|
10.3.2014
Thơ
Mỗi Ngày
Thời
Sự Hình
Primo Levi's Tribute
Akhmatova:
Nửa Thế Kỷ Của Tôi
Malaparte:
The Skin
Ông
ta [Malaparte] luôn nói với những tên thắng trận, Hãy nhìn xem, tụi mi
làm
chúng tao thân tàn ma dại như thế này, see what a despicable being you
have
made of me, and of us.
Ui
choa, bất cứ tên Nam Kít nào, Ngụy hay đếch phải Ngụy, cũng có thể nói,
với bất
cứ 1 tên Bắc Kít, 1 câu như thế.
Trừ mấy
tên
VC nằm vùng, hay tinh anh Miền Nam, bỏ chạy cuộc chiến, bợ đít VC.
Hai Cu
30.4.2014
c. 1930:
Tunis
THE COMING
STORM
Oppressive
tyrant
Lover of
darkness
Enemy of
life
You have
ridiculed the sighs of the weak people;
Your palm is
soaked with their blood.
You deform
the magic of existence
And planted
the seeds of sorrow in the fields.
Wait! Don't
be fooled by the spring, the clearness of the sky,
or the light
of dawn;
for on the
horizon lies the horror of darkness, rumble of thunder,
and blowing
of winds.
Beware, for
below the ash there is fire;
And he who
grows thorns leaves wounds.
Look there,
for I have harvested the heads of mankind and the flowers of hope.
And I
watered the heart of the earth with blood.
I soaked it
with tears until it was drunk.
The river of
blood will sweep you,
and the
fiery storm will devour you.
Abul-Qgsim
al-Shabbi, "To the Tyrants of the World." This poem was
circulated
and
chanted
during the Arab Spring, first at demonstrations in Tunisia and then in
Egypt.
Al-Shabbi
was born in 1909, trained as a lawyer but never practiced, and died of
heart
disease in
1934 before completing his one collection ofpoetry, Songs of Life, which was
first
published in
1955. Parts of his poem "Tbe Will to Live," written in opposition to
French
colonial
rule, became the final verses of the Tunisian national anthem.
Bão tới
Tên bạo chúa
đàn áp
Kẻ yêu bóng
tối
Kẻ thù cuộc
sống
Mi chọc quê
tiếng thở dài, lòng khát khao của những con người yếu đuối
Bàn tay mi
thì đầy máu
Mi làm méo mó
sự huyền diệu của cuộc sống
Trồng mầm cây
rầu rĩ ở cánh đồng
Hãy đợi! Đừng
phát khùng vì mùa xuân, vì sự sáng sủa của bầu trời
Hay là tia sáng
của bình minh;
Bởi là vì ở
chân trời là sự ghê rợn của đêm đen, là sấm nổ, là gió hú
Hãy coi chừng,
bởi là vì bên dưới tro than, là lửa;
Và kẻ nào trồng
gai góc, sẽ để lại những thương đau.
Hãy nhìn kìa,
bởi là vì ta sẽ gặt hái những cái đầu của nhân loại, và những bông hoa
của hy vọng.
Và ta sẽ tưới
trái tim của trái đất bằng máu
Ta lắc lắc nó
với những giọt nước mắt cho đến khi nó say mèm
Con sông máu
sẽ chảy qua mi
Và bão lửa sẽ
cấu xé mi
“Gửi những tên
bạo chúa trên thế giới”. Bài thơ này được truyền bá và được hát lên
trong Cách
Mạng Arab, trước tiên, trong những cuộc biểu tình ở Tunisia và rồi ở
Egypt.
Al-Shabbi sinh năm 1909, học luật nhưng không hành nghề và chết vì đau
tim năm
1934, trước khi hoàn tất tập thơ, “Những bài ca của cuộc đời”, được xb
lần đầu
năm 1965. Bài thơ “Ý Sống”, một số đoạn trong đó, được sàng tác nhằm
chống lại thực
dân Pháp, trở thành những dòng thơ sau cùng của quốc ca Tunisia.
c. 1920:
Petrograd
CRYING OUT
FOR MOTHER
Little
mushroom, white boletus,
my own
favorite
The field
sways, a chant of Rus
rises over
it.
Help me, I'm
unsteady on my feet.
This
blood-red is making my eyes foggy.
On either
side, mouths lie
open and
bleeding, and from
each wound
rises a cry:
-Mother!
One word is
all I hear, as
I stand
dazed. From someone
else's womb into
my own:
-Mother!
They all lie
in a row,
no line
between them,
I recognize
that each one was a soldier.
But which is
mine? Which one is another's?
This man was White now he's become Red.
Blood has
reddened him.
This one was Red now he's
become White.
Death has
whitened him.
-What are
you? White? - Can't understand!
-Lean on
your arm!
Have you
been with the Reds?
-Ry
-azan.
And so from
right and left
Behind
ahead
together,
White and Red, one cry of
-Mother!
Without
choice. Without anger.
One long
moan. Stubbornly.
A cry that
reaches up to heaven,
-Mother!
Marina
Tsvetaeva,
From Swans' Encampment. Begun in 1917
and
completed in 1921, this cycle of poems describes the Russian
Civil War and - as Tsvetaeva was skeptical of the
revolution and was married to an officer of the White army - expresses
counterrevolutionary sympathies. After the
Bolsheviks consolidated their power, she left the Soviet Union in
1922 and moved to Berlin, Prague, and then Paris,
publishing After Russia in
1928. She returned to the Soviet
Union in 1939 and committed suicide there two years later.
“You
were not who you were, but what you were rationed to be”:
Mi không phải là mi,
mà là kẻ được cái chế độ tem phiếu đó nắn khuôn.
Note: Thấy
trên Gió-O một bài, đọc song
song với HOPE IN A THIN SHELL, trên, thật tuyệt.
TV sẽ có bản tiếng Việt sau, cũng đọc song song với bản tiếng Việt của
Gió O.
Lý do là,
bài viết gợi ở Gấu quá nhiều kỷ niệm. Dịch tới đâu, kỷ niệm sống lại
tới đó. Thỏi
Xô Cô La lần đầu được ăn, Gấu đã từng kể, và cùng với nó là cây viết
chì màu
xanh đỏ hai đầu, những chiếc kẹo bột, Gấu được ăn lần đầu tiên ở 1 làng
ven đê sông Hồng, làng Vân Xa, quê ngoại của Gấu.
Cuồng
Tuyết
Snow Mania
Valentine's Day
Kafka
Coupable
Đi tìm phê
bình gia Mít
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Happy
Birthay to U, Jennifer Thảo Trần
10.3.2014
Huế Mậu Thân
@ London
Chez
Tin Văn
McCullin is
talking about the elusive moment of connection with his subject - the
"yes", the moment of naked affinity where he or she sees him, and
forgives him, at death's edge, starving, inconsolably bereaved, when
their own
child lies dead on the hall floor, bombed in the attack: still "yes.
Yes,
take me. Yes, take us.
Yes, show
the world my pain."
John Le Carré
John Le Carré dans la
préface de Au coeur des ténèbres, Robert Laffont,
Paris, 1980.
John Le
Carré from the preface of Heart's of
Darkness, Martin, Seeker & Warburg. London, 1980.
Don
McCullin nói về khoảnh
khắc lẩn trốn, khi, chủ và khách là một, khoảnh khắc thân quen xuồng
xã,
khi anh ta, hay cô ta nhìn thấy anh và tha thứ cho anh, ở bực thềm của
cái chết,
của cái đói, của cái đau thương không làm sao an ủi được, khi đứa con
của họ nằm
chết trên mặt đất, ngay lối vào, do bom nổ trong cuộc tấn công: thì vẫn
là tiếng “yes. Hãy chụp tôi đi. Hãy chụp chúng tôi. Hãy chỉ cho thế
giới nỗi đau của tôi.” (1)
John
Le Carré: Trong lời Tựa cho
cuốn Trái
Tim Của Bóng Đen, Robert
Laffont, Paris, 1980.
(1)
Cái từ
"ma", “my” trong "ma souffrance", "my pain", quá
thần sầu. Câu tưởng đơn giản, mà kinh khủng quá.
Đây là cái ý mà Steiner đã từng
nói tới: Vào thời “You Tube”, thì độc giả, kẻ chụp hình, khán
giả... cũng là đồng phạm với tên sát nhân.
Eddie Adams, tay Mẽo chụp hình tướng Loan giết VC cũng
nói như vậy: Loan giết VC bằng khẩu súng, tôi giết Loan bằng tấm hình.
Theo từ
điển
trên mạng :
• ELUSIVE
(adjective)
The adjective ELUSIVE has 3
senses:
1. difficult
to describe
2. skillful
at eluding capture
3. be
difficult to detect or grasp by the mind
Familiarity
information: ELUSIVE used as an adjective is uncommon.
K dịch một
cách trần trụi là " khó tả" . Elusive moment of connection : một khoảnh
khắc đồng cảm khó tả , một giây phút cảm thông không diễn thành lời .
Mấy người viết
văn thường lãng mạn hóa những tình huống rất thông thường . Những nạn
nhân chiến
tranh ấy biết làm gì khác hơn là lặng yên khi họ sống dưới sự khống chế
của các
bên ? K nghĩ mấy ông ấy chỉ biện hộ cho những tấm hình đó thôi hà.
Tks
all.
NQT
Thơ
Mỗi Ngày
CITY OF MY
YOUTH
It would be
more decorous not to live. To live is not decorous,
Says he who
after many years
Returned to
the city of his youth. There was no one left
Of those who
once walked these streets.
And now they
had nothing, except his eyes.
Stumbling,
he walked and looked, instead of them,
On the light
they had loved, on the lilacs again in bloom.
His legs
were, after all, more perfect
Than
nonexistent legs. His lungs breathed in air
As is usual
with the living. His heart was beating,
Surprising
him with its beating, in his body
Their blood
flowed, his arteries fed them with oxygen.
He felt,
inside, their livers, spleens, intestines.
Masculinity
and femininity, elapsed, met in him
And every
shame, every grief, every love.
If ever we
accede to enlightenment,
He thought,
it is in one compassionate moment
When what
separated them from me vanishes
And a shower
of drops from a bunch of lilacs
Pours on my
face, and hers, and his, at the same time.
Czeslaw
Milosz: Facing the River
Thành Phố Tuổi Trẻ Của Tôi
Kiểu cọ quá
là quên sống.
Sau nhiều
năm
hắn tự bảo mình
Khi trở
về
thành phố tuổi trẻ của hắn
Chẳng còn
ai
Những kẻ
đã
từng có lần dạo bước trên những con phố này.
Bây giờ
họ
chẳng còn gì, ngoại trừ cặp mắt hắn.
Loạng
choạng,
vấp té, hắn bước và nhìn, thay vì họ
Trong ánh
sáng
họ đã yêu, những bông lilacs lại nở rộ.
Hai chân
hắn,
nói cho cùng, thì làm sao bằng đôi chân không còn nữa.
Hắn thở,
thường, như những
kẻ đang sống.
Trái tim
hắn đập làm hắn ngạc nhiên với nhịp đập của nó
Trong cơ
thể
hắn, máu của họ chảy, những động mạch của hắn, nuôi chúng bằng dưỡng
khí.
Hắn cảm
thấy, ruột gan tuổi thanh xuân của họ, đực, cái, trôi, và gặp, trong
hắn.
Và mọi
tủi hổ,
mọi thống khổ, mọi tình yêu.
Nếu có
khi nào
chúng ta tới gần được cõi sáng ngời
Hắn nghĩ,
đó
đúng là cái khoảnh khắc cảm thông
Khi điều
phân
cách họ với hắn biến mất
Và một
chùm bông
nước từ những bông lilacs
Dội xuống
mặt hắn,
mặt họ, đàn ông cùng như đàn bà, cùng một
lúc
Feb Twilight
Hai Cu
Khúc tiếng
Tây, là từ bài “avant-propos” của Roger Munier, người biên tập &
chuyển qua
tiếng Tẩy những bài Hai Cu do ông tuyển chọn. Bài Hai Cu, trong yếu
tính của nó,
thì quá cả 1 bài thơ, cả theo cái nghĩa cực mạnh mà người ta đem đến
cho từ này.
So với những nghệ thuật khác ở Nhựt, như tuồng Nô, bắn cung, vẽ chữ,
tranh họa,
nghệ thuật cắm hoa, nghệ thuật làm vườn, tất cả đều thấm đẫm cái gọi là
Thiền.
Cái thực tập, cái/cách viết/đọc của nó thì trong chính nó, là một bài
tập tinh
thần/ linh thần. Chẳng có khiên cưỡng khi phán, cái mà Hai Cu hoàn tất
đề nghị,
là 1 kinh nghiệm đồng nhất với cái gọi là satori,
về mặc khải, đốn ngộ, [tâm hồn] sáng chưng lên.
Đế Quốc
Ký Hiệu,
tên của
Barthes phịa ra, để chỉ Đế Quốc Mặt Trời, nhưng với ông, đế quốc “của”
ký hiệu,
trong những ký hiệu của nó, có thơ Hai Cu. Bài viết về Hai Cu tuyệt
lắm, TV sẽ
đi liền, cũng 1 cách để thêm 1 tiếng nói của hải ngoại cho tuyệt tác về
thơ Hai
Cu của 1 đấng ở trong nước!
Bài Haiku sau đây, của Basho, ở trang bìa sau, của cuốn anthologie mà
chẳng thú
sao:
“Lâu lâu, mây, bèn thương
hại, ngưng một phát, cho người ngắm trăng.”
“De temps à
autre
Les nuages accordent
une pause
À ceux qui
contemplent la lune.”
Câu tiếng Mít, "phóng
bút",
từ "accorder", cho thấy, dịch
thơ khó vô cùng, và càng khó càng cần dịch
"If
Japan did not exist,
Barthes would have had to invent it - not that Japan does exist in
Empire of
Signs, for Barthes is careful to point out that he is not analyzing the
real Japan
but rather one of his own devising. In this fictive Japan, there is no
terrible
innerness as in the West, no soul, no God, no fate, no ego, no
grandeur, no
metaphysics, no 'promotional fever' and finally no meaning ... For
Barthes Japan
is a test, a challenge to think the unthinkable, a place where meaning
is
finally banished. Paradise, indeed,
for the
great student of signs."
-Edmund White
The New York Times Book
Review
Nếu
không có
Nhật Bản, thì Barthes sẽ phịa ra nó. Nhưng nước Nhật ở trong Đế Quốc Ký
Hiệu cũng
không thực, như Barthes cẩn trọng nói với chúng ta là, ông không nghiên
cứu nước
Nhật thực, mà là một nước Nhựt của riêng ông, do ông ‘chế’ ra. Trong
cái
nước Nhựt
giả tưởng này, thì không hề có cái "bên trong" khủng khiếp như là ở Tây
phương.
Không linh hồn, tâm hồn, không Thượng Đế, không số mệnh, không cái tôi,
không vinh quang, không đỉnh cao, không siêu hình,
không “cơn sốt lên lương, lên chức, vô Đảng, vô BCT” và sau cùng, không
có cái gọi
là ý nghĩa.
Với Barthes, Nhật
Bản là một thí nghiệm, một thách đố để suy nghĩ về cái không thể suy
nghĩ, một
nơi chốn mà ý nghĩa thì sau cùng bị loại trừ. Thiên đường, thực sự là
vậy, cho
một tay sinh viên lớn, về ký hiệu.
Thursday,
April 21, 2011 1:18 AM
Thưa bác Gấu:
Câu thứ tư khổ đầu bài Đẹp xưa,
nếu tôi nhớ
không nhầm, phải là:
Một trời
thu rộng mấy hàng mây nao
Vả lại, tác
giả Lửa thiêng không phải là nhà thơ
mới vào nghề, đến nỗi phải mắc lỗi lặp lại âm tiết “cao” trong câu thơ
kế tiếp
Kính
DV
Note: Bài
thơ Ðẹp Xưa, khi đánh máy,
post lên, là Gấu đã biết sai rồi. Tính để sáng coi
lại, và, kể như suốt đêm băn khoăn với vấn nạn, “không phải cây
cao, chắc chắn rồi, nhưng thế thì nó
là cái gì?”
Tới 4 giờ
sáng thì thức giấc, thấy cái mail của độc giả DV, mới ơ rơ
ka 1 tiếng, hoá ra là như vậy!
Tks
again. NQT (a)
30.4.2014
A chronicler
who recites events without distinguishing between major and minor ones
acts in
accordance with the following truth: nothing that has ever happened
should be
regarded as lost for history. To be sure, only a redeemed mankind
receives the
fullness of its past - which is to say, only for a redeemed mankind has
its
past become citable in all its moments. Each moment it has lived
becomes a citation à l' ordre du jour - and that
day is Judgment Day.
Walter Benjamin: Illuminations. Theses on the Philosophy
of History
Một
ký sự gia kể những
biến động không phân biệt lớn nhỏ, người đó hành động theo như, hợp
với, sự thực
sau đây: chẳng có gì đã từng xẩy ra, bị coi là mất mát, đối với lịch
sử. Rõ hơn,
chỉ
thứ nhân loại được cứu rỗi nhận được đầy đủ quá khứ của nó - chỉ thứ
nhân loại
mà quá khứ của nó trở thành ‘có thể kể lại trong tất cả những khoảnh
khắc của nó’
- Mỗi khoảnh khắc nó sống trở thành 1
trích
dẫn theo cách kể từng ngày –
và cái ngày đó là Ngày Phán Xét.
Nobel
văn chương 2013
Đỉnh Cao Chói
Lọi. DTH: Nobel văn chương?
Ceux qui ne tirent
pas les
leçons du passé sont condamnés à le revivre.
Kẻ nào không rút ra được những bài học quá khứ, kẻ đó bị kết án phải
sống
lại nó.
Hannah
Arendt.
Note: Bài viết này,
của GCC, đọc thú quá!
Hà, hà!
Đối
với hầu hết cư dân của nó, Liên-bang Xô-viết (là một điều gì) còn hơn
cả một nền
văn minh. Còn hơn cả một ấn bản méo mó, hư ruỗng của điều gọi là hiện
đại tính.
Đây thực sự là một thế giới. Thế giới độc nhất mà cư dân của nó hiểu,
và có được.
Và theo như tiền nhân của họ: Đây là đỉnh cao lịch sử, sự hiểu biết, và
thành tựu
của nhân loại.
Lũ
Bắc Kít cũng có 1 niềm tin trời biển về cái xứ Bắc Kít của chúng, y
chang, và đây
là 1 trong những điều giải thích chúng cực mê văn học Nga. Steiner,
trong bài viết Dưới Cái
Nhìn Đông Phương cũng nhận ra điều này. Gấu cũng đã có thời,
cũng tin như vậy.
Phải đến những ngày sắp đi xa, thì mới ngộ ra, không phải, cái làm
chúng giống
nhau, là Cái Ác Á Châu. Bởi thế, khi Munro, Canada, ẵm Nobel, đám phê
bình phán, bà này
là đệ tử của Chekhov, Gấu lắc đầu, nhảm. Đệ tử của Chekhov phải
là
cái em Tẫu, Yiyun
Li trên
TV đã từng giới thiệu.
Bà này mới đúng là chân truyền, y bát của nhà
văn Nga
Chekhov.
Cái Ác Âu Châu, Mỹ Châu, toàn thế giới, không làm sao đọ được
với Cái Ác
Á Châu, với những đại sư phụ như Nga, Tẫu, Bắc Kít.
Tuyệt tác thế giới
Liệu có cường
điệu khi phán Gulag đánh gục
Đế Quốc Đỏ?
Est-il
exagéré de dire que la publication de Gulag a joué un rôle non
néglisable dans
la chute de l' URRS ?
Cường điệu
cái con khỉ. Tác phẩm này là 1 cuộc thám hiểm guồng máy phi nhân, và
trong
khi thám hiểm, khai phá như thế, đã hoàn toàn xóa bỏ huyền thoại ma
quỉ, phục hồi
nhân phẩm con người, trong có cả hạnh phúc, qua lao động cải tạo. Với
sức người
sỏi đá cũng thành cơm, không chỉ như thế, mà còn có mùi con người!
Cuốn sách
cho thấy, Gulag là 1 bộ máy giết người.
Ngoài tính
tài liệu lịch sử ra, thì tại làm sao bi giờ vưỡn đọc Gulag?
Bởi
là vì nó còn quá
cả 1 cuốn bách khoa thực sự. Đó là 1 tác phẩm lịch sử, quá thế nữa, là
sức mạnh
“nói” của văn chương, với những nguồn thông tin, chứng thực từ cửa
miệng – chính
trị, mà còn có văn chương, triết học ở trong đó. Đỉnh cao chói lọi của
nó, chương “Linh Hồn và Kẽm Gai”, là suy tư về phận người bị giam cầm,
qua đó, Solz
nhìn ra vóc dáng của cái thánh thiện.
Cái từ
"ma", “my” trong "ma souffrance", "my pain", quá
thần sầu. Câu tưởng đơn giản, mà kinh khủng quá.
Đây là cái ý mà Steiner đã từng nói tới: Vào thời “You Tube”, thì độc
giả, kẻ
chụp hình, khán giả... cũng là đồng phạm với tên sát nhân.
Eddie Adams, tay Mẽo chụp hình tướng Loan giết VC cũng nói như
vậy: Loan
giết VC bằng khẩu súng, tôi giết Loan bằng tấm hình.
Đọc văn của những đấng VC Trùm, như NN, làm đếch gì có cái gọi là nỗi
đau, của
VC, của Ngụy, của Mít. Chỉ có đỉnh cao thời đại, bước ngoặt lịch sử,
niềm hãnh
diện khùng điên của cả 1 lũ Bắc Kít.
Đó sự thực, và chính nó đẻ ra 1 nước Mít
quá tởm lợm như bây giờ, khi chúng huỷ diệt Ngụy, và chế độ VNCH.
Viết như thế,
lũ khốn này có khi lại chửi Gấu là muốn vực dậy cái xác chết, muốn
"viết
lại / làm lại" lịch
sử.
Chế độ VNCH, theo Gấu là đỉnh cao nhất, mà dân Mít đạt được, nếu nói về
1 xã
hội công bằng, dựa trên nền tảng dân chủ, nhân văn, tình người, tức là
1 Miền
Nam truyền thống, theo ý của Brodsky, như Coetzee đã từng chỉ ra, khi
trích dẫn
bài diễn văn Nobel của ông:
Dân trí cao tới đâu, đạo
hạnh cao tới đó, truy diệt
cái xấu tới đó.
Evil Axis
Sĩ
phu Bắc Kít vs Dalai Lama
Nhà văn
Nguyên Ngọc: Tôi sinh ra ở Quảng Nam - Đà Nẵng, nhưng tuổi đời đẹp nhất
của tôi
lại sống, chiến đấu và viết ở Tây Nguyên. Nếu không có Anh hùng Núp, cụ
Mết thì
không có “Đất nước đứng lên”, không có “Rừng xà nu”… và đương nhiên
không có
Nguyên Ngọc. Chính cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ của
đồng
bào Tây Nguyên, chính văn hóa Tây Nguyên với những mái nhà rông, tiếng
cồng
chiêng vang giữa núi rừng, những đêm uống rượu cần nghe già làng kể sử
thi… tất
cả khiến Tây Nguyên như một bầu sữa mẹ, tạo nên ngôn ngữ văn chương
Nguyên Ngọc.
Tôi không nhận mình là một tài năng văn chương, tôi chỉ ghi lại hiện
thực đời sống
nơi núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ thôi. (1)
Đây là nghịch
lý của cuộc chiến, thì cứ nói đại như vậy: Một khi chấp nhận anh hùng
Núp, thì
phải chấp nhận cái gia tài cuộc chiến là một nước Mít như hiện nay.
Não bộ của những đấng VC tinh anh bị liệt 1 nửa, là vậy.
Chúng không làm sao chấp nhận sự thực, cái chế độ Ngụy mà chúng huỷ
diệt, đẹp
hơn nhiều, so với bất cứ 1 chế độ mà dân Mít đã có được.
Đau thế!
Cả 1 cuộc chiến, chết 3
triệu người, chưa kể di tản, vượt biển, để đẻ ra cái chế
độ cực kỳ khốn kiếp như hiện nay, nhưng chưa khốn kiếp bằng cái chuyện,
cứ sử
thi cách mạng, anh hùng Núp ca hoài, ca hoài, không hề thấy thúi, không
hề thấy
nhục nhã!
Đây cũng là
nghịch lý mà Todorov nêu ra trong bài viết được TV giới thiệu (1)
Ngày mà
chúng ta chấp nhận ý nghĩ bi thảm, khi tuyên bố, chủ nghĩa CS là con
đường nhức
nhối (tortueuse) dẫn từ "chủ nghĩa tư bản" đến "chủ nghĩa tư bản",
khi đó, những người dân tại những nước cựu-toàn trị chẳng thể nào nhìn
ra, ý
nghĩa cuộc đời này (Todorov, p.69, sđd).
Đúng như
thế.
Dân Mít còn đau hơn thế: cái “chủ nghĩa tư bản” mà Mít đang có, là Tư
Bản Đỏ
Mafia, của “chỉ” những tên Mafia Đỏ.
Một tên -
cha đẻ của những quỉ sứ như anh hùng Núp, cả đời chưa từng tỏ ra cũng
biết đau,
như bất cứ 1 tên Mít nào, bi giờ chửi cả nước là “ơ thờ, vô cảm”, chúng
“ơ thờ,
vô cảm” là hậu quả của những ác quỉ Núp - do 1 nửa bộ óc bị thiến, nên
đếch làm
sao nhận ra được nghịch lý này!
Đâu chỉ 1
tên, mà cả 1 miền đất!
Một nửa xứ Mít!
Yiyun
Li
Nếu tôi trở
về lại
If I Go Back
Lần đầu tiên
Yiyun Li nhìn thấy một nhóm tù nhân trên đường đi tới bãi hành hình là
khi cô 5
tuổi. Có ba người đàn ông và một người đàn bà, tay bị trói, líu ríu leo
lên
pháp truờng dã chiến ở một cánh đồng bên ngoài thành phố Bắc Kinh. Viên
sĩ quan
giơ tay, hô to: “Xử tử những tên trộm cướp phản cách mạng!” Cô bé 5
tuổi mừng rỡ,
bởi vì thế giới, một khi bớt đi những tên trộm cướp, những tên dám làm
điều
nguy hại cho thiên đàng xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, thì chắc chắn là
sẽ tốt đẹp
hơn.
Trong Ngàn
năm kinh kệ, Yiyun Li không chỉ kể những câu chuyện về những tên trộm
cướp, mà
còn nhiều chuyện khác. Những câu chuyện thật thông minh, thật tinh tế,
là những
đan dệt những thực tại chua cay của cuộc sống mỗi ngày không chỉ dưới
thời Mao,
mà còn dưới thời kỳ những người kế vị ông, trong bước nhẩy vọt tới chủ
nghĩa tư
bản thô tục, trần trụi.
Trong tương
lai những sử gia sẽ nhìn lại những bước đầu tiên của TQ dẫn tới địa vị
siêu cường,
như là một sự thay đổi kinh tế quan trọng nhất kể từ cuộc Cách Mạng Kỹ
Nghệ. Về
những thay đổi như thế có ý nghĩa gì tới người dân TQ bình thường bây
giờ, họ sẽ
đọc những câu chuyên của Li về những người già cả gặp nhau uống trà
trong những
tiệm cà phê bên ngoài một siêu thực mới mọc ra; những người trẻ mơ một
cuộc đời
mới ở Mỹ, có thể có tiền gửi về cho gia đình bà con; những bà già mất
hết tiền
dành dụm do sự sụp đổ của những nhà máy quốc doanh, cố kiếm việc làm
như là một
thứ đầy tớ tại những trường tư đầu tiên của xứ sở. Những nhà sử học xã
hội còn
nhận ra sự thay đổi về thái độ, cách ứng xử, khi đám trẻ dám hôn nhau
công khai
giữa công chúng qua lại mà không còn e dè sợ hãi, khi người đàn bà dám
công
khai bầy tỏ sự bất bình, khi những sinh viên được xem những cuốn phim
Mỹ đầu
tiên trong đời.
Nhưng đó
không phải lý do độc nhất Li đáng đọc. Như nhà văn mà bà mến mộ,
William
Trevor, bà thật tài tình nắm bắt cái tinh tế chi ly, cái thoáng chốc
xuất hiện ở
nơi tư tưởng và hành động, ở trong những truyện ngắn của mình, bất
thình lình
thả người đọc bà vào trong những thế giới tin tưởng được, đúng rồi, nó
như vậy
đó. Đúng cái thực, cái thực đúng như thế, đúng rồi, nó như vậy đó, ‘the
real
thing’, đó là từ ngữ mà Salman Rushdie ngợi khen bà. Truyện của bà đã
được in
trên The Paris Review, the New Yorker, đã từng được giải thưởng này nọ,
mặc dù vậy,
tình trạng cư trú tại Mỹ của bà cho tới lúc này thật bấp bênh, và có
thể bị trả
về TQ bất cứ lúc nào. Khi được giải thưởng Cork vào tháng 10 năm ngoái,
2005,
bà không dám đi dự lễ trao giải, vì sợ trường hợp di trú của bà bị từ
chối, phải
thu vén đồ đạc trở lại TQ.
Theo lý thuyết,
Mẽo cho phép những nghệ sĩ thứ thiệt, có khả năng lạ thường,
extraordinary
ability, ở lại, nhưng trên thực tế, điều này được cắt nghĩa một cách
thật chật
hẹp. Là một Chekhov đương thời của thế giớ,i OK, nhưng làm sao chứng
minh đây?
Tiếu lâm là,
nếu bà thực sự là một nhà ly khai, thì lại dễ ợt! Nếu bà viết những câu
chuyện
có tính tuyên truyền, thật dữ dằn, thật gây sốc, nhằm tố cáo “Cái Ác
Đại Háng”,
thay vì những truyện ngắn rất người rất nhân bản, Li ngay lập tức được
công nhận
[qualify] tư cách tị nạn.
Vấn đề thực
sự ở đây là, Li không thực sự là một nhà ly khai. Thế mới thú vị! Bà đã
sống ở
Mẽo 10 năm, không trở lại TQ, và vẫn muốn, một ngày đẹp trời về lại để
gặp lại
bố mẹ vẫn ở đó.
Liệu chuyện
đó có ngày sẽ xẩy ra, trở về TQ thăm bố mẹ? Tôi cũng chẳng biết nữa.
Tuy vậy,
ngay cả như vậy, tôi từ chối sách của tôi được dịch qua tiếng TQ. Tôi
không biết,
nó sẽ được chấp nhận như thế nào, ở đó. Nhưng tôi là công dân TQ, và
tôi trở về,
họ sẽ làm gì với tôi, tôi cũng không thể biết được. Ngay cả những người
TQ có
quốc tịch Mẽo, trở về, mà còn bĩ hành hạ đủ thứ kiểu, và bị bắt giữ bởi
đủ thứ
lý do quái quỉ, đây là nỗi băn khoăn của Kim Dung, xin lỗi, của những
người TQ
trí thức hải ngoại: chẳng bao giờ an toàn, nếu trở về!
*
Sự kiện
Thiên An Môn, với bà và nhiều người khác, là điểm ngoặt. “Tôi trở thành
người lớn,
một kẻ trưởng thành, sau sự kiện đó”, bà viết. Bà 17 tuổi, khi đó. Đó
là Thứ Bẩy,
bà và bạn đi tới lớp học toán , và khi trở về, lúc đó là 6.30 chiều, và
mọi người
đã kéo những chiếc xe buýt ra đường nhằm cản bước tiến của quân đội.
Rất nhiều
người tràn ra đường, vì tất cả đều nghĩ, quá nhiều người như thế, thì
quân đội
không dám nổ súng. Li và bà chị lớn bị nhốt ở trong nhà, với ông bố
đứng canh
chừng; bà mẹ ra đường thăm thú tình hình. Bà không đi tới được quảng
trường,
nhưng chứng kiến cảnh tượng một bà mẹ ôm đứa con gái bẩy tuổi bị bắn
chết trên
tay, rũ rượi đi trên đường phố. Bà mẹ trở về nhà, khóc nức nở. Không ai
quên nổi
tuần lễ đó.
“You
were not who you were, but what you were rationed to be”:
Mi không phải là mi,
mà là kẻ được cái chế độ tem phiếu đó nắn khuôn.
Note: Thấy
trên Gió-O một bài, đọc song
song với HOPE IN A THIN SHELL, trên, thật tuyệt.
TV sẽ có bản tiếng Việt sau, cũng đọc song song với bản tiếng Việt của
Gió O.
Lý do là,
bài viết gợi ở Gấu quá nhiều kỷ niệm. Dịch tới đâu, kỷ niệm sống lại
tới đó. Thỏi
Xô Cô La lần đầu được ăn, Gấu đã từng kể, và cùng với nó là cây viết
chì màu
xanh đỏ hai đầu, những chiếc kẹo bột, Gấu được ăn lần đầu tiên ở 1 làng
ven đê sông Hồng, làng Vân Xa, quê ngoại của Gấu.
Cuồng
Tuyết
Snow Mania
Kafka's
Prague
Prague của
Kafka
Prague isn't willing to
leave nor
will it let us leave. This girl has claws and people must line up or we
will
have to light a fire at Vysehrad and the Old Town Square before we can
possibly
depart.
-Excerpt
from a letter from Kafka to Oskar Pollak
Xề Gòn đếch
muốn bỏ đi, mà cũng đếch muốn GCC bỏ đi.
Ẻn có răng, có móng, có vuốt, sắc lắm!
Trong bài viết
của Bei Dao, trên, có nhắc tới cuốn sau đây.
Đúng là “hàng độc” về Kafka, do bạn
quí của ông viết.
Kafka,
hàng độc
"Kafka
was Prague and Prague was Kafka.
It had never been so completely and so typically Prague, nor would it
ever again
be so as it was during Kafka's lifetime. And we, his friends ... knew
that this
Prague permeated all of Kafka's writings in the most refined miniscule
quantities." From an intimacy with a common spiritual homeland shared
with
Kafka, Professor Johannes Urzidil conjures up the essential background
of the
poet and provides authentic emphases for the understanding of his
literary art.
Personal experiences and recollections, wide reading, penetrating
insight, and
love congeal in Urzidil into an authentic and convincing interpretation
of the
living atmosphere surrounding Kafka and of his prime literary motifs
and ideas.
This edition, like that of the Deutsche Taschenbuch Verlag, has been
enlarged
so as to include five hitherto unpublished chapters, viz., impressive
portraits
of people close to Kafka, commentaries on Kafka's relation to the
visual arts,
on the history and impact of the Colem myths, on Kafka's intent at one
time to
destroy his manuscripts, as well as Urzidil's speech at the
commemorative
observance in 1924 in the Little Theater in Prague shortly after
Kafka's death.
Professor Johannes Urzidil
was born in 1896 in Prague. After completing his philosophical
studies there, he became one of the younger poets of the German
expressionist movement
and was in close contact with the Prague Literary Circle of Brod,
Kafka, Werfel,
and others. In 1939 he emigrated to the United States via Italy and
England and
settled in New York, where he is still living. His first publication
was a
volume of expressionistic poems (1919). Professor Urzidil has published
seven
volumes of stories and novels and is the author of many essays and
treatises.
Among his better known and more important scholarly works are Goethe in
Bohmen
(Goethe in Bohemia), 1962; Goethes Amerikabild (Goethe's Image of
America),
1958; and Amerika und die Antike (America and Ancient Antiquity)1964.
He was
awarded the Swiss International Prix Veillon for the best German novel
(1957),
the literary prize of the City of Cologne (1964), the Great Austrian
State Prize
for Literature (1964), and the Andreas Gryphius Prize (1966). He is a
corresponding
member of the German Academy of Language and Poetry in Darmstadt, of
the Austrian
Adalbert Stifter Institute and of several other learned and literary
societies.
Works of Johannes Urzidil have been translated from the German
originals into
English, French, Italian, Czech, Dutch, Hungarian, Russian, and Spanish.
jacket
design by S. R. Tenenbaum
Sài Gòn là Gấu,
và Gấu là Sài Gòn. Sài Gòn sẽ chẳng bao giờ hoàn tất đến như thế, đặc
biệt Sài
Gòn đến như vậy, và nó sẽ chẳng bao giờ lại như vậy, như trong đời của
Gấu,
khi ở Sài Gòn!
Gấu “dịch loạn”
câu, "Kafka
was Prague and Prague was Kafka. It had never been so completely and so
typically Prague, nor would it ever again be so as it was during
Kafka's
lifetime.
Cái “Sài Gòn
là Gấu và Gấu là Sài Gòn”, áp dụng chung cho tất cả chúng ta, Miền Nam,
và nó là 1
chân lý, bị cố tình hiểu lầm ra là, toan tính phục hồi cái xác chết
VNCH.
Cái "gì
gì" lịch sử có thể viết lại nhưng không thể làm lại! [Châm ngôn lừng
danh
của SCN] (1)
Valentine's Day
8/3
Trong Tuyển
Tập Thơ do Czeslaw Milosz tuyển chọn, mà TV thường giới thiệu, Cuốn sách của những
sự vật sáng ngời, A Book of Luminous Things, có một chương, Da
Đờn Bà,
Woman’s Skin, toàn những bài thần sầu về cái làn da thần sầu. Nhân Ngày của Các
Bà, bèn đem ra cùng tụng. Nhưng, trước khi tụng, post lại khúc
sau đây, về kỷ
niệm lần đầu chiêm ngưỡng một em Nam Kít.
Có liên quan tới… Da Mùi/Màu
Hồi đó ở với
bà chị họ, nơi ngoại ô Bạch Mai. Một bữa có một ông chú, từ Sài-gòn
ghé. Gọi là
chú, vì ngày trước học chung với ông già. Chú Th. quê Phú Hữu, một làng
nằm
trên sườn một ngọn đồi, dưới chân núi Tản. Ngày nhỏ theo bà già từ
Thanh Trì,
ven sông Hồng, vượt hết cánh đồng Sơn, đứng từ dưới nhìn lên, những căn
nhà lẩn
sau đám cây trên đồi. Bà già chỉ: nhà bà Hàn kia kìa. Gái Thanh Trì
thường làm
dâu Phú Hữu. Cậu bé có mấy bà cô ở trên đồi. Trai Phú Hữu thường ra
Thanh Trì
làm học trò ông giáo Dực. Ông già và chú Th. học chung lớp. Chú thi
rớt, bị bố
la, bỏ xứ Bắc, nhẩy tầu đi một lèo tới Sài-gòn làm giầu. Ông già thi vô
sư phạm,
ra làm hiệu trưởng trường tiểu học, mỗi nhiệm sở đẻ một đứa con làm
dấu. Đứa Hải
Dương, đứa Lục Yên Châu... Nhiệm sở chót Việt Trì (Vĩnh Yên), năm 1945,
rồi
"thôi" luôn.
Lần đó chú Th. ghé chơi trên đường về quê,
mang làm quà cho mấy trái xoài, và dẫn thằng cháu đi mua cho một đôi
giầy, vô
tình cho nó một thú vui: đánh thật bóng, rồi thử xem bụi hè phố Hà-nội
mất mấy
ngày mới làm mờ.
Lần gặp lại,
là ở Sài-gòn. Ông hỏi: "Nước nhà độc lập rồi, còn 'dzô' đây làm gì?"
Ông hình như lấy làm tiếc cho thằng con người bạn học. Cộng sản
"nòi", bố bị đảng phái thủ tiêu. Lý lịch "tốt" như thế, bỏ
đi thật uổng! Chửi một hồi thấy tội, ông nhắc lại một vài kỷ niệm, hồi
học
chung với ông già. Giầu có như vậy, ông vẫn nhớ, và cười cười, mày chắc
cũng đã
hưởng qua nhiều lần, cái thú ngồi giữa đồng làng, làm một trong tứ
khoái, rồi
"chịn" lên mặt cỏ tươi. Làng Thanh Trì của tôi, chú chỉ nhớ có vậy.
Thú thật! Làng Thừa Lệnh, quê Chu Tử, kế ngay bên Phú Hữu. Hai người
hình như
quen nhau, từ hồi còn nhỏ. Cô bé con chú Th. là "mặc khải" miền nam,
Sài-gòn của tôi. Dây mơ rễ má với Hà-nội, là vậy.
"Nới"
rộng ra, nó liên can đến cả một miền đất.
Nhiều người Bắc chắc còn
nhớ cái váy nâu, cái quần thâm. Vải may xong, nhúng nâu, nhúng
bùn, phơi nắng, cho tới khi cứng như mo cau, mới được xỏ vào người. Lần
bà chị
đưa đứa em tới "trình diện" ông chú, người đàn bà miền nam xuất hiện
trước thằng nhỏ Bắc-kỳ, là hình ảnh một cô bé trong bộ bà ba đen, mỏng,
mượt,
mát, như... làn da thứ nhì của con người. (1)
STEVE KOWIT
1918-
Why is the
most simple scene of a woman before a mirror a very sensuous poem? Of
course,
it's because of a red lip, the tip of the tongue which licks it, and
because of
the admiration with which she looks at her eyes.
Tại làm sao mà tình như thế này, cái cảnh tượng đơn giản, “em của Gấu”
đứng trước
gương? Lẽ tất nhiên, bởi là vì đôi môi đỏ, cái lưỡi đỏ, liếm nó, và bởi
vì em
mê mẩn ngắm em trong gương, ngắm cái thân hình mĩ miều lồ lộ, trước mắt
em
IN THE
MORNING
In the
morning,
'holding her
mirror,
the young
woman
touches
her tender
lip with
her finger
&
then with
the tip of
her tongue
licks it
&
smiles
&
admires her
eyes.
after the
Sanskrit
CHU SHU CHEN
C.1200
I nearly
fell in love with this poet, Chu Shu Chen, about whom not much is known
except that
she lived some time around 1200, and one morning suffered because of
her
solitude. Reluctantly yet willingly she listened to her servant, who
was ready
to enhance
her physical charm. The plum flower had a clearly erotic meaning in
that
civilization.
MORNING
I get up. I
am sick of
Rouging my
cheeks. My face in
The mirror
disgusts me. My
Thin
shoulders are bowed with
Hopelessness.
Tears of loneliness
Well up in
my eyes. Wearily
I open my
toilet table.
I arch and
paint my eyebrows
And steam my
heavy braids.
My maid is
so stupid that she
Offers me
plum blossoms for my hair.
Translated from the
Chinese by
Kenneth Rexroth
LI
CH'ING-CHAO
1084-1142
Li Ch'ing-chao
was once as famous as Li Po and Tu Fu among men. I have read hat often
in her poems there is a fusion of convention (such as one sees in "the
poems of an
abandoned concubine”) with real experience (the death of her husband).
HOPELESSNESS
When I look
in the mirror
My face
frightens me.
How horrible
I have become!
When Spring
comes back
Weakness
overcomes me
Like a fatal
sickness.
I am too
slothful
To smell the
new flowers
Or to powder
my own face.
Everything
exasperates me.
The sadness
which tries me today
Adds itself
to the accumulated
Sorrows of
the days that are gone.
I am
frightened by the weird cries
Of the night
jars that I cannot
Shut out
from my ears.
I am filled
with bitter embarrassment
When I see
on the curtains
The shadows
of two swallows making love.
Translated from the
Chinese by
Kenneth Rexroth
Cái tình yêu
mà chúng ta gọi là một bữa ăn
The New
Yorker, March 9, 2014
Russia The Wild East
Puntin's Pique
In other words, Putin risks
alienating himself not only from the
West and Ukraine, to say nothing of the global economy he dearly wants
to join,
but from Russia itself. His dreams of staying in office until 2024, of
being
the most formidable state-builder in Russian history since Peter the
Great, may
yet founder on the peninsula of Crimea. ♦
Nói 1 cách
khác, Putin tự rủi ro chính mình, trở thành 1 kẻ vong thân, ra khỏi Tây
Phuơng,
chưa nói tới kinh tế toàn cầu mà ông muốn gia nhập, mà còn ra khỏi nước
Nga, chính nó. Giấc mơ của
ông, ngồi lỳ ở ghế Tông Tông tới năm 2024, Ông Trùm của một nhà nước
vững vàng như chưa từng
vững vàng, khủng khiếp nhất, trong lịch sử Nga, kể từ Peter Đại Đế, có
lẽ may mắn lắm, nhưng cũng chưa chắc, nhà tạo lập nhà nước có tên là
bán đảo Crimea. [Bán đảo nhe, không phải quần đảo!]
Cái tít bài
viết, là từ truyện ngắn Con Đầm Pique
của Puskhin. GCC mê truyện này
nhất,
trong những truyện của ông. Phát Súng
cũng quá mê, chưa kể Con Gái Viên
Đại Uý.
Tình Trại
"Tình
Trại" là một trong những cuộc phỏng vấn những kẻ sống sót từ trại tù
Norilsk.
Angus
Macqueen, tác giả-người phỏng vấn, là một nhà làm phim tài liệu (phần
lớn cho
đài BBC), chuyên về Liên-bang Xô-viết và Đông-Âu. Bài viết lấy từ tạp
chí
Granta 64, Winter 98, đặc biệt về Nga-xô: Miền Đông Hoang Dã.
Một xứ sở rộng
lớn nhất: một phần sáu đất đai địa cầu. Nơi máu đổ nhiều nhất: Trước
tiên, là
cách mạng 1905, bị đè bẹp bằng máu. Tới cách mạng 1917, thành công,
cũng bằng
máu. Rồi thời đại Stalinism, với hàng triệu mạng người bị giết, bằng
tống xuất,
diệt chủng, trại tù; địch thủ của nó: cuộc xâm lăng của Nazi, đã lấy đi
chừng
20 triệu công dân Xô-viết. Như Anatol Lieven, tác giả cuốn sách vừa
xuất bản,
viết về cuộc chiến Chechnya: Bia mộ của Quyền lực Nga: Đối với hầu hết
cư dân của
nó, Liên-bang Xô-viết (là một điều gì) còn hơn cả một nền văn minh. Còn
hơn cả
một ấn bản méo mó, hư ruỗng của điều gọi là hiện đại tính. Đây thực sự
là một
thế giới. Thế giới độc nhất mà cư dân của nó hiểu, và có được. Và theo
như tiền
nhân của họ: Đây là đỉnh cao lịch sử, sự hiểu biết, và thành tựu của
nhân loại.
St.
Petersburg của miền bắc: Norilsk. Angus Macqueen đã từng mơ tưởng, thăm
viếng
nó: một thành phố ở giữa chốn không đâu (this town in the middle of
nowhere).
Nhưng theo ông, dưới chế độ Xô-viết, nó là một thành phố kín, "gia
tài" của nó, ngoài tù nhân ra, còn là mỏ kim loại, hai vốn quí trong
toan
tính kỹ nghệ hóa xứ sở. Trại tù chết theo Stalin vào năm 1953 nhưng
Norilsk vẫn
tiếp tục tăng trưởng: Tù nhân, không còn một nơi chốn để đi, hoặc quê
hương để
về, đành chọn nó: chốn lưu đầy biến thành quê nhà.
Như một người
con gái của một tù nhân, nói: "Chúng tôi không có một nơi nào để đi, và
chẳng
có gì để mang theo. Chúng tôi lại ở trại."
Jadwiga
Malewicz
Tôi lấy người
cai tù. Một người cai tù có gốc. Tôi thực không biết chuyện đó xẩy ra
như thế
nào. Anh ta luôn nhìn tôi. Đăm đăm nhìn. Trong lúc đưa chúng tôi đi lao
động,
anh ta nói: "Đội Trưởng, tôi sẽ lấy cô". Tôi trả lời: "Vô lý, quản
giáo. Anh không thể làm điều đó". "Để rồi coi". Bạn tưởng tượng
nổi không? Anh ta cai tôi hai năm trời. Và tôi không hề đáp lại. Tôi
thực không
thích bạn. Anh ta đợi tôi thêm ba năm. Tôi vẫn quay lưng. Rồi cái ngày
ấy tới.
Lao động về, tôi nhìn thấy giấy ra trại trên chiếc gối. Đau đớn làm
sao. Tôi
nghĩ: Đi đâu bây giờ? Họ đưa bạn tờ giấy, dẫn bạn ra ngoài, và bạn
chẳng có một
căn phòng, chẳng có gì hết. Muốn đi đâu thì đi, nếu có thể. Chuyện như
vậy đó,
bạn biết không. Nếu tôi có một nơi để mà đi... nhưng làm sao tôi rời
đi. Tôi ngồi
trên giường, gỡ băng "Đội Trưởng" đưa cho người khác. Tôi bảo cô ta
đừng
nói cho anh cai tù mê tôi, tôi được thả. Nhưng tới cổng, anh đợi tôi ở
đó. Tôi
ôm cái bị nhỏ, món quà mừng ngày được tha. Gia tài chút xíu. Anh trờ
tới:
"Đội Trưởng, để tôi mang giùm." "Tôi đâu còn là đội trưởng nữa",
nhưng tôi đưa anh cái bị, và bạn biết đấy, ngu đần như con cừu, tôi đi
theo
anh. Anh đã xoay xở được một căn phòng. Khi tới, úi trời, tôi thấy
người quản
giáo. Ông mướn phòng chung sống với người đàn bà quản trại tôi. Bà ta
nói:
"Lúc nào cũng nghe anh khoe, anh chài được cô gái xinh đẹp, bây giờ cô
ta
đây này!" Họ bắt đầu uống. Những ngày đó, ngoài uống ra đâu còn gì. Họ
uống.
Tôi không làm sao uống nổi: họ đưa tôi nhấp thử một hụm và tôi gần
nghẹt thở. Họ
cười nhạo tôi. Người đàn ông "của tôi" kiếm chỗ nằm, và người đàn bà
nói: Còn cô này nữa, ngồi đây làm gì? "Bà nói chi?"
Tôi ngồi bàn
suốt đêm. Nhưng, là anh ta. Biết làm sao khác? Tôi cũng quen dần. Tôi
chịu đựng
cắn rứt, dằn vặt ròng rã ba mươi năm. Cuối cùng ly dị. Anh tìm về làng
cũ ở
vùng Trung Nga, và chết ở đó. Anh uống tới chết. Còn trơ tôi ở đây.
Jennifer
Tran
Grigory
Morozov
Grigory Morozov was a
young conscript
sent to Norilsk to guard the prisoners. He ended up marrying Julia, one
of the
'fascists' (his word) he was sent to deal with.
We would
enter a barrack, two guards and all those women ... What women! Mainly
young
... My God! They were twenty-two or twenty-three years old. You know.
So young
... I wouldn't say that they were overly thin, you know-fat, some of
them. Some
were pretty, it was something. I would say 'Girls! What shall I search
for in
here?' And one of them would say: 'Come and search me, love.' She'd
just take
off her top. Deliberately, probably they were dressed like that ...
Well, she'd
just strip off. 'What do you want to search for in here?' she'd say,
'We'd be
better off .. .' I didn't know then that it was possible for women to
rape a
man to death. One time this girl said to me: 'Come on .. .' But I was
still
shy, and, as they say, I still had a conscience. I turned away and left.
All those
women ... our commanders told us not to mess with them. Once a group of
women
were to be transported elsewhere and replaced by men. And when the
special
transport detachment started to march the women off, I saw some guards
running
after them. Several men running after the women prisoners. Without
their guns
or anything. I shouted: 'What's going on? Why are you running after
them?' They
said: 'They're our girls.' The officers were shouting: 'What are you
doing?'
and all that. You know. 'Come on ... Get back! Stop it!' And the
soldiers were
crying. You see, they had made friends there. They had got acquainted,
everything. They were man and wife already. What a comedy.
“Maigret
trở
lại”
Walter
Benjamin: A Tribute
Hai tác phẩm
sử thi của thế kỷ 20 là hai tác phẩm lớn lao về điêu tàn.
Thi khúc [Cantos ] của Pound, và Thương
Xá, [The Arcades Project], của Benjamin.
Từ một khoảng
cách, tuyệt tác của Benjamin, kỳ cục thay, gợi nhớ một điêu tàn lớn lao
khác của
văn học thế kỷ 20, "Thi khúc" ("Cantos"), của Pound. Cả hai
tác phẩm đều được chiết ra từ những năm tháng đọc sách theo kiểu cú vọ
(jackdaw
reading). Cả hai đều được dựng nên từ những mẩu đoạn và những trích
dẫn, và
trung thành với một thẩm mỹ học hiện đại bậc cao, về hình ảnh và dàn
dựng. Cả
hai đều có tham vọng kinh tế và đều nằm dưới sự chứng giám của những
nhà kinh tế
(một bên là Marx, và một bên là Gesell và Douglas). Cả hai tác giả đều
có đầu tư
vào trong những ngành cổ học, và cả hai đều đánh giá quá cao sự thích
nghi của
chúng đối với thời đại của chính họ. Chẳng người nào biết, khi nào thì
dừng. Và
cả hai, sau cùng đều tiêu ma vì con quái vật là chủ nghĩa phát xít. Với
Benjamin, là một kết cục bi đát. Với Pound, ô nhục.
Coetzee: Những
Kỳ Tích Về Benjamin
Nói gần nói
xa, chẳng qua nói thẳng:
Mít chúng ta cần 1 tác phẩm, về “Điêu Tàn ư, đâu chỉ điêu tàn”.
Hay 1 thứ, cẩm
như “Ô Nhục” của Coetzee!
Kafka
Coupable
Một Kafka Khác
A Different
Kafka
by John
Banville
Note: Tay này, John
Banville , nhà
văn số 1, phê bình, điểm sách cũng số 1.
Phê bình gia Mít, ít
khi viết
điểm sách, vì lười đọc, và đọc, cũng đếch biết viết 1 bài điểm sách cho
ra hồn!
Đó là sự thực.
Thử đếm coi,
Thầy Kuốc điểm sách của ai, khui ra được nhà văn nào. Mũi lõ cũng
không, mà mũi
tẹt lại càng không?
Thầy Phúc thì cũng rứa.
Nữ phê bình
gia viết bằng tiếng Tẩy, DCT, cũng thế.
TK y
chang.
GCC ư? Nhiều
lắm.
Bảo Ninh, thí dụ, Gấu phát
giác ra, ở hải ngoại, và cái ông BN mà
Gấu viết,
cũng khác ông ở trong nước.
Vầng Trăng Góa, Gấu chỉ ra.
Nhà dzăng đang lú lên, Bà Tám nào đó, cũng GCC phát giác!
Hà, hà!
Miêng, Mai Ninh, Trần
Thanh Hà, Trần Thị NgH... Gấu đều trân trọng viết
về họ.
Of course,
Kafka is not the first writer, nor will he be the last, to figure
himself as a
martyr to his art—think of Flaubert, think of Joyce—but he is
remarkable for
the single-mindedness with which he conceived of his role. Who else
could have
invented the torture machine at the center of his frightful story “In
the Penal
Colony,” which executes miscreants by graving their sentence—le
mot juste!—with a metal stylus into
their very flesh?
Lẽ dĩ nhiên,
Kafka đâu phải nhà văn đầu tiên, càng không phải nhà văn cuối cùng,
nhìn ra
mình, lọc mình ra, như là 1 kẻ tuẫn nạn, vì cái thứ nghệ thuật mà mình
chọn lựa
cho mình: “dziếc dzăng”!
Hãy nghĩ tới Flaubert, hãy nghĩ tới Joyce [Xém 1 tí là thêm tên GCC
vô!]. Nhưng
ông bảnh nhất, khác hẳn mấy tay kia, là, loay hoay hì hục, chỉ chúi vô
có mỗi cú
đó, với “cái mình, cái đầu, cái tim của mình” [the single-minded] chỉ
xoáy vô
có mỗi chỗ “ấy ấy”, và từ đó, tìm ra, nhận ra vai trò của mình, "nhà
dzăng".
Làm sao có thằng cha nào, ngoài Kafka ra, phịa ra được cái máy tra tấn
người ở
trung tâm câu chuyện đáng sợ “Ở thuộc địa trừng giới" [xém thêm cái tên
của
nó, là Xứ Mít bi giờ!], nó hành quyết những tên “ly khai, dám chống lại
Đảng VC”,
bằng cách dùng cây kim châm khắc mẹ bản án [le mot juste], vô da vô thịt họ.
“Kim chích vô
thịt thì đau” là theo nghĩa này đấy!
Kafka, “the
poet of his own disorder” (a)
[Note: Trang TV này cũng đang hot, nhờ vậy mà GCC mới biết đến nó]
Le
Promeneur
Solitaire: W. G. Sebald on Robert Walser
Đi tìm phê
bình gia Mít
1.
Lang Băm | March 8, 2014 at 4:00 pm
Ông T
Tôi nghĩ ông
nên từ tốn và tiêu hóa điều mình muốn phát biểu trước khi viết xuống.
Ông hơi tự
sướng quá đà.
Ông ở tận
Canada ông làm sao biết ở Calif mối liên lạc giữa các trùm sò văn
chương hải
ngoại thời đó với các bà cỡ Mai Ninh thấu tới đâu. Những áp phe tình ái
của
Khánh Trường với các bà nổi lều bều trên tờ Hợp Lưu đến bao nhiêu hiệp.
Khánh
Trường chủ tờ Hợp Lưu và các “đàn anh văn nghệ” của Khánh Trường mới là
những
người được hưởng nhiều bổng lộc do các bà ham danh dâng hiến, í lộn, do
các bà
nữ dzăng thơi sỡi quyên góp tiền bạc nuôi Hợp Lưu ngày Khánh Trường
chưa ngồi
xe lăn.
Quyển sổ áp
phe của bà Trần Thị Ng.H thì cỡ ông làm gì được chấm mút. Thanh Tâm
Tuyền, Nguyễn
Xuân Hoàng, Nguyễn Đình Toàn thì cũng chưa nhằm nhò gì so với các áp
phe khủng
của bà này
Ông cũng
không phải là nhà phê bình văn học như ông Cuốc Kức thì làm sao mà đòi
đào mả
tên tuổi các ông bà nhà văn nhà thơ hải ngoại.
Ông cũng chả
có công mẹ gì trong cái vụ bà Tám ló ra ló vào văn chương này cả. Lý do
là
trang của ông chỉ một mình ông tự sướng. Bà Tám thì gửi bài cho nhiều
nơi khác
như Da Màu, Việt Văn Mới (newvietart.org), Thư Quán Bản Thảo, Sài Gòn
Nhỏ, và
nhiều nơi khác. Như vậy bà Tám được nhiều nơi khác giới thiệu cùng một
lúc, mà
ông nào có phải là nhà phê bình và là chủ bút một tờ báo nào đâu mà ông
bảo là
ông xúc bà Tám lên.
Note: Cái
này, ở bên Blog một chỗ quen biết, lôi về đây cho tiện để chửi cho đã! (1)
Và cũng để cho chỗ quen biết khỏi bực, vì những chuyện nhơ bửn như vậy.
Gấu & độc giả Tin Văn, thì quen rồi.
Vả như không
quen/ chưa quen [Bi giờ chán TV rùi], thì tạm lánh đi chỗ khác.
Chúa có khi
còn vắng mặt, đúng vào lúc xẩy ra Lò Thiêu, nữa là!
Hà, hà!
GCC nghi,
tác giả là 1 tên thuộc băng đảng Hậu Vệ, hoặc đệ tử Thầy Cuốc.
Cái câu, “ông cũng không phải là nhà phê bình văn học như Thầy
Kuốc”, khiến
Gấu nghi tên khốn này là đệ tử của ông ta. Và, cái giọng nhơ
bửn của
nó. Lũ khốn này, khi TV mới mở ra mục Dọn, xúm vô như ruồi nhặng, sau
thấy quê
quá, lặn dần. Bây giờ lại thấy xuất hiện.
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Khi
điểm tập truyện ngắn “Mây Bay Đi” của Nguyên Sa, và nhìn ra, đây là một
tác
phẩm của một nhà văn dễ dãi và hạnh phúc, Gấu chưa đọc Kafka. Và cú
đánh quá
nặng, vì trúng ngay tim của ông, khiến ông phát khùng lên, và ban cho
Gấu cái
nick thật là tuyệt vời, tên "sa đích văn nghệ".
Còn nhớ, ngồi với ông anh tại Quán Chùa, nhìn cái mặt nhăn nhó của
thằng em,
ông an ủi, làm người thì phải có người ghét, người yêu, cứ tròn xoe như
hòn bi
lăn đâu cũng được, thì nhảm quá. Nhưng ông cảnh cáo, giá mà mày viết về
mấy
thằng bạn văn của mày, y như vậy, thì thành nhà phê bình được đấy!
Phải đến khi đọc Kafka, thì Gấu mới tìm ra câu trả lời, cho những đòn
của
Nguyên Sa và ê kíp, trong có Duyên Anh, dưới tên Thương Sinh, đánh Gấu
ròng rã
cả gần một năm trời trên nhật báo Sống.
Gấu có một kỷ niệm cũng thật là tuyệt vời về chuyện này. Đó là lần đến
thăm cô
học trò, con ông chú T, Gấu có nói tới trong bài viết Tên của cuộc
chiến. Cô lôi ra cả một tập báo Sống,
nói, anh đọc đi.
Hóa ra là cô nhớ Gấu quá, và, thù Gấu quá, vì cái chuyện đi lấy vợ Nam
Kỳ, bèn
cắt tất cả những bài viết chửi Gấu, để dành đọc chơi!
Nhưng kỷ niệm "ôi nhìn nhau lần cuối đi em", mới thật ảo não.
Gấu có ghi lại, trong bài viết về Bình Nguyên Lộc, post lại ở đây:
Gòa không,
Gòa không?
Bình Nguyên
Lộc là nhà văn Miền Nam thân cận nhất đối với thằng bé di cư-tôi ngày
nào. Tôi
làm quen với Sài-gòn là qua ông. Cái trò ngồi quán nhâm nhi ly hồng
trà, ngóng
chờ hồn ma cũ, trong khi tương lai đang đợi ở một ngã tư nào đó, là do
ông, phần
nào.
Ông già tôi
khi còn sống, đặt cho tôi một biệt hiệu: thằng Mõ Phố. Ông làm nghề dậy
học, cứ
bị đổi trú sở hoài. Nghe nói Tây không ưa ông. Thằng con, ngay những
giờ phút đầu
tiên đến đất lạ đã lân la làm quen, từ người đến cảnh. Chưa kịp làm
quen người
bố, ông đã bị đảng phái thủ tiêu.
Mõ Phố vào
Nam, việc đầu tiên, mua một tấm bản đồ thành phố Sài-gòn, rồi "khốn khổ
khốn
nạn" vì nó. Chả là, thằng nhỏ tin theo bản đồ, lần theo đường chỉ, đụng
ngay một đồn Bình Xuyên. Thành phố những ngày đầu di cư, bản đồ nào
"cập
nhật hóa" cho nổi! Người lính gác, chắc chỉ muốn cho thằng nhỏ Bắc-kỳ
một
bài học, bắt đứng đó đến chiều tối; mỗi lần buồn buồn, anh lên cò súng
lách
cách, hăm: Tao bắn bỏ mày! Anh ta làm sao biết thằng nhỏ bị gắn khằn
trong trí
tưởng, hình ảnh một ông bố bị cột đá bỏ sông.
Truyện ngắn
của Bình Nguyên Lộc lúc đó rất ăn khách, và những tờ nhật báo tại
Sài-gòn thường
in kèm như phụ trương. Bạn mua tờ báo, mở ra, truyện ngắn của Bình
Nguyên Lộc
là một "cahier" khổ nhỏ kẹp ở giữa.
Nhớ đến ông,
tôi nhớ đến một người viết khác, ông anh rể của tôi, Nguyễn Hoạt.
Nguyễn Hoạt
thuở mới vào cũng ham viết tiểu thuyết về miền nam. Cuốn Trăng Nước Đồng Nai của
ông kể lại việc kiếm cơm miền nam bằng nghề dậy học tại Biên Hòa. Ông
quá mê thằng
nhỏ xe "lô" (location), mời chào khách:
Gòa không, Gòa không? (Hòa
không, Hòa không?). Ông tả những cô gái miền nam tự nhiên đến
nỗi mặc
"đồ
ngủ", leo cây, hái trái!
Ông chú Th.
của tôi cười ngất, buông một câu: Bộ nó tưởng gái Miền Nam "dễ dzô" lắm
sao?
Bà thím tôi
ngồi kế bên cười tủm tỉm. Hai người sắp thành ba người, mới lo làm đám
cưới!
Nhân đó, ông
hỏi tôi thường đọc ai, tôi nói: Cháu mê Bình Nguyên Lộc. Ông gật gù,
trúng ý.
Trên bàn là một tờ báo hàng ngày, với truyện ngắn mới nhất của ông.
Ông chú này,
tôi đã nhắc tới, nhân đi tìm "cái tên", cho một cuộc chiến. Gọi là
chú, vì cùng học với ông già. Ông thi rớt, bỏ vào Sài-gòn lập nghiệp từ
khi còn
"nước Nam-kỳ", "tân thế giới" của những chàng trai xứ Bắc.
Bà thím gốc xa xưa Tiều, rất hiền. Bà kể lại, kỷ niệm lấy chồng. Ổng
nói, nếu
ngày đó, tôi "hỏng" chịu cưới, bà tính sao? Đành ôm bầu, đẻ con, chịu
làm "gái ngoan" chứ làm sao giờ!
Kỷ niệm
trên, dù sao cũng vui.
Buồn: những
ngày làm ăn khá giả, khi chưa xẩy vụ di cư, bà sợ nhất cảnh đếm tiền
mỗi lần
ông đưa về. Sau bà nghĩ ra một cách thật giản dị: dùng đấu, để đong,
như đong gạo!
Là một
thương gia giầu có nhưng có thể do bỏ Miền Bắc, ông lại càng tin vào
một
"mùa Thu" mà ông đã không có dịp được thưởng thức khí hậu. Mãi sau
này, ân hận, nhưng cũng may, mất trước khi mất miền nam, không phải
chứng kiến
cảnh kiểm kê tài sản.
Cô con gái
thứ của ông là mối tình đầu của tôi.
Tôi mê cô
cùng lúc mê Bình Nguyên Lộc. Thương thằng nhỏ con người bạn học, ông
chú kêu
tôi về làm trợ giáo cho mấy đứa con ông. Không hiểu ông có một vầng
trăng thề
nào không, khi rời xứ Bắc, vì mấy cô con gái đều mang tên người đẹp
cung Quảng.
"Đệ nhị tiểu thư" được cưng nhất, nhưng không vì vậy mà bớt sợ bố.
Ông là một "hung thần" trong gia đình.
Lần cuối,
tôi tới thăm nhưng "vô ý" mang luôn đôi dép dính bùn vô nhà. Cô hoảng
quá la lớn: Anh để dép bên ngoài! Tôi quay ra, dép theo luôn. Mãi sau
này, khá
trộng tuổi, cô mới lấy chồng. Bây giờ hình như hai vợ chồng ở Úc. Không
hiểu
khi chọn tôi làm "trợ giáo" cho mấy đứa nhỏ, ngoài chuyện thương đứa
nhỏ mồ côi, ông chú tôi có bị ảnh hưởng Bình Nguyên Lộc hay không?
Nếu Miền
Nam
của Sơn Nam là một miệt vườn, hoặc "trước" thuở miệt vườn, một hình
bóng cũ; Miền Nam trong Bình Nguyên Lộc, là cảnh nhập nhằng kẻ chợ,
người quê.
Những nhân vật của ông cũng nửa quê nửa tỉnh. Đây là lý do theo tôi,
dân
Sài-gòn rất mê ông, nhất là những độc giả "nhựt trình". Trong tiểu
thuyết của Bình Nguyên Lộc đã manh nha một Sài-gòn sắp sửa biến mất,
như một Miền
Nam biến thành huyền thoại, ở Sơn Nam. Người ta tự hỏi mấy cô gái trong
Đò Dọc,
lo chạy giặc Tây giạt về một xóm quê, suốt ngày lóng ngóng không biết
làm gì,
suốt đời chờ đợi một người lái "đi xem heo", họ sẽ sử sự ra sao, sau
này, khi quân đội Mỹ và đồng minh đổ xô tới...
|
|