|
Lưới
khuya,
hồn ốc lạc thiên đường
Vai diễn cuộc đời
Mình có
ý nghĩ rất kỳ quặc là
có hai dạng bà mẹ, một bẩm sinh đã tràn đầy bản năng làm mẹ, một chỉ
đóng vai…
mẹ. Mình dạng thứ hai. Bạn bè vài lần buột miệng, “con nhỏ này mà làm
mẹ gì
trời ?”, mình thú nhận, mình là bà mẹ nửa mùa.
Những khi bên võng con nằm,
mình cố không cầm cuốn sách, tờ báo, không mở máy tính, không gõ những
con chữ
trên bàn phím đã chớm sờn. Mình chỉ muốn ngồi đó, và ngắm giấc ngủ của
con, với
trọn tấm lòng, giống những bà mẹ mà mình ngưỡng mộ. Họ không bao giờ
rời bỏ con
mình để đi tới một thế giới khác, của những trang sách, của những câu
chuyện xa
xôi, dù là một chút thôi. Bên nôi, họ sẽ ngồi đan những cái áo len, sẽ
khâu lại
nút áo vừa sút chỉ, họ luôn nhìn thấy giấc mơ của con qua cái nhoẻn
cười hay
tiếng khóc ré thảng thốt trong giấc ngủ.
Những bà mẹ đó có cuộc đời
hết sức bình thường, quẩn quanh dưới mái nhà, sống giản dị và ước mơ
giản dị,
trọn lòng với chồng, con. Ngay cả khi đôi chân đưa họ rời đi, đến chợ,
đến cửa
hàng bách hóa, đến tiệm cắt tóc… thì tâm trí họ cũng để lại nhà, bên
con đau
đáu. Họ nhận biết ngay khi trên má con mình vừa xuất hiện thêm vài mạch
máu li
ti, móng tay con dài, gót chân có vết xước nhỏ… Chưa bao giờ mình thôi
ngưỡng
vọng, học hỏi họ. Học cái cách ôm con vào lòng và chỉ nghĩ về con thôi,
về
những sợi lông măng trên trán, về mùi sữa thoảng trên da thịt, bước
chân chập
chững đầu đời… Con chỉ mới mọc mấy cây răng sữa, họ đã mơ mộng đến đám
cưới con
mình, cô gái nó yêu, ngôi trường nó học…
Mình muốn trở thành một bà mẹ
như vậy, rồi bỗng dưng trong đầu mình chập chờn những tiếng nói lạ.
Bỗng dưng
xuất hiện những con người, họ nói cười, họ yêu và oán hận nhau. Những
câu
chuyện miên man bất tận. Bỗng dưng tờ báo sáng lật từng trang từng
trang trong
đầu mình như thể có một cơn gió vô tình, những đứa trẻ bị bắt cóc bán
bên kia
biên giới, biểu tình bạo loạn ở một nước
châu Âu xa xôi, một nghệ sỹ qua đời, ca
ghép
mặt đầu tiên trên thế giới thành công... Hay vụ tai nạn ô tô thương tâm
trên
đèo, ở khúc đường mình đã từng qua, nên cái hồi ức mưa phùn hiu hắt dài
ba
phút. Ba phút lãng đãng là tối thiểu cho mỗi sự kiện, bởi tính mình lẩn
thẩn
trời đã trót cho. Những lần tâm mình đi lạc, da thịt con vẫn nóng hổi
trên tay
mình, mùi phấn rôm lẫn trong mùi sữa phảng phất lên mũi mình, mình cười
và gọi
này cưng của mẹ ơi, nhưng trong đầu mình co một mình tình vừa giãy chết
ở trang
247 của cuốn sách nằm trên giá.
Con vẫn đang nhìn mình mỉm
cười, ánh nhìn làm mình ứa nước mắt. Lớn lên, khi con có yêu đơn phương
một cô
gái nào thì cũng gần giống con với mẹ phút giây này, phút giây xao lãng.
Có điều gì hình như là tội
lỗi, khi mình đeo mang quá nhiều mối quan tâm, khiến bà-mẹ-mình bị cắt
làm năm
ba mảnh. Chúng không chịu buông mình ra như đôi giày nằm lại sau bậc
cửa. Và
mình yêu con trong khi chung quanh vẫn lao xao kẻ đứng người ngồi, kẻ
cười
người khóc, kẻ săm soi người châm chọc, đâu đó tiếng nhắc tuồng rất
mỏng. Hãy nói,
mẹ nhớ con quá. Hãy nói, mẹ thương con lắm, sẽ hy sinh cho con cả đời
này.
Nhưng bà mẹ ngang nhà, cách
một con đường – bà mẹ mà mình vẫn thường ngưỡng vọng – chị ấy hình như
không
nói những câu đơn điệu đó, đơn giản là chị chưa bao giờ rời đi. Sáng
nào bên
thềm chị cũng lắc lư hát một bài hát trẻ con trong lúc chải tóc cho đứa
con gái
nhỏ xíu. Xung quanh chị mọi thứ cứ trong veo, bất cứ gì cũng không tồn
tại, chỉ
còn lọn tóc mềm thoảng mùi dầu gội dịu dàng, còn tiếng hát theo ngọng
ngịu, còn
tiếng cười trong trẻo của con. Đã tan biến hết, chỉ chị với con trong
những
buổi sáng ngọt lành. Mình hơi ngớ ngẩn, nhưng thật sự cảnh tượng đó làm
mình
nghĩ tới thiền.
Cảnh tượng đó đôi lúc làm
mình hơi tuyệt vọng, sao tâm mình cứ chộn rộn không yên, ra đời nhớ
con, ở bên
con lại nhớ đời. Có thể sẽ không bao giờ mình có được niềm vui buông
bỏ, và vai
bà mẹ mình sẽ đóng đến tàn hơi.
Nhưng vai diễn đó mình đã hăm
hở, hân hoan nhận rồi, mình sẽ diễn hết lòng, vắt máu tim ra mà diễn,
để không
gợn chút ân hận và xấu hổ nào, khi gọi con ơi… Đó là chuyện của mai
này, còn
nằm trong cái gọi là hy vọng, giờ thì mình cắn môi, toát mồ hôi, tập
trung hết
sức lực để… cắt móng tay cho con, bởi sợ đám người nào đó lại chộn rộn
trong
đầu, mình sẽ làm con chảy máu…
Nguyễn Ngọc Tư.
Nguồn
Note: Bài này, tuyệt, làm Gấu
nhớ tới ý của Akhmatova, nói về lũ viết văn khốn kiếp, trong khi người
ta đau
khổ, có cả lũ chúng nó ở trong nỗi đau khổ đó, làm sao không ?, nhưng
bằng mọi
cách, chúng cũng vẫn cố né qua một bên, để mà nhìn, như những kẻ ngoại
cuộc!
Để mà đóng vai “vai diễn cuộc
đời”! (1)
(1)
Brodsky: Với tôi, tính kinh
điển, thực tại thực, the main thing, của Kinh Cầu [thơ Akhmatova], là
đề tài về
sự xẻ đôi, về sự bất lực của nhà thơ không có được một phản ứng toàn
vẹn [trước
thực tại]. Akhmatova mô tả những kinh hồn thất đảm, những ghê rợn của
Đại Khủng
Bố của Stalin. Nhưng cùng một lúc, bà nói hoài hoài về cái tâm trạng
mấp mé
biến thành khùng của mình....
Brodsky. No, the text of
Requiem is anything but straightforward.
Volkov. Sure, there are two
levels here: real biography—Akhmatova and the fate of her arrested son;
and the
symbolic—Mary and her son Jesus.
Brodsky. For me the main
thing in Requiem is the theme of splitting, the theme of the authors
inability
to have an adequate reaction. Akhmatova describes in Requiem all the
horrors of
Stalin's "great terror," but at the same time she is constantly
talking about how close she is to madness. Do you remember?
Already madness dips its wing
And casts a
shade across my heart,
And pours for me a fiery wine
Luring me to
the valley dark.
I realize that to this madness
The victory
I must yield,
Listening
closely to my own
Delirium,
however strange.
Khổ thơ sau có lẽ là tuyệt
vời nhất của tất cả Kinh Cầu. Hai dòng chót nói sự thực lớn lao nhất.
Akhamatova diễn tả tâm trạng của thi sĩ, khi nhìn mọi chuyện xẩy ra cho
bà, như
thể, bà đứng qua một bên, Với nhà thơ, sự kiện, viết ra, cũng quan
trọng như,
sự kiện, diễn tả nó: Nhà thơ bắt đầu trù ẻo mình: Anh là thằng điên
khùng. Mi
là một thứ quái vật chi, tại sao mi thản nhiên nhìn những sự ghê rợn
như thế
diễn ra trước mặt, như thể nó chẳng liên quan mắc mới gì tới mi?
Volkov: Chuyện trò với Brodsky
Tưởng niệm TTT
*
Bài này cũng quá tuyệt.
Nỗi mất và quên
Nguyễn Ngọc Tư
Mười
năm trước, bạn không bao
giờ gặp một nỗi mất mát mang tên “hư ổ cứng”.
Những năm đó, thỉnh thoảng
bạn cũng buồn, mớ ảnh gia đình bị ố vàng đã làm lem luốc vài gương mặt
người
thân mà bạn không bao giờ còn gặp lại họ nữa, cuộn phim chụp ảnh đám
cưới bạn
bị cái nóng ẩm nhiệt đới làm cho mốc meo, quyển nhật ký bị chuột gặm
nham nhở,
hay những bài hát, bộ phim bạn yêu thích chảy nhão, trầy xước theo mớ
băng dĩa
cũ.
Hồi đó bạn biết trước sau gì
chúng cũng mất, dù chậm hay nhanh, bằng cách này hay cách khác. Giống
như bạn
biết rồi mình sẽ già đi, nên thêm một tuổi bạn có buồn một tí hay nhiều
tí
nhưng cũng chấp nhận nó. Còn “thằng ổ cứng” (bạn xấu tính lắm, nghĩ cái
gì liên
quan tới cứng thì thuộc về… thằng), bạn tin rằng nó sẽ cất giữ kỷ niệm
của bạn,
hồi ức của bạn, phần đời của bạn, vài thứ bạn yêu thích… bền vững, lâu
dài. Máy
tính nhiều lần không thể khởi động, hệ điều hành nhiều lần bị lỗi phải
cài đặt
lại, nhưng ổ cứng có hề gì đâu.
Bỗng một ngày nó chết ngắt,
cái chết như nụ cười mỉa vào những lời xưng tụng muôn năm muôn năm.
Muôn năm là
bao lâu, mãi mãi là bao lâu? Cái chết của nó mang theo bao nhiêu là
hình ảnh,
bài hát, ghi chép… Những tuồng cải lương hương xưa. Những bài thơ với
giọng
ngâm ngọt ngào, nức nở của Hoàng Oanh, Hồ Điệp… Bạn te tái xách ổ cứng
đi tìm
những anh chàng được mệnh danh là phù thủy phục hồi, khắc khoải giống
như người
yêu ôm người yêu đi tìm thầy thuốc. Và khi mấy phù thủy trong thành phố
thở hắt
lắc đầu, bạn mới tràn ngập cảm giác mất mát.
Những
chuyến đi không còn dấu
vết, khi không còn gương mặt người đã từng gặp, cảnh vật đã từng qua.
Bạn nhận
ra lâu nay, bạn nhờ máy ảnh nhìn, nhờ máy tính nhớ. Đi đến đâu lăng
xăng chụp
ảnh đến đó, về tuôn vào máy tính, lâu lâu giở ra coi lại, ờ bạn đã tới
chỗ này
chỗ này. Nó đẹp như vầy như vầy. Người ta lem luốc hồn nhiên vậy đó vậy
đó.
Chúng tồn tại để sẵn sàng khơi gợi lại cho bạn một ký ức. Bạn tưởng
thời gian
đã ngưng đọng trong những tấm ảnh đó, và bạn muốn quay lại những khoảnh
khắc đã
qua lúc nào cũng được. Không vội vàng, thiết tha chi cho lắm. Nhưng giờ
bạn
không còn manh mối, chỉ còn nhớ mơ hồ, ví dụ cỏ trên những ngọn đồi,
nhưng bạn
không biết chúng mượt và xanh như thế nào; những đứa trẻ chơi trên cát,
bạn
không nhớ nụ cười chúng ra sao, có bao nhiêu cái răng bị sún…
Hôm đó, bạn gọi mấy đứa nhỏ
đó chỉ để chúng cười cho bạn chụp ảnh. Bạn không trực tiếp nhận nụ cười
của
chúng. Nếu bạn đừng bận bịu, chỉ chạy chơi với bầy trẻ thôi bạn được
sống lại
buổi chiều thiên đường ấy, bất cứ khi nào gió cũng lại thổi trên những
triền
cát nóng.
Giống như cách bạn nhớ chuyến
đi Đà Lạt năm bạn mười hai tuổi. Hồi ấy bạn nghĩ, quá xa xôi để tới
đây, và sau
này không biết có thêm lần nữa. Bạn tận hưởng Đà Lạt bằng tất cả giác
quan trẻ
nít của mình, hít thở và ôm ngấu cảnh vật trong lòng. Hai mươi năm sau,
bạn vẫn
còn nhớ mùi nước đái ngựa trên cỏ, khói sóng vương vất dưới chân thác
nước,
tiếng những trái thông khô rơi, cái lạnh buốt của bàn tay người
đàn ông
lạ mà
bạn nắm lấy giữa chợ vì tưởng tay ba bạn.
Không có tấm ảnh nào còn lại
sau chuyến đi đó, bạn toàn tự nhớ thôi. Cả bài hát trên xe. Giọng nói
của người
tài xế. Chúng rồi cũng phai trước khi mất đi, lúc bạn đã già, nhưng nó
kịp làm
bạn rung cảm và xao xuyến cả một thời gian dài nên
không gây hụt hẫng và tiếc nuối.
Nó không đột ngột biến mất
như ‘thằng” ổ cứng vừa mang theo một vùng ký ức ra đi. Những bài hát
bạn sẽ tìm
lại ở tiệm bán băng đĩa, hay trên mạng, nhưng sẽ mất một thời gian để
bạn nhớ
ra, mình đã từng thích bài hát nào, giọng hát nào, tại sao. Đôi lúc bài
hát
cũng gợi nhớ một người nào đó, một đoạn đời nào đó. Chúng ít nhiều miêu
tả cuộc
đời bạn. Tại sao những bài ca ngô nghê, ngớ ngẩn đó năm mười lăm tuổi
bạn lại
thích mê mẩn? Tại sao có những bản nhạc hồi hai mươi bạn không thể nghe
nổi,
thì năm năm sau, bạn không dứt ra được những “một ngày như mọi ngày /
em trả
lại tình tôi / một ngày như mọi ngày / ta nhận lời tình cuối / một ngày
như mọi
ngày/đời nhẹ như mây khói…”? Tại sao một bài sến chảy nước “Đừng nói xa
nhau,
cho tâm hồn đau khổ…” bạn lại giữ gìn cẩn thận, không phải vì một người
dưng
nào đó rưng rưng hát hôm hội tan bạn ra về? Giờ người đã xa, chuyến đi
quá
vãng, bài hát bị mất. Giờ ngang qua quán cà phê, hay xe kẹo kéo, bạn
chắt chiu
nhặt lại từng chút một, cho cái hồi ức đã bị rơi đi để trả giá cho sự
làm
biếng.
Làm biếng cảm thụ cuộc sống,
làm biếng thương, thậm chí làm biếng nhớ. Nên cứ bắt máy móc nhắc nhớ
giùm. Nên
máy móc một hôm trăn trối, sẽ không giữ được gì nếu bạn không tha thiết.
Tình yêu cũng vậy. Cuộc sống
cũng vậy. Bạn sực nhớ tới những thứ lớn lao này…
[Cùng nguồn trên].
*
Đọc cái câu gạch đít ở trên, là Gấu rùng mình vì lạnh, và bèn nhớ ra
cái cảnh Gấu nắm tay BHD, giữa những bạt ngàn rừng thông một cõi Lost
Domain Đà Lạt, và cái cảm giác lạnh đó, theo về tận Sài Gòn, sau đó:
Khi
đứng dậy sửa soạn đi ra,
đột nhiên chàng nói, "Tay
em đến bây giờ vẫn còn lạnh".
Lạnh, lạnh, chợt tôi rùng mình, có phải chàng định nói... Chàng nói đùa
như để
tôi quên, khỏi nghĩ ngợi, "Cô giáo chắc sẽ bắt em chép phạt một ngàn
lần
câu: "Em yêu anh, và cố gắng đi học đúng giờ". Đối với chàng, tôi vẫn
chỉ là một cô bé con, chàng vẫn muốn sự vật đừng thay đổi, đời sống
đừng thay đổi,
chàng muốn tất cả vẫn như xưa, như cũ... "Em biết không, Ngọc chỉ chê
anh
một điều là anh hay cười." Ngọc là em trai một người bạn gái của tôi.
Ngọc
khoảng tuổi tôi, nghĩa là kém chàng khoảng chín, mười tuổi.... "Không
hiểu
Ngọc có nhìn thấy như anh không? Không hiểu Ngọc định tìm gì ở nơi
em?";
tìm gì, tìm gì, tôi chỉ là một món đồ kỳ lạ, khác thường, nên mọi người
muốn
tìm tòi, khám phá, một món đồ làm gợi lại trí nhớ, làm sống lại tuổi
thơ của
chàng, hay là tôi là một cái cớ để giải thích tại sao chàng sống, tại
sao chàng
sẽ chết, anh, Ngọc, Quang, và cả Tuấn nữa, tại sao nhiều người yêu tôi
vậy?...
"Không phải đâu, em mang dáng điệu của một người đàn bà ngay khi còn bé
con,
và suốt đời em sẽ phải tập làm một đứa trẻ...".
Tứ Tấu Khúc
Nhưng tuyệt nhất, là cái
cảm giác sến, của những bản nhạc sến, cái hồn
của văn chương Miền Nam, được NNT lôi ra, "chắt chiu
nhặt lại từng chút một, cho cái hồi ức đã bị rơi đi để trả giá cho sự
làm
biếng."
100 năm
ngày sinh
của Simone Weil
L'autre Simone
Trang
Simone Weil
Bad Friday
Đọc
& Dịch Weil
Thánh
Simone - Simone Weil
Ngày xưa, nước tiểu
Thảo Trường
Một số tiết lộ về cuộc chiến
từ tài liệu CIA
Greene viết Người Mỹ Trầm
Lặng, là cũng từ nguồn
này, qua lần gặp gỡ
một anh Xịa, khi đi thăm Le Roy, trên đường trở về Sài Gòn. (1)
(1)
Giấc mơ lớn của Mẽo,
từ đó,
cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng bật ra, khi Greene,
trên đường trở về Sài Gòn, sau khi qua một đêm với tướng Leroy, Hùm Xám
Bến
Tre, như ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, Ways
of Escape.
"Cách đây chưa đầy một năm,
[Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp
tùng Le Roy, tham
quan vương quốc sông rạch,
trên chiến thuyền của ông ta. Lần này, thay vì chiến thuyền, thì là du
thuyền,
thay vì dàn súng máy ở hai bên mạn thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa
nhạc, và
những vũ nữ.
Bản nhạc đang chơi, là từ
phim Người Thứ Ba, như để vinh danh
tôi.
Tôi dùng chung phòng ngủ với
một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là
CIA, [an
American attached to an economic aid mission - the members were assumed
by the
French, probably correctly, to belong to the CIA]. Không giống
Pyle,
thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less innocence]. Anh ta bốc phét,
suốt trên
đường từ Bến Tre về Sài Gòn, về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực
lượng thứ
ba ở Việt Nam.
Cho tới lúc đó, tôi chưa bao
giờ cận kề với
giấc mộng
lớn của Mẽo, về những áp phe ma quỉ, tại Đông phương, như là nó đã
từng,
tại Phi Châu.
Trong Người Mỹ Trầm Lặng,
Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York
Harding
– cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có vẻ ngây
thơ,
nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo. Người Mẽo tìm kiếm một
nhà lãnh
đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn quốc gia, an incorruptible,
purely
nationalist Vietnamese leader, người có thể kết hợp, unite, nhân dân
Việt Nam,
và tạo thành một thế đứng, một giải pháp, đối với Việt Minh CS."
Greene
rất chắc chắn, về nguồn của
Người Mỹ trầm lặng:
"Như vậy, đề tài NMTL tới
với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực
lượng thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó, những
nhân
vật theo sau, tất cả, [trừ một, Granger], là từ tiềm thức bật ra."
Ways of escape
*
The Quiet American by Graham
Greene
Ostensibly
it is about the
eponymous quiet American – a naive and idealistic CIA agent in Saigon during the French colonial war of the
50s. But
what lingers is the relationship between the world-weary newspaper
correspondent, Fowler, and his beautiful girl Phuong. Greene perfectly
skewers
the superfluity of western notions of love that invariably inform such
situations. Undermining the idyll is the mercenary elder sister,
painfully
aware of the need to use Phuong's beauty to secure a provider for the
family
while her beauty still has currency.
Cuốn
Người Mỹ trầm lặng được một tay trên tờ Guardian coi là Top Ten, trong
số 10 câu chuyện xa xứ, trong có cả cuốn Hãy nói lên hồi ức của Nabokov.
Cái cách đọc Người Mỹ Trầm Lặng của
tay này mới thật là đểu: Undermining
the idyll is the mercenary elder sister, painfully aware of the need to
use
Phuong's beauty to secure a provider for the family while her beauty
still has
currency. [Bên
dưới cuộc tình thơ mộng là sự tính toán của bà chị, lợi dụng nhan
sắc cô em để đảm bảo cuộc sống gia đình].
Nhưng mà đúng
y
chang!
5/1/09
Họ bắn vào hòa
bình, chúng tôi bắn vào hòa bình
Về Bảo Ninh,
nếu muốn phản đối việc người ta cứ nói là cả đời ông ấy chỉ có mỗi Nỗi
buồn
chiến tranh, thì có thể nêu tên truyện ngắn "Gió dại". Nhưng nếu
bảo ngoài hai cái đó nữa còn có gì, thì thực sự là khó. Bảo Ninh còn cả
loạt
truyện ngắn đặc sắc, nhiều truyện rất hay, như truyện về Hà Nội hồi
những năm
trước 1975 có "Người anh hùng thời đại" để ria theo lối chất nghệ
(tên Vinh hay sao?), hay gần đây hơn là "Bội phản". Thỉnh thoảng viết
bút ký cũng rất giỏi, chẳng hạn như gần đây nhất là "Đêm cuối cùng
ngày đầu tiên". Nhưng cái hay của những cái ấy là cái hay
bình
thường. Đặc biệt thì chỉ có Nỗi buồn chiến tranh và "Gió dại".
"Gió dại" trên Internet: đọc tại đây,
bản dịch tiếng Anh của Phan Huy Đường và Nina McPherson ở đây.
Thời gian của truyện là giai đoạn ngay trước 30/4/1975. Ẩn dụ "gió
dại" ngay lập tức cho thấy tính chất vô nghĩa, nhỏ nhoi, thảm hại của
con
người, và của cái chết, trong một cuộc chiến tranh như cuộc chiến tranh
Việt Nam.
Cái nhìn
của người kể chuyện đặt ở bên phía bộ đội, lúc đó đóng quân tại một
vùng vừa
chiếm được, một vùng theo đạo có ông cha cố, và nhất là có một cô ca sĩ
vì loạn
lạc mà bị kẹt lại và sống luôn ở đây, đêm đến vẫn thường tiếp khách đàn
ông,
đều là bộ đội.
Chuyện tình duyên giữa Diệu Nương cô ca sĩ và anh lính phụ tá anh nuôi
nhanh
chóng trở thành một thảm kịch. Thảm kịch này giống như là một tiếng thở
dài,
rất dài - sở trường của văn Bảo Ninh. Văn của Bảo Ninh phải đi theo
từng hơi
một, cay đắng, buồn bã, không thể vui được, và những trường hợp tác
phẩm khác
không được thành công lắm có lẽ là bởi vì cái hơi này không đủ dài.
Và đặc biệt là "Gió dại" có một câu kết không thể nào quên:
"Chúng tôi đã bắn chết những người báo trước hòa bình, vậy mà hòa bình
vẫn
đến." Nghe nói câu văn này một thời đã gây sóng gió (truyện này hình
như
được viết cuối những năm 1990), thậm chí một thời gian đã bị cắt khỏi
truyện,
như một hình thức kiểm duyệt. "Những người báo trước hòa bình" là cô
ca sĩ Diệu Nương và người tình bộ đội của mình trên đường chạy trốn,
khi bị bắt
gặp họ xin được tha mạng vì "chẳng làm hại gì cả", "không chống
lại ai", nhưng các đồng đội của anh lính (trong đó có "tôi",
người cũng đã từng nhiều lần ngủ với Diệu Nương) đã xả súng qua đám
cây. Sau
khi bắn xong rồi họ mới nhìn thấy xác hai con người kia, quấn chặt vào
nhau.
Bây giờ cứ mỗi dịp 30/4 xem người ta kỷ niệm hào hùng mà thấy mệt. Phần
lớn
khăng khăng tô màu đỏ màu hồng rộn ràng cho một cuộc chiến đáng tởm.
Một số
khác tìm cách chứng minh rằng tất cả đều rất tởm, nhưng chúng tôi ít
tởm hơn,
và một số khác nữa: tất cả đều rất tởm, nhưng chúng nó tởm hơn chúng
tôi.
Blog Nhị Linh.
Bảo
Ninh by Việt Chiến
Có lẽ phải đến hơn 3 tháng sau khi được trả
lại tự do,
tôi mới gặp lại nhà văn Bảo Ninh, bạn đồng niên 1952 thân thuộc và đã
cùng nhau
một thời quân ngũ gian lao. Hẹn gặp nhau ở quán “cũ” cuối phố Phan Đình
Phùng
(Hà Nội), Bảo Ninh nhắn “Tôi mang một chai rượu chivas ngon đến, các
ông chờ
tôi…”. Tôi cùng 2 nhà thơ Nguyễn Bình Phương và Trần Anh Thái ngồi chờ.
Một lúc
sau, Bảo Ninh đi taxi đến, tay ôm khư khư chai rượu ngoại. Tóc anh bạc
hết cả
rồi mà cuốn tiểu thuyết mới vẫn chưa viết xong (sau “Nỗi buồn chiến
tranh”
không hiểu anh viết về “nỗi buồn” gì đây?).
Có người
nói như đinh đóng cột, dạo này Bảo Ninh “kiêng rượu để viết chuyện” nên
không
hay la cà với bạn bè. Hôm nay, anh lại cho phép mình uống rượu chắc vì
sự có
mặt của tôi chăng? Hình như thế mà không phải thế. Vì nhìn cách Bảo
Ninh nhấm
nháp rượu mạnh một cách sành sỏi như một người Tây uống rượu Scot (cứ
phải “lim
dim” nhẩn nha ngửi ngắm khá kỹ trước khi nhấp môi) là đủ hiểu anh ngày
nào cũng
phải uống cũng như ngày nào cũng phải viết chục trang tiểu thuyết, phải
không
Bảo Ninh?
Đọc, nhớ lần gặp
thứ nhì Bảo
Ninh, khi về Hà Nội lần thứ hai. Cũng có chai rượu ngoại, cũng lời giới
thiệu, “Tôi
có chai Chiva này…”, đại khái như vậy, nhưng Gấu, dân nhà nghề, vừa ngó
chai, nói
liền, vẫn chai lần gặp trước, năm trước, chắc là hết mùi rượu rồi,
khiến NVH vừa
cầm lên, hoảng quá, bèn đặt chai trở lại chỗ cũ.
NVH mới là tay uống rượu cừ,
theo lời giới thiệu của NHT. Gấu chưa từng uống lần nào với anh, nhưng
đụng
trận với NTS thì khá nhiều.
Nghe
nói “Em của Gấu”, nữ thi
sĩ, cũng thuộc loại có hạng, Gấu cũng chưa có hân hạnh hầu rượu, và ba
thứ linh tinh khác!
Gấu biết NVH tay hảo hán
trong làng rượu, là do NHT, lần Gấu mời ông, nhưng ông lắc đầu, và hẹn
sẽ đưa
thằng em ra để thay mặt ông anh, chấp nhận cuộc thách đấu.
Kỷ niệm
trận rượu thần sầu quỉ
khốc của Gấu, với tay NTS, là ở một cái hầm, nơi có đủ thứ ăn chơi của
Hà Nội, chắc
thế, nhưng Gấu, do chỉ lo nốc, thành ra chẳng để ý gì đến những mặt
khác.
Gần như
bò ra khỏi hầm, và
khi sắp lên xe, tay chủ quán chạy ra, gửi lại ông anh cái hộp đựng
thuốc lào mặt
hổ phù Vang Bóng Một Thời, ấy chết xin lỗi, ba thứ lẩm cẩm Gấu bỏ quên,
trong có
cái camera, cây gậy thần, như ông cậu Toàn của Gấu đặt tên cho nó,
trong lần trở
về thăm lại làng Vân Xa, thăm lại dinh cơ của ông Bá Quán, tức ông
ngoại của Gấu.
“Dieu partage
avec l'homme la faute de la Création, car Dieu s'est absenté du monde,
ce qui
fut la cause de la Chute commune de Dieu et des hommes"
[Thượng Đế chia sẻ
với con người
lầm lẫn Sáng Tạo, bởi vì Thượng Đế tự ý chuồn, thành thử mới xẩy ra Sa
Đọa
chung, của Xừ Luỷ và con người].
LES
LIVRES DU MOIS
HISTOIRE LITTÉRAIRE
retour aux classiques
par Linda Lê
UN MONDE SANS DIEU
La Célestine, un classique
vieux de cinq siècles
Italo
Calvino disait qu'un
classique est un livre qui n'a jamais fini de dire ce qu'il a à dire.
La Célestine
de Fernando de Rojas, dans la belle traduction d'Aline Schulman, est de
ces
œuvres-là. Elle se présente comme une tragi-comédie en vingt et un
actes. Mais
elle relève aussi bien du théâtre que de l'art romanesque. Par sa forme
même,
elle est unique. Publiée pour la première fois à Burgos en 1499, elle sera réimprimée
dès 1500
à Tolède et à Salamanque. Dans une lettre qui introduit le livre,
l'auteur
confie à un ami sa découverte du manuscrit du premier acte: pour se
distraire
de ses études de droit, il a eu l'idée d'en écrire la suite, ce qu'il
fait en
quinze jours. Le résultat est un joyau noir de la littérature
universelle, car
le divertissement que s'est proposé Fernando de Rojas, jeune homme de
23 ans,
est à la fois satirique et poignant, touchant au mythe de l'amour
tragique. En
attribuant la paternité du premier acte à un anonyme qui a lancé le
filet grâce
auquel il a rapporté sa pêche miraculeuse, Fernando de Rojas, note Juan
Goytisolo dans sa préface, cherche à dissimuler la charge subversive de
son
texte. Juif converti, il a vu son père, accusé de pratiques
judaïsantes, brûlé
vif sur le bûcher en 1488. Cette blessure reste dissi mulée dans la
pièce, mais
la vision du monde de son auteur s'en trouve altérée: La Célestine
témoigne
d'un pessimisme et d'une lucidité amère qui, même dans les moments de
coméédie,
laissent le lecteur confondu devant une si grande connaissance du cœur
humain.
« À travers le vaste palimpseste hispano-hébraïque qu'est La
Tragi-comédie de Calixte et Mélibée
(donc La Célestine), on lit les paroles du Zohar
juif: Dieu partage avec l'homme la faute de la Création, car Dieu s'est
absenté
du monde, ce qui fut la cause de la Chute commune de Dieu et des
hommes",
dit Carlos Fuentes dans une conférence sur le livre de Fernando de
Rojas.
Calixte et Mélibée sont,
comme Pyrame et Thisbé, deux jeunes gens qui se sont épris l'un de
l'autre et
doivent franchir des obstacles. La pièce commence par leur première
rencontre.
Calixte déclare sa flamme à Mélibée, mais celle-ci le repousse. Plongé
dans le
désespoir, l'amoureux transi s'en va s'épancher auprès de son valet,
qui le
presse de demander l'aide d'une vieille entremetteuse, Célestine,
capable,
dit-on, de « provoquer les pierres
à la luxure ». Célestine, pour son malheur, parviendra à ses fins et sa
tâche
est facilitée car Mélibée, en vérité, brûle d'amour pour le jeune noble
rencontré. La comédie, où l'amour idéalisé ne s'acquiert pas sans les
artifices
d'une femme qui a la réputation de refaire leur virginité à celles
qu'elle mène
à la débauche, et dont Juan Goytisolo note qu'elle est un véritable
personnage
goyesque, s'achève en tragédie. Dans un monde sans Dieu, c'est l'argent
qui
fait tourner la roue des destinées .•
Llosa vs Steiner
Cassandra's
Prophecies
Những tiên tri của Cassandra
Kể từ khi
Ngôn ngữ và Câm
lặng rớt vào tay tôi, ba mươi năm trước đây, tôi coi Giáo sư
George Steiner là
một trong những cái đầu tạo hứng, gây những cú hích tranh luận, phê
bình số 1
của thời chúng ta. Tôi tiếp tục đọc, cuốn này tới cuốn khác, những gì
ông viết,
và thấy đúng như vậy, ngay cả khi không đồng ý với những kết luận của
ông.
Nhưng, bây giờ, tôi ngờ ông đang bị cám dỗ, thứ cám dỗ mà những tài
năng lớn
thường vướng phải, nghĩa là bắt đầu tỏ ra dễ dãi, buông thả, tệ hơn,
muốn chứng
tỏ cái gì ta cũng biết, cái gì ta cũng đúng, bằng một thứ văn phong
lịch sự,
phong nhã, và bằng sự uyên bác của ông.
Tại sao
chúng ta nên hủy bỏ
giải Nobel Văn học?
Cái
sự kiện Mít cũng
chê
Nobel và đề nghị (?) huỷ bỏ, Gấu không sao hiểu được, chỉ đến khi nhớ
ra trường
hợp Thích Quảng Độ, cũng đã nhiều lần được đề nghị Nobel hòa bình,
thì mới
ngã ngửa ra mà ui chao sao Gấu này ngu thế!
Bởi là
vì, giả như Mít được
Nobel, và DTH được, thì thật khốn lạn!
Chim thiêng
La
musique peut rendre fou et
peut aider à guérir l'esprit brisé. Si
elle peut être 1'« aliment de l'amour », elle peut aussi déclencher des
festins
de haine.
Beyond
true and false,
beyond good and evil. The two dichotomies are closely, though
complexly,
intermeshed. Music can be abused when it is composed and executed in
glorification of political tyranny, of commercial kitsch. It can be,
indeed it
has been, played loud enough to cover the cries of the tortured. Such
abuse, of
which exploitations of Wagner's music, but even of Beethoven's Ninth
(we recall
Adorno's jotting) are emblematic, is wholly contingent. It does not
arise from,
it does not negate the ontological and formal extraterritoriality of
music to
good and evil. In fear of Wagner, Lukacs asked whether even a single
bar of
Mozart can be politically abused, can be made expressive of inherent
evil. To
which, when I reported the challenge, Roger Sesssions, that most
thoughtful of
composers, replied by sitting down at his piano and playing the
menace-aria of
the Queen of the Night in The Magic Flute. Adding at once, however,
'No, Lukacs
is right.'
G. Steiner: ERRATA
Liệu, trong cái sự thù ghét
nhạc Trịnh, có nỗi đau lòng của những kẻ đã từng mê nhạc Trịnh, và, coi
đó là
nguyên nhân khiến cho họ “lơ là cảnh giác”, và “làm mất Miền Nam”?
Đây là cái
mặc cảm “giận 'dao' nên chém thớt cho bõ tức” ? [Giận cá chém thớt].
Những gì gì mà Steiner lèm bèm:
“La musique peut rendre fou et peut
aider à
guérir l'esprit brisé. Si elle peut être 1'« aliment de l'amour », elle
peut
aussi déclencher des festins de haine: Âm nhạc có thể làm
khùng, và
có thể hàn gắn một tinh anh bể nát. Nếu nó có thể là “thức ăn của tình
yêu”, nó
cũng có thể làm nổ tung ra những cuộc bữa tiệc của hận thù.
Vượt
quá thực và
giả, tốt và xấu, thánh thiện và quỉ ma. Hai cõi đối nghịch tưởng như
cách biệt
hẳn nhau, nhưng thật gần gụi đến trộn lẫn vào nhau một cách thật là
nhiêu khê, rắc
rối.
Âm nhạc có thể bị
lợi dụng, khi nó được soạn ra để tấu lên nhằm vinh danh độc tài, bạo
chúa, nhằm
mục đích thương mại hạ cấp, rẻ tiền, sến! Nó còn được tấu lên một cách
thật là ồn
ào, nhằm che lấp tiếng khóc than của những kẻ bị hành hạ, tra tấn.
NMG vs Lịch Sử
Sao bac
ghet talawas...?
Không
nên để Talawas Blog
biến thành cái chợ
Ui chao, trễ quá rùi! NQT
Ngay khi talawas vừa xuất hiện,
muôn cặp mắt nhìn về vị nữ thủ lĩnh trên lưới ảo, ngay cả Gấu này cũng
hăm hở xin được
đóng góp bài, vậy mà một thi sĩ ở trong nước đã phán, cái chợ cá.
Giỏi thực, hay thực, nhưng bằng cách nào mà thi sĩ ngửi ra mùi tanh
nhanh như thế, quả là
khó hiểu!
Kỷ
niệm, kỷ niệm
Cú sút thần sầu của
Andres Iniesta vào phút cuối của thời gian bù giờ làm tan biến giấc mơ
của Chelsea dự chung kết cup
Champions League lần thứ hai.
BBC
Nham
nhap tu do khi gap lai
Bao Ninh và cuon tieu thuyet sap "ra lò"
Câu kết của bác
Bảo Ninh, thật là tuyệt cú
mèo!
Bảo Ninh by Việt
Chiến
Có vẻ như ngôn ngữ
"anh Hai" (1)
của Gấu đang xâm nhập thoải mái nhiều trang net!
Nào là tuyệt cú mèo, thần sầu,
thần cú, phán, đại gia…. Toàn là chữ của Gấu!
Lẽ dĩ nhiên, trước đó, đã từng
có người dùng rồi, nhưng trên giấy, thí dụ như Duyên Anh [từ ‘tuyệt cú
mèo’ hình
như là của ông], nhưng trên net, Gấu là người đầu tiên!
Trang Tin Văn
có mặt trên
net trên 10 năm rồi, kể cả thời gian tá túc tại VHNT của PCL.
Tuy
nhiên, có một từ, đếch anh nào chị nào dám đụng tới.
Đó là từ.... YMT.
(1)
1.12.2004
Vũ
Tuấn Hoàng
Về bản dịch J. Brodski
Tôi dịch theo bản gốc là tiếng Nga và có tham khảo cả bản tiếng Anh
trên trang
web của Uỷ ban giải thưởng Nobel. Phải nói rằng, câu đầu tiên là câu
khó nhất
trong toàn bài. Khi đối chiếu bản tiếng Nga và bản tiếng Anh, tôi đã
thấy có độ
sai nhất định, thí dụ như trong tiếng Nga, tác giả dùng cụm từ “Kẻ
không gặp
may cuối cùng” thì bản tiếng Anh là “Total failure”… từ đó dẫn đến
việc, những
người chỉ biết tiếng Anh sẽ hiểu xa bản gốc đi một chút.
Còn về việc “đảo lộn tứ lung tung” như anh Nguyễn Quốc Trụ nói thì tôi
cũng xin
được giải thích như sau: Các dịch giả khác nhau sẽ có những bản dịch
khác nhau.
Theo tôi, dịch là một quá trình đi tìm sự thoả hiệp giữa hai ngôn ngữ,
giữa hai
nền văn hoá. Tôi hoàn toàn có thể dịch đúng theo trật tự như bản tiếng
Nga,
nhưng vấn đề là làm sao cho không bị Tây hoá mới là cái quan trọng. Một
đặc thù
của tiếng Nga là: Trong một câu, nếu tác giả muốn nhấn mạnh vào từ nào,
cụm từ
nào, thì thường đặt chúng ở cuối câu chứ không đưa lên đầu như tiếng
Việt. Bởi
vậy tôi đã chọn phương án dịch chủ ngữ trước.
Tôi đã xem kỹ phương án dịch của anh Trụ: “Làm một kẻ cà chớn trong chế
độ dân
chủ là số dách, không được vậy, thì làm kẻ tuẫn đạo, hoặc khốn nạn hơn,
làm kẻ ngồi
trên đầu nhân dân”. Tôi không thích ngôn ngữ kiểu “anh Hai” như vậy.
Chính
Brodski đã phản đối đưa ngôn ngữ đường phố vào văn chương, và ngược
lại.
[talawas]
Về cà rem của cà rem
|