|
14.3.2013
Từ điển nhiều
khi cũng rất cần thiết cho dịch giả. (1)
Thơ
Mỗi Ngày
Đen
Một người da
đen một khúc hát đen
Bầu trời đen
sâu không cùng
Những giòng
nước mắt
Xé nát thân
thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của
máu của tủy của hồn bắt đầu ngày tháng
Giữa rừng
không lời rừng mãi trống không
Ném mình ném
đám đông vào trần truồng tủi cực hờn xác thịt
Tan vỡ hôm
qua hôm nay kể gì ngày mai
Tội rằng
không quên chẳng thể được quên
Vì Blues
không xanh vì điệu Blues đen
Trên mầu da
nức nở
Trong hộp
đêm
Bắt đầu chảy
máu thầm kín khóc cổ họng mình
Ngón tay cấu
lấy ống kèn như bùa thiêng
Chọn ngoài
thể xác ngoài thương yêu ngoài dữ tợn
Chọn thế giới
va chạm những loài kim réo gọi
Thời gian mềm
Không gặp thời
gian
Không gian
quay thành những vòng kỷ niệm
Rồi một buổi
nào Blues hiện về xanh.
Thanh Tâm
Tuyền: Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy
Tinh Thần Miền
Nam (1)
W.J. Cash
[1900-1941], viết cuốn sách độc nhất của đời mình, Linh Hồn Miền Nam, The Mind
of The South, và tự sát ba tháng sau đó. Ông chẳng hề biết cuốn
sách được hậu
thế vồ vập như thế nào. Trong nhiều năm, hàng trăm đại học nghiên cứu
nó, kể từ
thập niên 1940. Vào những năm 1960, cuốn sách trở thành một thứ Di Chúc
Của Miền
Nam, nhưng Cash thực sự tin rằng, Miền Nam Không Có Linh Hồn, thay vì
Linh Hồn,
là Tính Khí.
Đây cũng là ý của
Henry James: "Strickly, The Southerner had no mind; he had a
temperament"....
Robert
Fulford: The Spirit of the South,
Queen's Quarterly, số Mùa Thu 2005
To a Coin
Cold and
stormy the night I sailed from Montevideo.
As we
rounded the Cerro,
I threw from
the upper deck
a coin that
glinted and winked out in the muddy water,
a gleam of
light swallowed by time and darkness.
I felt I had
committed an irrevocable act,
adding to
the history of the planet
two endless
series, parallel, possibly infinite:
my own
destiny, formed from anxieties, love and futile upsets
and that of
that metal disk
carried away
by the water to the quiet depths
or to
far-off seas that still wear down
the leavings
of Saxon and Viking.
Any moment
of mine, asleep or wakeful,
matches a
moment of the sightless coin's.
At times I
have felt remorse,
at others,
envy
of you,
existing, as we do, in time and its labyrinth,
but without
knowing it.
-A.R.
J.L. Borges
Gửi Đồng Xu
Lạnh và bão là
cái đêm tôi dong buồm rời Montevideo
Và khi thuyền
chúng tôi lượn vòng Cerro
Từ trên boong
thuyền cao
Tôi thẩy 1 đồng
xu xuống dòng nước bùn.
Lấp lánh,
thoáng chốc,
Như một điểm
sáng được thời gian và đêm đen đợp đánh ực một phát
Tôi cảm thấy
mình phạm 1 hành động không làm sao thu hồi lại được
Thêm vào lịch
sử của hành tinh
Hai chuỗi dài song song, chắc là vô tận:
Số phận của
riêng tôi, được dệt bằng những âu lo, thảng thốt, tình yêu,
Và những bực bội
cà chớn, vô ích
Và của đồng
xu, một cái dĩa kim khí
Được dòng nước
cuốn tới những vùng sâu thăm thẳm, trầm lắng
Hay là tới
những những vùng biển xa vời vợi
Cho tới bây
giờ vẫn còn loay loay với
Những gì còn lại của những sắc dân Saxon và Viking.
Bất cứ một
khoảnh khắc của tôi, ngủ gà ngủ gật, hay thức thao láo
Thì đều xứng
hợp với một khoảnh khắc của đồng xu đã mất dạng
Có những lúc
tôi cảm thấy hối hận tràn trề
Như là cái lần
tính bước xuống đường cho xe hơi cán
Ở bên ngoài
khu Phước Lộc Thọ
Và những
lúc khác, thì lại thèm muốn, ước ao
Em, Sad
Seagull
Đang hiện hữu,
như đôi ta đang hiện hữu, trong thời gian và mê cung của nó
Nhưng không
biết điều này.
Mặt Trời Lặn
ở Fossoli
Tôi biết, nghĩa là gì, không trở về.
Qua những hàng rào kẽm gai
tôi nhìn thấy
mặt trời xuống và chết
Và da thịt tôi như bị xé ra
Bởi những dòng thơ của một thi sĩ già:
“Mặt trời thì có thể lặn và mọc
Nhưng chúng tôi, ngược hẳn lại
Ngủ, sau 1 tí ánh sáng ngắn ngủi,
Một đêm dài ơi là dài”
Tháng Hai,
7, 1946
Primo Levi
Trên Blog Hải
Hà có bài về Hemingway, những thói xấu của Papa [nick của ông], (1)
trong có nhắc đến
những cú chơi bẩn của ông chồng với bà vợ.
Bà vợ là 1 phóng viên chiến tranh cừ, đã từng được
giải thưởng cao quí của ngành này, và cũng còn là tiểu thuyết gia.
Cuốn bảnh
nhất, cực bảnh, phải nói như vậy, “Điểm không thể quay về”, “Point of
No Return”,
1948, viết về [Trại Tù, Lò Thiêu] Dachau. Trong bài viết trên TLS 18,
Jan 2013, tác giả
bài viết, Heather McRobie, chọn đúng cái từ của 1 cuốn tiểu thuyết chưa
từng viết
của Gấu Cà Chớn, “Mắt Bão”, để vinh danh bà vợ Hemingway:
Trong khi cuốn
đầu tay của bà chỉ xoáy vào 1 “khía cạnh nhỏ”, “one small aspect” của
Đệ Nhị
Chiến, Point of No Return,
1948, đặt dòng kể ở ngay mắt của cơn bão đạo đức,
[placed the narrative in the eye of the moral storm]: một anh GI Mẽo
khám phá
ra những điều ghê rợn ở Dachau…. Point
of No Return khiến chủ nghĩa lạc quan
của Mẽo lạnh lùng, tàn nhẫn tan rã ra, khi đối diện với bóng tối Âu
Châu.
Trong
lời bạt sau đó, bà viết:
"Tôi nhận ra
là Dachau là cái điểm không thể quay lại trong suốt cuộc đời của riêng
tôi. Giữa khoảnh khắc tôi bước qua cái cổng có chữ Phục Hồi Nhân Phẩm
Qua Lao Động, “Arbeit
Macht Frei”, Work Sets You Free, và khi tôi bước ra vào cuối ngày, một
ngày thật
khó gọi là 1 ngày, no ordinary scale of hours, tôi thay đổi, I was
changed, và
như thế nào, tôi nhìn phận người, how I looked at the human condition,
cái thế
giới chúng ta sống, thay đổi… Những năm chiến tranh dạy cho tôi thật
nhiều, nhưng
chiến tranh chẳng là cái thá gì so với Dachau. So với Dachau, chiến
tranh thật
sạch."
Mắt Bão quả
là cái cuốn tiểu thuyết đầu tay, mà Gấu mơ ước viết, khi, một mình trực
ở Đài Liên
Lạc VTD quốc tế, tọa lạc trên tầng lầu chót của building số 5 Phan Đình
Phùng,
1 thứ đỉnh cồn [cao nhất, nhìn thấy hết] và còn là ở trung tâm của trận
bão chiến
tranh, gửi hình chiến tranh từ khắp chiến trường Việt Nam, trên bốn
vùng chiến
thuật, đi khắp nơi trên thế giới.
Ngồi Quán Chùa, với ông anh, có lần Gấu lèm bèm
về giấc mơ lớn của mình, ông anh gật gù, mày cứ giở ba cuốn địa lý ra,
là tìm
thấy khối cái tên cho những cuốn tiểu thuyết.
Sau, đọc thư
gửi "đảo xa", ông có nói về cuốn Mắt
Bão ông đang viết.
Gấu đoán là,
ông anh, thấy thằng em, ngập ngụa trong ken, làm sao thoát, thành thử bèn
lấy
cái tít, viết 1 cuốn, thế cho thằng em chết vì ghiền.
Còn nhớ, lần
đầu có được số điện thoại, phôn hỏi thăm, câu đầu tiên ông hỏi, có mập
ra chút
nào không.
Sau nghe nói, ông còn hỏi 1 anh bạn cũng quen cả hai, cũng ở
Toronto, nó đã thực sự hết ghiền chưa!
Đám bạn quí
của Gấu thì chẳng đấng nào tin Gấu thoát được cả!
Beckett,
portrait
Orwell
On Animal
Farm
For all I know, by the
time this
book [Animal Farm] is
published my view of the Soviet regime may be the
generally-accepted one.
But what use
would that be in itself? To exchange one orthodoxy for another is not
necessarily an advance.
-George
Orwell, "The Freedom of the Press"
ANIMAL FARM,
as its author later wrote, "was the first book in which I tried, with
full
consciousness of what I was doing, to fuse political purpose and
artistic purpose
into one whole." And indeed, its pages contain a synthesis of many of
the
themes that we have come to think of as "Orwellian." Among these are
a hatred of tyranny, a love for animals and the English countryside,
and a deep
admiration for the satirical fables of Jonathan Swift. To this one
might add
Orwell's keen desire to see things from the viewpoint of childhood and
innocence: He had long wished for fatherhood and, fearing that he was
sterile,
had adopted a small boy not long before the death of his first wife.
The partly
ironic subtitle for the novel is A Fairy Story, and Orwell was
especially pleased
when he heard from friends such as Malcolm
Muggeridge and Sir Herbert Read that their own offspring had enjoyed
reading
the book.
Christopher Hitchens
[Bài viết được dùng làm
"Intro" cho ấn bản 2010 của cuốn Trại
Loài Vật]
Đọc khúc
trên, và cái tiểu tít,“truyện thần tiên” thì Gấu nhớ ra lý do tại sao
tên Đông
B nhắc tới “Sợ Lửa” của Doãn Quốc Sĩ.
Chắc chỉ có vậy.
Bởi là vì Gấu
nhớ là, “Sợ Lửa”, đọc từ hồi còn học trung học, là câu chuyện 1 anh
chàng sợ… lửa, đến chót đời, sắp ngỏm, mới
dám làm khán
giả của 1 dám cháy, về, bịnh, ngỏm, trong hạnh phúc.
Nếu đúng như
thế, thì nó giống cái truyện suốt đời ăn chay, thèm muỗng nước mắm
trước khi
lìa đời của Thụy Vũ.
Tính đọc chùa, nhưng gõ Google không ra “Sợ Lửa”.
Về Trại Loài
Vật
Vào thời gian cuốn sách
này [Trại Loài
Vật] được xb, cái nhìn của tôi về chế độ Xô Viết thì là chung
chung, như được
nhiều người chấp nhận. Nhưng, ích chi đâu, một cái nhìn, tự thân, như
thế? Đổi 1
cái cùm [orthodoxy: chính thống, dòng chính, lề phải… ],
lấy 1 cái cùm khác, thì đâu nhất thiết là 1
“tiến bộ”?
-George
Orwell, "The Freedom of the Press"
Trại Loài Vật, như tác giả của nó
sau
đó viết, “là cuốn sách thứ nhất trong đó tôi cố, với tất cả ý thức về
cái việc
mình đang làm, nấu chảy, hòa nhập mục đích chính trị và mục tiêu nghệ
sĩ thành trọn
1 cục”. Và quả thế, những trang sách của nó chứa 1 tổng đề của rất
nhiều đề tài
mà chúng ta có thể coi là “có tính Orwell”, trong số đó, là sự thù ghét
độc tài,
bạo chúa, tình yêu loài vật và đồng quê Anh, một ngưỡng mộ sâu xa dành
cho những
truyện ngụ ngôn châm biếm của Jonathan
Swift. Tới điểm này thì có thể coi Orwell
như 1 người
thèm nhìn sự vật bằng con mắt của 1 đứa con nít, và sự ngây thơ: Trong
đời riêng,
Orwell là 1 đấng đàn ông rất sợ cây súng thịt của mình, vô dụng, suốt
đời thèm làm
bố, và sau cùng, sợ vô sinh, bèn nhận 1 đứa con nít làm con nuôi, không
lâu, trước khi bà vợ đầu của ông mất.
Cái tiểu tít có tí tiếu lâm của cuốn tiểu
thuyết, Một Truyện Thần Tiên,
và Orwell rất lấy làm hài lòng, khi nghe được, qua mấy
đấng bạn quí của ông, rằng lũ hậu huệ của họ, rất mê đọc nó.
Trăm Năm
Camus
Koestler
Văn chương lạnh
Interview: Gao
Ghi
chú
trong ngày
Một trong những
sư phụ của Vargas Llosa. Ông Nobel này cùng thời với Gấu, nên cũng có
những
chọn lựa
như Gấu, thí dụ ông chọn Sartre thay vì Camus, nhưng sau này, biết chọn
lầm,
may còn kịp đổi.
Gấu chọn đúng Camus, may quá!
V/v nhà văn
Mít đếch có sư phụ, bây giờ Gấu ngộ ra rồi: Do đếch đọc được tiếng của
lũ
mũi lõ!
Không lẽ chọn
1 ông Mít, đâu có được! Ngay đàn anh, thì cũng chỉ đáng cho đàn em "xoa
đầu", hoặc
"moa toa", đâu có lý, nhận làm… Thầy?
Thầy Cuốc chẳng
đã kể về lần yết kiến VP, gọi anh, xưng tôi, Người bực quá!
Nhưng MT thì
xuề xòa, anh em được rồi!
Lần Gấu về
Hà Nội, mấy đấng ít tuổi hơn, như BN chẳng hạn, thưa anh, xưng em một
phép.
Bắc Kít được
cái khoản này, hơn hẳn Trung Kít!
Nhớ, NVH
cũng xưng... em, nhưng kèm 1 câu, em thua anh chỉ cái phần lý luận, phê
bình.
Còn sáng tác, No!
Hà, hà, VH!
Không Thầy đố
mày làm nên, các cụ đã dạy. Sở dĩ đám Mít viết, cứ "làng nhàng",
chính là do đếch có Thầy. Từ “làng nhàng” - ND sử dụng để chỉ đám cộng
sự viên
đắc lực làm nên “thế lực đột phá” của văn chương Mít, chuyên viết cho
Hậu Vệ, ở
Sài Gòn - là của Gấu, khi viết về đám nhà văn Trung Kít, thời
chiến
tranh, ông nào cũng tự hào, tay súng, tay viết, súng không nên thân,
nên thua
VC, bút thì lại càng không nên thân, vì có coi ai là Thầy của họ đâu.
Thầy của
họ, chính là Võ Phiến, nếu nói về truyện ngắn. Có đấng nào viết được,
chỉ 1
truyện ngắn, trên cơ Võ Phiến?
Truyện dài, và nhân vật của nó, có
tên nào
tạo ra nổi một... Ông Ba Đồng Thời?
NMG không hề có được 1 nhân vật
“dấu ấn”, bèn
bệ ngay người ngoài đời vô tác phẩm, chứng cớ, những HPNT, Ngụy Ngữ?
Chúng không hề biết, không
hề hiểu ra được "chân lý", Thầy chính là Mình.
Một cách nào đó, tìm ra
Thầy
là tìm ra Mình.
Tìm ra dòng văn thích hợp với Mình.
Theo nghĩa
đó, Thầy của Vargas Llosa cũng là Thầy của GCC, là Faulkner. Ông viết,
Faulkner là
người Mẽo, viết tiếng Mẽo, nhưng đúng là "Người của chúng ta" - xứ sở
đồng bào Vargas Llosa - ở Xứ Mũi Lõ!
Cái truyện
ngắn đầu tay "thần sầu" của Gấu, “Những Con Dã Tràng” - thần sầu, đúng
là như thế, vì trong số những truyện ngắn đầy chất hiện sinh của Sài
Gòn những
năm 1960, nó là số 1, điều này không phải Gấu nhận ra, mà là 1 bạn văn
cũng rất
thân, anh phán, cái nhân vật trong truyện, là Camus và Meursault cộng
lại, bởi là
vì Meursault đâu có ho lao như nhân vật trong “Những Con dã Tràng”, và,
giọng văn
cà dựt, y chang những tiếng ho khan của 1 tên bị lao phổi, tức y chang
Camus - được
TTT khen um lên, vậy mà viết xong, là Gấu từ bỏ nó liền, vì biết, dòng
văn này
đi vào ngõ cụt. Chỉ đến khi Gấu gặp Thầy là Faulkner, mới kiếm ra dòng
văn của
mình, và nhờ đó viết được cái truyện ngắn “Những Ngày Ở Sài Gòn”, và
chỉ khi viết
được nó, thì Gấu mới tin là mình sẽ có cơ hội trở thành nhà văn.
Coetzee: Notes
on a Voice
Viết
bên lề
"Bên Thắng Nhục"
"Nơi chốn
không chết như con người, nhưng chúng tang thương dâu bể đến nỗi chẳng
còn chi
được giữ lại, về một thời nó đã là..." , W. Trévor viết về miền thơ ấu
(Ái
Nhĩ Lan) của ông.
Tôi chỉ muốn
thêm vô: "... chẳng còn chi được giữ lại, cho một con người ngày xưa đã
từng
ở đó."
Tôi cũng có
đọc một lời khuyên, nên viếng thăm nghĩa địa, mỗi lần ghé một thành
phố.
Buendia, trong Trăm Năm Cô Đơn,
(Garcia Marquez), muốn bỏ Macondo, tìm
một đất
lành khác. Anh giải thích: "con người thuộc về nơi chốn, khi dưới đất
có một
người chết". Ursula, bà vợ dịu dàng, nhưng quyết liệt, "nếu cần một
cái mả, tôi sẽ ra đó nằm."
Còn nhớ một
cụ già, khi nghe tin máy bay Mỹ oanh tạc miền Bắc, bà cụ giật mình, vậy
là động
mồ động mả, ông bà mình làm sao ngủ yên ?...
Bếp Lửa
trong Văn Chương
Bài viết này,
khi viết, là tính dùng làm Tựa cho tập truyện ngắn đầu tay của 1
anh bạn.
Nhưng khi anh đọc, và Gấu đọc lại, thì vưỡn còn ngửi ra mùi nước đái,
ngập ngụa Ga Hàng Cỏ
khiến cô gái Bắc Kít xúc động, và nhận lời cầu hôn của anh VC lên tầu
vô Nam
chiến đấu; mùi nước đái và cử chỉ cầu hôn “lấn át” cái cử chỉ thật nên
thơ của
anh tù cải tạo Miền Nam chưa từng tới Hà Nội, nhưng đã mê từ khi còn đi
học, đọc
Nhất Linh,… Người tù đi qua cầu Long Biên, thò tay sờ
lên thành cầu, như rụt
rè hỏi thăm bao mùa nóng lạnh, bao dấu vết bom đạn.
Anh đề nghị
Gấu viết 1 bài khác. Và cái bài khác
kia thì thật vừa ý anh, và Gấu, vì đọc, thì lại ra cả 1 cõi Miền Nam
"nhân hậu và
cảm động" ở trong đó (1)
Khi bạn quí
của Gấu nhận làm Thầy ở 1 trường đại học Mẽo, phôn hỏi, mày có cái gì
về đề tài
văn chương hải ngoại... Gấu bèn phán, văn học hải ngoại, quái, là có
đến mấy cú
lên đường khác nhau.
Cú đầu tiên, liền
sau 1975, văn chương tố cáo tội ác VC.
Cú thứ nhì,
toan tính đầu tiên hội nhập….
Cú thứ tư,
có sự gia nhập của đám Bắc Kít.
Và cú thứ tư
này mới đúng là cú khởi đầu của nó.
Bài viết
trên, là nằm trong giấc mộng lớn của Gấu Cà Chớn, về 1 dòng văn
chương lớn,
về tấm bản đồ tỉ lệ 1/1 rách bươm Borges đã từng nhắc tới, của lũ
Mít hải
ngoại, mang được ra khỏi nước, và cố vá víu cho lành lặn.
Đó là thời
gian Gấu “rỏ máu 10 đầu ngón tay” viết đơn xin cắp rổ theo hầu Sến Cô
Nương, ở
Chợ Cá Bá Linh, mặt dầy xin viết thí cho đám khốn kiếp Hậu Vệ…
Chúng cám ơn
bằng cách xúm lại chửi Gấu.
Viết, nhớ lại, và cũng để nhắn anh tà lọt Osin, rằng, có đức độ, có
lòng thành,
có hối lỗi, xin tha tội…. chưa chắc đã vô được địa ngục VC!
Đừng nói là tâm địa khốn kiếp.
Tâm địa khốn
kiếp, mà có khi, tay "cũng" đầy máu, cũng nên!
(1)
Bài viết bên
lề một cuốn sách
Tôi quen
Nguyễn Chí Kham đã lâu, từ cái hồi Nghệ
Thuật. Truyện "đầu tay" của
tôi, Nghệ Thuật số 9. Của
anh, số 10. Thành thử, giữa hai người viết, không có
tinh thần trên, dưới. Trộm nghĩ, cũng còn may, ra tới ngoài này, được
chiêm ngưỡng
chiếu bồ đoàn của một vị nữ tu, thí dụ vậy, chuyện trên, dưới tựa giấc
chiêm
bao, hoặc thuộc tiền kiếp.
Dẫn nhập,
theo kiểu thù tạc, cũng không. "Thì cứ lảm nhảm đi, anh già này cũng
làm
cho tụi mình vui lên được một vài phút!", hình như tôi đã loáng thoáng
nghe, có một người trẻ, nói về thế hệ cha chú của mình, những chủ xị,
"mastermind" của cuộc chiến thịt da nát tan, người chết hai lần...
Khi đọc sơ mấy
truyện anh đưa,1 tôi chợt nẩy ra ý nghĩ, hay là mình thử đề nghị với
anh, với
người đọc, một cách viết "kép", theo kiểu Faulkner, khi viết Những
Cây Cọ Dại, The Wild Palms: hai truyện viết song song, xen kẽ,
bề ngoài chẳng
có chi liên hệ.
Ở đây, có
quá nhiều liên hệ. Hai đứa cùng thời, cùng bị cuộc chiến hành hạ, và
khi thoát
ra, mỗi đứa một cách. Và tôi cũng tin rằng, khó có ai còn lành lặn, sau
một cuộc
chiến như thế. Sau những ngày học tập dài như thế. Tuy vậy, vết thương
của anh,
có vẻ không nặng nề, qua những truyện ngắn kế bên. Anh mang theo vầng
trăng qua
những trại tù, và nó cứ thơ ấu mãi, như một cậu học trò ở trong anh.
Cái cậu học
trò này, ngày xưa, chỉ mong được cô giáo gõ cho vài cái vào tay, sau
này bắt
chước Anatole France, nhẹ nhàng an ủi cô giáo, khi cô nằm trên giường
bệnh:
"Hãy ngủ đi, ngày mai chúng ta sẽ lên đường." Cậu học trò, không có
những bước chân sáo, không đi qua vườn Lục Xâm Bảo, nhưng ngày ngày
mang cơm
cho cô giáo của mình. Cậu có một ông bố ở trong quân đội, có một bà mẹ
phải tần
tảo nuôi con... Tôi không hiểu, tại sao cậu lại có mãi một vầng trăng
thơ ấu,
như thế, trong một cuộc sống như thế. Sau một cuộc chiến như thế. Đây
là một
phép lạ của những bài toán hình học, của những giờ học ngoại ngữ chăng?
Nếu cậu
không gặp một cô giáo như thế, liệu cậu có tìm ra vầng trăng "thề"
thơ ấu mãi hay không? Và cái bài học văn chương, phải chăng nó cũng bắt
nguồn từ
đó?
Có những
truyện ngắn thuộc loại "kiệt xuất"; đọc, ta ngỡ ngàng, đến nghẹt thở,
nhưng kể cả tác giả, lẫn người đọc, đều không tin, nó sẽ có những "đàn
em". Tác giả khi viết, và độc giả, khi đọc, đều cảm thấy sẽ có lúc phải
chia tay với nhân vật trong truyện. Truyện ngắn Bức Tường của Sartre, Kẻ Xa Lạ của Camus, hay
Rượu Chưa Đủ của Dương Nghiễm Mậu, chẳng hạn. Tôi cứ nghĩ đến
cảnh
chia tay của họ Dương, với bầy sư tử của ông. Tôi vẫn nghĩ, những
truyện ngắn
như vậy, là những ẩn ức, những phẫn nộ, những nỗi đau, của đời sống,
nhiều hơn
là của văn chương.
Với Nguyễn
Chí Kham, độc giả không gặp những truyện ngắn như vậy. Truyện ngắn của
anh
không tạo những cú sốc, theo cả hai nghĩa văn chương, lẫn cuộc đời. Cô
giáo
trong truyện Trăng ơi, thơ ấu mãi
không làm người đọc bận tâm với một con quỷ của
sự tò mò: cô có những nét riêng, để người đọc nhớ, và làm cho cậu học
trò mới lớn
phải bâng khuâng. Người đọc có thể tưởng tượng, nhưng đừng quyết đoán,
việc cô
tức giận, khi cố gắng làm cho cậu học trò hiểu một bài toán: một cố
gắng để
ngăn chặn tình cảm, chỉ ở mức đó, giữa hai người. Có thể chính vì vậy
mà cậu học
trò không thể chia tay với cô giáo, và tìm cách cho cô giáo sống lại
mãi mãi,
cùng với vầng trăng thơ ấu. Chúng ta sẽ còn gặp cô, ở trong những
truyện sau.
Và tôi cứ tưởng
tượng ra cậu học trò ngày xưa, đã nói với cô giáo như thế này:
"Đó là
một điều cô dậy em, tâm hồn của em. Cô dậy em rất nhiều điều. Trước
tiên, cô đã
nhốt em trong nụ cười của cô, như người học trò trong lớp học tháng
tám. Rồi cô
trả em về thế gian, với bổn phận viết về nó, như nó là: đen rợn người ở
bên
trên, trong trắng nhiệm mầu ở bên dưới .
"C'est
une chose que tu m'as apprise, mon âme. Tu m' as appris beaucoup de
choses. Tu
m'as d'abord enfermé dans ton rire comme un écolier dans la classe au
mois
d'aout, puis tu m'as rendu au monde avec pour devoir de l'écrire comme
il est:
affreusement noir en dessus, miraculeusement pur en dessous."
(Christian
Bobin, L'inespérée).
Đen một cách
ghê rợn, phải chăng là những ngày dài, trước, trong, và sau trại tù?
Trong trắng
nhiệm mầu, là vầng trăng thơ ấu mãi?
NQT
Bác Hồ Iêu
Tờ LRB, Điểm
sách London, 22 Nov 2012 đọc Đỉnh
Cao Chói Lọi của DTH
Đọc bài này cũng thú lắm, thay vì đọc Hanoi's War của nữ sử gia
Mít
Hay Bên Thắng Nhục của tà lọt Osin
Người điểm
sách, Tariq Ali, kể
1 giai thoại, đúng
hơn, kỷ niệm, khi mới ra trường. Rất nhiều năm trước đây, ông có dịp
dùng bữa
trưa với 1 tay làm xb. Ông ta hỏi, ông muốn viết nhất, cuốn gì, What
book would
you most like to write? Lúc đó chiến tranh Mít đang leo thang, cố vấn
Mẽo đổ vô
tới tấp sau cú Ấp Bắc, Tháng Giêng 1963. Bản thân Ali, ông cho biết,
ông đã phá
hoại cuộc thi ra trường của mình, vì với mọi câu hỏi, thì ông đều đưa nỗi đau
vàng, le mal jaune, vô, bringing Vietnam to every answer.
Và chính vì thế, câu trả lời của ông với tay
này, là… Việt Nam:
Tôi muốn viết
1 cuốn tiểu sử về Bác Hồ thân thương của chúng ta!
Nhưng ông có
biết tiếng Tẩy không?
Không.
Tiếng Mít?
Không.
Vậy thì tốt
nhất, ông đi ghi tên liền 1 khóa tiếng Mít trong khi tôi đánh 1 cái
điện cho
Bác Hồ.
Một tháng
sau, Anthony Blond, tay xb, phôn, giọng hứng khởi:
Tớ nhận được
mail (điện tín) của Bác Hồ rồi. Tới ngay văn phòng...
Cái bức điện
của Bác thì mới khiêm nhường, như Bác vẫn hằng hằng khiêm nhường:
Cám ơn ông
quan tâm tới tui. Cái ý nghĩ của
ông viết tiểu sử tui, thì chưa hề đến với tui bao giờ hết.
"Thank you
for your interest. The thought of you writing my biography never
occurred to me.
Ho Chi Minh"
Đúng là Bác
Hồ!
Bảnh hơn cả… Thầy Cuốc, tớ đếch quan tâm
đến chuyện Bác Hồ có mấy vợ!
Hà, hà!
Ghiền
Bondage
In
1975, at the age of twenty-three, Ian
Fleming’s only child, heir to the Bond millions, ended his life with a
deliberate overdose.
Vào năm 1975,
đứa con trai độc nhất của Ian Fleming, kẻ thừa kế gia tài hàng triệu
triệu, của
kẻ sinh ra nhân vật giả tưởng Bond, chấm dứt đời mình bằng một liều ken quá liều
Cali Nov
2012 With HA
Nhìn hình,
thì lại nhớ, cũng cảnh này, Phan Tấn Hải ký vội mấy cuốn sách tặng Sad
Seagull
và Gấu, ở 1 quán cà phê Starbucks, rồi vội vàng từ giã "cặp tình nhân"
- một, cũng quá nửa đời người, một, ngày một ngày hai, lên chuyến tàu
suốt – đi làm.
Em phán, cấm
chụp hình, khi Gấu đề nghị, và còn chỉ cái đầu của Em, những hình ảnh
nếu có đẹp
thì ở trong này, làm sao "Bác" chụp được?
Bà vợ NDT dặn,
nhớ chụp hình nhe, để coi Em của anh Trụ xinh đẹp cỡ nào!
Gấu đã sợ,
không làm sao nhớ nổi khuôn mặt của Em, và đúng như thế.
Giả như số mệnh cho gặp
lại, thì cũng thua!
Ui chao lại
nhớ bài thơ của Borges, trên, hình ảnh của Em, với Gấu,
thì đúng là như vậy.
.... my own
destiny, formed from anxieties, love and futile upsets
and that of
that metal disk
carried away
by the water to the quiet depths
Phan Tấn Hải
rất quí Gấu.
Câu phán của anh về Gấu mới thật là tuyệt, viết ngàn ngàn trang sách,
chưa 1
lần sơ thất!
NTV giải thích, đây là do
hai cái huyệt "nhâm đốc" - cái con khỉ gì
đó, Gấu đâu biết - đã được thông, thành ra viết cái gì cũng không sợ
THNM!
Ui chao, lại
tự sướng!
Bức hình, là
của chuyến đi trước, chụp ở bên ngoài tiệm phở Nguyễn Huệ.
Lần này, Gấu
gặp Em của Gấu, cũng ở đây.
Buổi tối hôm
vừa tới, trong khi nhậu tại nhà NDT, mở mail, thấy của PTH, Gấu bèn
phôn, hẹn
sáng mai gặp ở phở Nguyễn Huệ.
Gặp, anh đưa
cái phong bì, trong có tiền, của Em gửi cho Gấu.
Hỏi Em đâu,
thiền sư trả lời, “cô ấy” chắc là ra liền bây giờ thôi.
Nghe 1 phát,
là đã tính run, như ngày nào còn con nít!
Đại Lục Kim Dung
Sài Gòn 66
|
|