*

Tạp Ghi
1 2



















Điềm
11.8.2007
Nguyễn Đức Tùng
1. Bài của Likhachev, “Phẩm tính trí thức”, là bài rất có ích cho các nhà văn. Tôi đặc biệt chú ý đến đoạn nói về cách sống và phong độ của giới trí thức Nga, cũng như đoạn về nhà văn Solzhenitsyn. Không trách gì nhiều nhà văn nước ta (chứ không phải là nhà văn “ở ta”) trước đây mê văn học Nga đến thế. Mà mê là đúng, vì họ lớn quá. Sang trọng. Tôi thiết nghĩ các nhà văn gốc miền Nam và ở hải ngoại nên tìm đọc thêm về văn học và lý luận văn học Nga. Biết bao nhiêu điều để học, sao cứ đọc hoài Frost với lại Faulkner? Tuy nhiên theo thiển nghĩ của tôi, sự phân chia hướng Âu hay Á-Âu thật ra không quan trọng lắm.
2. Nhận xét của nhà văn Nguyên Ngọc về tuyên bố của Bộ trưởng Thông tin-Truyền thông rất chính xác, thẳng thắn, mà vẫn có ý vị văn chương. Tôi rất thích đoạn ông bắt bẻ về vụ mười chữ và năm từ. Thật ra từ vẫn gọi là chữ được, vì từ hay chữ chỉ là qui ước của các nhà ngữ pháp sau này thôi, chứ lúc tôi còn đi học không có sự phân biệt đó. Vấn đề chính là, đúng như Nguyên Ngọc nói, nói năm từ hay chữ (đôi) thì đúng hơn là nói mười chữ. Mười chữ đơn lẻ không có nghĩa gì cả. Tôi nhớ trước ngày 30 tháng 4 năm 75, ngồi bên radio nghe Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn, tôi đánh bạo nói với cha tôi rằng (thì là) theo nhận xét của một học sinh như tôi thì diễn văn của tổng thống có vẻ không đúng với văn phạm tiếng Việt mà tôi được học chút nào. Cha tôi nhìn tôi im lặng một lát rồi buồn rầu bảo, đại ý, các chính thể đến giờ phút lụi tàn bao giờ cũng có những biểu hiện như thế.
3. Nhờ cái link của talawas mà tôi cũng đọc được bài “ Hồ Anh Thái có sợ giải thiêng?” trên VietNamNet nói về tác phẩm Đức Phật, nàng Savitri và tôi. Cuốn này có trích đăng trên talawas chủ nhật, tôi chưa kịp đọc, nhưng Hồ Anh Thái thì tôi có đọc qua một hai cuốn khác vì bạn bè khuyên. Tôi cũng chưa đọc Phạm Xuân Thạch bao giờ, không biết ông có ký tên nào khác không, hay chỉ vì tôi ít đọc các nhà văn trong nước. Bài của ông làm tôi ngạc nhiên quá: tôi lấy làm mừng cho nền phê bình văn học Việt Nam. Ít ra cũng phải có những bài review mạnh mẽ, thuyết phục, khen chê rõ ràng như vậy. Thường thì các nhà phê bình Việt Nam chỉ khen các nhà văn nhà thơ chứ không chỉ ra được cho họ các khuyết điểm nghệ thuật cần tránh.
Xin cám ơn La Thành, Nguyên Ngọc, Phạm Xuân Thạch, và Ban biên tập talawas.
Nguồn

Tôi nhớ trước ngày 30 tháng 4 năm 75, ngồi bên radio nghe Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn, tôi đánh bạo nói với cha tôi rằng (thì là) theo nhận xét của một học sinh như tôi thì diễn văn của tổng thống có vẻ không đúng với văn phạm tiếng Việt mà tôi được học chút nào. Cha tôi nhìn tôi im lặng một lát rồi buồn rầu bảo, đại ý, các chính thể đến giờ phút lụi tàn bao giờ cũng có những biểu hiện như thế.
*
Thế còn chế độ đương thời thì sao? Những ông như tân bộ trưởng thông tin & truyền thông, tuyên bố, phải cắm ở mỗi tờ báo một tên mật vụ, như ngài chủ tịch nước, nhận xét, làm nhục người dân, bằng cách bịt miệng, là không đúng, thì là biểu hiện gì?
Nghe [chỉ nghe thôi], một bài diễn văn của một ông Tổng Thống, đọc vào lúc Miền Nam sắp sửa mất, Sài Gòn sắp sửa biến thành "biển máu", may quá, giờ phút chót, biến thành biển nước mắt, biển mặn... vậy mà có người còn chi li về văn phạm, và còn suy ra rằng (thì là), "các chính thể đến giờ phút lụi tàn bao giờ cũng có những biểu hiện như thế", thì quái đản thật!
Gấu chỉ nhớ mài mại, xuất hiện trên TV, Tông Tông, đau lòng vì quá tin Mẽo, có lúc như muốn bật khóc, nói năng lắp bắp, không nhớ có sai văn phạm hay không.
Đọc cái thư của ông này, cũng mừng, vì có vẻ như nền văn chương Mít hải ngoại sắp có một ông tân tiên chỉ thay cho ông cũ sắp sửa đi.
Ông đọc hết, và sau đó ban huấn từ, bài này khá, có ích cho giới nhà văn, bài kia chưa được, giới hải ngoại tại sao chỉ đọc có hai ông này?...
Thảm thật.
Đây là "biểu hiện", không [đủ 'văn phạm' để] làm thơ viết văn, đành hành nghề, xoa đầu nhà văn nhà thơ!
TB: Xin cám ơn talawas cho đọc lá thư này!
Tốt nhất, cứ mỗi cuối tuần, có một thư tổng kết, như trên. "Tôi đặc biệt chú ý, và yêu cầu như vậy". NQT
*
Tôi thiết nghĩ các nhà văn gốc miền Nam và ở hải ngoại nên tìm đọc thêm về văn học và lý luận văn học Nga. Biết bao nhiêu điều để học, sao cứ đọc hoài Frost với lại Faulkner?
Frost và Faulkner thì liên can gì tới lý luận văn học, tới nhà văn gốc Miền Nam và ở hải ngoại? Frost không biết, nhưng Faulkner, ngoài Tin Văn ra, có ai thèm nhắc tới? Tin Văn nhắc tới, vì đây là "thầy" của Gấu. Không thầy đố mày làm nên.
Vả chăng, đọc Faulkner là để "đặc biệt" qui chiếu về Miền Nam ngày nào. Trước 1975, đã có một Khung Rêu của Thụy Vũ, liệu sau 1975, có một Khung Rêu, khác?
Likhachev? Ông này, coi bản gốc, viết bằng tiếng Nga, làm sao hải ngoại đọc? Không lẽ đọc ông, qua... talawas?
Solzhenitsyn? Làm sao không đọc? Đâu cần phải đọc Solz bằng tiếng Nga, qua ông L.? (1)
Mà ông Solz nào? Ông nay về nước, xin được Putin chiêu hồi, hay ông trước đó?
Vả chăng "đọc" khác "học"? Thử hỏi ông tác giả bức thư được đăng ở khung cửa nhỏ của talawas, "học" được gì chưa, không nói, "đọc"?
*
Liệu, đây là biểu hiện suy tàn của một diễn đàn? NQT

(1) Nguồn bài viết, bằng tiếng Nga, thấy đề 1993, xưa rồi Diễm ơi, và, dù sao cũng chỉ là một tài liệu nhỏ, vậy mà đã khiến ông này hạ bút, "Tôi đặc biệt chú ý đến đoạn nói về cách sống và phong độ của giới trí thức Nga, cũng như đoạn về nhà văn Solzhenitsyn. Không trách gì nhiều nhà văn nước ta (chứ không phải là nhà văn “ở ta”) trước đây mê văn học Nga đến thế. Mà mê là đúng, vì họ lớn quá. Sang trọng"; giả như ông đọc toàn bộ Gulag của Solz, hay ít ra, bản rút ngắn, hay đọc Gulag: Một lịch sử, của Anne Applebaum, xb năm 2004, được Pulitzer Prize, được coi là ấn bản chung quyết về Gulag, trong không thiếu gì cách sống và phong độ của trí thức Nga, của tầng lớp ly khai, không hiểu ông ta sẽ vỗ đùi tới đâu! Trên Tin Văn đã từng giới thiệu bài tựa của cuốn sách này. Bảnh hơn bài của ông L. nhiều!
Muốn biết thêm về Âu Á, thì đọc thêm cuốn, cũng của bà này: Giữa Á và Âu: Qua những biên cương Âu Châu [Between East and West: Across the Boderlands of Europe]
*
Note: Trong cuốn Gulag: Một lịch sử, Anne Applebaum, dựa vào những tài liệu mới nhất, cho biết, Solzhenitsyn đã từng làm ăng ten, khi ở Gulag. Liệu, điều này giải thích thái độ mới đây của ông? Trên Tin Văn cũng đã post bài viết trên tờ TLS nhân cuốn The Solzhenitsyn Reader ra lò, trong có đoạn, [I am old enough to remember how, as Soviet schoolboys, we were from time to time given a talk by a guest lecturer, an Old Bolshevik, on the horrors of the tsarist regime. The aim was to demonstrate how happy and bright our days in the Soviet paradise were. It is alarming to see that Solzhenitsyn's legacy is now being used by the new governors of Russia in a similar way], chê trách thái độ của ông.
The Solzhenitsyn Reader
NQT
*
Nhờ cái link của talawas mà tôi cũng đọc được bài “ Hồ Anh Thái có sợ giải thiêng?” trên VietNamNet nói về tác phẩm Đức Phật, nàng Savitri và tôi. Cuốn này có trích đăng trên talawas chủ nhật, tôi chưa kịp đọc, nhưng Hồ Anh Thái thì tôi có đọc qua một hai cuốn khác vì bạn bè khuyên. Tôi cũng chưa đọc Phạm Xuân Thạch bao giờ, không biết ông có ký tên nào khác không, hay chỉ vì tôi ít đọc các nhà văn trong nước. Bài của ông làm tôi ngạc nhiên quá: tôi lấy làm mừng cho nền phê bình văn học Việt Nam. Ít ra cũng phải có những bài review mạnh mẽ, thuyết phục, khen chê rõ ràng như vậy. Thường thì các nhà phê bình Việt Nam chỉ khen các nhà văn nhà thơ chứ không chỉ ra được cho họ các khuyết điểm nghệ thuật cần tránh.
*
Sau khi ban huấn từ cho hải ngoại, ông với tay, qua biển cả, về trong nước, xoa đầu BVVC của Gấu.
Mạn phép thay mặt bạn văn VC, cám ơn ông! NQT
*
Sang trọng?
Văn chương Nga, sang trọng?
Lần đầu tiên Gấu nghe khen văn chương Nga sang trọng, thú thực. Lớn quá, người quá, mê sử thi quá, hoành tráng quá...
Nhưng chưa nghe, sang trọng quá!
Thơ, thi sĩ, có thể sang trọng, thí dụ Akhmatova, nhưng cũng khác hẳn, thí dụ, một Woolf của Anh.
Chẳng thế, Lukacs, triết gia tổ sư Mác xít chịu không nổi Người Đẹp thành Luân Đôn, và đám bạn bè của Bà. (1)
Ông chửi, đám trưởng giả sa đọa, thoái hoá!.
(1) To Lukacs, the saga of Bloom is merely "petit-bourgois" narcissism run mad. Steiner: G. Lukacs - A Preface  [Chủ nghĩa hiện thực trong thời của chúng ta]
*
Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, người xưa nói. Nước mất nhà tan, Sài Gòn sắp có thể biến thành biển máu, vậy mà có người nhận ra, bài diễn văn giã biệt, "Sài Gòn ơi, ta đã mất Người trong cuộc đời", của một ông tổng thống mất nước, sai văn phạm, rồi nhân đó, suy ra sự lụi tàn của một chính thể, thì quả là quái, thật quái!
Thảo nào Cioran mơ hoài, một thế giới, ở đó, người ta có thể chết, chỉ vì một cái dấu phẩy!
Giá mà ông gặp được ông Mít này!
Tuy nhiên, tưởng dzậy mà không phải dzậy.
Với một ông, Cioran, là giấc đại mộng, không tưởng, của văn chương.
*
Giấc đại mộng của Cioran làm nhớ tới của Walter Benjamin: Làm sao viết một cuốn sách, chỉ gồm toàn những đồ đi chôm, dưới dạng những trích dẫn. Phần đóng góp của người trích dẫn, thì giống như những dàn, giáo. Một khi toà lâu đài, chỉ gồm toàn những trích dẫn, xây dựng xong, thì bèn rút ra phần 'back up', tức những dàn giáo.
*
Tôi nhớ trước ngày 30 tháng 4 năm 75, ngồi bên radio nghe Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn, tôi đánh bạo nói với cha tôi rằng (thì là) theo nhận xét của một học sinh như tôi thì diễn văn của tổng thống có vẻ không đúng với văn phạm tiếng Việt mà tôi được học chút nào. Cha tôi nhìn tôi im lặng một lát rồi buồn rầu bảo, đại ý, các chính thể đến giờ phút lụi tàn bao giờ cũng có những biểu hiện như thế.
*
Thế còn chế độ đương thời thì sao? Những ông như tân bộ trưởng thông tin & truyền thông, tuyên bố, phải cắm ở mỗi tờ báo một tên mật vụ, như ngài chủ tịch nước, nhận xét, làm nhục người dân, bằng cách bịt miệng, là "không đúng",  tình cảnh thê thảm của người nông dân biểu tình, ngay tại trung tâm thành phố mang tên Bác, trừ một thiểu số đồng bào đi ngang qua, và một số độc giả gửi thư cho BBC, ngoài ra, cả một nước, cả một chế độ, cả một lực lượng báo chí, nhà văn, đều mù, không nhìn thấy, thì là những biểu hiện gì, giờ phút gì?
*
Liệu, đây, [thư thi sĩ], là một trong những biểu hiện lụi tàn, của một diễn đàn? NQT
*
TTT, khi còn ở trong nước, có gửi ra hải ngoại một số bài thơ làm trong tù, ký tên là Trần Kha. Gấu ra sau ông, nhưng nhờ đọc một phê bình gia mới biết sự kiện này, ông ta phán, tại sao ông này hồi còn ở trong nước thì gửi thơ ra hải ngoại, bây giờ, ra ngoài này rồi, không chịu làm thơ nữa, để cho ông ta... xoa đầu, tiếp?
Bởi vậy, Steiner rất tởm mấy anh phê bình gia không biết viết văn, đám hoạn quan sống bám vào thiên tài, không biết cơn hung hãn, "Em đã biết tay anh chưa?", tức, dục vọng cương cứng mong được trường tồn, Le Dur Désir De Durer [toàn vần Đ..  thôi à], tức, hành động "hùng hục sáng tạo".
Tuy nhiên, Steiner, do không phải là độc giả của Kim Dung, nên không biết "phép lạ" của Đông Phương. Với những nhà văn nhà thơ tầm phào, chỉ có mỗi một cách để trở thành giang hồ đệ nhất nhân, là, vung dao tự thiến!
*
30 Tháng Tư 1975, bao nhiêu nước chẩy qua cầu, vậy mà còn giữ được một kỷ niệm quí giá như thế, về một chi tiết quí giá như thế, đáng phục thật.
Thảo nào Steiner coi chi tiết là Thượng Đế ở trong văn chương.
Nhưng ông nói thêm, nếu không phải Thượng Đế, thì chắc chắn, là Quỉ.

Tôi đặc biệt chú ý đến đoạn nói về cách sống và phong độ của giới trí thức Nga, cũng như đoạn về nhà văn Solzhenitsyn. Không trách gì nhiều nhà văn nước ta (chứ không phải là nhà văn “ở ta”) trước đây mê văn học Nga đến thế. Mà mê là đúng, vì họ lớn quá. Sang trọng. Tôi thiết nghĩ các nhà văn gốc miền Nam và ở hải ngoại nên tìm đọc thêm về văn học và lý luận văn học Nga. Biết bao nhiêu điều để học, sao cứ đọc hoài Frost với lại Faulkner?
*
Cái gọi là "Vì họ lớn quá" của văn học Nga, mà "ở ta" biết được đó, theo Gấu, chỉ "lớn quá có một nửa", một nửa ở đây, được hiểu theo nghĩa, một nửa ổ bánh mì thì là một nửa ổ bánh mì, còn một nửa văn học Nga, thì chỉ có cái khúc "Đường ra trận mùa này đẹp lắm" y chang Mít ta.
Thành thử những gì gì, họ lớn quá, sang trọng quá, là cũng nói theo kiểu "thổi ống đu đủ", từ hải ngoại gân cổ thổi về trong nước mà thôi.
Faulkner, thì chỉ có Tin Văn cứ nhắc tới, cứ đọc hoài.
Còn Frost? Hình như những "nhà văn gốc Miền Nam và ở hải ngoại" cũng vờ ông này, ngoài Tin Văn, có nhắc tới, qua bài thơ nổi tiếng của ông.
Robert Frost
Stopping by Woods on a Snowy Evening
Rừng thì đẹp, tối, và sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
Gấu này, làm trang Tin Văn, là do Frost "order", theo nghĩa: Trước khi lăn ra ngủ.
Gấu làm quen Frost, khi ở trại cấm Thái Lan, Gấu đã lèm bèm vài ba lần về chuyện này rồi.
Sau được đọc bài Brodsky viết về ông. Chỉ có vậy. Thành thử không có chuyện, cứ đọc hoài.
*
Con đường độc nhất là văn chương và kinh nghiệm riêng tư về đọc sách. Và Brodsky nổi loạn chống lại chế độ bạo chúa bằng cách trầm mình vào ngôn ngữ, vào Pushkin, và Baratynsky, Mandelstam và Tsvetayeva, Pasternak và Akhmatova.
Ông học tiếng Ba-lan và đặc biệt, tiếng Anh. Thật khó mà có những cuốn sách tiếng Anh. Sau cùng ông có được hai tuyển tập thi ca do Oscar Williams, và Louis Untermeyer tuyển chọn; thật là quí giá, trong đó có hình đen trắng những người hùng của ông, trên tất cả, có Auden, Frost, và Hardy. Qua những bức hình nhỏ xíu đó, ông tưởng tượng ra họ, tiếng nói, nhân cách của họ.
Tôi hết còn tin vào nơi chốn đó.
Hai Lúa, khi vớ được cuốn "Những lời hứa phải giữ, Promises To Keep" cuốn sách đầu tiên bằng tiếng Anh ở trong trại tị nạn, tình trạng chẳng khác Brodsky, khi mầy mò học tiếng Anh ở trong trại tù là quê hương của ông, và vớ được hai tập thơ. Nhờ nó, ông sau này viết văn làm thơ bằng tiếng Anh, được Nobel.
*
Trong "Những lời hứa phải giữ", là những kinh nghiệm về cái đói, về cá rô cây, về nước mắm lá chuối.... và chúng đều qui về một điều, chính cái giả mới cứu chuộc thế giới, chứ không phải cái đẹp!
*
Trong một kỳ trước, HL có kể về một số, gọi kỷ niệm cũng được, kinh nghiệm cũng được, của Hai Lúa. Kinh nghiệm lần đầu được ăn một củ khoai lang, đào trộm ngoài đồng, khi còn là một đứa con nít, ở một cái làng ở ven đê sông Hồng, nơi người lớn đun nước muối sôi rồi bỏ vào đó ít lá chuối khô cho nó ra mầu giả làm nước mắm. Lần đầu dùng vợt tóm được một con ốc nhồi, nằm dưới một cánh bèo trên ao, lôi lên bờ, nổi lửa lên thằng mắt lác, và, khi nghe con ốc xèo xèo, mùi thơm bốc lên, chẳng cần biết còn sống hay "còn" chín, bỏ ngay vô miệng!
Cái ao đó, vẫn là cái ao sau này, cô Hồng Con của Hai Lúa đã gục chết ở ngay bờ ao, chắc cũng đúng chỗ thằng bé bé tí mà đã biết mê gái ngày nào vớt lên được một con ốc nhồi!
*
Em còn nhớ Cô Hồng Con không?.... Bà chị hỏi thằng em sau hơn nửa thế kỷ xa cách.
Nhớ chứ. Sao không nhớ... Thế chị có còn nhớ, cái lần em đào trộm khoai, ăn ốc sống, lần câu được con cá chuối bị thằng lớn hơn cướp mất....
Ôi chao, bà chị nhớ hết, nhưng do chẳng hề được đọc "Những lời hứa phải giữ", có thể như vậy, cho nên, cái nhớ của bà chị và thằng em khác hẳn nhau.
*
Bà chị giải thích về cái chết của Cô Hồng Con.
-Lúc đó làng mình còn mê phong trào!
Phong trào tức là Cộng Sản? Mê phong trào là ăn phải bả Cộng Sản? Bà chị tính nói với thằng em như vậy?
Chắc thế!
Như ăn phải bả CS, như ông sau đây, mới ghê, mà vẫn tự giải độc được. Thế mới lại càng ghê!
*
Trong bài Tởm, Milosz nói về nỗi tởm lợm khi phải sống dưới chế độ cộng sản.
Trớ trêu thay, chủ nghĩa cộng sản chính là giấc mơ hoành tráng nhất, giấc đại mộng của nhân loại, về một con người hoàn toàn, về một thế giới hoàn toàn, không còn một chút tởm lợm.
Trong bài viết "George Steiner and the errata of history", [G. Steiner và sự lổi lầm, sai sót của lịch sử], nhà văn Mỹ, Cynthia Ozick nhắc tới một nhà văn nổi tiếng của Ý là Ignazio Silone. Ông này ngay từ khi còn trẻ tuổi đã ăn phải bùa mê cách mạng.
Chuyện xảy ra trong một cuộc động đất. Bà mẹ của ông bị chôn sống, chỉ ló có một cánh tay ra ngoài. Ông chú của ông, một người mà trước đó, luôn luôn là một mẫu mực đạo đức trong gia đình, đã cuỗm sạch của cải tiền bạc mà bà mẹ ông dành dụm được. Chứng kiến sự tởm lợm đó, ông gia nhập Đảng Cộng Sản, và suốt đời nhìn thấy tiền bạc là muốn mửa.
*
Chủ nghĩa Cộng Sản, như ước mơ của những người đã từng một lòng một dạ với nó, là làm sao cho Lịch Sử nhân loại không bao giờ còn, dù chỉ một "errata".
*
Nhưng, rốt cuộc, Silone đã thực hiện một cú ngoạn mục là rời Đảng [famously left the Party], và nói về nó: "Cái chuyện vờ mục đích cho phương tiện, chấp nhận hy sinh vì đảng, do cần thiết của lịch sử, ba trò này, theo tôi, là một thảm họa. Và con đường đi ra của tôi [My "way out"] đã dẫn tôi tới trại tập trung cải tạo."
Cá Rô Cây
*
Sự kiện mấy đấng nhà văn nhà thơ, trí thức hải ngoại hoặc đem những đứa con tinh thần về trong nước năn nỉ VC sờ mó, "edit", thì cứ nói mẹ nó ra, để xin được kiểm duyệt, hoặc thực hiện những chuyến đi tours văn học, giao lưu hòa giải, những tiểu hội nghị Diên Hồng về thơ, về thi sĩ...  Aron chỉ ra từ hồi “Diễm Xưa”, và ông coi đây là những "biểu hiện" về "Perversions intellectuelles", [Sự đồi bại trí thức]. (1)

Tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số tháng Bẩy & Tám 2007, đặc biệt về "La Bêtise" [Điều tầm bậy, sự ngu đần..], có trích đoạn một số nhận xét của ông về "Nghịch lý của chủ nghĩa Cộng Sản", về "Thuốc phiện của trí thức":
"Coi như là một giai đoạn giải phóng con người, một chế độ tạo ra những trại tập trung cải tạo, những tờ hộ khẩu, chứng minh nhân dân, tức những tờ thông hành chỉ để đi lại trong chính quê hương của họ, một hệ thống cảnh sát trị còn khốn kiếp hơn cả dưới thời đại vua chúa, như vậy là vượt quá giới hạn của sự ngu đần, tầm bậy, vậy mà về lâu về dài, mấy đấng trí thức cũng đành chấp nhận.”
Bởi thế, càng về lâu về dài, càng có thêm mấy ông thổi ống đu đủ. Thà chấp nhận sai lầm với Sartre còn hơn có lý với Aron. Thà chấp nhận VC, còn hơn chẳng có ai biết mình là thi sĩ! (1)
[Aron met en avant les « contradictions du communisme » : « Considérer comme une étape de la libération humaine un régime qui instaure les camps de concentration, les passeports intérieurs, une police politique de loin supérieure à celle des stars, c'est dépasser les limites de la sottise à la longue acceptable même pour un intellectuel. » Ce que condamne en réalité Aron, c'est moins l'adhésion consciente à une idéologie que la « perversion intellectuelle » qui conduit à maquiller la réalité et à tordre la rationalité qui est celle de la démarche d'observateur de l'historien. C'est donc moins l'aliénation de la raison dans une philosophie de l'histoire qui se trouve stigmatisée que la décision délibérée d'affranchir le raisonnement des conditions de la réalité et de se soumettre par là même au régime d'une philosophie qui se contente de refléter l'enchaînement nécessaire de la causalité historique. L'attaque est au centre de l’Opium des intellectuels, paru en 1955, qui valut à notre vie intellectuelle l'un de ses slogans les plus stupides affirmant qu'il valait mieux « avoir tort avec Sartre que raison avec Aron ».]

(1) Gấu "đặc biệt chú ý và nhấn mạnh", ở đây, những cuộc gặp gỡ giữa văn nghệ sĩ, trí thức, trong và ngoài nước, là rất cần thiết, nhưng phải xuất phát từ thiện ý, từ lương tri, không phải từ sự đồi bại.
*
Gấu đã từngkể, trường hợp một ông tị nạn, đi thanh lọc, và trình ra cả một đống thơ con cóc, mà ông gọi là thơ dân tộc, thơ về nguồn. Anh sinh viên người Thái, thẩm tra viên Cao Uỷ Tị Nạn về thanh lọc, kêu thông ngôn dịch, nghe đọc vài câu, ngạc nhiên quá, hỏi, thơ "thơ ngây" như thế này, đâu có Chống Cộng điên cuồng? Ông ta bèn dõng dạc phán, VC rất sợ thơ về nguồn, chúng đâu có nguồn? Anh sinh viên người Thái thấy chí lý quá, cho đậu thanh lọc!
Thảm một nỗi, sau đó, ông ta đi đâu cũng vỗ ngực xưng tên, tớ là thi sĩ, có ai hỏi, ông trả lời, thì Cao Uỷ Tị Nạn chẳng đã xác nhận chuyện đó sao?
*
Gấu sợ rằng, mấy ông mang củi về rừng, là cũng nghĩa đó!
Nghĩa là, chỉ mong được VC sờ khúc củi một phát, rồi phán, còn tốt chán, nhưng đường bắn hơi lệch, để nắn lại một tí, cho đúng luồng, cho có tí sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là OK, là đóng dấu, (1) chứng nhận, mi là nhà văn "hai con dấu", một hải ngoại, một trong nước!
Con dấu hải ngoại thì như "bạn ta" phán, cứ bỏ tiền túi ra in sách, rồi ra mắt sách, rồi biếu sách, rồi tự đóng dấu cho mình là nhà văn lưu vong! (2)
Trong nước mới khó. Nghe nói, muốn vô Hội Nhà Văn, là phải có hai bố già đỡ đầu.
Đâu có dễ.
(1) Không hiểu có giống như đóng dấu bò trong những phim cao bồi Mẽo?
(2) Tôi không bao giờ là một nhà văn lưu vong. Tôi là một nhà văn VN sinh sống tại Mỹ do hoàn cảnh riêng của gia đình. Tôi biết rằng có một vài người tại Mỹ tự bỏ tiền ra in tác phẩm của mình rồi tự xưng là nhà văn lưu vong... Nhưng tôi đã và vẫn sẽ là một người VN.
Nguồn
*
Cái tay thi sĩ, tác giả "thư thi sĩ" trên talawas, là một người, có một thời, rất thân quen với Gấu, ở ngoài đời. Gấu gặp ông lần thứ nhất, khi mới từ trại tị nạn qua, còn ông thì từ một bang khác chuyển về, trong bữa tiệc tất niên, có sự hiện diện của ông nhà văn họ Nguyễn, sau kiêm thêm nghề MC, cũng dân Sơn Tây như Gấu.
Ông giới thiệu cả hai, tuy không ngồi chung bàn, với cộng đồng. Sau đó, có một đêm, thi sĩ ghé building Gấu ở, trong một căn hộ tít trên thượng tầng, ngó ra ngoài trời đầy sao, là cả một vùng trời sáng rực của thành phố, ngủ lại, và cả hai uống rượu, nói về thơ, suốt đêm, tới sáng.
Đó là thời gian Gấu tính bye bye văn chương, chuyên làm một anh bán bảo hiểm. Và đêm hôm đó, là đêm từ giã những con chữ. Cảm khái lắm. Đau thương lắm.
Hoá ra là đêm đó, có tới hai thằng từ giã thơ!
Không hiểu, sau khi đọc những gì mới đây Gấu viết, ông còn tí thiện cảm nào dành cho Gấu không.
Nhưng, như Gấu đã từng viết, về câu cách ngôn Tầu mà Brodsky rất khoái, bệ lên đầu một bài essay của ông: Cứ kiên trì ngồi bên bờ sông, là có ngày nhìn thấy xác kẻ thù trôi qua.
Tất cả chỉ là cơ duyên. Hết duyên thì tới nợ. Vậy thôi.
Câu cách ngôn Tầu này rất làm phiền Gấu, trong nhiều năm, cả thời gian chưa từng biết đến nó, và làm Gấu nhớ đến một câu chuyện hồi học tiểu học, về một chàng bị một anh nhà giầu, quyền thế chọi cho một cục gạch chảy máu đầu, tức quá, nhưng không dám chọi lại, bèn cất cục gạch, nhủ thầm, tao cất đây, thể nào cũng có ngày chọi lại được. Khi có cơ hội chọi thì mới ngộ ra rằng thì là, bi giờ, kẻ thù đã xuống chó, mà còn chọi nó, thì khốn nạn quá, hèn quá. Thế là bèn quăng cục gạch đi, và cảm thấy cái sẹo ngày nào ở trên đầu cũng lành lặn hẳn!
*
Gấu nghĩ, hình ảnh thấy xác kẻ thù trôi qua, là phải hiểu theo nghĩa, thấy cái sẹo ngày nào lành lặn hẳn. Không còn hơi bị được "dễ tổn thương"," nhậy cảm". (1)
(1) "Tôi quên mất tâm lý dễ bị tổn thương ở một vài người." [Nguồn talawas].
Trường hợp ông này, phải nói là, "dễ bị trọng thương" thì mới đúng cách văn phạm! NQT
*
Tuy nhiên, chỉ đến khi gặp được "cơ duyên", tắm sông Chín Con Rồng, chẩy qua xứ Phật, mà phải tắm ở dưới chân ngôi chùa Long Vân ở Parksé, trên còn đường chạy trốn quê hương, thì Gấu mới ngộ ra rằng thì là, xác kẻ thù trôi qua kia, chính là xác của mình, và đây là cái cảnh tương tự như Tam Tạng thỉnh kinh, té đánh ùm xuống dòng sông cuối cùng, [trong ba dòng sông, có dòng sông Hồng ngày nào, Gấu đã từng tắm ngay tại khúc Ngã Ba Việt Trì, nơi ông bố bị một đấng học trò làm thịt, đá cái xác xuống sông kèm cục đá], lóp ngóp bò lên được cái bè, và nhìn thấy xác của chính mình, đang bye bye mình, và tà tà trôi về miền hư vô, vĩnh cửu!
Đây không phải Gấu phịa ra, nhưng chính ông cậu, Cậu Toàn, em bà cụ Gấu, phán, khi cậu cháu gặp lại, ở Hà Nội, sau hơn nửa thế kỷ xa cách. Ông gật gù, cháu may lắm, nhờ qua được đất Phật mà được đổi kiếp!
*
Chính thời gian từ bỏ văn chương, "bằng lòng làm" một tay bán bảo hiểm nhân thọ, mà Gấu có được kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn của mình, thế mới thực là thú vị, thực là đẹp, mới thực là ly kỳ.
[Xin xem tiếp bên Gấu, nhà văn. Kỷ niệm đẹp như thế này, mà post ở đây, sợ "xấu" đi chăng]

.... Mà mê là đúng, vì họ lớn quá. Sang trọng. Tôi thiết nghĩ các nhà văn gốc miền Nam và ở hải ngoại nên tìm đọc thêm về văn học và lý luận văn học Nga. Biết bao nhiêu điều để học, sao cứ đọc hoài Frost với lại Faulkner?
*
...Tôi quên mất tâm lý dễ bị tổn thương ở một vài người. Đối với các vị này, tôi xin lỗi và rút lại “lời khuyên” của mình. Thực chất đó chỉ là một lời khen được viết khác đi, dành cho Likhachev và La Thành, trong lúc cao hứng. Còn nếu là một lời khuyên thật sự, thì nó chỉ dành cho một người mà thôi. Đó chính là tôi, vốn không biết gì về văn học Nga nên rất sợ nó.
Nguồn talawas.
*
Hỗn như Gấu, mà chưa hề dám đưa ra một "lời khuyên" bất cứ ai, đừng nói, cả một nền văn học của Miền Nam trước đây, và hải ngoại hiện nay.
Tâm lý dễ bị tổn thương?
Ông phán ẩu, khiến Gấu, và người khác sau đó [ông/bà Lâm Vũ, chẳng hạn] phải lên tiếng. Ông lại phản pháo kiểu này, thì nhảm thật.
Ai là người tâm lý dễ bị tổn thương ở đây? Không lẽ Gấu, và ông/ bà Lâm Vũ?
Ông phán chắc nịch về văn học Nga [... mà mê là đúng, vì họ lớn quá. Sang trọng], sau đó, ông khuyên cả một lũ nhà văn gốc Miền Nam và ở hải ngoại... , ông còn hài tội họ, "Tại sao cứ đọc hoài...", vậy mà sau đó, ông lại thú nhận là chẳng biết gì về văn học Nga, nên rất sợ nó?
Viết lách như thế, mà dám đem chuông hải ngoại về đấm "xứ mình", thì đúng là gan cùng mình.
*
Trong thư đầu, trên talawas, phản ứng bài viết của ông thi sĩ, Lâm Vũ đã nói ra, cái sự mê văn học Nga của Miền Nam không có mắc mớ gì đến chính trị. Đúng như thế, và còn hơn thế nữa, theo tôi. Miền Nam mê văn học Nga, không phải cái kiểu mê văn học của bất cứ nước nào trên thế giới, mà còn coi đây như là một cơ may để thay đổi hẳn nội dung lẫn hình thức văn chương Việt Nam.
Điều này thật hiển nhiên, trong những cuộc họp bàn tròn văn học của nhóm Sáng Tạo, trong những nhận xét của Thanh Tâm Tuyền về những nhân vật của Dostoevsky, thí dụ. Sau Sáng Tạo, tới nhóm "tiểu thuyết mới" tại Miền Nam, thì cứ gọi đại như vậy. Nhóm này học được từ tiểu thuyết mới Pháp, điều quan trọng này: Tách hẳn văn chương ra khỏi ý thức hệ. Coi nó như là một hệ thống ngôn ngữ. (1) Tiểu thuyết mới của Pháp, qua "phát ngôn viên" của nó, Roland Barthes, như nhiều người biết, ảnh hưởng chủ thuyết hình thức, Formalism của Nga, một trong những ông thầy của nó là Roman Jakobson.
(1) C'est à ce moment même que la Littérature (le mot est né peu de temps avant) a été consacrée définitivement comme un objet. L'art classique ne pouvait se sentir comme un langage, il était langage, c'est-à-dire transparence, circulation sans dépôt, concours idéal d'un Esprit universel et d'un signe décoratif sans épaisseur et sans responsabilité; la clôture de ce langage était sociale et non de nature. On sait que vers la fin du XVIIIe siècle, cette transparence vient à se troubler; la forme littéraire développe un pouvoir second, indépendant de son économie et de son euphémie; elle fascine, elle dépayse, elle enchante, elle a un poids; on ne sent plus la Littérature comme un mode de circulation socialement privilégié, mais comme un langage consistant, profond, plein de secrets, donné à la fois comme rêve et comme menace.
[Chính lúc đó, Văn học (từ này mới được sinh ra trước đấy ít lâu) thực sự được công nhận là một khách thể. Nghệ thuật cổ điển không thể tự nhận ra mình là một hành ngôn, nó đã là  hành ngôn rồi, nghĩa là trong suốt, trôi tuột, thích ứng lý tưởng giữa một tinh thần toàn thể với một ký hiệu trang trí không có chiều dày và phi trách nhiệm; giới vi của hành ngôn đó mang tính xã hội chứ không phải có tính nguyên lai. Ta biết rằng đến cuối thế kỷ mười tám, sự trong suốt đó trở nên vẩn đục; hình thức văn học khai triển một quyền năng khác, độc lập đối với cấu trúc của nó và với lối uyển ngữ của nó, nó quyến rũ, nó mê hoặc, nó khích động, nó mang một trọng lượng; người ta không còn cảm nhận Văn học như một phương tiện truyền lưu ưu việt về mặt xã hội, mà như một hành ngôn đặc dính, sâu thẳm, đầy bí ẩn, được ban phú cho ta vừa như một giấc mơ vừa như một đe dọa.]
Roland Barthes: Không độ của cách viết. Nguyên Ngọc dịch Nguồn
on ne sent plus la Littérature comme un mode de circulation socialement privilégié, mais comme un langage consistant, profond, plein de secrets, donné à la fois comme rêve et comme menace: người ta không còn cảm nhận Văn học, như là một cách thức lưu thông trong xã hội được ưu tiên, có đặc quyền so với cách thức, phương tiện lưu thông khác, nhưng mà là một ngôn ngữ đậm đặc, sâu thẳm, đầy bí ẩn, nó, ngôn ngữ đó, đến với con người, vừa như một giấc mơ, vừa như một đe dọa.
*

LE CHOIX DES MOTS DE MINUIT par Philippe Lefait

     « Un an loin des parents et l'expérience de la vie grandit d'un empan. Quand elle atteint la taille d'un arbre qui pousse sur les cimes des montagnes, alors on peut dire qu'on connaît la vie. » Itinéraire d'enfance, le dernier livre traduit en français de Duong Thu Huong est un roman de formation dans le Vietnam de 1985, marqué par la résistance contre le colon français et englué dans des pesanteurs idéologiques et partisanes qui font exclure de sa classe une gamine qui ignore encore que vérité et « autocritique » sont antagonistes. Rebelle, celle-ci décide, avec son amie Loan Graine -de-jacquier, de partir retrouver son père, garde-frontière depuis des années aux confins de la Chine. Itinéraire d'enfance décrit ce voyage sans le sou, les rencontres et l'apprentissage qu'il permet, l'évidence d'une filiation. C'est aussi un documentaire ethnologique où l'on apprend, par exemple, les secrets de fabrication de la gélatine de tigre ou l'art d'accommoder le cochon.
    La simplicité du style fait sa fluidité. C'est une écriture qui prend par la main. Il y a les  odeurs, les paysages, presque un conte sur le désir que la réalité fracasse. Duong Thu Huong a poétisé la révolution, adhéré au parti communiste avant de préférer les droits de l'homme. « Si je veux cracher sur le pouvoir, je n'ai pas le droit de craindre », dit celle qui a dénoncé la dérive, été exclue en 1990 de l'Union des écrivains vietnamiens, a connu la prison et une résidence surveillée. Ses livres ont été interdits. Elle est désormais publiée en France, où elle vit depuis la publication l'an dernier chez Sabine Wespieser du puissant Terre des oublis. À 60 ans, elle voit sa destinée comme celle d'un animal douloureux condamné à souffrir. « La nostalgie de mon pays me ronge, mais j'ai la liberté. “.

   * Itinéraire d'enfance
   Duong Thu Huong
   Trad. du vietnamien par Phuong Dang Tran
   Éd. Sabine Wespieser, 380 p., 24 €.
Tờ Văn Học Pháp, tháng Bẩy & Tám 2007 giới thiệu Hành Trình Ngày Thời Thơ Ấu, bản tiếng Pháp, của Dương Thu Hương.

*
"Một năm xa bố mẹ và kinh nghiệm cuộc đời làm lớn lên một cô bé chỉ bằng một gang tay. Tới khi trở thành một cái cây ở đỉnh núi, thì cô có thể nói, cô hiểu cuộc đời"...
Tới 60, thì nhìn ra phần số của mình, con vật bi thương bị kết án phải đau khổ.
"Nỗi nhớ quê hương gậm nhấm tôi, nhưng tôi có tự do." Bà nói.
*

Aux couleurs de la liberté
Le récit d'une rébellion par la Vietnamienne DuongThu Huong : une leçon de liberté et de résistance.
   Parce qu'elle se bat farouchement pour la démocratie et qu'elle écrit des romans qui mordent, Duong Thu Huong est la bête noire des autorités vietnamiennes. Et pourtant cette mère Courage a largement payé son tribut de patriotisme : mobilisée à 20 ans dans la résistance antiaméricaine, elle a organisé pour les soldats des spectacles itinérants sous les bombes ennemies, avant d'entrer au Parti communiste, de s'en faire exclure « pour indiscipline » et de prendre les chemins de la dissidence en exhortant les intellectuels à ne pas courber l'échiné. Un combat qui lui a coûté cher : emprisonnée pendant huit mois en 1991, elle fut ensuite condamnée à un long exil intérieur dans un pays qu'elle a fini par quitter pour se réfugier en France, en janvier 2006.
  Des Paradis aveugles à Terre des oublis, l'oeuvre de Duong Thu Huong éclaire la dimension tragique de la condition vietnamienne, sur fond de servitude politique. Avec Itinéraire d'enfance, nous découvrons un des premiers livres de la
 tigresse de Hanoi : écrit en 1985, ce récit semble tristement prémonitoire, car c'est  l'histoire d'une rébellion. Bê, l'héroïne,
 est une écolière-modèle qui ne supporte pas les harcèlements sournois de son professeur de gymnastique. Et, parce
 qu'elle ose se révolter, elle est renvoyée du lycée avant de prendre le large avec sa copine Loan. C'est leur fugue à travers le Vietnam des années 1960 que retrace Duong Thu Huong, dans un roman initiatique qui a la saveur d'un conte de fées : escortées par deux anges gardiens - le vieux Môc et Dung le maigrichon - nos routardes célestes finiront par oublier leurs tourments, poussées vers les lointains par des vents rédempteurs...
Éloge du vagabondage, plaidoyer pour la résistance, cet Itinéraire d'enfance est un bonheur : une cure d'exotisme, dans un pays que Duong Thu Huong a repeint aux couleurs de la libété.
Báo Đọc, Lire, số mùa hè [Tháng Bẩy & Tám, 2007] giới thiệu Hành Trình Ngày Thơ Ấu của Dương Thu Hương
Bởi vì Bà chiến đấu dữ dằn cho dân chủ, cho nên những tác phẩm của Bà ngoạm những cú thật là điên cuồng. Đây đúng là con vật đen, đối với đám VC. Tuy nhiên, Bà Mẹ Đảm này, cũng đã trả một cái giá thật là hậu hĩ, cho chủ nghĩa ái quốc của Bà.
*
Ở Miền Bắc, nói là mê, là rành văn học Nga, nhưng theo tôi, họ chỉ du nhập cái phần khốn nạn nhất của văn học Nga, là chủ thuyết văn học yêu nước, sự thực, văn học phục vụ chế độ Stalin. Sau "Thép đã tôi thế đấy" tới "Đường ra trận mùa này đẹp lắm", là qui luật, là tất yếu, là biện chứng. Đây là một tội ác đối với cả hai miền đất nước. Nếu không bị nhồi sọ văn chương "vệ quốc", ở Nga, áp dụng thông minh và thiên tài thành "ăn cướp", vào Việt Nam, chắc gì đã xẩy ra cuộc nội chiến Nam Bắc. Hoặc xẩy ra, cũng không đến mức khốc liệt như vậy. Trong ba lô ông Yankee xẻ dọc Trường Sơn nào mà chẳng có "Thép đã tôi thế đấy", thơ Mai a kốp ky, Tố Hữu, thơ có thép....
Nhìn như thế, là thấy rõ, cái cốt lõi của văn chương hai miền. Một bên, áp dụng văn học Nga vào cuộc chiến, như là một thứ vũ khí "tối hảo", nhằm đạt tối đa hiệu quả cho chân lý "nước Việt Nam là một", (1), còn một bên, coi văn chương Nga, như đó mà một cơ may, một phương tiện, hay một đường hướng để thay đổi hẳn dòng văn chương Việt Nam, sao cho nhập vào dòng văn học thế giới. Viễn mơ, đám VC nằm vùng như LP đã từng chửi.
(1) Duong Thu Huong a poétisé la révolution, adhéré au parti communiste avant de préférer les droits de l'homme.
Dương Thu Hương đã thi hóa cuộc cách mạng, gia nhập Đảng Cộng Sản trước khi tung hê tất cả, và chọn nhân quyền. Báo Pháp viết về bà, đã dẫn.
Vậy mà ông thi sĩ lại khuyên cả lũ nhà văn Miền Nam và hải ngoại nên học tập trong nước!
*
*

Nếu, chủ nghĩa Cộng sản là một sự sỉ nhục trí thông minh con người, thì cái ngu si, tầm bậy, la bêtise, của nó, giống như sợi chỉ đỏ, xuyên suốt tác phẩm của Raymond Aron. Tiếp theo những nghiên cứu của Élie Halévy về bản chất của những chủ nghĩa toàn trị và sự yếu hèn của dân chủ, Aron nắm lấy đề tài này, ngay từ năm 1937, trong một viết về chính trị kinh tế của Mặt trận bình dân. Áp dụng vào giới trí thức, trong một bài viết trên tờ Le Figaro, vào năm 1948, Aron đề ra, "sự nghịch lý của chủ nghĩa Cộng Sản": "Coi như giai đoạn giải phóng con người, một chế độ tạo ra những trại tập trung cải tạo, những tờ hộ khẩu, chứng minh nhân dân, tức những tờ thông hành chỉ để đi lại trong chính quê hương của họ, một hệ thống cảnh sát trị còn khốn kiếp hơn cả dưới thời đại vua chúa, như vậy là vượt quá giới hạn của sự ngu đần, vậy mà về lâu về dài, mấy đấng trí thức cũng đành chấp nhận.”
Điều mà Aron kết án, thực ra, 'nhẹ' về phần đồng ý gật đầu chấp nhận, tham gia vào ý thức hệ [Cộng sản], nhưng 'nặng', về phần mà ông gọi là sự "đồi bại trí thức". Chính sự đồi bại trí thức đã đưa đến hóa trang [maquiller] thực tại, đánh bóng mạ kền, bôi son đánh phấn cho nó, và vặn vẹo, bóp méo tính hợp lý, nhờ nó mà một sử gia theo dõi bước đi của lịch sử. Cú phạng này của ông, là trung tâm tác phẩm Thuốc phiện của trí thức dữ dằn, nhức nhối đến nỗi, đám trí thức lầu bầu, thà lầm với Sartre còn hơn có lý với Aron.
*
Nhờ cái link của talawas mà tôi cũng đọc được bài “Hồ Anh Thái có sợ giải thiêng?” trênVietNamNet  nói về tác phẩm Đức Phật, nàng Savitri và tôi. Cuốn này có trích đăng trên talawas chủ nhật, tôi chưa kịp đọc, nhưng Hồ Anh Thái thì tôi có đọc qua một hai cuốn khác vì bạn bè khuyên. Tôi cũng chưa đọc Phạm Xuân Thạch bao giờ, không biết ông có ký tên nào khác không, hay chỉ vì tôi ít đọc các nhà văn trong nước. Bài của ông làm tôi ngạc nhiên quá: tôi lấy làm mừng cho nền phê bình văn học Việt Nam. Ít ra cũng phải có những bài review mạnh mẽ, thuyết phục, khen chê rõ ràng như vậy. Thường thì các nhà phê bình Việt Nam chỉ khen các nhà văn nhà thơ chứ không chỉ ra được cho họ các khuyết điểm nghệ thuật cần tránh.
Nguồn talawas

Câu văn trên có ba tầng.
1. Về Hồ Anh Thái. Ông này là đại quan VC, cho nên không có chuyện "xoa đầu" ở đây, mà là "khấu đầu": Thằng em tuy "chưa kịp đọc" cuốn mới nhất của đàn anh, nhưng đã được nghe đại danh, và đã "đọc qua" một hai cuốn khác, vì một số bè bạn "khuyên".
2. Phạm Xuân Thạch? Tay này lạ quá, có thể là một đại quan, cũng nên, hoặc nick của một tay có nanh có sừng nào chăng? Thôi cứ đi một đường nhún mình, cho chắc ăn, "chỉ vì tôi ít đọc các nhà văn trong nước". Tuy nhiên, cũng phải cho họ biết ta đây "đọc nhiều", văn chương trong nước, chứ không phải là "ít đọc": "Bài của ông làm tôi ngạc nhiên quá, tôi lấy làm mừng..."
3. "Thường thì..." : Câu này là trở về lại vị trí ông tiên chỉ hải ngoại.
Aron phán, sự đồi bại trí thức, là vậy.
Ôi chao, thà lầm chạy về trong nước, với VC, còn hơn có lý, với thằng cha Gấu!
*
Trong những người đau lòng nhất, về cái tội, làm mất Miền Nam, theo Gấu, có lẽ là... PXA.
Ông là người có công đầu trong việc làm "thất đức, trời không dung đất không tha" này, khi đánh cái điện tín bất hủ, vô lẹ lên, Yankee mũi lõ "hoàng hạc nhất khứ bất phục phản", một lần cút là muôn đời không trở lại. Chính vì thế mà những giờ phút cuối cùng của ông mới đau đớn như vậy. Một độc giả Tin Văn, do kính trọng những giờ cuối cùng của bất cứ một con người, đã 'ra lệnh' cho Gấu, đừng viết gì về ông ta nữa. Tuy nhiên, nếu không viết ra, thì chắc chẳng có ai hiểu được nỗi lòng của ông: Bồi Mẽo hiểu bồi Mẽo. Trời đã sinh Du [Gấu] sao còn sinh... Lượng [PXA] ?
PXA, có tới hai chiến công hiển hách, một là bức điện chấm dứt cuộc chiến, và một, xin tiền bạn bè phóng viên Mẽo cũ ngày nào, để cho lo cho con đi học.
Đây là hành động nhục nhã nhất, và ông biết, chỉ có cách đó, mới xóa đi được một phần nào cái tội đánh lừa bè bạn của ông. Đám bè bạn, bị PXA xỏ mũi, không có cách chi để trả hận, cho đến khi đọc bức điện cầu cứu của ông.
Thành thử độc giả tờ Người Nữu Ước chửi đám báo chí Mẽo, [xin coi Scan 10 11 11_b] là không hiểu được nội vụ. Chỉ mất có 32 ngàn đô, mà rửa được cái nhục bị lừa là quá rẻ, đối với đám bạn cũ của ông, theo Gấu.
Người Việt nói, đánh kẻ chạy đi, mà không đánh kẻ chạy lại, là cũng theo nghĩa đó.
*
Thay vì viết về bạn, thì viết về thế giới của bạn. Cũng là một cách tưởng niệm bạn.
Một trong những cuốn hậu-James Bond, tức những cuốn của những tác giả viết tiếp Ian Fleming, có một cuốn, Gấu đọc những ngày ở Trại Cấm Thái Lan, thật là tuyệt vời, có khi còn hay hơn cả James Bond chính hiệu.
James Bond: Tiểu sử "không được phép", [The Unauthorized Biography].

Cuốn này bắt đầu khi James Bond mới ra trường, được gửi tới Paris, khi thành phố này bị Nazi chiếm đóng. "Partner" của anh, là một người đẹp số 1, vũ nữ số 1, và là người tình của một ông SS số 1.
Trai tài gái sắc, đồng nghiệp điệp viên phục vụ nữ hoàng, làm sao không quấn quít mí nhau.
Đùng một cái, James Bond được lệnh cấp trên: Phải làm thịt em, vì là gián điệp hai mang, có cơ nguy em bán đứng tất cả màng lưới MI ở Pháp.
Đau quá, tuyệt vọng quá, bữa đó, đúng sinh nhật nàng, chàng quyết định cùng chết.
Paris phóng 'solex' như bay, [Nhại thơ Nguyên Sa: Sài Gòn phóng solex như bay], chàng lấy xế hộp ăn mặc như ông Hoàng, và phóng xe như bay, bay luôn xuống sông Seine, cùng người đẹp.
Người đẹp chết, nhưng chàng không chết.
Và chàng tự nhủ, cuộc đời còn lại, là thừa.
Thí cho nữ hoàng!
*
Gấu cứ nhớ cái đoạn bạn ta đi học ở Mẽo, mê một em, hoặc em Mẽo mê, nhưng tổ quốc réo gọi, về.
Và, bạn ta, 'cẩm' [comme] như James Bond:
Tổ quốc Xạo Hết Chỗ Nói kia ơi! Thí cho mi, cái mạng cùi này!

Ẩn hả, nhớ chứ.
*
Trong một lần lèm bèm về ông bạn Cao Bồi, người đã đánh bức mật điện cho Bắc Bộ Phủ, hối, "Vô lẹ lên mà chiếm Miền Nam", Gấu tui có đưa ra giả dụ, nếu như Cao Bồi biết, sẽ xẩy ra những vụ Lò Cải Tạo, Lò Kinh Tế Mới, liệu anh có vứt bức điện vào thùng rác của lịch sử.
Kỳ cục thay, đây chính là vấn đề mấy ông quân sư quạt mo của Ngũ Giác Đài, thí dụ như Douglas J. Feith, gặp phải, qua bài viết trên tờ Người Nữu Ước (1), liên quan tới ông ta, và cuộc chiến Iraq.
Và câu trả lời, của Feith, thay cho Cao Bồi, là: Biết đúng sẽ xẩy ra y chang như vậy, vẫn đánh bức điện.
Gấu tôi tin rằng Cao Bồi, tuy không chắc chắn, nhưng... biết: Ba mươi năm ta mới gặp nhau, vui sao nước mắt lại trào?
(1) Jeffery Goldberg: A little learning. What Douglas Feith knew, and when he knew it.
The New Yorker số đề ngày 9 Tháng Năm 2005
Nhật Ký
Điệp viên tuyệt hảo

Cái tít
Điệp Viên Tuyệt Hảo, Perfect Spy, của một cuốn sách mới ra lò, ở Mẽo, về PXA, là từ A Perfect Spy của John Le Carré.
Độc giả nào đã đọc qua cuốn trên, thì chắc là hiểu ra cái ý nghĩa xỏ lá của nó. Tay điệp viên tuyệt hảo của Le Carré, suốt đời thù ông bố của mình, [là Anh Quốc, chúng ta có thể hiểu ngầm], vì ông này đã đẩy con vô cái nghề khốn nạn đó [ngoài đời, ông bố Le Carré còn là một tên lừa đảo, có lần mượn cả tên con để lường gạt người quen. Trên tờ Người Nữu Ước, Le Carré có viết về chuyện này, nếu Gấu nhớ không lầm].
Gấu sợ rằng, tay tác giả cuốn sách mới ra lò về PXA, cũng muốn nói thay cho nhân vật của mình, cái ý nghĩ thầm kín đó chăng?
Chắc chắn, ông này phải đọc Le Carré, và phải biết đến cái tít Một Điệp Viên Tuyệt Hảo.
*
Trang đầu cuốn A Perfect Spy của Le Carré, là câu đề từ:
Một người đàn ông có hai người đàn bà thì mất linh hồn.
Nhưng một người đàn ông có hai cái nhà thì mất mẹ cái đầu của anh ta.
A man who has two women loses his soul.
But a man who has two houses loses hid head.
Proverb
*
He has been a perfect spy, but at the cost of his soul.

Anh ta là điệp viên tuyệt hảo, nhưng phải trả giá bằng linh hồn của  mình.
Wikipedia
*
Nên nhớ PXA cũng là một thứ Bắc Kỳ di cư như Gấu, từ mấy đời, và biết đâu, ông cũng đau nỗi đau Yankee mũi tẹt thèm thuồng thiên đàng Miền Nam, như Gấu?
Nên nhớ, [lại nên nhớ], những giây phút sắp lìa đời của "bạn hiền" Cao Bồi của Gấu.
Điều gì làm ông không thể nào thảnh thơi ra đi?
Perfect Spy
*
Trong Thuốc phiện của trí thức, 1955, Raymond Aron phạng đám trí thức 'Cộng sản nặng mùi triết", "philo-communistes", là đã dẫm phải cứt Merleau-Ponty, ở trong "Chủ nghĩa nhân bản và khủng bố", nhập nhằng giữa dân chủ Tây Phương và cộng sản Xô Viết.  Sai lầm tệ hại nhất của họ, không phải do nhầm lẫn giữa vị trí của một nhà đạo đức, với của một nhà sử học [La pire de leurs erreurs n'est pas de confondre la position du moraliste et celle de l'historien], cũng không phải do xây dựng chủ nghĩa Mác xít, như một tiêu chuẩn siêu lịch sử, [ériger le marxisme en critère supra-historique], nhưng mà là do hệ thống lý luận của chính họ thiếu luận lý, ngoài ra, còn cố tìm một lối diễn tả tư duy lịch sử, từ một triết học đặt nền tảng trên cá nhân con người, tức chủ nghĩa hiện sinh. Sự ngu si, la bêtise, theo Aron, không mắc mớ gì tới vô tri, l'ignorance, hay hữu tri, la raison, nhưng, phải coi đây là sự phản bội, la trahison, của tầng lớp trí thức. Họ đã từ chối vai trò của họ, từ chối thoả mãn những đòi hỏi của lý lẽ phê bình, la raison critique, trở thành một kẻ bất trung, với nhiệm vụ của người trí thức.
*
Một trong những tác giả Nga, Miền Bắc rất mê, là Sholokhov, với những Sông Đông êm đềm, Vỡ đất hoang. Nhưng ông này là nhà văn chôm chĩa. Trường hợp tay này rất giống như J.H. Chase tưởng tượng ra, trong cuốn Eva. Trong cuốn truyện của Chase, cô con gái nhà xb, mê anh chàng nhà văn chôm chĩa liền tù tì, ngay khi đọc bản thảo. Lấy nhau rồi, cô bắt đầu ngỡ ngàng, một người viết một cuốn sách như thế, không thể sống như thế. Rồi những cuốn sau của anh chồng cho cô thấy, có một quãng cách rất xa, giữa cuốn đầu, và những cuốn sau. Trường hợp Sholokhov, chỉ đến khi Solzhenitsyn la toáng lên, thì người ta mới nhận ra điều hiển nhiên này.
Thú thực, sau 1975, đọc Sông Đông êm đềm, Gấu mê quá, đọc tới Vỡ Đất Hoang, vẫn mê, không bằng cuốn đầu, nhưng không nhận ra sự khác biệt giữa chúng, nếu có chăng, thì là thật mơ hồ, như thế này, Vỡ Đất Hoang tròn trịa quá, trong khi Sông Đông dữ dằn hơn, phức tạp hơn nhiều. Tuy nhiên, đây là do chiều dài hai cuốn, và cuộc chiến ở trong Sông Đông, đúng hơn.

Cho đến những ngày này, Miền Bắc trước đây, và cả nước bây giờ, vẫn chưa được biết đến, để mà trầm trồ kinh ngạc, khấu đầu ngưỡng mộ, cái lớn lao, cái chất người, cái chất sử thi của văn học Nga. Họ đâu được đọc những mảng văn chương dưới hầm, samidzat, lưu vong của Nga.
Ngay Brodsky, trong nước cũng chỉ được đọc cái phần bị cắt xén, và như thế, là đối xử "không đúng" với ông. Chúng ta cứ thử tưởng tượng một độc giả chưa từng đọc ông, kỳ vọng ở ông như thế nào, qua truyền thuyết, qua giai thoại, thí dụ, nhưng khi đọc, bản bị nhà nước VC, và ngay chính dịch giả, vì sợ hãi, vì muốn lấy điểm, thiến, ngụy tạo, hoặc hóa trang... sẽ thất vọng cỡ nào! (1)
(1) Tin Văn đã từng chỉ ra, một dịch giả đã cho Brodsky cầm súng AK, xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, tiêu diệt không biết bao nhiêu là Mỹ Ngụy!
*
Nhân chuyện nói không với cuộc chiến, và nhân đọc thơ Brodsky (1940-1996), do Hoàng Ngọc Biên dịch, đăng trên Tiền Vệ, Gấu tôi xin ghi ra đây.
Odysseus nói với Telemachus
Telemachus con yêu của ta,
                                               Cuộc chiến thành Troy
giờ đây đã kết thúc; ta không còn nhớ ai đã thắng trận.
Người Hy lạp, hẳn thế, bởi cho đến nay chỉ có họ mới có thể
đánh gục được nhiều người đến vậy khi xa quê hương mình. (1)
[HNB dịch]
(1) Có thể, bây giờ, đã được sửa lại. NQT
*
Bản tiếng Anh [Brodsky: Collected Poems in English]
My dear Telemachus,
              The Trojan war
is over now; I don't recall who won it.
The Greeks, no doubt, for only they would leave
so many dead so far from their own homeland.

Câu trên, ông bố nói với thằng con, ta đếch thèm nhớ, ai thắng trận.
Câu dưới, ông bố quả quyết, chắc chắn mấy thằng... VC, ấy chết xin lỗi, mấy thằng Hy Lạp, bởi vì chỉ chúng nó mới dám đi xa quê hương của chính chúng nó.
Nhưng Brodsky viết, họ "để lại nhiều xác chết", chứ không phải "đánh gục nhiều người".
Nhà thơ không hề phân biệt, giữa rất nhiều xác chết đó, cái nào được coi là... liệt sĩ, cái nào bị coi là... Ngụy. (1)
Nhật Ký

Văn học Nga lớn quá, sang trọng quá.
Tờ Granta chơi một số đặc biệt về Nga. Russia: The Wild East  [Granta  số Mùa Đông 1998].
Sau đây là bài Dẫn nhập.
INTRODUCTION
Russia is the largest country in the world—a sixth of its land mass—with a record of upheaval, terror and bloodshed unparalleled in this century. First, the revolution of 1905, bloodily suppressed; then the revolution of 1917, bloodily won; then Stalinism, with millions killed in its forced migrations, exterminations and prison camps; and (concurrent with the last) invasion by Germany and a war in which upwards of twenty million Soviet citizens died. Finally, after decades of sacrifice which turn the Soviet Union into a military rival of the United States, acknowledgement that it has all been for nothing, that capitalism and liberal democracy have won; and with their victory comes the shredding of a state, an empire, a way of living and thinking—and pre-revolutionary levels of social inequity. To be a Russian old enough to have lived through most of this is to know extremes of hardship and disillusion that other people, at least in other industrialized nations (even Germany), can barely imagine. As Anatol Lieven writes in his new book on the recent Chechen war, Chechnya: Tombstone of Russian Power: 'To most of its inhabitants the Soviet Union was more than just a civilization, or a warped version of modernity. It was indeed a world, the only one they knew, and—according to its founders and mentors—the greatest of all worlds, the summit of human history, knowledge and achievement.'
'Reform' is the word that the West has attached, optimistically, to Russia's new condition, in which taxes and wages go unpaid, gross domestic product and life-expectancy decline, the rouble crashes and inflation (in 1998) runs at 200 per cent; where fear of the state and its laws has been replaced by corruption, crime and ruthless self-interest—'bandit capitalism'. These are, as Lieven writes, not so much unfortunate by-products of 'reform' as the phenomena at the very heart of it. If the Russian people were not so soured, confused and exhausted by their experience of ideology, one might be tempted to say that, once again, they looked ripe for revolution.
In literature, Russia has a great, perhaps the greatest, tradition of realism, which seems to have come to a temporary halt. Perhaps because reality itself is now so quicksilver and the truth about it no longer repressed, new Russian writers often favour satire and allegorical fantasy, forms which, when they lose their social context, can face a difficult crossing to other societies and languages. This issue of Granta contains an example that has made the crossing successfully: the piece by Victor Pelevin. It also includes, by contrast, a newly translated story by Andrei Platonov, who died in 1951 and most of whose work was banned until the last years of Soviet rule. Only in the past decade has he come to be recognized—but not widely enough—as one of the finest Russian writers of prose this century. His story, 'The River Potudan', is hypnotic in its quiet strength and sincerity; written of a time when it looked as though the future had been won. 
Ian Jack, Editor
[Gấu có lần lầm tay này, với tay Ian Frazier, nhà văn Mẽo]
*
Cái đoạn viết về văn chương Nga có thể giải thích, một phần nào, lời phán của ông thi sĩ: "Không trách gì nhiều nhà văn nước ta (chứ không phải là nhà văn “ở ta”) trước đây mê văn học Nga đến thế. Mà mê là đúng, vì họ lớn quá. Sang trọng."
*
Trong văn chương, Nga có một truyền thống lớn lao, có lẽ lớn lao nhất, của chủ nghĩa hiện thực. Có vẻ như chủ nghĩa hiện thực này đang dậm chân tại chỗ. Có lẽ, bởi vì, thực tại chính nó, vào lúc này, nhanh như cắt, lẩn như trạch, không làm sao nắm bắt, và sự thực về nó, hết còn bị kìm nén, những tân văn sĩ Nga bi giờ khoái trò viết biếm văn, khoái sử dụng quái chiêu "rung chuông tận thế".
Những hình thức văn học mà, một khi, không bám được vào đất, [mất mối nối xã hội], nhờ chúng, họ có thể đối diện với khó khăn khi vươn tới những xã hội và ngôn ngữ khác.