|
17.11.2013
Thơ
Mỗi Ngày
ST. JOHN'S
EVE
The setting
sun, with implacable splendor,
parted the
distances on its blade.
And night is
here, tender as a willow.
Whorls of
brusque bonfires
Splutter
into red:
wood offered
in sacrifice
bleeds into
the high flames:
living flag,
blind mischief.
The darkness
is as gentle as someplace far away.
Today the
streets remember
that they
were fields one day.
And through
the holy night,
Solitude says
its rosary of far flung stars.
-C.M.
J.L. Borges: Poems of the Night
ST. JOHN'S
EVE
Mặt trời lặn,
rực rỡ như chưa từng rực rỡ -Sóng đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo
mặt trời/Không
gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối chùm lên tất cả - Phân chia khoảng cách -
nắng
chia nửa bãi chiều rồi – trên lưỡi kiếm của nó.
Và đêm đây nè,
dịu dàng –Tender is the Night – như dáng liễu
Những cụm bonfires
bất thần
Phun phì phì
lửa đỏ:
Gỗ cống hiến
sự hy sinh
Như máu, rót
thành ngọn lửa cao:
ngọn cờ sống - cờ máu của Đảng ta – Cái Ác Bắc Kít mù lòa.
Đêm tối dịu dàng, như một nơi nào đó xa thật xa.
Đêm nay con
phố Xề Gòn nhớ 1 chiều không xanh không tím không hồng, những ống khói
tàu mệt
lả
Nhớ, ngày xưa
nó đã từng là cánh đồng.
Và qua đêm
thiêng,
Sự cô đơn nói,
về vườn hồng, của những vì sao xa vời, tỏa hương thơm của nó.
Krakow's
story
Home to two
literary festivals, busy book fairs, clubs and writer after writer –
this is a
town where people queue for poetry
UNWRITTEN
ELEGY
FOR
KRAKOW'S
JEWS
Nemo
Vào
khoảng năm 1960 tôi nhận được một lá thư, từ Krakow, của một thi sĩ,
mà tôi chưa từng nghe tên, Stanislaw Czycz....
FUTURE PERFECT
Where you
were
before you
were born,
and where
you are
when you're
not anymore
might be
very close.
Might be the
same place,
though
neither is
as slippery
as being
here but
imagining
where
you will
have been-
that point
where things
land,
are
finished, over, and
gone but not
yet.
-Lia Purpura
The New
Yorker, Nov 18, 2013
Tương lai hoàn
hảo
Bạn ở đâu
Khi bạn chưa
sinh ra
Và bạn ở đâu,
khi không còn bạn nữa
Hai vấn nạn
nhớn hình như rất cận kề!
Có thể cùng/cũng
một chỗ
Tất nhiên, không
trơn trượt, và cũng chẳng như là ở đây
Nhưng mà là tưởng
tượng
Nơi bạn sẽ là
-
điểm sự vật
ghé bến, kết liễu, xong xuôi, và đi rồi
tuy nhiên chưa
hẳn.
UTOPIA
When the
train stops, the woman said, you must get on it.
But how will
I know, the child asked, it is the right train?
It will be
the right train, said the woman, because it is the
right time.
A train approached the station; clouds of grayish
smoke
streamed from the chimney. How terrified I am, the
child thinks,
clutching the yellow tulips she will give to her
grandmother.
Her hair has been tightly braided to withstand
the journey.
Then, without a word, she gets on the train, from
which a
strange sound comes, not in a language like the one
she speaks,
something more like a moan or a cry.
-Louise
Gluck
NYRB Nov 21,
2013
Những Màu Khác
Trân
trọng
giới thiệu
Nobel
văn
chương 2013
V/v Tiếng Mít
quái dị.
Quả là quái
dị thật, nếu đúng như ông kể:
Tôi
nhớ trước ngày 30 tháng 4 năm 75, ngồi bên radio nghe Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu
đọc diễn văn, tôi đánh bạo nói với cha tôi rằng (thì là) theo nhận xét
của một
học sinh như tôi thì diễn văn của tổng thống có vẻ không đúng với văn
phạm tiếng
Việt mà tôi được học chút nào. Cha tôi nhìn tôi im lặng một lát rồi
buồn rầu bảo,
đại ý, các chính thể đến giờ phút lụi tàn bao giờ cũng có những biểu
hiện như
thế (1)
Bợ
đít VC đến như thế này thì đám tinh anh Miền Nam bỏ chạy thua xa!
Nghe
[chỉ nghe thôi], một bài diễn văn của một ông Tổng Thống, đọc vào lúc
Miền Nam
sắp sửa mất, Sài Gòn sắp sửa biến thành "biển máu", may quá, giờ phút
chót, biến thành biển nước mắt, biển mặn... vậy mà có người còn chi li
về văn
phạm, và còn suy ra rằng (thì là), "các chính thể đến giờ phút lụi tàn
bao
giờ cũng có những biểu hiện như thế", thì quái đản thật!
Gấu chỉ nhớ
mài mại, xuất hiện trên TV, Tông Tông, đau lòng vì quá tin Mẽo, có
lúc như muốn bật khóc, nói năng lắp bắp, không nhớ có sai văn phạm hay
không!
Mà,
làm sao lại có thứ văn phạm “nói”?
Ghi
chú
trong ngày
Một người
đàn ông đến trước Lăng Lenin tại Quảng trường Đỏ, cởi bỏ hết áo quần,
ngồi bệt
xuống, dùng búa đóng một chiếc đinh dài xuyên qua bìu dái, găm chặt cặp
tinh
hoàn của mình xuống nền đá lát địa điểm nổi tiếng này.
Nghệ sĩ Nga
Pyotr Pavlensky tuyên bố rằng màn trình diễn mang tên Fixation của mình hôm Chủ
nhật tuần trước, nhân Ngày Cảnh sát Nga, là “ẩn dụ về sự vô cảm, sự thờ
ơ với
chính trị và thái độ duy định mệnh của xã hội Nga hiện đại”. Nước Nga
đang trở
thành một nhà nước cảnh sát, song thay vì sử dụng sức mạnh của số đông
thì dân
chúng chỉ bất động ngồi nhìn chính quyền tóm chặt dái mình, đóng đinh
mình vào
nền tảng của chế độ và phó mặc cho số phận. Một ẩn dụ mạnh. Một chân
dung bạo
liệt về bạo lực và bất lực. Một tuyên ngôn đau đớn về tuyệt vọng và
khuất phục.
Quảng trường
Ba Đình cũng là khung cảnh thích hợp cho hành động nghệ thuật ấy. Một
hành động
cực đoan. Song trong nghệ thuật, cực đoan bao nhiêu cũng không đủ.
Note: Gấu đã
mường tượng ra cảnh này, nhưng lịch sự hơn nhiều.
Nhà Nobel Toán Mít, đứng giữa Ba Đình, cầm cái bửu bối Nobel, dí dí vô
Lăng Bác,
và hô, “Biến”!
Một hành động
cực đoan. Song trong nghệ thuật, cực đoan bao nhiêu cũng không đủ.
Trên TV đã từng
nhắc tới 1 cái xen 1 nghệ sĩ trần truồng, ngồi trong cũi, lập lại hình
ảnh người
nghệ sĩ đói của Kafka, để phản đối sự đàn áp nghệ sĩ ly khai của Tẫu
VC, tại một
nhà hàng nổi tiếng ở London [GCC tìm hoài không ra, trong rừng TV!]
Tuy nhiên, cái
sự vô cảm của dân Nga, có gì tương tự với của dân Mít, và nó liên quan
tới tiến trình “hoá thân”, thiên sứ biến thành quỉ ma, “savior &
devil”, vốn là nguồn cơn
của hai cuộc cách mạng, “mẹ” [cách mạng vô sản Nga] đẻ ra Gulag, và
“con” [VC Bắc
Kít], đẻ ra Lò Cải Tạo.
Nên nhớ Bắc Kít đã từng rỏ máu ngón tay, viết đơn tình
nguyện vô chiến trường Miền Nam, đã từng hăm he đốt sạch Trường Sơn…
thì không
lý gì mà chửi họ “vô cảm”, trước công cuộc đòi hỏi dân chủ!
"Kafka
was Prague and Prague was Kafka. It had never been so completely and so
typically Prague, nor would it ever again be so as it was during
Kafka's life-time.
And we, his friends ... knew that this Prague permeated all of Kafka's
writings
in the most refined miniscule quantities." From an intimacy with a
common
spiritual homeland shared with Kafka, Professor Johannes Urzidil
conjures up
the essential background of the poet and provides authentic emphases
for the
understanding of his literary art. Personal experiences and
recollections, wide
reading, penetrating insight, and love congeal in Urzidil into an
authentic and
convincing interpretation of the living atmosphere surrounding Kafka
and of his
prime literary motifs and ideas. This edition, like that of the
Deutsche Taschenbuch
Verlag, has been enlarged so as to include five hitherto unpublished
chapters,
viz., impressive portraits of people close to Kafka, commentaries on
Kafka's
relation to the visual arts, on the history and impact of the Golem
myths, on
Kafka's intent at one time to destroy his manuscripts as well as
Urzidil's
speech at the commemorative observance in 1924 in the Little Theater in
Prague
shortly after Kafka’s death
(continued on
back flap)
Professor
Johannes Urzidil was born in 1896 in Prague. After completing his
philosophical
studies there, he became one of the younger poets of the German
expressionist movement
and was in close contact with the Prague Literary Circle of Brod,
Kafka, Werfel,
and others. In 1939 he emigrated to the United States via Italy and
England and
settled in New York, where he is still living. His first publication
was a
volume of expressionistic poems (1919). Professor Urzidil has published
seven
volumes of stories and novels and is the author of many essays and
treatises.
Among his better known and more important scholarly works are Goethe in Bohmen (Goethe in Bohemia), 1962; Goethes
Amerikabild (Goethe's Image of
America), 1958; and Amerika und die Antike
(America and Ancient Antiquity), 1964. He was awarded the Swiss
Inter- national
Prix Veillon for the best German novel (1957), the literary prize of
the City of
Cologne (1964), the Great Austrian State Prize for Literature (1964),
and the
Andreas Gryphius Prize (1966). He is a corresponding member of the
German Academy
of Language and Poetry in Darmstadt, of the Austrian Adalbert Stifter
Institute, and of several other learned and literary societies. 'Works
of
Johannes Urzidil have been translated from the German originals into
English,
French, Italian, Czech, Dutch, Hungarian, Russian, and Spanish.
Wayne State
University Press Detroit, Michigan 48202
Note: Trong những
cuốn “Kafka” của Gấu, cuốn này lạ nhất. Mua tại 1 tiệm sách cũ. Tác giả
lạ hoắc.
Hóa ra, một bạn quí của Kafka. Tay Urzigil này rất rành về Đông Phương,
đặc biệt
là Lão Tử, và đọc Kafka, thí dụ, truyện ngắn “Làng Kế Bên”, "The Next
Village", song song
với 1 ngụ ngôn của Lão Tử.
Theo Urzidil, trưyện ngắn "khủng" nhất của Kafka, là "Trước
Pháp Luật", mà TV đã từng lèm bèm rất nhiều lần!
Ở đây, Gấu
muốn nhắc tới câu than, “Tôi Bị Lừa!”, của DTH & Y sĩ đồng quê của
Kafka.
Nó "có gì" liên quan tới "Trước Pháp Luật", tới “vô
vi", của Lão Tử, và, tới tính “cực đoan” của nghệ thuật, như Sến phán,
ở
trên.
National
Geographic Oct 2013
CHILDREN OF
ISRAEL
Authors on
Museums: at the Museum of the Jewish People in Tel Aviv, the novelist
Adam
Foulds could be one of the exhibits. Going back there for the first
time since
his gap year, he finds it forces him to think again about who he is.
From
INTELLIGENT LIFE magazine, November/December 2013
Intel
Life
Note: Bài
này thật tuyệt!
"You
are part of the story." I know I am. But how? My Diaspora identity, to
be
always asking.
Bức hình,
trong cùng số báo, cũng thật tuyệt:
PHOTO
ESSAY
Northern
Brazil: deep in the rainforest, modern health care mixes with ancient
rituals
CHEKHOV'S
GUIDE TO NOT SLEEPING
~ Posted by
Robert Butler, November 14th 2013
When Anthony
Gardner attended an evening class for us last week on how to sleep
better, he
discovered there were four basic rules. He wasn't the only one keen to
learn
what they were: the class itself was very well attended and his
blogpost was
the most-read article on this site.
I was ready
to follow his advice and when I woke at two this morning I remembered
there was
no listening to the radio, no switching on the computer, and no
checking the
phone. Instead I reached for a collection of short stories and picked
the one
which sounded as if it would be the least stimulating.
Chekhov's
"A Boring Story" deals with the teeming, raw and uncharitable
thoughts of Nikolai Stepanovich, an eminent professor and privy
counsel, who at
the age of 62 senses his approaching death. "As regards my present
life," he tells us on the second page, "I must first of all mention
the insomnia from which I have begun to suffer lately." This, he says,
is
the "chief and fundamental fact" of his existence.
The physical
details in the story belong to the late 19th century, but his
experience would
be familiar to anyone attending the how-to-sleep class. There is the
slow
passage of time—"the clock in the corridor strikes one, then two, then
three"—as Nikolai waits for the cock to crow and the first glimpse of
light beyond the window. There are the sounds of the night—the creak of
the
wardrobe's warped wood and the unexpected hum of the wick in the
lamp—which
carry an excitement of their own. There are the mental games that
Nikolai plays
to get to sleep: counting to a thousand or trying to picture the face
of a
colleague and recall the year he joined the faculty. And, lastly,
there's the
relentlessness of it all: "tomorrow and the day after tomorrow the
nights
will be just as long."
The 58 pages
were not nearly boring enough. After finishing it, I lay awake
wondering if
there was a better fictional account of not getting a good night's
sleep.
Robert
Butler is online editor of Intelligent Life
Image Getty
Rebecca
Willis Applied Fashion
Smokey eyes
and red, red lips - in the world of make-up, even angels have dirty
faces
Ngay cả
thiên thần thì cũng có mặt dơ!
Note: Bài
này thú nhất, trong số báo.
Đúng ra TV phải có mục này từ lâu rồi!
“Applied Fashion” [Mốt ứng dụng, đưa vô thực hành].
Có
những câu
thật tuyệt:
The world we
live in is literally written on our bodies. Thế giới chúng ta sống được
viết
trên cơ thể bạn.
It is not a coincidence that "made up" means pretend. Không phải là
tình cờ khi "made up", “trang điểm”, có nghĩa là “giả đò”.
No wonder early feminists went bare-faced. Đâu có gì là ngạc nhiên, khi
phụ nữ
ngày xưa [những phụ nữ đòi nữ quyền, hồi mới đầu] đi, mặt không trang
điểm , "bare faced", Mít kêu là "mặt mộc".
It always seemed odd: as a child you're told to keep your face clean,
and then
suddenly as a grown-up you're encouraged to put dirt on it.
Cũng thật kỳ cục, khi còn bé, đám con gái chúng ta lúc nào cũng bị/được
căn dặn,
phải giữ bộ mặt sạch, khi lớn lên, lại cố làm cho nó dơ đi!
Nhưng đâu chỉ
bộ mặt!
Hà, hà!
RECENTLY I
WENT to a party as a panda. It wasn't fancy dress - I just put on too
much of a
new, smudgy eyeliner that I'd never used before. Special occasions
prompt us to
want to look our best, and make-up, like clothes, offers the chance to
choose
what that might be. But where on the spectrum from natural to mask-like
artificiality do we want to sit? And even if we know, how do we achieve
it when
there are acres of products on the shelves and we have less than a
square foot
of face on which to put it?
After the
panda incident, I decided to get to grips with makeup, in theory and in
practice. While I wear moisturizer daily, eyeliner often and lipstick
sometimes, I have never made the transition to foundation or any sort
of
whole-face make- up. It always seemed odd: as a child you're told to
keep your
face clean, then suddenly as a grown-up you're encouraged to put dirt
on it. I
hate the feeling of having my face covered in gunk which gets on my
clothes and
my phone, and I dislike planting a kiss on a cheek clammy with what the
industry calls "product". The occasional quick swish of compact
powder on a sponge moistened with water is as far as I go. There are
lots of
ways to learn how to apply dirt to your face. The internet is full of
make- up
tutorials, posted both by big companies such as L'Oreal and by
individual women
who just adore make-up and treat it with a high seriousness (see
feature, page
70). Online, I discovered how to find my eye's "outer V"- it starts
at the corner, heads for the outer edge of the brow, then turns inwards
when it
meets the eyelid fold - and also that dabbing on eye shadow is better
than
swiping it, which removes as much color as it applies. Offline, I went
for a
lesson at a department store. Hoping to avoid any more party make-up
malfunctions,
I chose the one called "smokey eye": in fashion-speak, eyes, like
shoes and trousers, go into the singular. I picked up some tips, such
as using
the side of an eyeliner brush to get close to my lashes, and how to do
a flick
in the corner of the eye (rather than go freehand, you continue an
imaginary
line upwards from the lower lid). But after two coats of mascara, which
I don't
normally wear, my eyelids felt they were weightlifting. I went home,
heard the
verdict - "too much" (son); "it makes you look old"
(husband) - then ran upstairs, took it all off, and felt like myself
again. It
is not a coincidence that "made up" means pretend.
Why wear
make-up in the first place? The urge to paint ourselves is millennia
old: the
ancient Egyptians had kohl, the ancient Britons woad. Jezebel is on
record in
the Old Testament as making up her eyelids; Elizabeth I and the Kabuki
dancers
of Japan slathered their faces with white lead; native Americans and
other
tribal cultures decorated themselves with bands of color before a
battle. Today
it is part of our culture to paint ourselves before a different sort of
encounter: a social one. The expression "war paint" is an apt one.
In her
fascinating book "Bodies" (Profile Books), Susie Orbach describes how
the culture we live in determines the marks we make - or "inscribe" -
on ourselves. The world we live in is literally written on our bodies.
The
objective of make-up nowadays seems to be to mimic the smooth,
even-toned skin
of youth, and, to quote make-up artists and shop assistants, to "open
up
the eye" (singular). They all talk about opening up the eye; this is
not a
surgical procedure, thank goodness, but seems to mean making it look
brighter
and above all bigger.
No one could
tell me why that should be so desirable. Then I read that the distance
between eyeball
and eyebrow is a key factor in gender perception, and is much greater
in women
than men. To enlarge that distance is to exaggerate your femininity.
And when the
eye itself is widened it is a sign of submission, so opening up the eye
makes
us kittenishly vulnerable. No wonder early feminists went bare-faced.
Narrowing
my eyes, I picked up a book on body language. "The use of lipstick",
it read, "is a technique thousands of years old that is intended to
mimic
the reddened genitals of the sexually aroused female." Was ever a
sentence
more likely to give you pause before whipping a stick of Chanel's Rouge
Allure
out of your handbag? We might just want to reflect a moment on these
things
before we hand over the contents of our wallets to the billion-dollar
cosmetic
industry, and slap our purchases, in the name of improvement, onto our
party-going faces .•
Ngàn
Lẻ Một Đêm
Seven Nights là cuốn Borges đầu
tiên Gấu đọc, những ngày mới qua
Xứ Lạnh.
Mượn thư viện.
Chắc
cũng thẻ thư viện đầu tiên.
Tóm
bắt khoảnh khắc
Võ
tướng
quân về Trời
Ảnh Nguyễn
Đình Toán
Trong
tất cả những cư xử của VC, có một, Gấu Cà Chớn coi được, là
chúng coi đám tinh anh Miền Nam bỏ chạy bợ đít chúng, tởm hơn.... Ngụy!
Chúng cấm lũ này không cho về lại Xứ Mít.
-Hồi
nhận viết Tiến Quân Ca tôi
không hề chuẩn bị trước để làm một bài
hát mà
một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viên biệt động vũ
trang.
Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng vào một thành phố
để giết
một người.
The Sinister
Spirit sneered: 'It had to be!'
And again
the Spirit of Pity whispered,
'Why?'
Of course, he was a
formidable adversary.... By his own admission, by early 1969, I think,
he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such
a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does
not make a military genius..."
William Childs Westmoreland
Đúng rồi ông ta là 1 địch
thủ khủng khiếp... Như chính ông ta thừa nhận, vào đầu năm 1969, ông ta
nướng nửa triệu tên VC. Một cái sự coi mạng người rẻ như bèo như thế,
có thể làm nên 1 địch thủ khủng khiếp, nhưng đéo phải 1 thiên tài quân
sự!
Mặt trời chân lý chiếu qua
tim.
Đường ra trận mùa này đẹp lắm.
Tính chất trữ tình không
thể thiếu, trong thế giới toàn trị
Tự thân, thế giới đó không là ngục tù, gulag.
Nó là ngục tù, khi trên tường nhà
giam dán đầy thơ và mọi người nhẩy múa trước những bài thơ đó.
Kundera.
Một
cách nào đó, "tinh thần" Văn Cao là không thể thiếu, bắt buộc phải
có, đối với "Mùa Thu", khi nhà thơ ngự trị cùng với đao phủ.
Kundera đã nhìn thấy điều đó ở thiên tài Mayakovsky, cũng cần thiết cho
Cách mạng
Nga như trùm cảnh sát, mật vụ Dzherzhinsky. (Những Di chúc
bị Phản bội).
Đi tìm phê
bình gia Mít
Cho nên, xưa
nay tôi vẫn nghĩ, giờ càng chắc, rằng những người từng là học sinh giỏi
văn dưới
mái trường xã hội chủ nghĩa, có rất ít cơ may trở thành nhà văn hay nhà
phê
bình. Vì trong vô thức họ luôn luôn mong mình được chấm điểm cao theo
một
ba-rem có sẵn.
Blog NL
Được, được!
Phê bình
XHCN đã như thế, thì phê bình hải ngoại, sao?
Một trong những
nét rất hải ngoại, của mấy đấng phê bình Mít, là khoe bằng cấp, đa phần
thực, nhưng dởm, chắc cũng có, và trong số dởm này, Thầy Cuốc chắc hẳn.
Vô tình gặp trang FB của Thầy, cũng thấy khoe bằng Tiến Sĩ [đếch biết
tiến sĩ gì,
nhưng
chắc chắn, đếch phải về phê bình!].
Tụi mũi lõ không
khi nào làm chuyện này. Chúng tin vào bài viết của chúng, và hy vọng,
nó, bài
viết, thuyết phục độc giả.
Phê bình gia Mít biết chắc, bài viết như kít, thành ra, trưng
bằng cấp, để hy vọng, bớt thúi, hẳn thế?
Sự thực, ba
thứ bằng cấp mà đám này nhắc tới, và khoe um lên, không liên quan gì
tới phê bình.
Học chúng, đậu chúng, không thể nào/không phải là, có thể, viết phê
bình được. Barthes
coi phê bình là 1 bản văn choàng lên 1 bản văn, 1 thứ ngôn ngữ bậc hai.
Đâu phải
học trung học, cao đẳng, đại học, tốt nghiệp là thành nhà văn, phê bình
gia đâu.
Thầy Đạo học triết để trốn lính, để có được 1 cái nghề dậy học, nuôi
thân, liên
quan mẹ gì đến viết văn, viết phê bình, vậy mà lên giọng, thằng đó
không phải
giới khoa bảng. Barthes, ghê gớm như thế, đâu phải dân khoa bảng?
Steiner, trong
bài viết vinh danh Lukacs, phán, thật khó mà làm 1 nhà phê bình, vào
cái
thời của ông.
GEORG
LUKACS AND HIS DEVIL'S PACT
In
the twentieth century it is not easy for an honest man to be a literary
critic.
There are so many more urgent things to be done. Criticism is an
adjunct....
Và,
trong “Nhân
Văn”, ông coi phê bình gia, 1 thằng bị thiến!
Nhưng cũng
chính trong bài viết này, ông phán, chưa bao giờ cần đến phê
bình gia,
như là thời này, thời của chúng ta, những kẻ đến sau!
Sau gì?
Sau điêu tàn.
Gấu cũng nghĩ
thế!
Chưa bao giờ
Mít cần phê bình & phê bình gia như lúc này.
Điềm
11.8.2007
Nguyễn Đức
Tùng
1. Bài của
Likhachev, “Phẩm tính trí thức”, là bài rất có ích cho các nhà văn. Tôi
đặc biệt
chú ý đến đoạn nói về cách sống và phong độ của giới trí thức Nga, cũng
như đoạn
về nhà văn Solzhenitsyn. Không trách gì nhiều nhà văn nước ta (chứ
không phải
là nhà văn “ở ta”) trước đây mê văn học Nga đến thế. Mà mê là đúng, vì
họ lớn
quá. Sang trọng. Tôi thiết
nghĩ các nhà văn gốc miền Nam và ở hải ngoại nên tìm
đọc thêm về văn học và lý luận văn học Nga. Biết bao nhiêu điều để học,
sao cứ
đọc hoài Frost với lại Faulkner? Tuy nhiên theo thiển nghĩ của
tôi, sự phân
chia hướng Âu hay Á-Âu thật ra không quan trọng lắm.
2. Nhận xét
của nhà văn Nguyên Ngọc về tuyên bố của Bộ trưởng Thông tin-Truyền
thông rất
chính xác, thẳng thắn, mà vẫn có ý vị văn chương. Tôi rất thích đoạn
ông bắt bẻ
về vụ mười chữ và năm từ. Thật ra từ vẫn gọi là chữ được, vì từ hay chữ
chỉ là
qui ước của các nhà ngữ pháp sau này thôi, chứ lúc tôi còn đi học không
có sự
phân biệt đó. Vấn đề chính là, đúng như Nguyên Ngọc nói, nói năm từ hay
chữ
(đôi) thì đúng hơn là nói mười chữ. Mười chữ đơn lẻ không có nghĩa gì
cả. Tôi
nhớ trước ngày 30 tháng 4 năm 75, ngồi bên radio nghe Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu
đọc diễn văn, tôi đánh bạo nói với cha tôi rằng (thì là) theo nhận xét
của một
học sinh như tôi thì diễn văn của tổng thống có vẻ không đúng với văn
phạm tiếng
Việt mà tôi được học chút nào. Cha tôi nhìn tôi im lặng một lát rồi
buồn rầu
bảo, đại ý, các chính thể đến giờ phút lụi tàn bao giờ cũng có những
biểu hiện
như thế.
3. Nhờ cái
link của talawas mà tôi cũng đọc được bài “ Hồ Anh Thái có sợ giải
thiêng?”
trên VietNamNet nói về tác phẩm "Đức Phật, nàng Savitri và tôi". Cuốn
này có
trích đăng trên talawas chủ nhật, tôi chưa kịp đọc, nhưng Hồ Anh Thái
thì tôi
có đọc qua một hai cuốn khác vì bạn bè khuyên. Tôi cũng chưa đọc Phạm
Xuân Thạch
bao giờ, không biết ông có ký tên nào khác không, hay chỉ vì tôi ít đọc
các nhà
văn trong nước. Bài của ông làm tôi ngạc nhiên quá: tôi lấy làm mừng
cho nền
phê bình văn học Việt Nam. Ít ra cũng phải có những bài review mạnh mẽ,
thuyết
phục, khen chê rõ ràng như vậy. Thường thì các nhà phê bình Việt Nam
chỉ khen
các nhà văn nhà thơ chứ không chỉ ra được cho họ các khuyết điểm nghệ
thuật cần
tránh.
Xin cám ơn
La Thành, Nguyên Ngọc, Phạm Xuân Thạch, và Ban biên tập talawas.
Nguồn [talawas]
Cha tôi
nhìn tôi im lặng một lát rồi buồn rầu: Từ "buồn rầu" đắt thật!
Borges
Tám Bó
Ways of Escape
Camus 100
Một trang TV
cũ
J'ai subi un
deuxième choc littéraire en 1957, quand « L'étranger », d'Albert Camus,
a été
traduit en hongrois. Pour moi, c'était une révélation décisive qui m'a
radicalement influencé dans mes choix..
[Tôi bị cú sốc
văn chương thứ nhì khi Kẻ Xa Lạ
được dịch qua tiếng Hung, vào năm 1957. Đây
đúng là một cú mặc khải ảnh hưởng tới sự chọn lựa của tôi]
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
|
|