Nam lên đó, làm
thịt sạch,
thì hoặc để họ tự tiêu diệt lẫn nhau... Bạn có thể tưởng tượng ra
một... “sự thực”
như thế? Miền Nam mất vì chúng ta thiếu sự tưởng tượng, hoặc không thể
nào tưởng
tượng ra được những “chân lý” như trên.
Czeslaw Milosz cũng đã
từng
phán như vậy
về Tây Phương, khi họ nghĩ rằng, ông phịa ra những tội ác của CS.
Brodsky đã từng
sửa lưng em Susan Sontag, khi em chê Solz chẳng biết 1 tí chó gì
về Tây
Phương. Ông biểu em, đúng như thế, nhưng những gì Solz phán về Liên Xô,
thì đều
đúng, và không có gì ngây thơ cả, thí dụ, con số người bị Stalin giết.
Câu chuyện
Chế Linh dường như còn ẩn chứa những vấn đề “ khó nói” trên văn bản.
Khó nói đến
nỗi văn bản chính thức của Sở văn hóa – thông tin Thành phố chỉ ghi:
“Chưa phù
hợp với điều kiện của thành phố”.
Ðỗ thi sĩ
Ẩn tàng, khó
nói… cái con khỉ.
Liệu chúng
ta có thể tưởng tượng ra, 1 anh Linh Chê, về, để hát, và để chết trên
Đất Mẹ, bị
từ chối, vì tình hình chưa phù hợp?
Ở cái tuổi 70,
cổ lai hy, Bác H viết di chúc, vậy mà bác Lính Chê, về nước, sau khi
phủ phục
trước Bắc Bộ Phủ, sau khi ra Lăng Bác khấn bái xin phù hộ, và xin phép
"hát cho đồng bào tôi" nghe, vậy mà "Lô nà Lô", [Nô, nói ngọng,
bởi vì lệnh này, chắc là từ Bắc Bộ Phủ, tao cho, nhưng mày không cho,
chẳng có
chuyện trống đánh xuôi ở đây], 30 năm sau khi cuộc chiến chấm dứt?
La Peau
[Làn
Da]: Một cuốn tiểu thuyết-Trùm: Un Archi-Roman
LA
MORT DE
L'AUTEUR
Essai
de roman
Enrique Vila-Matas
Luận về tiểu
thuyết
Lời kêu gọi
gửi tới tất cả những nhà văn, những người đầy tiềm lực sẽ trở thành nhà
văn, những
người mới tập sự, hay những người đã được công nhận: Nếu các bạn muốn
biết văn
chương bi giờ ở đâu, và nếu có thể, lại làm mới nó, làm cho nó nóng hổi
vừa
thổi vừa đọc, hãy đọc Chet Baket nghĩ về
nghệ thuật của anh ta, của Enrique Vila-Matas. Bạn sẽ chẳng tìm
thấy bước để
đi theo, chẳng lý thuyết; chẳng “ơ ra kìa”, kiếm thấy rồi, cũng không
bất cứ 1
phương tiện nào để thoát ra khỏi thất bại, nhưng mà là những điều chỉnh
quí hóa, những
dọ dẫm phì nhiêu, những mâu thuẫn không giải toả mà gợi hứng, mặc khải,
những lối đi mời gọi, nhưng lại chẳng dẫn tới đâu, như chúng có thể mở
ra văn học
của tương lai (thì cứ giả dụ như có văn học tương lai, và tương lai dám
dành
cho văn học một chỗ). Và bạn sẽ ngộ ra 1 điều là, nếu một cuộc cách
mạng mới mà
người ta có thể bàn về nó, thì nó sẽ xẩy ra, nếu như xẩy ra, khác hẳn
những cuộc
cách mạng đi trước nó, nghĩa là đếch có ồn ào, đạp đổ, đao to búa lớn
[thí dụ như của
mấy đấng Sáng Tạo], không tuyên ngôn, không xuống đường, không xì căng
đan, mà
rất ư là nhẹ nhàng, giấm giúi, chỉ mong chẳng ai nhận ra.
Chẳng phải
tiểu thuyết, chẳng phải tự thuật, chẳng phải tiểu luận phê bình văn
học, cuốn sách
được Vila-Matas, chính ông ban cho nó 1 cái tên, một “giả tưởng phê
bình”. Tác
giả rút về 1 căn phòng khách sạn, ở Turin, một nơi chốn Xavier de
Maistre đã từng
viết Cuộc du lịch chung quanh căn phòng của
tôi. Ông nghe nhiều giọng điệu khác nhau của bản nhạc « Bela
Lugosi's Dead
», thú nhận, công việc của ông là của “một kẻ tưởng mình là… Thầy
Cuốc”, lập đi
lập lại rằng, nếu anh ta là 1 kẻ kể chuyện, thì sẽ là một kẻ “kể chuyện
ngần ngại,
lo âu”, đi tìm cái cảm xúc giấu kín Céline, nghệ thuật Kafka của sự
chối từ, cái
còn zin của từng khoảnh khắc. Nhưng trên hết, anh ta phán – nói khác
đi, anh
ta lao vào 1 cuộc du ngoạn ở bên trong
chính anh ta, của cái thư viện của anh ta, của văn chương. Một cuộc du
ngoạn bất
động qua đó, anh ta sẽ gặp gỡ, trong số những người khác, Sergio
Chejfec,
Gombrowicz, Borges, Le Faucon maltais, John Lennon, Dorothy
Hewett,
Nabokov. Với điểm xuất phát, và cũng coi như leitmotiv [cách viết
khác],
điều thường hằng sau đây: trong văn chương cuộc chiến được tuyên bố
giữa chủ
nghĩa hiện thực và sự từ chối chủ nghĩa hiện thực, giữa hai quan điểm
cơ bản mâu
thuẫn nhau về chủ nghĩa hiện thực, đúng hơn, một, toan tính tái
tạo dựng thực tại “man rợ, tàn nhẫn, câm nín, và không ý nghĩa của sự
vật” mà
Ortega y Gasset đã nói tới, và một, muốn đem đến 1 cái nghĩa cho thực
tại trong
những câu chuyện kể truyền thống, đơn giản, và dễ chịu; giữa cái gọi là
không-có
tính kể lể, và tính kể lể; giữa sự “thờ phụng cái không đọc được”, và
cái đọc
được, an tâm và qui ước: giữa Finnegans Wake và Les
Fiançailles de M.
Hire; giữa James Joyce, “Kẻ
Đầy Tham Vọng, Kiêu Căng, Tự Phụ”, và thằng “anh/em sinh đôi ngu si đần
độn của
nó”, Georges Simenon.
Apricot Jam
and Other Stories
by
Aleksandr
Solzhenitsyn
Un « écrit
non écrit », l'ombre de l'inconscient
Si Duras a
toujours revendiqué son indépendance face à la psychanalyse, elle peut
décrire
le processus d'écriture en des termes évoquant les pensées freudienne
ou
lacanienne.
Par Florence
de Chalonge
Viết như
không viết.
Khi sử dụng
cụm từ này, để miêu tả cách viết của Thảo Trần, qua cảm nhận của Thảo
Trường
và Nhật Tiến, khi đọc Nơi Dòng Sông Chảy Về Phía Nam; một vị độc giả
của TV còn
khen TT viết tự nhiên hơn Cô Tư, và Tara của TT mới đúng là Tara, của
Cô Tư có
mùi Cách Mạng, [nhân tiện đây, xin cám ơn], GCC không nghĩ là lại có
người chôm
của Gấu, để gọi cách viết của em Đầm thực dân đã từng sống ở Sa Đéc.
Nhưng với
Florence de Chalonge, tác giả bài viết, "viết không viết" của Duras
là viết dưới bóng của vô thức. Còn với TT, là sự tự nhiên của đời sống
thực
chuyển vào ngòi viết.
Khác nhau.
Ngày, tháng,
năm
Má,
Má, xin má
hãy tha thứ cho con. Khi còn nhỏ dại con đã nhiều lần xúc phạm đến má.
Tuổi trẻ
vô tri tàn nhẫn, thậm chí con còn trả lời bạn bè: tao mồ côi cả cha lẫn
mẹ, bà
đó khùng, tao đâu phải con bà. Con còn làm nhiều điều đại nghịch, bất
hiếu bất
nghĩa với má mà giờ đây mỗi khi nghĩ lại con đau khổ vô cùng.
Ngay từ khi
bắt đầu bước chân ra đời, con đã nhận ra ngay lầm lỗi của con đối với
má, nhưng
bản tánh ngoan cố con đã ngụy biện đổ thừa cho hoàn cảnh này, hoàn cảnh
nọ. Điều
con nhận ra trước hết là khi sanh con ra, má mới 21 tuổi đời, chồng thì
chết,
nhà ngoại lại nằm trong vùng Việt Minh kiểm soát, Tây ruồng bố mỗi ngày
lại
thêm bọn cường hào ác bá dựa hơi tác oai tác phúc, mà má lại trẻ đẹp
thì làm
sao có thể ở vậy nuôi con. Lầm lỗi thứ hai của con là oán trách má đã
không
nhìn nhận con khi ngoại dẫn con đi thăm má sau 12 năm con sống với ba
má nuôi,
với người dưng nước lã, dù ba má nuôi con rất thương yêu con, nhưng
những kẻ ác
mồm ác miệng họ gọi con là đồ trôi sông lạc chợ. Lúc đó mọi chuyện đã
an bài.
Má không thể nhìn con để bỗng chốc đổ vỡ cái hạnh phúc mong manh của má
và của
mấy đứa em cùng mẹ khác cha với con. Lúc đó con nghĩ là má hạnh phúc
trong cảnh
nhà cao cửa rộng, lắm bạc nhiều tiền nên đã không ngó ngàng gì đến đứa
con côi
cút mà chính mình đã rứt ruột đẻ ra rồi bỏ rơi nó từ khi hai tuổi. Con
nào hiểu
được là ngoại đã đưa con đi thăm má không đúng lúc, ngoại cũng đâu biết
gì, thấy
con vừa thi đậu trung học đệ nhứt cấp, ngoại mừng quá nên muốn chia sẻ
với má.
Người chồng
sau của má, con trai thừa tự của một gia đình thế gia vọng tộc, đã có
một người
đàn bà khác, và sẵn sàng kiếm cớ để bỏ má. Vì phải bảo vệ quyền lợi của
mấy đứa
con, nên má đã ngậm đắng cay sống nhịn nhục, khổ đau và buộc lòng từ
chối không
nhìn nhận đứa con tội nghiệp mà mình đã bỏ nó hơn 12 năm trời.
Khi má ly dị
xong xuôi, được hưởng phân nửa gia tài, lúc này má mới yên lòng và tìm
cách đi
thăm con, con còn nhớ năm đó con đã học xong trung học và đang học sư
phạm, con
đã từ chối không gặp má, không nhận bất cứ thứ gì má mua cho con dù con
rất cần,
vì ba má nuôi con nghèo, không thể cho con đủ những thứ cần thiết, mà
một thiếu
nữ ở tuổi con thời đó cần, con không thể quên được lần cuối cùng má đến
trường
thăm, con đã giận dữ đuổi má ra khỏi cổng trường, ném theo sau quà bánh
vật dụng
mà má đã mang cho con. Má bước đi chan hòa nước mắt, con đã làm cho má
hết sức
bẽ bàng với bạn bè con… Má ơi mỗi lần nhớ
đến đoạn này là con nghe tim mình đau buốt.
Ngày cưới con
má cũng không về, năm đó nước lụt ngập tràn quốc lộ, phải rước dâu bằng
thuyền,
con sắp bước vào cuộc đời làm vợ, làm mẹ mà không hề nghe được một lời
dặn dò
thân thiết nào của ngay chính người đã sanh đẻ ra mình. Sau này con mới
biết là
ba má nuôi con không cho má hay, khi má hay thì con đã theo chồng. Ba
má nuôi
con đã yêu thương con như ruột thịt đã nuôi nấng cho con ăn học nên
người, họ
cũng không muốn mất con và cũng có nói xấu má, những điều đó đã ăn sâu
vào tiềm
thức con, rồi khi lớn lên thêm ba mớ chữ nghĩa lại làm cho con hợm mình
và tưởng
đâu chính mình mới là người có quyền tha thứ cho đấng sanh thành.
Lại nói về “viết
lách nhẹ không”.
Theo nhà văn
Bảo Ninh, cuốn Ký ức vụn "viết lách nhẹ không, như chơi, mà cuốn hút
người
đọc ngay lập tức.. Đây là một tác phẩm sâu nặng buồn vui. Buồn nhiều
hơn
vui". Dù trang bìa quyển sách ghi đây là tạp văn chọn lọc, Bảo Ninh cho
rằng,
tác phẩm này gần với thể loại truyện ngắn hay tiểu thuyết hơn, dù nó
không mang
tính hư cấu. "Sự thực thì tôi thấy Ký ức vụn là một cuốn tiểu thuyết.
Cuốn
ấy viết cho những người cùng thời cùng kiểu với tôi. Bởi tiểu thuyết là
thế.
Không có đời mình trong đó, nhưng đọc thấy đời mình, đời bạn bè mình,
thấy lại
trước mắt năm tháng đã qua, những năm tháng hiện hữu trong các câu
chuyện và cả
ở khoảng trống giữa các câu chuyện. Thời thơ ấu, tuổi học trò, mối tình
đầu,
tang thương chiến tranh, đời văn, quê nhà và tha hương lang bạt. Trần
Vàng Sao.
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đoàn Anh Thắng. Phùng Quán. Bạn bè ở Huế…", Bảo
Ninh
bày tỏ.
Bảo Ninh
cũng chia sẻ, không chỉ ông mà nhiều độc giả, nhất là độc giả trẻ thích
thú tìm
đến với cuốn Ký ức vụn và đó là điều đáng mừng cho văn học.
eVăn
Gấu
đọc NQL,
khi ông vừa xuất hiện trên VHNT của PCL, trong bài viết về Quảng Trị. Nổi
Chìm Một Thị Xã.
Thấy được
quá.
Rồi khi mới
viết Blog. Quá được.
Nhưng sau đó
thì không được nữa.
Nói 1 cách gọn
ghẽ, thì như thế này:
NQL khi mới
viết, có nhiều lửa lắm, và viết, là muốn đốt cháy, muốn đả phá, muốn
chống lại,
[đốt cháy, đả phá, chống lại… cái gì thì tùy bạn thêm vô], sau đó, ông
viết để
nịnh bợ cuộc đời.
Có lần Gấu
nhận xét, ông xuất hiện như ánh lửa ma trơi, rồi vụt tắt.
Làm nhà văn ở
trong 1 thế giới toàn trị, khó lắm, cũng phải thông cảm cho ông.
Được như vậy
cũng là tốt rồi.
Nên nhớ, Bảo
Ninh nhận xét “viết lách nhẹ như không”.
Ông không viết,
“viết nhẹ như không”.
Đây là lời
chê nặng nhất, còn nặng hơn cả những dòng của GCC.
Được, được!
NQT
Trang
NQL
Chín Khúc
Cục Uất
Người ở Đông Dương
Trang NQL trên Tin
Văn
Me-xừ tác
giả, NQL, đang bị CA đánh tơi bời trên
net. Sợ mất mấy bài viết, thuộc loại hiếm quí, thí dụ như những dòng
trên, Gấu
bèn noi gương mấy ông bà thành lập trang net, vì tương lai của văn học
VN, bệ
về Tin Văn, và sẽ nhẩn nha đi vài đường lèo nhèo, khi nào có hứng!
Đọc, về anh Đ. [Tên đầy đủ: Đụ ?], trên, lạ làm sao, làm Gấu lại nhớ
đến
Rasputin, Đại Ác Tăng làm sập chế độ Nga Hoàng.
Đại Ác Tăng chắc cũng một thứ Lao Ái, hay anh Đ.
Anh Đ thì làm thịt [nựng] vợ liệt sĩ, bộ đội làng Đông Dương, Rasputin
làm thịt
hầu như tất cả các bà mệnh phụ phu nhân, bà hoàng, bà chúa, kể cả Hoàng
Hậu
nước Nga, sau bị nhân dân giết chết. Cái chết của ông mở ra Cuộc Cách
Mạng
Tháng Mười, theo một KGB, qua D.M. Thomas, người viết tiểu sử
Solzhenitsyn.
Cái sự
nổi
tiếng như hiện nay của NQL làm GCC nhớ đến trường hợp của Harold
Robbins, một
nhà văn Mẽo, (1) và bài viết về tay này trên tờ Người Nữu Ước, trong 1
số
đã lâu, hồi
Gấu mới ra ngoài này. Tác giả bài viết trên Người Nữu Ước phán, thật
chí lý, HR dư
sức đoạt Nobel, nhưng ông ta bán rẻ đời văn của mình, khi chọn làm nhà
văn
best-seller.
Quá đúng nếu áp dụng vào trường hợp NQL. Ngày trước ông là nhà văn
đầy tiềm năng, triển vọng. Bây giờ ông là nhà văn best-seller, đầy
"tiền năng", và
đầy độc giả, không phải thứ đúng ra là độc giả của ông.
Lần chạy trốn
quê hương, 1 trong những cuốn sách mà Gấu mang theo, lấy từ cái sạp báo
nhà, là
cuốn Người
lữ hành kỳ dị của tay HR. Thật tuyệt vời. Chính vì đọc cuốn
này, mà
sau đó, Gấu tò mò theo dõi đường văn của ông.
Tiếc.
Y chang tiếc NQL bây giờ.
NQT
(1)
Harold Robbins (May 21, 1916 –
October 14, 1997) was one of the
best-selling American authors of all time. During his career, he wrote
over 25
best-sellers, selling over 750 million copies in 32 languages.
Born as Harold Rubin in New York City, he later claimed to be a Jewish
orphan
who had been raised in a Catholic boys home.[citation needed] In
reality he was
the son of well-educated Russian and Polish immigrants.[1] He was
reared by his
pharmacist father and stepmother in Brooklyn. His first wife was his
high
school sweetheart[2]
Wiki
HR là 1 trong những nhà văn Mẽo
sách bán chạy nhất mọi thời. Trong
nghiệp văn ông viết trên 25 cuốn best-seller, bán ra trên 750 triệu ấn
bản,
trong 32 ngôn ngữ.
Ông phịa ra gốc gác của ông, một đứa trẻ mồ côi Do Thái. Sự thực, ông
dòng dõi
di dân Ba Lan-Nga.
Nhân vô
Wiki, đọc về HR, mới biết ông phịa gốc gác Do Thái. Trong văn học, có
mấy trường
hợp phịa gốc gác Do Thái, và đều khủng cả. Một, trường hợp Jerzy
Kosiński tác
giả The Painted Birds, và một, Binjamin
Wilkomirski, người đàn ông có hai cái đầu,
TV đã giới thiệu, tóm tắt bài viết trên 1 số Granta về “Sự Thực &
Dối Trá”.
GCC biết đến
Jerzy Kosiński rất sớm từ những ngày còn Sài Gòn, khi cuốn sách của ông
nổi
đình nổi đám, và được tờ Văn
nhắc tới, và dịch cái tít theo bản tiếng Tây là
Loài Chim Dị Chủng, L'Oiseau bariolé, và liền sau đó,
nghĩa là, liền sau khi cày
thêm 1 job cho UPI, Gấu bèn ghé Xuân Thu tậu 1 cuốn của ông, cũng thật
là bảnh, Les Pas, bản tiếng
Tây của Steps.
Đúng là thần
sầu.
Thần sầu hơn
nữa, là, 1 cái truyện ở trong đó, rất giống trường hợp đã xẩy ra với
bạn Phạm
Năng Cẩn, 1 trong Thất Hiền của Gấu.
Bạn còn nhớ
ông bạn Cẩn này, hồi đi học, sống nhờ ông anh, có bà chị dâu tàn khốc,
và do đó,
thường là quên đóng học phí, và được 1 em học cùng lớp thương, cứ nhét
tiền vào
trong vở bạn Cẩn, trả học phí giùm.
Sau em đi lấy chồng, và trước khi đi lấy chồng
hẹn gặp bạn Cẩn ở.... khách sạn.
Ui chao bạn
Cẩn tới, sợ run, mừng run, và em ra lệnh, anh quay mặt đi chỗ khác.
Cẩn không chỉ
quay mặt đi chỗ khác, mà còn nhắm kín cả hai mắt. Khi em ra lệnh, quay
mặt lại,
và mở mắt ra, thì Cẩn nhìn thấy cái lưng trần của em và hai trái táo bự
ơi là bự, ở trong gương!
Cẩn chỉ được
hưởng hương, hưởng hoa, trước khi em đi lấy chồng.
Trong Les Pas
có 1 truyện tương tự, nhưng khủng hơn nhiều, bịnh hơn nhiều, chứ không
thanh
cao, trong trắng như trong trường hợp của bạn Cẩn.
Gấu Cà Chớn cũng gặp 1
trường
hợp tương tự bạn Cẩn. Trước khi lấy Gấu Cái, cũng 1 em đến gặp, tự động
phơi hến
ra, như cái em trong bài thơ của Sebald, cho anh đấy, hàng "zin", anh
nhìn hai cái
núm vú đỏ hỏn của em thì biết, nhưng chỉ với điều kiện, phải lấy em,
phải bỏ cái
cô có bầu với anh.
Gấu không thể
bỏ Gấu Cái, thế là đành lắc đầu, dù rất thèm!
Hà, hà!
Cô này, lần
Gấu về lại Sài Gòn, gặp lại. Có chồng, nhưng bỏ nhau đã nhiều năm, 1
mình lo
cho đàn con. Gấu rủ đi chơi, OK, nhưng tới khi đề nghị kiếm… khách sạn
thì cô lắc
đầu, ngày trước, còn zin, cho không anh, anh chê, bây giờ nát bấy như
quê hương
mỗi người chỉ có một, có đáng gì nữa, nhưng chỉ sợ anh già rồi, chẳng
làm gì được,
hến của tôi lại thẹn thêm một lần nữa.
Dã man thật.
Mà có thể thế
thật!
Cả hai cuốn
đều tuyệt cú mèo. Gấu nhớ, hồi đó đó, đọc tờ Paris Match, kể về
Kosinski, học
tiếng Anh bằng cách gọi cho mấy cô ở Tổng Đài, và, cùng lúc, viết tiểu
thuyết bằng
tiếng Anh.
Sau vỡ ra là ông phịa.
Cuốn tiểu thuyết khủng khiếp số 1 của ông, cũng
là phịa, trong khi ông cứ khăng khăng chuyện thực.
Và sau tự tử
để chứng minh, nó là thực.
Vưỡn chẳng
ai tin.
Ngu thế. Giả mới bảnh chứ thực thì…. chán chết.
Gấu coi
sách, coi phim, mà thấy câu 'dựa trên chuyện thực' là vứt vô thùng rác.
+ Đọc blog của Nguyễn Quang Lập
(cái này chắc ai cũng biết rồi
chẳng cần quảng cáo thêm): ngày xưa tôi đọc Những mảnh đời đen trắng
thấy chán, xem mấy cái phim thấy sến, giờ đọc kiểu viết blog thấy nhiều
cái
hay, đầy tài năng, nhưng là tài năng của cái nhìn phía dưới đầu gối,
thỉnh
thoảng cũng nâng lên trên, cách được khoảng hai gang tay.
Nhị
Linh's Blog.
Đọc NQL mà
hiểu như vậy, thì hơi khí nặng tay
với tác giả.
Phải đọc,
như những truyền kỳ, về một thế giới hồ ma của Liêu Trai, hay như
những "cửa sổ" nhìn ra thế giới bên ngoài, như cách Kundera đọc
Kafka, trong Những di chúc bị phản bội, hay đọc song song với
"Ba
thằng lăng nhăng" của Tô Hoài...
Biến thái
của nó, sau 30 Tháng Tư, là dòng văn Bóng Đè, dòng thơ Mở
Miệng, dòng thơ đóng đinh thập tự của Nguyễn Viện...
Đây cũng là cách Mishra đọc Ma Jian, Tiananmen's wake,
coi sexual love là antidote chống lại sự kiểm soát của Đảng!
(1) Nên nhớ NQL là thuộc thế hệ Chống Mỹ Cứu Nước, khác hẳn thế hệ...
Nhị Linh.
Thay vì chọn cách viết của mấy ông kia, hay những ông như Đào Hiếu, Lữ
Phương,
ông chọn cách viết "truyền kỳ".
Cũng là một cách nhìn lại thời của ông! (1)
(1)
Không có đời mình trong đó, nhưng đọc thấy đời mình, đời bạn bè mình,
thấy lại
trước mắt năm tháng đã qua, những năm tháng hiện hữu trong các câu
chuyện và cả
ở khoảng trống giữa các câu chuyện. Thời thơ ấu, tuổi học trò, mối tình
đầu,
tang thương chiến tranh, đời văn, quê nhà và tha hương lang bạt. Trần
Vàng Sao.
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đoàn Anh Thắng. Phùng Quán. Bạn bè ở Huế…", Bảo
Ninh
bày tỏ.
Ghi chú trong
ngày
Khi
khảo về hiện tượng
từ vay mượn, học giả Đào Duy Anh đã chỉ ra đặc điểm ưa nói trại của
người Việt
Nam, từ đó mà các từ lúc sang đến nước ta thường xuyên có những biến
đổi khá đặc
biệt, chẳng hạn như từ cahier [quyển vở] thường được học sinh thời của
ông đọc
chệch đi một chút thành caidê.
yên sĩ phi lý thuần
(từ inspiration)
Blog
NL
yên
sĩ phi lý thuần
(từ inspiration): Phiên
âm này của Tầu, không phải của Mít.
Giống
như công môn tả lão phù [Comment allez-vous?].
Trong cuốn Trước Đèn của Lãng
Nhân, hình như có nhắc đến mấy từ này
Mít
có từ của Mít: Inspiration dịch qua tiếng
Mít là:
“Phiện
thú lắm”!
Mấy
từ tiếng Tây đọc trại, thường là do cách đọc
của người Miền Nam, gần Tây hơn [tự trị], so với Bắc Kỳ, đọc sao cho
Tây hiểu.
Bởi
thế mới có những từ như trái ô-buy, trái phá, cặp rằng, từ caporal,
phạm nhe, từ
infirmier...
Thi sĩ TTT hồi
nhỏ sống ở trong Nam, Sài Gòn. Chắc là ông biết nhiều tiếng Miền Nam,
từ tiếng
Tây qua, như trong 1 bài thơ viết về Hà Nội, ông dùng “ô buy”, đâu có
phải mưa ô
buy…”, và đám bạn bè của em ông, có đứa lầm với mưa thu của Hà Nội, như
GCC đã
có lần viết về cái kỷ niệm tuyệt vời của 1 thời tuyệt vời.
Vào năm
1954, khi mới vô Sài Gòn, Gấu còn được nghe 1 số tiếng Miền Nam từ
tiếng Tây qua, và
nhớ hoài cái cảnh, ông bố chủ nhà bảo thằng con trai, sĩ quan Bình
Xuyên, lột cái "galon",
lon sĩ quan, ném bỏ, làm dân thường, những ngày Diệm tiêu diệt Bình
Xuyên, và đến
30 Tháng Tư lại nhìn thấy cảnh này....
Ðâu phải mưa
ô buy vào thành phố"...
1954, vào
Nam, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền có lẽ là một trong những người đầu tiên có
những
dòng thơ văn về Hà Nội, bên cạnh những dòng nhạc của một "Mưa Sài Gòn,
Mưa
Hà Nội", hay "Hướng Về Hà Nội". Câu thơ trên, tôi chỉ nhớ loáng
thoáng, trong tập "Tôi không còn cô độc", đã một thời làm ngơ ngẩn cả
đám bạn bè hồi cùng học trung học. Ngớ ngẩn, đúng hơn.
Số là Phạm
Năng Cẩn rất mê câu thơ đó. Anh cứ ngâm đi ngâm lại khiến Nguyễn Quốc
Sủng đâm
ra thắc mắc, hỏi, mưa ô buy là mưa gì? Tôi nhớ là, bạn Cẩn ngớ ra,
và... cương
đại: mưa ô buy là một thứ mưa bụi (buy biến thành bụi), hạt lấm tấm như
nhũ kim
cương trên những chiếc áo Mùa Thu, Hà Nội!
Sủng coi bộ
không hài lòng với một lời giải thích rất thơ như vậy. Một bữa, trong
lúc cả
đám vây quanh nhà thơ, anh hỏi. Thi sĩ trả lời: ô buy là một từ tiếng
Pháp,
obus. Mưa ô buy là mưa đại bác, mưa trái phá!
Sau này tôi
được biết, người miền nam gọi trái phá là trái ô buy. Họ gọi phạm nhe
là người
y tá, và hồi mới vào Sài Gòn, tôi đã từng khổ sở vì không hiểu nghĩa
của nó,
sau cùng truy ra, là do từ tiếng Pháp, infirmier.
Nước Pháp,
“hóa thân” vào miền nam, qua từ obus; rồi miền nam “hóa thân” vào từ ô
buy, và
được một nhà thơ miền bắc âu yếm sử dụng cho... Hà Nội, ôi chao số phận
của
“trái đại bác” Tây, nhờ một miền đất, rồi nhờ một nhà thơ, biến thành
cơn mưa bụi
ở một miền đất khác, trong cùng một quê nhà, sao mà may mắn hơn cái từ
chiên hẩm
hiu thế!
Bởi vì không
phải ngẫu nhiên mà nhà thơ sử dụng từ “mưa ô-buy”: ông vẫn bị những cơn
mưa từ
cái thành phố mà ông từ bỏ ám ảnh, cũng như không phải ngẫu nhiên mà
ông bạn
ngày xưa của tôi tán ẩu, ông cũng bị ám ảnh....
Nhân chữ chuẩn
hóa lâu đời tôi lại nhớ đến Lévi-Strauss; ông cho rằng từ ngữ vốn không
phải là
của chung, mà là của riêng, giống như ngày xưa, khi đi thi, mà dùng một
chữ của
vua dùng, là phạm húy, có khi mất luôn cái chỗ đội nón; nhưng, như một
vòng
tròn luẩn quẩn, khi những chữ được những nhà quyền quí dùng chán chê,
vứt bỏ,
lúc đó thứ dân lại mang ra xài, và ngược lại.
Chiên được
người dân cả hai miền sử dụng, biết đâu đấy, chính nó đang mang thông
điệp thống
nhất, và người dân miền bắc có vẻ đã đến lúc quá chán cái gọi là chuẩn
hóa lâu
đời rồi cũng nên...
A black cat,
two moons and a host of nocturnal little people populate Haruki
Murakami’s new
novel.
But has he
become more conventional?
Người Kinh Tế
đọc tác phẩm mới nhất của Haruki Murakimi
Liệu ông ta
trở thành quá qui ước?
Tuyệt.
Chỉ cần 1 cú
đánh thôi.
Phê bình là
như thế đấy!
GCC “lâu
lâu” được bạn văn khen, rất kiệm lời!
Ðánh cú nào
ra cú đó.
Với nhà thơ
NS, chỉ cần hai từ "dễ dãi và sung sướng".
Với bạn quí,
thì “đi tìm 1 cái mũ đã mất”
Hoặc “Thật Lạt”,
thay vì “Thất Lạc”!
...
Hà, hà!
Thảo nào NS
gọi là tên sa đích văn nghệ!
[Lại tự thổi!
Why not?]
HARUKI
MURAKAMI filches from George Orwell’s “Nineteen Eighty-Four” for the
title of
his new novel, “1Q84”, making a play on kyu, the Japanese word for
nine, by
transposing the letter “Q” for the number “9”. Significantly, the
action also
takes place over the last nine months of 1984. But it would be a
mistake to
conclude from this that Japan’s magical postmodernist has spent nearly
1,000
pages writing about a dystopian world where couples make love in an ash
glade,
hardly daring to speak because of the all-listening microphones in the
trees.
Mr Murakami’s main influence here is not so much Orwell as Philip
Pullman; his
“1Q84” less a stairway to another world than a heave-ho into a whole
new
universe.
Chàng tưởng
chàng thuổng Orwell, nhưng thực ra, Philip Pullman; cuốn sách của chàng
không hẳn
là 1 cái thang đưa tới 1 thế giới khác [thế giới toàn trị mà Orwell
tiên đoán,
và sau trở thành hiện thực], nhưng một “heave-ho” [dimissal: từ chối]
vào trọn
1 vũ trụ mới
Tuyệt! Quá
tuyệt!
Tờ TLS Nov
18, 2011, đọc tác phẩm mới ra lò của Murakami, cũng chê thấu trời, dưới
cái tít,
Mộng mị Orwell, Orwellian Reveries, Đếch
phải thế giới này, Not of this World,
thứ rẻ tiền, [cheap]. Tờ báo nhắc lại lời Kenzaburo Oe, khi đọc
Murakami: Chỉ
là những lèm bèm về văn hóa ăn nhậu đớp hít của Tokyo [mere reflections
of the
vast consumer culture of Tokyo], và những thứ văn hóa chìm của thế giới
nói rộng
ra [subcultures of the world at large]
Malraux, còn lại gì?
Thơ
Ở Đâu Xa
Malraux mất
năm 1976, nếu tính theo biên niên thì cũng đâu có quá xa xôi, vậy mà
nghe như ông
cách xa thời đại của chúng ta hàng thế kỷ. Như Sartre, và Camus, họ là
những kiện
tướng của văn học trường lớp của chúng ta. Nhưng vào giờ này, tôi nhận
thấy
sinh viên hết còn thích thú với Phận Người
của Malraux.
Nói thực ra,
tôi nhận thấy văn của Malraux hơi bụi. Ở Malraux có sự ám ảnh của vinh
quang, của
tượng đài, và sự thờ phụng vĩ nhân. Tiểu thuyết của ông luôn rao giảng
những thông
điệp phổ cập. Theo nghĩa này thì ông luôn cùng pha [ngược với “lệch
pha” của Thầy
Cuốc] với thời của ông, thập niên 1930, khi mà những ý tưởng lớn đang
được mùa
với đám đông. Nhưng chính vì thế, mà ngày nay, ông trở thành lỗi thời,
cùng với
thứ tiểu thuyết luận đề. Chúng, tất cả đều tuân theo 1 cấu tạo hai mặt
(xen hành
động, xen tranh luận), và cuốn tiểu thuyết chỉ được sử dụng như là 1
cái xe
chuyên chở tư tưởng siêu hình – Cái Thiện, Cái Ác, Cái Số Mệnh…. Ở đó,
có 1 thứ
chủ nghĩa nhân bản cằn cỗi, quá đát.
Note:
Trang thơ trên, trong bài thơ Vài khúc
dạo tặng tri âm, không thấy có trong bản trên talawas.
"Trắng
xóa bão giông" chắc đúng hơn.
TV sẽ post toàn bài thơ.
NQT
Trang Thơ VHC
Sebald
Ðặt chữ
Qua Ðất Ðai
Qua Sông Nước
Tuyển tập Thơ
1964-2001
Tác giả W.G.
Sebald
Kể
từ khi mất bất thình lình do tai nạn xe hơi vào năm 2001, sự sùng bái
W.G.
Sebald ngày một tăng.
Ông gốc Ðức nhưng chọn Anh là nơi sinh sống. Ðược biết nhiều qua những
tác phẩm
văn xuôi tinh tế, kết hợp cái thực với giả tưởng, đẩy tới mức giới hạn,
điều tiểu
thuyết có thể làm được, ông được coi như là một trong những nhà văn lỗi
lạc nhất
của thế hệ của ông. Ông còn là 1 nhà thơ.
Qua
đất qua nước, một tuyển tập những bài thơ chưa từng in trước đó,
nếu có thể nói
như vậy. Ðược dịch bởi Iain Galbraith, Qua đất qua nước,
như cái tên cho thấy, phác ra một cuộc đời di động.
Trải dài 37 năm, tuyển tập bao gồm những bài thơ mà Mr Galbraith kiếm
thấy tác
giả của nó viết vội, ở trong những hồ sơ, trên những mẩu giấy, trên tờ
thực đơn
nhà hàng, chương trình của một buổi ca nhạc, kịch nghệ, hay những tờ
giấy có những
tiêu đề của 1 nhà hàng, khách sạn. Chúng bật ra khi trên xe lửa, hay ở
một
“ga không tên/ ở Wolfennbuttel”, Sebald kín đáo quan sát những bạn đồng
hành đi
xe lửa bằng vé tháng, vé năm khi ông gợi ra những quang cảnh lùi
về phía sau ngược với con tàu.
Khác
văn xuôi của ông, có tính sử thi, gây chóng mặt, những bài thơ này thì
cô đọng, lơ thơ. Tuy nhiên
chúng chứa đựng rất nhiều đề tài thường ám ảnh Sebald suốt cuộc viết
của ông.
Nhà thơ trải qua những năm cuối đời ở Anh, làm việc tại Ðại học
Manchester và Ðông
Anglia. Bận bịu với hồi nhớ, ao ước, và tính ma quái của những sự vật,
Sebald có
thể gợi ra trong 1 bài thơ vẻ đẹp huyền bí nhạt nhòa, 1 thứ Diễm Xưa,
[thì cứ
phán đại như vậy] của “thời quên lãng/của núi non và đèn treo”, hay
bước ngoặt
của thế kỷ/ áo-thày tu và cây cung-vải mỏng, trong khi ở 1 bài thơ
khác, ông nói
tới một “khu tháp/xấu xí”, hay những “siêu thị hấp hối”. Sự chuyển đổi
những thời
khác nhau thì có vẻ ép buộc, hay giả tạo, nhưng Sebald kiềm chế một
chuyển động
như thế bằng 1 cú lướt nhẹ, bằng chờn vờn va chạm. Sự thực, cái sức
mạnh dẫn
dắt ở đằng sau tác phẩm của ông, là 1 sự tìm kiếm, xục xạo quá khứ, tìm
cái bị
bỏ quên, hay vờ đi, hoặc coi nhẹ: “Tôi muốn tìm hiểu/ những người đã
chết thì ở
đâu đó, hay ở đó đâu”.
Như trong
Austerlitz, giả tưởng văn xuôi, 2001, cuộc tìm kiếm người chết, xoay
quanh sự cố,
ám ảnh cái viết của Sebald, và thường khiến ông viết, ở [in] nơi chốn
thứ nhất
– Lò Thiêu. Trong một bài thơ ngắn, Ðâu đó, “Somewhere”, thí dụ, dòng
thơ mở đầu
"behind, đằng sau, Turkenfeld", trở thành, với sự giúp đỡ của Mr
Galbraith, trong lời giới thiệu, đặc dị hơn nhiều, về 1 nơi chốn khủng
khiếp
hơn rất nhiều, quá xa cái tít đơn giản mà nhà thơ đề nghị, và, lẽ tất
nhiên, vượt
hẳn ra khỏi trí tưởng tượng của chúng ta:
Ngoài cái việc
nó đã từng là 1 thành phố, khi chú bé Sebald, 8 tuổi, trên đường đi tới
Munich,
vào năm 1952, Turkenfeld còn là 1 trong 94 tiểu Lò Thiêu, của Ðại Lò
Thiêu,
Dachau, và còn là một ga xe lửa trên tuyến đường nổi tiếng "Blutbahn"
(Vệt Máu).
Giản dị, với
6 dòng thơ, vậy mà cái sức nặng lịch sử đè lên nó mới ghê rợn làm sao!
[Mấy nhà thơ
Mít, có ông đã từng đi tù VC, nhớ đọc bài thơ, và bài điểm, trên tờ Người Kinh
Tế, nhá!]
Tập thơ rộng
rãi này cũng cho chúng ta thấy một Sebald khác, bớt buồn bã đi một
chút. Ông có
thể nói tới “nỗi đau/mà hồi ức hạnh phúc của tôi/ mang tới” nhưng cũng
viết 1 cách vui vẻ,
trong
hai bài thơ, nguyên tác viết bằng tiếng Anh, về một người đàn trẻ ở New
York mô
tả, bà mới yêu thích làm sao, văn phòng của bà, có máy điều hòa không
khí, chống
lại cái nóng mùa hè: “Ở đó/bà nói, tôi thì hạnh phúc /như con hến mở
ra/trên một
cái giường nước đá lạnh”. Thơ của ông có thể làm nhớ tới thứ thơ nặng
[như đá]
của Goethe, hay của Freud, nhưng nó cũng lấy hứng khởi từ Anh em nhà
Grimm, hay
là từ những phim của Alain Renais.
Mr
Galbraith làm được
1 việc thật là tốt, khi chuyển dịch những chuyển đổi giọng thơ, và
nguồn ảnh hưởng.
Tuy nhiên, đúng là 1 nhục nhã, khi tuyển tập thơ này vờ nguyên tác
tiếng
Đức. Làm
sao mà chúng ta không hiểu, thơ của Sebald đâu có dễ dịch,
nhưng chẳng
lẽ bắt chước… Thầy Cuốc của xứ Mít giấu biệt nguyên tác? Hơn thế nữa,
làm sao mà
chúng ta không quan tâm đến tính tha thướt, hồn ma [the
transitory
and the ghostly], thật dễ dàng khi nghi ngờ, chẳng có dịch giả nào mà
tóm được
thơ Sebald. Sebald, chính ông, cũng ngửi ra điều này: “Nếu bạn biết
rành mọi xó
xỉnh/ của trái tim của tôi/ thì bạn hơi 'vô tri’ đấy nhé”. Tuy
nhiên, như những
bài thơ cho thấy, tài năng của ông, đó là làm cho kinh nghiệm về 1 thứ
vô tri
như thế, trở thành tuyệt vời.
“Ở đó / tôi thì hạnh phúc
/ như con hến mở
ra / trên một
cái giường nước đá lạnh”.
Thèm, nhỉ!
Thơ JHV
TTT 2011
Six Years
Later
Autumn in
Norenskaya
Ở Vienna,
Brodsky gặp Carl Proffer, một giáo sư văn chương Nga tại Đại học
Michigan, ông
này vừa mới mở 1 cái nhà xb nhỏ, Ardis. Biết Auden, người hùng của
Brodsky, đang
nghỉ hè cận đó, ông bèn quyết định kéo Brodsky làm 1 cú viếng thăm. Mặc
dù đếch
có báo trước cái con mẹ gì cả, nhưng Auden, tỉnh như Ăng Lê, mở rộng
cửa đón mừng
nhà thơ lưu vong, và vài tháng sau, Brodsky bèn “thư nhà” [chắc giống
ông tiên
chỉ VP], cho ông bạn của mình, Loseff, sử dụng tiếng Anh búa xua, mới
kiếm thấy,
gặp chữ nào chơi chữ đó:
W. H. Auden uống ly đầu
tiên martini dry vào lúc 7.30 sáng. Sau đó, ông
đi 1 đường mở hộp thư ra coi, đọc giấy
tờ và đánh dấu dịp trọng đại này bằng 1 ly hỗn hợp sherry
và scotch.
Sau đó, ông chơi breakfast, điểm tâm, kèm với 1 món địa phương
dry pink
and white. Tôi không nhớ cái nào
trước, cái nào sau. Sau đó, ông bắt đầu làm việc. Có thể là do ông dùng
bút ballpoint,
cho nên bàn làm việc kế ngay bên, và thay vì một lọ mực, thì là 1 chai, hay lon Guinness, một
thứ bia đen Ái nhĩ lan, nó từ từ biến mất theo công việc sáng
tạo. Tùy
theo thực đơn, bữa ăn trưa thì được trang điểm bằng cái đuôi này, hay
cái đuôi
kia, của một con gà trống, hay cocktail. Sau bữa trưa, thì ngủ trưa
1 phát, và tôi nghĩ, đây
là 1 điểm khô độc nhất của ngày.
Và như thế đấy,
cuộc đời quyến rũ, ngạc nhiên, thích thú của Brodsky ở Tây Phương bắt
đầu
Brodsky xuất
hiện như là 1 món đồ trang sức, kế bên em Susan Sontag, trong cuốn hồi
ký về em
của tiểu thuyết gia Sigrid Nunez, “Sempre
Susan”. Đó là năm 1976, và Brodsky mới bắt đầu hẹn hò mí em. Chàng thì
lãng mạn,
ủ ê, hói. “Chẳng có gì chó gì hết”, một bữa chàng tuyên bố. “Không đau
khổ. Không
hạnh phúc. Không đau ốm. Không nhà tù. Không là không.” (Bây giờ, đó là
Âu Châu,
Nunez viết, khi moi móc về phiá Sontag.
[Trong Water Mark, Thuỷ Ấn, Brodsky có
viết về lần hẹn hò ở Venise, không biết có phải là cú này không. GCC])
Một lần
khác, Brodsky đưa mọi người đi ăn đồ Tầu, món khoái khẩu của ông ở
New York.
Ngồi quanh bàn, là Sontag với ông con trai, Nunez trẻ, Brodsky trông
như 1 cha già La mã lang bạt. Anh miêu tả cái cảnh Brodsky bước vào bộ
lạc
nho nhỏ của
mình, “Chúng mình hạnh phúc phải không?”
Đó là hình
ảnh mà người ta có, về Brodsky ở Mẽo: một thành công lạc loài nơi xứ
người. Chỉ
nhìn từ phía Đất Mẹ Niên Xô thì mới nhận ra nó khó khăn cay đắng làm
sao, và nó
có nghĩa như thế nào, tới mức nào. Với những thành viên của thế hệ Xô
Viết thời
đó, Mẽo là mọi thứ, là tất cả. Họ nghe nhạc Mẽo, đọc tiểu thuyết Mẽo.
[Thảo nào
mấy anh Mít trong nước mê Paul Austin, hà hà! GCC], dịch thơ Mẽo. Họ
tóm mẩu vụn
Mẽo, chỗ này, chỗ nọ, bất cứ chỗ nào nếu có thể, mỗi lần có dịp ra khỏi
nhà, kể
cả những chuyến viếng thăm Ba Lan. “Mẽo thì giống như một quê nhà trừ
bị đối với chúng
tôi”, Sergeev (đã từng dịch, trong số những tác giả, Robert Frost) sau
đó viết.
Khi, vào thập niên 1970, cơ hội tự nó bò tới, thế là rất nhiều anh
chuồn. Chỉ
khi tới quê nhà trừ bị, thì mới khám phá ra cái mà họ mất.
Brodsky là “1
của 1” đó, nghĩa là người đầu tiên trong số những người đầu tiên. Những
năm sau
đó, nhiều người mò tới, và những cộng đồng Nga mọc lên ở Boston, New
York, Pittsburgh,
nhưng vào năm 1972, Mẽo thì cô đơn trơ trọi y chang cái làng
Norenskaya, và có
thể còn tệ hơn: Chẳng có lấy 1 mống Nga để mà trò chuyện, Brodsky than
thở
trong những thư nhà, [y chang VP, khi than thở, chạy vội quá, không
mang theo được 1 đấng độc giả], và ông viết về cái đám giáo sư văn học
Nga, “Họ,
với những đề tài của họ, thì cũng như chủ với chó của họ”. Những bài
thơ đầu tiên
nơi xứ Mẽo của Brodsky thì đẫm mùi cô đơn trần trụi. “Một buổi chiều
mùa thu
trong một thành phố nhỏ khiêm tốn/hãnh diện vì cái sự có mặt của nó
trên bản đồ”,
một bài thơ của ông bắt đầu, và chấm dứt bằng hình ảnh một người mà
hình phản
chiếu ở trong gương biến mất, từng tí từng tí, như ngọn đèn đường trong
1 vũng
nước đang cạn kiệt dần, đang chết [NT đã từng soi bóng mình trên 1 vũng
nước đái, để chải đầu, chắc cũng cô đơn cỡ đó, tại xứ Bắc Kít?].
Cơ sở
Proffer thuyết phục Đại học Michigan xin cho Brodsky được là “thi sĩ
thường
trú”; Brodsky làm 1 bài thơ về một thày giáo của trường. “Trong 1 xứ sở
của những
nha sĩ,” bài thơ bắt đầu, “những đứa con gái của họ thì order quần áo,
vải
vóc/từ những cuốn mẫu hàng London,… /Tôi, miệng ăn sông băng núi chảy,
tiêu huỷ/hơn
tất cả ngôi đền Parthenon/một tên điệp viên, một kẻ chuyến dí mũi vào
chuyện của
những người khác/đội quân thứ năm của 1 nền văn chương tàn rữa/” dạy
văn
chương. Người kể chuyện đến đêm trở về nhà lăn ra giường, còn nguyên
quần áo,
và khóc đến thiếp đi. Cũng năm đó, ông viết 1 bài thơ cho biết, do bị
ép rời bỏ
Nga Xô, ông mất đứa con trai. “My dear Telemachus, Thằng cu Tý yêu quí
của ta
ơi,” bài thơ bắt đầu, “Cuộc chiến Mít thì đã xong rồi”, và tiếp tục:
Bố
chẳng biết bố ở đâu, và chỗ này có thể là chỗ nào.
Hình như là 1 hòn đảo dơ bẩn,
với những bụi cây, những tòa nhà, và những con heo bự ủn ỉn
Một khu
vườn
cỏ dại tràn lan, một vị nữ hoàng nào đó, hay 1 vị khác
Cỏ và đá tảng…
Cu Tý, con trai của ta ơi!
Với 1 kẻ
lang thang, những bộ mặt của tất cả các hòn đảo thì thì đều như nhau.
Và những
chuyến đi của cái đầu, đếm những con sóng; ứa nước mắt mải theo dõi
những đường
chân trời cuối biển cả, nước biển đầy tai.
Ta không nhớ
cuộc chiến chấm dứt như thế nào; con bao nhiêu tuổi ta cũng không nhớ.
Cuối cùng, Brodsky chạy
trốn xứ sở của những nha sĩ để đổi lấy
1 căn phòng nhỏ có vườn ở Morton
Street, West Village,
mà ông mướn của 1 vị giáo sư N.Y.U, và có 1 chân dạy học ở Mount
Holyoke,
Westen Massachusetts. Ông thấy địa vị của mình, có tính xã hội, nghĩa
là cũng
không đến nỗi cô đơn, một mình, và giọng điệu thư nhà chuyển qua 1 giai
điệu kỳ
kỳ, “Tuần lễ vừa rồi, tôi có cuộc trò chuyện đầu tiên, trong thời hạn
ba năm, về
Dante,” một lá thư phàn nàn, “và rồi thì với Robert Lowell”
|
|