|
Edward Said says that it is no
surprise that exiles are often
novelists, chess players, intellectuals. ‘The exile’s new world,
logically
enough, is unnatural, and its unreality resembles fiction.’ He reminds
us that
Georg Lukács considered the novel the great form of what Lukács called
‘transcendental homelessness’. I am not an exile, but it is sometimes
hard to
shake the ‘unreality’ Said speaks of.
James Wood: On not
going
home
Edward Said phán, đâu có gì ngạc nhiên khi đám lưu vong thường là tiểu
thuyết
gia, kỳ thủ, trí thức gia. Cái thế giới mới của đám lưu vong, đủ lô gíc
để trở
thành đếch phải đời thực, đếch tự nhiên, và cái bất thực của nó giống giả tuởng. Ông nhắc
nhở chúng ta, G. Lukacs coi tiểu thuyết là hình thức lớn của cái mà
Lukacs gọi
là “không nhà siêu việt”.
Tôi đếch phải là 1 tên lưu vong, nhưng cũng đếch làm
sao gạt bỏ cái "bất thực" mà Said nói tới.
Wood
đọc Lukacs, qua Said. Chắc là chưa đọc thẳng Lukacs, nên không hiểu
đúng, nghĩa
của từ “siêu việt”, trong “không nhà siêu việt”. Cái này thì Gấu rành
hơn ông.
Trên TV có đi 1 đường về ý này của Lukacs.
Nên nhớ Lukacs là 1 tổ sư phê bình Mác
Xít, thành ra “siêu việt” ở đây liên quan tới Thượng Đế. Trong tiểu
thuyết, con
người đá đít Thượng Đế, và nắm lấy quyền quyết định số phận của nó.
Lưu
vong và
tiểu thuyết
Tiểu thuyết
là để diễn tả về cõi không nhà siêu việt
(The form
of the novel is, like no other one, an expression of transcendental
homelessness)
G. Lukacs, Lý
thuyết về
Tiểu thuyết.
Hai
lý thuyết về tiểu thuyết "dễ cảm nhận nhất" của thế kỷ chúng ta, một
của Lukacs, một của Bakhtin, đều chất chứa những cảm quan về tình trạng
vô gia cư, vô địa táng.
Với
Lukacs: Hình thức tiểu thuyết, không như bất cứ một hình thức nào khác,
là để diễn tả tính vô gia cư siêu việt. Nó là thể dạng thứ ba trong
lịch sử văn chương Âu châu, sau hùng ca (epic), và bi kịch (drama,
tragédie). Nó "cưu mang" (embody) cơn khủng hoảng cảm tính của Âu-châu.
Cuộc Cách mạng Pháp và thời đại Nã Phá Luân cho thấy, những thường nhân
- cuộc sống vốn chỉ quẩn quanh xó nhà, hoặc ở bên ngoài lịch sử - nhận
ra một điều: họ có mắc míu tới lịch sử, hay ngược lại. Đây là những đòi
hỏi mang tính "toàn trị" (totalitarian claims) đưa đến chủ nghĩa
Marxism. (Bởi vậy, thật không có gì là cường điệu khi nói, chủ nghĩa
Cộng sản là con đẻ của Cách mạng Pháp: lịch sử là "của chúng ta" chứ
không dành riêng cho đám nhà nghề, hoặc giai cấp ở trên. Điều này giải
thích tại sao cuộc cách mạng vô sản lại bắt đầu ở Nga, mà không ở một
nước nào khác: giai cấp quí tộc Nga vẫn coi tiếng Pháp mới là thứ tiếng
"đáng nói" nhất. Paris
luôn luôn là thiên đàng của đám trí thức Nga, Cộng-sản hay không
Cộng-sản. Nó cũng giải thích những mắc míu kéo dài tới tận bây giờ giữa
những người Cộng-sản, chủ nhân mới của đất nước Việt Nam,
và "ông thầy cũ" là nước Pháp.)
Không
giống như những đạo quân "tiền nhiệm" của thế kỷ 18, vó ngựa viễn chinh
của quân đội Nã Phá Luân mang theo thông điệp, suốt Âu-châu: ý thức
chính trị của cuộc sống hàng ngày, của những con người bình thường.
Lịch sử không còn là những thư khố, những ông hoàng. Tiểu thuyết của
Scott đã manh nha sự thay đổi, với một cách nhìn mới mẻ về sức nặng và
sự đa dạng của sự kiện lịch sử. Lukacs là người đầu tiên chỉ ra điều
này.
Ông
là người Hungary,
lớn lên tại thủ đô Budapest
(Từ điển bách khoa toàn thư Cassell: Lukács Georg 1885-1971, triết gia
Hungary, một trong những sáng lập viên của chủ nghĩa Marx 'Tây-phương'
hay "Hegelian', một dòng triết chống lại với chủ nghĩa Marx của khối CS
chính thức). Kinh nghiệm "không có nhà" của ông là do thời gian lưu
vong tại Áo, Đức, và Liên-bang Xô-viết, hai thời kỳ bị rẻ rúng, "nghỉ
chơi với mi", bên trong Đảng CS Hung, rồi bị đầy đi Romania sau cuộc
Cách Mạng Hung vào năm 1956. Ông gia nhập Đảng CS là vì muốn "vượt" "ý
thức không nhà siêu việt": giấc mơ thiên đường CS mới "hoành tráng" làm
sao đối với ông!
Trong
Lý thuyết về Tiểu thuyết (1916),
lưu vong có nghĩa: trục xuất ra khỏi
Hy Lạp cổ. Theo chân Hegel, Lukacs tin rằng thế giới Hy Lạp trở thành
ngạt thở đối với những thời đại tiếp theo sau nó. Đây là một thế giới
khép kín. Chúng ta không thể thở được nữa trong một thế giới khép kín.
Hùng ca Homer do đó mở đường cho tiểu thuyết. Tiểu thuyết: hùng ca của
một thế giới bị thần thánh bỏ rơi. Nói một cách khác, tiểu thuyết bắt
đầu cùng với cái chết của thượng đế. Tiểu thuyết bắt đầu cùng với giấc
mơ của con người: tìm lại tính siêu việt đã mất. Những xã hội nặng chất
tôn giáo không phải là môi trường thuận lợi của giả tưởng, là vậy. Don
Quixote (của Cervantes) cho thấy một điều: thần Ky-tô đã tự ý vắng mặt,
ra khỏi thế giới, và những cá nhân con người bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa
và bản chất, và chỉ có thể tìm thấy, trong cái linh hồn "vô gia cư vô
địa táng" của họ.
Tiểu
thuyết, theo Lukacs, là hình thức văn chương chính, la principale forme
littéraire, của một thế giới trong đó, con người cảm thấy không ở nhà
của mình, mà cũng không hoàn toàn xa lạ. Chỉ có tiểu thuyết, khi có sự
đối nghịch cơ bản giữa con người và thế giới, giữa cá nhân và xã hội.
Hùng ca diễn tả sự tràn đầy của linh hồn và của thế giới, của bên trong
và bên ngoài, đó là một vũ trụ mà những câu trả lời đã có sẵn, trước
khi những câu hỏi được đặt ra, một vũ trụ có hiểm nguy, nhưng không có
hăm dọa, có bóng râm nhưng không có tối mù... Dùng một hình ảnh của
ông, giữa văn chương của tuổi thơ và của thời trai trẻ (hùng ca) và văn
chương của ý thức và của cái chết (bi kịch), tiểu thuyết chính là thể
loại văn chương của sự trưởng thành hùng tính (Le roman est la forme de
la maturité virile).
Vẫn
theo ông, không một nhà văn nào có thể tạo nên một tác phẩm có giá trị,
nếu đặt để trong đó, những câu hỏi, những vấn đề mà chính anh ta đã
vượt qua. Bởi vậy, nhân vật chính ở trong tiểu thuyết là một kẻ vấn nạn
(un être problématique), một tên khùng, hay một tội phạm, bởi vì anh ta
luôn tìm kiếm những giá trị tuyệt đối mà chẳng hề biết; sống hết mình
với chúng, chính vì vậy mà không thể tới gần. Một cuộc tìm luôn luôn
tiến mà chẳng tới, một chuyển động mà Lukacs định nghĩa bằng công thức:
"Con đường tận cùng, cuộc hành trình bắt đầu" (Le chemin est fini, le
voyage est commencé).
Tôi khinh bỉ mùa thu trên tóc em...
Em Nhã viết về Phạm Công Thiện
Note: Bài
này quá tuyệt. Một “tribute” cho cả 1 thời, trong có Gấu Cà
Chớn!
Sau khi thơ,
các tác phẩm của
Phạm Công Thiện bắt đầu được phổ
biến trên Talawas, trên Tiền Vệ và các trang mạng, sau khi có thể tìm
các bản
photo sách Phạm Công Thiện ở Hà Nội từ tay người này người khác, năm
2009, mình
mới lần đầu được cầm trên tay sách của Phạm Công Thiện. Khi đó, Thiện
đã thành
một thứ thương hiệu, một thứ của quý mà người ta đi tìm, ở Sài Gòn, các
bạn như
thể coi Thiện là “của riêng”, cũng như coi Thanh Tâm Tuyền, coi Bùi
Giáng là
của trời cho riêng Sài Gòn. Bọn mình đôi khi trích những câu của Thiện
trên
blog, làm status, hoặc đôi khi mình gặp người này người kia khoe những
cái bìa
của những ấn bản cũ... Một cuốn sách photo bọc bìa da đen của Thiện,
hình như
cuốn về Nikos Kazantzakis khi đó đã có giá 2 triệu VNĐ. Mình mua được
cuốn Ý
thức mới. Rồi lại được bạn tặng một cuốn y chang, khi ở quán café Bông
Giấy ấy,
ngồi nhìn nắng chảy loang trong cơn mưa, bạn phóng vội ra để đưa cuốn
duy nhất
bạn có của Thiện, mình bỗng trở nên một kẻ... ngẩn ngơ vui. Dù sau đó,
mình
cũng vẫn chỉ đọc kiểu nảy từng trang, cuốn sách này trở thành một trong
những
cuốn mình yêu nhất, bởi nó hoá thạch giây phút bỗng nhiên mình ngước
lên, ở vỉa
hè đêm ấy, vô tình chạm gặp đôi mắt sáng và trong lành đến nỗi mình bối
rối,
đến nỗi mình phải cúi xuống, một thứ ánh sáng riêng có của tình bạn mà
hiếm hoi
mới rạng lên. Nhưng sao ánh sáng cũng biết run rẩy?
Triết
gia giả cầy đi chưa hết
Phạm Công Thiện nổi tiếng
về nhiều câu văn khẳng định, chắc nịch,
có khi quá kích hay quá khích, nhưng bản thân anh là khách hoài nghi.
Từ đó,
nói về anh, viết về anh là việc khó, như đưa dòng suối vào chai thì
cũng là
nước suối đấy thôi, nhưng một triệu chai không làm sống lại con suối.
Chỉ nên
dành cho Thiện một kỷ niệm, chút tình cảm, và niềm suy nghĩ, vậy là đủ.
DT
Đúng giọng bố chó xồm, của
1 thứ văn chương ai điếu, như
Brosdky phán, của 1 ông chánh tổng An Nam ở Paris!
Với Gấu, ông là 1 người dịch, một nhà thơ, có làm ra được thứ thơ thực
sự, tức
1 người sáng tác. Còn v/v triết gia, nên bỏ ra ngoài, khi viết về ông.
Đám thổi ông, thực sự không có tài, chỉ là những kẻ theo đóm ăn tàn mà
thôi. Kể
cả/nhất là, đám tự nhận là bạn của ông.
Cũng khóc, cũng nhớ, nhưng đọc, chẳng có cái chó gì hết.
Chán thế
Theo tôi, Phạm Công Thiện
trước sau chỉ là nhà văn. Nhà văn
có tài và đầy phong cách rất riêng.
[Còm trên Gió O]
Đúng như thế. Được như
thế, là quá bảnh rồi. Cần gì làm… triết
gia?
Từ “chỉ” của tay này, mới ghê!
Cái chết của PCT, là cái chết của tên trí thức Miền Nam bỏ chạy cuộc
chiến.
Theo GCC.
Và điều này ứng với từ "chỉ" của tác giả cái còm, và nếu như thế, thì
văn chương của PCT, là thứ mà Tẩy gọi là "Tất cả cái còn lại [chỉ] là
văn
chương”.
Đi cho
hết,
là cũng do đó mà ra.
Kiệt trong MCNK của
TTT, cũng là 1 trong những tên như PCT, nếu không nghe tiếng gọi xốn
xang của
Thùy, và trở về. GCC post lại ở đây cái chương mà ông nói về tình cảnh
đó, qua hai
nhân vật, là Kiệt, và ông Trung Tá. Cả hai sau đều chết trong cuộc
chiến.
4
Nằm trong
đêm, Kiệt chờ giấc ngủ.
Chàng nghe lại những đoạn nhạc, nhìn lại những ảnh tượng. Chàng thấm
nỗi tang
thương vật vã của khúc nhạc ngoài mọi kỷ niệm. Chàng lặng trong ánh lửa
bên triền
núi tưởng đến một tảng đá bị nung đốt. Một lúc, những âm thanh tán loạn
dượt đuổi
nhau như những chấm sáng bay mù tít theo nhịp nở dãn riêng không sao
kiềm chế,
kết hợp. Để trấn áp, Kiệt tập trung tư tưởng, gợi nhắc một vài ảnh
tượng liên
quan đến Beethoven. Ngôi nhà ẩn náu lúc cuối đời của nhạc sĩ, chàng đã
tới
chiêm ngưỡng ở Heiligenstadt.
Chàng tưởng tượng nếu như mình điếc đặc hay mù tịt. Rồi chàng mơ màng
mường tượng
ngọn đại thụ trơ vơ giữa cơn giông tố. Một con dị điểu tên găm đầy mình
lao
vút, ngã đâu trên chín tầng trời thanh thản. Và chàng hát trong đầu, đề
nhạc
thiết tha của Hòa Tấu Khúc số 9, những lời trào dâng không rứt của khúc
Hoan
Ca.
Mắt Kiệt thao láo, tim nện thình thịch trong tai áp trên gối. Giây thần
kinh
căng thẳng, tê dại nửa thân. Kiệt nghĩ, chỉ vì cốc cà phê tai hại uống
vào giờ
chót. Chàng bấm nút đèn đọc sách đặt trên ghế sát đầu giường, nằm đợi
cơn kích
động trôi qua, Ánh đèn xoá dần những âm thanh, những hình bóng cuồng
loạn.
Kiệt rất sợ mất ngủ. Đêm ít ngủ là cả ngày sau không thể làm gì và ngại
nhất là
tâm thần bất an, vui buồn thất thường. Những ngày êm tĩnh khó tìm lại
được. Biết
thế, nhưng Kiệt không sao dỗ nổi giấc. Buổi tối vừa qua, và cả buồi
chiều nữa,
khuấy rộn những nghĩ tưởng không sao ngăn chặn, dập tắt.
Chàng lại thấy mình ngồi trên tảng đá lớn bên sườn ngọn núi cao nhất
vùng có
hàng điện thu hút mắt chàng mỗi đêm. Chàng ngồi đó, buổi sáng mùa xuân
năm
ngoái, nhìn xuống thành phố nhỏ ly ty xa tít. Chàng cố tìm vị trí của
ngôi trường,
muốn thấy bãi đậu xe nơi chàng vẫn đứng. Nhưng chàng chỉ thấy gió lùa
ướt díu mắt.
Chỗ chàng ngồi là một quãng nghỉ trước khi lên đỉnh. Con đường mở cho
xe hơi
lên đến chỗ ấy ngoặt ngang, chạy một đoạn bằng, men theo khấc núi.
Ngang tầm
bãi cỏ nơi Kiệt ngồi, những thân cây khô bị hạ nằm ngổn ngang trên mặt
đất bên
kia con đường và bên này, những cây thông xanh và bờ bụi mọc bám trong
các kẽ
núi sâu. Ở đây có một đài tiếp nước bằng gỗ kẻ khẩu hiệu bằng sơn đen:
Hãy ngơi
nghỉ. Những chiếc xe lên đài viễn thông đến đây tắt máy đậu trước khi
leo nốt
đoạn dốc gay go cuối cùng. Trên vách đá nguệch ngoạc vài câu khẩu hiệu
hòa
bình. Một câu đặc biệt: Bạn sắp lên tới Thiên Đàng. Tất cả viết bằng
tiếng Mỹ.
Mùa xuân năm ngoái Kiệt theo chân lớp Tân Khóa Sinh trong cuộc chinh
phục ngọn
núi cao. Chàng rớt ở quãng ấy cùng một ông Trung Tá già. Trong khi Kiệt
ngồi bệt
trên tảng đá, ông Trung Tá xuống kẹt núi hái lan đất. Ông dùng tay cào
bới, thở
hì hụp mỗi lần leo lên leo xuống. Có lúc ông lẩn biệt trong các bụi rậm
không
nghe động tĩnh. Kiệt đi men bên trên kiếm ông, tưởng mình sẽ lạc lõng,
một mình
trên sườn núi, trên bãi cỏ, trong kẹt núi nếu như ông Trung Tá biến mất.
Ý nghĩ dưng không biệt tích như một cánh chim nhào ngã, như cây cỏ bỗng
bắt
cháy, như đám sương tan dưới ánh mặt trời làm Kiệt sung sướng vô lý.
Dạo Thùy đã về nước, mùa đông Kiệt theo bạn bè đi chơi núi. Một chiều
đẹp, sắc,
chàng cùng một cô bạn mới quen rủ nhau tách đoàn tìm lối lạ. Hai người
lạc, muốn
chết cóng, may mắn lần mò được xuống chân núi và đến một trang trại
không người
ngủ qua đêm. Khi đã mót lượm cây gỗ nhóm ngọn lửa sưởi trong ngôi nhà
hoang, dọn
một chỗ nằm sạch sẽ trên sàn, đã ủ người thiếu nữ xa lạ trong tay, Kiệt
hỏi:
Mình ở lại đây, Hélène? - Còn đi đâu nữa. Kiệt hôn nàng, cảm ơn. - Mãi
mãi chớ
Hélène? - Mãi mãi. Thiếu nữ nhắm mắt nói. Nàng nghe và đáp câu hỏi của
Kiệt như
một lời tán tỉnh vuốt ve. Kiệt rợn rùng trong cơn băng giá của ái ân và
trông
ngọn lửa lụi tàn, nghĩ mình lúc nào thình lình trở thành kẻ sát nhân
hung bạo.
Đó là bến bờ hạnh phúc chẳng khi nào chàng đặt chân lên dù chàng có bị
xô táp tới.
Một cô bạn viết thư mách Thùy về chuyến bỏ trốn của Kiệt. Thùy hiền
hậu, trách
thói ham hố của bọn đàn ông.
Dưng không đêm nay Kiệt nhớ đến ông Trung Tá. Nhớ xóm làng Thượng tân
tiến nằm
dưới chân núi, tám giờ sáng còn chìm ngập trong màn sương trắng đục. Ở
một bãi
trống có xác chiếc trực thăng hai cánh quạt. Ông Trung Tá già và Kiệt
đã chui
vào trong khoang tầu hư nát quan sát các vật bỏ lại.
Các khẩu đại bác của trung đội pháo binh bên khu trường cũ bắn những
phát đạn
khuấy rối đầu tiên trong đêm. Thường khi Kiệt đã ngủ được một giấc, có
giật
mình vì những tiếng nổ xong lại thiếp đi ngay.
Ông Trung Tá mập có vẻ bệnh hoạn. Ông từng bị địch bắt hồi Mậu Thân khi
về quê
nhà ăn Tết và vượt ngục trốn thoát sau sáu tháng bị giam cầm trong rừng
gần
biên giới. Từ trại An Dưỡng ông được đưa lên làm việc tại trường và
được giao giữ
một chức vụ mới đặt riêng cho ông, không có trong bảng cấp số: thanh
tra các lớp
học. Ông ngụ trong cư xá độc thân mặc nhiên trở thành trưởng trại. Gia
đình ông
ở Sàigòn và ông lủi thủi một mình không có bạn.
Tiếng ông nói nhanh nghe như lắp bắp, tiếng cười phát ra bất thường và
ngắn ngủi.
Nhìn nét mặt ông ngay sau khi tiếng cười vừa tắt, không ai có thể biết
ông đã
cười.
Ông chết cách đây mấy tháng. Một trái lựu đạn nhỏ bằng trái chanh đã nổ
trong
gian phòng ông ngủ ban đêm. Gian phòng chếch với gian phòng của Kiệt
thuộc khối
nhà bên kia quảng trường. Nằm đây bên cạnh cửa sổ kính dầy, Kiệt chỉ
ngó thấy
được gian phòng ấy bằng tưởng tượng. Gian phòng không ai dám ở nữa, lỗ
chỗ những
mảnh lựu đạn trên cửa, trên tường, trên sàn.
Cuộc điều tra đưa đến kết luận tử nạn vì công vụ, giúp cho vợ con của
ông được
hưởng các quyền lợi của một tử sĩ . Cái chết phủ nhiều bí mật với nhiều
dư luận
đồn đãi. Đêm trái lựu đạn nổ trong phòng ngủ của ông, Kiệt có ngủ tại
trại
nhưng không hề hay biết. Chàng hoảng hồn ngơ ngác trong buổi sáng tinh
mơ đứng
trên bãi đậu xe nghe tiếng người la lớn đối đáp báo tin biến cố đêm hôm.
Kiệt nhìn ánh điện vàng nhòe của ngọn đèn giữa quảng trường chiếu trên
mặt
kính. Đêm ấy, ngọn đèn này tắt, Kiệt nhớ.
Chàng ngồi lên trong mùng, ngó quanh quất.
Bữa leo núi, trong khoang chiếc trực thăng, lần duy nhất Kiệt nói
chuyện với
người đã chết. Chính ông gợi chuyện. Ông hỏi chàng ở ngoại quốc bao
lâu? Chàng
về nước năm nào? Cảm tưởng của chàng những ngày đầu mới trở về? Kiệt
lịch sự trả
lời vừa đủ, không dài dòng trong khi hai người cùng mầy mò quan sát
những mối
dây điện cao thế bị cắt rời khỏi các bộ phận đã tháo gỡ. Bỗng không ông
nhận
xét: buổi tối nằm lại trong khoang tầu này chắc rét chịu không thấu.
Mùa đông vừa
qua, ông sưởi bằng bóng đèn 500 [watts] ngay trong phòng làm việc, bóng
đèn giấu
dưới gầm bàn. Rồi ông hỏi: "Tại sao ông lên trên này?". Ngồi trên xe
díp trước khi mở máy, ông ngó chiếc phi cơ nói: "Ông trông nó giống con
voi không? Loài voi có đặc tính kỳ lạ là khi biết mình sắp chết thì tự
động bỏ
đàn lánh đến chỗ khuất nằm chờ chết? Các nhà thám hiểm Phi Châu thường
gặp những
nghĩa địa voi." Ngưng vài giây, ông nói tiếp bằng giọng bình thường:
"Tôi mới đọc một quyển truyện về voi, thật thích. Tôi đang cố gắng dịch
quyển sách ấy". Kiệt hỏi: "Trung Tá viết sách?" Ông vội vàng cải
chính: "Đâu có. Tôi dịch để gửi về cho mấy đứa nhỏ ở nhà đọc. Chúng nó
không đọc được sách ngoại quốc mà quyển này thì chắc chẳng có ai mất
công dịch,
in làm chi. Tại tôi thích... với lại viết thư cho tụi nhỏ tôi chẳng
biết viết
gì...". Về đến thành phố giữa buổi trưa ngà nắng, ông bảo:
"Cũng có phần đúng, thành phố này là một nghĩa địa voi. Nhưng rừng ở
đây
tuyệt giống voi lâu rồi.... Cái ông bác sĩ tìm ra thành phố này là một
con bệnh
ông biết không? Ông ta mắc chứng kỳ quái...".
Sau buổi ấy, Kiệt không còn dịp nào nói chuyện với ông. Gặp lại chào
ông, được
ông đáp bằng vẻ dửng dưng như với mọi người. Cái chết thình lình lấp
kín ông.
Đêm nay chàng sực nghĩ đến tập sách dịch của ông, muốn đọc, chàng quên
không hỏi
ông về nhan đề quyển sách, tự hỏi chẳng rõ ông dịch xong chưa, rồi tự
đáp, cuốn
sách dịch bỏ dở dang. Và không lý do, chàng kết luận ông tự vẫn.
Xe xung kích tuần tiễu hàng đêm trở về. Những tiếng bước nặng nề qua
ngoài hành
lang, rồi khuất.
Kiệt chui ra khỏi mùng, uống cốc nước dư nguội lạnh. Chàng ngồi vào
bàn, châm
thuốc, lật một quyển sách. Đêm đã thật khuya lắng. Đầu óc chàng
tỉnh táo,
khô ran như đất phơi dưới nắng. Chàng ngồi nghĩ, ngày hôm sau thứ bẩy,
rảnh
rang hoàn toàn, không sợ mất ngủ nữa, nhưng chàng lại sợ những ý nghĩ
mê mê mờ
mờ, những tư lự, thảng thốt, những giấc chiêm bao mở mắt.
Kiệt sang phòng tắm, định đánh răng rửa mặt lần nữa. Nước khổng chẩy.
Ống nước
thường hư, nhiều khi cả tuần không nhỏ một giọt. Những lon sữa Guigoz
trữ nước
cũng cạn sạch. Trong hành lang gió lùa.
Kiệt vào phòng khoác thêm áo, ra ngoài.
Trời xanh mướt mầu trăng sương. Những bóng núi đen thẫm. Gió lan rì rào
như
đang đổ trận mưa bụi đâu xa. Lính gác trốn nép vào chỗ khuất, bó gối ôm
súng,
ngủ gục.
Dòm trời đất một hồi hai bàn chân và hai bàn tay giá cóng, Kiệt quay
vào. Bước
trong hành lang chênh chao gió luồn, chàng còn hiểu mình chờ đợi, mong
ước gì
lúc này.
Tại sao ở đây? Câu hỏi ấy chính Kiệt từng đặt cho mình nhiều lần. Làm
thế nào
trả lời xuôi. Phút này, Kiệt như người mắc chứng kiện vong như hồi mới
về nước.
Kiệt sống ở ngoại quốc trên mười năm. Mười tám tuổi đỗ tú tài, ông bố
vận động
cho đi du học. Bố Kiệt, một người thức thời, hồi cư về đến Hà Nội đã
bán hết cơ
nghiệp mấy đời tạo lập ở Hải Dương, đưa gia đình vào Sàigòn kinh doanh
trước
năm 54. Kiệt thật tâm không thích đi xa, mẹ chàng cũng không muốn rời
đứa con độc
nhất của bà. Nhưng cả hai không thể cưỡng ý ông bố. Ông không muốn con
trai ông
đi lính. Ngày Kiệt đi, hai mẹ con cùng khóc sụt sùi. Là con một nên từ
bé đến
năm mười tám tuổi (bình yên ở nhà quê đã có thể lấy vợ đẻ con rồi) Kiệt
chỉ sống
quẩn bên gấu quần mẹ.
Kiệt học cơ khí ở Đức, học Quản Trị ở Mỹ. Việc học hành của chàng tuân
theo sự
chỉ dẫn của ông bố. Chàng không hề bầy tỏ ý kiến riêng. Kiệt là đứa con
chí hiếu.
Nếu được tự lựa chọn, chắc Kiệt học Canh Nông và Âm Nhạc. Trong những
năm tản
cư chạy loạn, chàng thích đời sống rẫy bái. Còn Âm Nhạc là mối đam mê
suốt thời
thơ ấu mà chàng phải giấu ông bố. Chỉ mẹ biết mà thôi. Nhưng người đàn
bà ấy,
bình lặng đơn sơ như chiếc bóng bên con, không hiểu gì về những cõi xa
xôi
ngoài thực tế. Yêu con nhưng sợ chồng, bà không dám chia sẻ mối đam mê
của Kiệt.
Ngày nhỏ, Kiệt chỉ hát khi nhà vắng bố. Kiệt có một cây kèn harmonica,
thường
thổi cho mẹ nghe những buổi chiều tối hiu quạnh thui thủi hai mẹ con
với nhau.
Ngày Kiệt đang ở Đức, mẹ chàng mất. Chàng chỉ được bố báo tin sau khi
chôn cất
bà xong xuôi. Ông không muốn chỉ vì những lễ nghi hình thức bắt Kiệt về
chịu
tang, và dù về cũng chẳng kịp - bà chết vì bệnh cảm mạo mau lẹ, bất
ngờ. Kiệt
thương mẹ, lòng cảm thấy bất nhẫn, nhưng chàng chẳng có lý lẽ nào để
chê trách
bố. Ông cũng đau khổ chứ?
Ngày ấy, nơi xứ người, lần đầu trong đời, Kiệt một mình dến quán rượu
uống say
bí tỉ, khóc mẹ. Cũng lần đầu, trong cơn say, Kiệt thù hận những lo
lắng, tính
toán quá sáng suốt lạnh lùng của ông bố. Mẹ chàng đã đau khổ những năm
chàng ở
xa, đau khổ hơn nữa, lúc nhắm mắt lìa đời cũng không được nhìn mặt
chàng. Nếu
như Kiệt nhất định không chịu rời mẹ, chàng không đi học nước ngoài?
Cánh cửa phòng Kiệt đã kéo khép, bây giờ gió xô hé. Ánh đèn rọi vệt
sáng
nghiêng trên hành lang.
Kiệt mơ hồ thấy một cánh bướm đen bay lạc vào bóng tối cuối hành lang
nơi có những
phòng bỏ trống.
Đáng lẽ Kiệt phải tức tốc bay về khi hay tin mẹ mất dù đã trễ muộn. Dù
bà chẳng
còn có thể nhìn thấy mặt chàng và chàng cũng chẳng còn nhìn thấy mặt
bà. Dù
chàng có bị giữ lại. Đáng lý chàng phải bay về nôn nả như sau này chàng
đã đáp ứng
lời gọi của Thùy. Chàng đã không làm, tại sao?
Sau khi mẹ chết Kiệt quyết định vĩnh viễn không về nước. Thùy làm chàng
thay đổi
quyết định.
Mấy tháng đầu trở lại quê hương, Kiệt lạc mất quá khứ. Đầu mối ràng
buộc chàng
với quãng đời mười tám năm ở xứ sở là mẹ chàng đã đứt. Chàng đến thăm
ông bố.
Ông đã lập gia đình, có ba đứa con với bà vợ sau. Hai bố con ngồi với
nhau
trong phòng khách. Ông mời chàng về ở trong nhà, chàng từ chối. Ông mời
chàng
lưu lại dùng cơm tối, giới thiệu chàng với vợ con ông và tiễn chân
chàng tới tận
cổng ngoài, bắt tay từ biệt hẹn tái ngộ. Chàng mời ông đứng chủ hôn lễ
của
chàng và cảm ơn ông về tất cả những nghi thức phiền toái ông phải làm
vì chàng.
Kiệt không hiểu tại sao bao nhiêu năm trời chàng đã tuân hành theo ý
ông chẳng
dám thốt một lời phàn nàn.
Kiệt lạc lõng giữa những kỷ niệm hờ hững của mọi người và những kỷ niệm
lác đác
le lói nơi chàng. Chàng chẳng tìm thấy bóng chàng đâu cả. Mẹ chàng đã
mang theo
xuống mồ.
Nếu Kiệt không về ngày ấy, chàng đã qua Phi Châu. Kiệt được tuyển làm
chuyên
viên trong một tổ chức của Liên Hiệp Quốc.
Nhưng Kiệt đã về.
Mấy đứa sang cùng chuyến với Kiệt
biệt tăm luôn. Chúng sống dễ dàng. Có công ăn
việc làm, lấy vợ đẻ con theo nền nếp dân bản xứ chính cống. Có đứa làm
nên danh
phận, có đứa đóng vai lưu vong. Có đứa lêu bêu khốn khổ. Chẳng đứa nào
tơ tưởng
đến quê hương, chốn ấy chỉ còn trong kỷ niệm để nhắc nhở khi gặp nhau.
Đến một
ngày rồi chúng cũng chẳng cần thiết nhắc nhở nữa.
Kiệt nhớ đứa cháu
họ như là bạn ở phương trời ấy. Hắn phá ngang sống đời nghệ
sĩ. Vẽ tranh, tập sự nghề điện ảnh, làm bài hát, viết truyện trinh thám
ký tên
đặc Tây. Và chết vì bệnh lao phổi. Kiệt cũng có thể sống một đời như
thế, tại
sao không? Đó chẳng là cách biệt tích ư?
Kiệt hết đứng lại ngồi. Vào giường nằm tắt đèn rồi
mở đèn, lui tới trong khuôn
buồng chật. Hút sạch bao thuốc lá. Nhặt những mẩu hút thừa, hút lại.
Miệng khô
đắng, ngực cồn cào.
Đêm đứng im không trôi nữa. Nhạc vẳng lên trong đầu. Kiệt chấp chới bay
trôi
trên những đề nhạc bi thiết. Chàng như mảnh sao rớt trong cõi nhịp bất
tận. Qua
những lớp sóng. Cơn bão táp. Rừng gió mênh mang. Cao độ và thẳm cùng.
Rồi Kiệt nghe tiếng nước giọt tí tách bên phòng rửa mặt. Chàng mở cửa
bước
sang. Qua mặt kính phòng vệ sinh vẫn chỉ có ánh đèn điện từ quảng
trường rọi xuống.
Đêm đang chuyển giấc nổi những tiếng động vu vơ. Kiệt đã mệt muốn nghẹt
thở. Đến
lúc này tắt lặng mọi âm thanh, mọi hình bóng, đầu Kiệt như một phòng
vách thép
đen đúa toả lạnh.
Kiệt vào giường nằm co quắp.
Những khẩu đại bác bên khu trường cũ bắn loạt đạn cuối đêm.
Cái vụ viên
Trung Tá là có thật. Gấu nghe kể thời gian xẩy ra Mậu Thân. Cả đoạn
văn, cũng
là để “lờ mờ” chỉ cái chết kết thúc MCNK của Kiệt: Như 1
con voi
già, tìm về nghĩa địa để chết. PCT đi lang thang khắp thế giới, cho hết
1 kiếp
hoang vu cái con mẹ gì đó, là cũng để kiếm cái nghĩa địa này.
DK, viết văn
bằng tiếng Tẩy, là cũng để tìm nó!
GCC
đếch cần tìm. Thấy từ lâu rồi.
Có khá nhiều
cơ hội để được như PCT, DK, nhưng Gấu đếch thèm cái số phận đó, như đã
hơn 1 lần
lèm bèm. “Mi muốn cái gì thì mi được cái đó”, như nước Nga cổ xưa cảnh
cáo cuộc
cách mạng Đỏ của nó, Be careful what you struggle for – you will
problaly get
it [Russian proverb. D.M Thomas trích dẫn, trong “Tiểu sử Solz, thế kỷ
ở trong
ta”]:
Lũ Bắc Kít
đã chiến đấu, đã muốn, để có được cái nước Mít thê lương như hiện nay.
Cái mà chúng huỷ diệt, không phải là Ngụy, chế độ VNCH, mà 1 Miền Nam,
và cả 1
truyền thống đẹp đẽ của nó, mà chế độ VNCH dựa trên đó.
Edward Said says that it is no
surprise that exiles are often
novelists, chess players, intellectuals. ‘The exile’s new world,
logically
enough, is unnatural, and its unreality resembles fiction.’ He reminds
us that
Georg Lukács considered the novel the great form of what Lukács called
‘transcendental homelessness’. I am not an exile, but it is sometimes
hard to
shake the ‘unreality’ Said speaks of.
James Wood: On not
going
home
Edward Said phán, đâu có gì ngạc nhiên khi đám lưu vong thường là tiểu
thuyết
gia, kỳ thủ, trí thức gia. Cái thế giới mới của đám lưu vong, đủ lô gíc
để trở
thành đếch phải đời thực, đếch tự nhiên, và cái bất thực của nó giống giả tuởng. Ông nhắc
nhở chúng ta, G. Lukacs coi tiểu thuyết là hình thức lớn của cái mà
Lukacs gọi
là “không nhà siêu việt”.
Tôi đếch phải là 1 tên lưu vong, nhưng cũng đếch làm
sao gạt bỏ cái "bất thực" mà Said nói tới.
Chúng ta có thể đọc song song,
bài của Wood, khi viết/nghĩ về những
trường hợp lưu vong của những đấng tinh anh của Miền Nam trước 1975
[Gấu không
nói đến đám Bắc Kít nhờ ăn cướp được Miền Nam nên có cơ hội bỏ nước Mít
qua Đông
Âu, hay qua Paris viết văn bằng tiếng Tẩy], như ĐT, PCT, hay ĐKh….
Và đó là cái
điều Gấu sẽ lèm bèm, trong khi chờ ngày 30 Tháng Tư....
On Not Going Home
Về Không Về
Nhà
Note: Bài
này thật tuyệt.
GCC mua số báo vì bài này, đâu ngờ cho đọc free!
You
are invited to read this free essay from the London Review of Books.
Register
for free and enjoy 24 hours of access to the entire LRB archive of over
12,500
essays and reviews.
But
real life is a different matter. The few occasions I have returned to
Durham
have been strangely disappointing. My parents no longer live there; I
no longer
live in the country. The city has become a dream. Herodotus says that
the
Scythians were hard to defeat because they had no cities or settled
forts:
‘they carry their houses with them and shoot with bows from horseback …
their
dwellings are on their wagons. How then can they fail to be invincible
and
inaccessible for others?’ To have a home is to become vulnerable. Not
just to
the attacks of others, but to our own adventures in alienation.
Herodotus nói rằng,
thật khó mà đánh thắng dân Scythians, vì
họ đếch có nhà. Có nhà là bỏ mẹ. Bắc Kít gọi Nam Kít, là Đàng Trong, là
theo
nghĩa này, nhà của mày sẽ là nhà của chúng ông, khi Đàng Ngoài bị Tẫu
đợp mất, nó
không đợp thì chúng ông cũng dâng cho nó, để đổi lấy Đàng Trong!
*
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Trên tờ Điểm
Sách London, Feb 20, 2014, có bài của James Wood, “Về Đếch Về Nhà
Nữa, On
Not Going Home”, bàn về đủ thứ tay nổi tiếng mà đề tài của họ, là về
lưu vong,
trong có ông, có Said, Sebald.... Có nhắc tới Lukacs và câu phán nổi
tiếng của
ông, TV đã từng chôm, “Tiểu thuyết là để diễn tả về cõi không nhà siêu
việt”
(The form of the novel is, like no other one, an expression of
transcendental
homelessness) G.
Lukacs, Lý thuyết
về Tiểu thuyết.
Bài dài, GCC đọc sơ sơ là đã mê quá rồi, bê về nhà, nhưng không dám lôi
về Tin
Văn, sợ lại hứa cuội, do không có thì giờ để mà dịch. Có 1 ý thật thú,
bạn phải
nhớ nhà, khi bạn thực sự có nhà! Có 1 câu, trích dẫn Simenon, khi bị
hỏi, tại
sao không đổi quốc tịch – cách mà những người Bỉ thành công thường làm
– ông trả
lời, ta đếch muốn sinh là 1 tên Bỉ, thì ta cũng đếch hiểu được tại sao
lại
ngưng là tên Bỉ, there was no reason for me to be born Belgian, so
there’s no
reason for me to stop being Belgian: Chẳng có lý do gì đối với ta sinh
ra là 1
tên Bỉ, thì cũng chẳng có lý do gì để ta ngưng là 1 tên Bỉ. Câu này áp
dụng cho
Đỗ Khờ, thật hay, nhưng phải “chế” đi: Chẳng có lý do gì ta sinh là tên
Mít,
thì cũng chẳng có lý do gì để ta không viết văn bằng tiếng Tẩy, nhân
thấy đang
om sòm giới thiệu tác phẩm mới ra lò “Sài Gòn Thứ Bảy”, của anh.
Thấy tờ Diễn
Đàn có bài giới thiệu. Đọc, thì thấy người giới thiệu không nhận
ra,
cái tít là
từ một bài hát. DK rất có tài trong sử dụng những bài hát của Miền Nam
trước 1975,
làm đề tài cho 1 “cái gì đó” của anh.
DK là nhà văn
hải ngoại đầu tiên GCC đọc và có viết về “xì tai” của anh, trong bài Một Người
Anh:
Bao nhiêu
năm nhìn lại, tôi nhìn ra thất bại của bản thân, khi tìm cách thay đổi
văn mạch
cũ của văn chương Việt Nam. Sự thất bại không phải vì dòng văn chương
mới mẻ đó
không thích hợp với quan niệm thưởng ngoạn của đa số độc giả, mà là:
Tôi quá bị
ám ảnh bởi vấn đề kỹ thuật. Một cách nào đó, tôi đã không lãnh hội được
bài học
của Kafka, khi ông cho rằng, kỹ thuật chính là hữu thể (être) của văn
chương.
Rõ ràng, câu văn bị kỹ thuật non nớt, sự vụng về, tham vọng làm mới văn
chương... tàn phá, trở thành vụn nát. Nhưng lối viết đó không phải là
một thất
bại. Theo tôi, trong cuốn "Cây gậy làm mưa", Đỗ KH. cũng đã thử nghiệm
một lối viết mới "na ná" như vậy, và hơn thế nữa, tác giả đưa luôn
những
mạch văn "ngoại lai", những ngôn ngữ " quốc tế"... vào
trong văn mạch Việt Nam.
Tuy nhiên,
thực khó mà tưởng tượng anh bỏ luôn tiếng Mít, để viết bằng tiếng Tẩy.
Trong bài viết
của Bei Dao Kafka's
Prague, ông có
nhắc tới hai nhà văn Tiệp là Skvorecky,và
Kundera,
There was not an empty
seat in the house that evening. The audience
had come to see Skvorecky, who enjoyed even more fame in the Czech
Republic
than Milan Kundera. In 1968, not long after the Soviet invasion,
Skvorecky fled
to Toronto, began teaching at a university there, and assisted his wife
in
setting up the 68 Publishers, which specialized in banned books by
Czech
authors. A Czech scholar told me that after Skvorecky fled he still
made a
great contribution to the Czech cause, but Kundera has always
disdained his
homeland and identified himself as French.
Không hiểu DK có như K
không. Cũng chẳng quan trọng, như hay không như.
Trong Gặp Gỡ, Gấu nhớ là K
cũng có đi bài về Skvorecky, cũng dân Toronto như GCC.
Bài viết của Bei Dao kết thúc bằng 1 cái "date" của ông, với... Susan
Sontag, thú, nhưng chưa thú bằng câu của Sontag:
"That's right, nobody wants to bring back the old system, but could it
be that this emptiness is what they want?"
Bài essay của Bei Dao thật tuyệt, lệch hẳn ra ngoài cách viết khoa
bảng, nhà trường, giống 1 cái récit, nhưng khác ở những tìm tòi, điều
tra, nghiên cứu dành riêng cho đề tài ông viết, một Prague của Kafka, ở
đây. GCC sẽ dịch bài này, tặng mấy đấng chưa từng biết 1 bài essay nó
ra làm sao.
Kafka's
Prague
Prague của
Kafka
Prague isn't willing to
leave nor
will it let us leave. This girl has claws and people must line up or we
will
have to light a fire at Vysehrad and the Old Town Square before we can
possibly
depart.
-Excerpt
from a letter from Kafka to Oskar Pollak
Xề Gòn
đếch
muốn bỏ đi, mà cũng đếch muốn GCC bỏ đi.
Ẻn có
răng, có móng, có vuốt, sắc lắm!
|
|