*

 




Ghi chú trong ngày

Arendt & Eichmann: The New Truth

Mark Lilla


*

*

Hai bài viết trên TLS. Lời nguyền của Xì. Tiso: Tu sĩ & Chính trị gia & Cớm VC nằm vùng.
Tiso Mít, có khá nhiều, trước 1975.
Ghi chú trong ngày

Nhất Linh: Giòng sông Thanh Thủy


Bộ sách này có thể coi là tác phẩm cuối cùng của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.
Tiếc rằng nó quá ít được giới phê bình quan tâm, thậm chí ít được biết đến. Có người viết về nó thì viết lung tung không nắm được đến cả chi tiết.
Blog NL

Bộ ba này, xb tại Miền Nam, khi cuộc chiến đang cực kỳ hung hãn, kể chuyện tình/làm thịt nhau giữa 1 cặp Quốc Cộng, thành ra chẳng có ai thèm để ý đến, có thể, theo GCC.
Gấu chưa được đọc 1 bài viết nào về nó hết.

Truyện tình, do Nhất Linh, kể, thì đều thánh thiện cả. Em Mùi, 12 tuổi, cỡ đó, được thằng anh em bà con hôn 1 phát, thế là nhớ, là yêu suốt đời [Xóm Cầu Mới], chưa kể cặp, anh [tên Nhỡ thì phải], kéo xe, chị bán hàng quán, [góa chồng?], nằm bên nhau, nhưng em ra lệnh, cấm làm gì hết nhe!

Rồi cặp Loan Dũng thì cũng rứa!
Anh chàng Trương, trong “Bướm Trắng”, cả cuộc tình, chỉ có mỗi 1 kỷ niệm, đưa cái áo em đang mặc lên, úp vô mặt!

Gấu nghi Nhất Linh bị hoạn, về mặt tâm thần, không bao giờ dám tả sex!

*
[Trích Blog NL]

Thời điểm Nhất Linh viết Giòng sông Thanh Thủy là đầu thập niên 60, tại Sài Gòn. Nó cần phải được đọc chung với "cương lĩnh sáng tác" giai đoạn sau này của ông, Viết và đọc tiểu thuyết, viết cùng thời kỳ. Xóm Cầu Mới mới được Nhất Linh dự đồ như là tác phẩm lớn nhất của mình, nhưng thực tế đã diễn ra không đúng như ý ông muốn, vị trí Xóm Cầu Mới đã nhường lại cho chính bộ Giòng sông Thanh Thủy này.

"Cú chót" của Nhất Linh rất không tầm thường.

Chắc hẳn chưa có thứ văn chương lấy chủ đề hoạt động cách mạng nào mà lại nhẹ bỗng như Giòng sông Thanh Thủy. Nó chủ yếu miêu tả cảnh thiên nhiên (đi kèm với những bức họa của Nhất Linh) và tâm trạng, nội tâm của một người rất "light-hearted" là chiến sĩ Việt Quốc (Việt Nam Quốc dân đảng, nơi Nguyễn Tường Tam là một yếu nhân nhưng không phải đảng trưởng - nói rõ cho mấy nhà phê bình biết hehe - đảng Dân chính mà Nguyễn Tường Tam làm đảng trưởng được sáp nhập vào đây), một cán bộ quèn, chuyên dẫn người đi lại ở địa phận Trung Quốc giáp ranh với Hà Giang, hay được gọi là "Ngọc châu chấu", một người ưa ăn ngon (thích phở cừu, phở chua), rất bắt mắt chị em phụ nữ nhưng lại có tài ngủ cùng phòng với phụ nữ đẹp nhiều đêm mà không nảy sinh tà ý.

Bên cạnh Ngọc là Thanh, từ đầu đến cuối là người của Việt Minh nhưng toàn truyền thông tin sai lệch cho tổ chức. Thanh xinh đẹp, liều lĩnh và rất "phụ nữ tiên tiến" của thời tiền chiến Việt Nam.

Giòng sông Thanh Thủy không hề lệch khỏi phong vị của Tự Lực văn đoàn, nó chính là hồi quang rực rỡ của cả phong trào Tự Lực văn đoàn chứ không phản gì lại. Nhất Linh đặc biệt có tài trong việc kìm giữ sự thổ lộ yêu đương giữa Thanh và Ngọc, để cho "đôi bạn" không biết bao nhiêu lần lơi lả ngả ngớn bên nhau, ở cùng nhà suốt nhiều thời gian, ngâm thơ chơi bời đủ kiểu nhưng vào khoảnh khắc cuối cùng bao giờ cũng kìm giữ được.

Và chính ở đây điều then chốt trong Viết và đọc tiểu thuyết đã được bộc lộ: Nhất Linh muốn hướng tới một tiểu thuyết thật tự nhiên, không bị o ép bởi những luận đề, bình luận lý tưởng hay triết lý. Chưa bao giờ trong tác phẩm của Nhất Linh các nhân vật lại đùa nhau nhiều đến vậy. Vestige shall be cut by cabbage (Vết tích sẽ bị cắt bởi cải bắp): đây chỉ là một câu nói đùa của nhân vật. Thanh là một người có học, rất hiểu biết, bàn luận triết học Platon, Fichte, Nietzsche nhoay nhoáy, cũng lại là một người đem lòng hận thù to lớn.

Nhưng tất tật những thứ ấy chả là cái thá gì vào thời điểm này.

Nhất Linh cũng (hẳn là lần duy nhất), nhắc đến "nhà văn Nhất Linh" trong tiểu thuyết của mình. Tâm trạng buông bỏ ấy rất đặc biệt, nó vừa hờ hững với mọi sự, vừa quấn quýt với những gì tưởng chừng trước đây chẳng mấy khi Nhất Linh để ý đến. Ngay tên của nhân vật quan trọng Việt Quốc cũng được lấy theo hướng ám chỉ đến bản thân Nhất Linh Nguyễn Tường Tam: Tường.

Nhất Linh ở thời điểm này đã buông bỏ. Cách mạng chả để làm đếch gì. Tiểu thuyết luận đề thì chán ngấy. Lý tưởng là cái con tườu.

Và chính ở, chính bằng, chính qua cái sự nhẹ nhõm, vui tươi, cười cợt ấy, mà Giòng sông Thanh Thủy cho thấy, âm mưu, thủ đoạn, giết chóc, ám hại vân vân, thật là tởm.

Bài liên quan:

Lạnh lùng tự lực mà đoạn tuyệt
Nhất Linh ở Sài Gòn
Nhất Linh dang dở
Nhất Linh vs Vũ Trọng Phụng


BG & TTT vs VC


Thơ gửi bạn quí trong lúc chờ cùng đi xa


Ghi chú trong ngày

*

La Shoah dessinée par une enfant
Lò Thiêu qua nét vẽ của 1 đứa con nít

*

THE OPIUM IS CELEBRITY
Phiện = Nổi Tiếng

If Karl Marx were alive today, he would have lived long enough to see the people cook up a pure new opiate. Who needs religion when you have the cult of celebrity? And with that hair, that beard, that name! He could have been bigger than Bieber.

Nếu Marx còn sống lúc này, thì ông sẽ thấy mình lỗi thời. Ai cần đến tôn giáo nữa, khi... nổi tiếng? Chúng tôi bảnh hơn Jesus, đám Beatles chẳng đã từng phán? Mít đâu cần tôn giáo mà cần Bác Hồ, cần Võ Tướng Quân, thiên tài quân sự, tên tí hon đánh thắng hai thằng khổng lồ!

Bonus:

The Celebrity as Product
Nổi tiếng như hàng hiệu
Ghi chú trong ngày

**

TKS All There. NQT

*

Tờ Books có bài “Tội ác làm nên Putin”, dịch bài viết trên tờ NYRB, về những cú dội bom Moscow do chính Putin thực hiện, đổ tội cho khủng bố người Thétchénie.
Cuộc chiến Mít nổ ra vì 1 cú đầu độc tù “dởm”, "tương tự"!
Cú của Diệm, đếch có ai chết!

*

*

Vô tiệm sách cũ, vớ được cuốn lạ, Borges biên tập. GCC chưa từng nghe tới cuốn này! Kafka đóng góp hai truyện, Josephine và Trước Pháp Luật. Trang Tử, Bướm mơ người hay người mơ bướm. Một truyện trong cuốn sách.

*

Capture the moment



*

"In her eyes, you could sense that there was something troubling her, something not quite right."
 
Haunting eyes and a tattered garment tell the plight of a girl who fled Afghanistan for a refugee camp in Pakistan.
Afghan Border, Pakistan | Steve McCurry | 1984

It was just a quick portrait of a schoolgirl in an Afghan refugee camp. But this photograph by Steve McCurry is among the most powerful images in National Geographic's history. McCurry suggests that she captivates because of her look of "hopeless beauty.”      
        "It's clear that she's poor," he says. "Her face is dirty; her garment is ripped; yet she has dignity and confidence and fortitude. In her eyes you could sense that there was something troubling her, something not quite right. She's seen more than she should at such a young age. Her village had been bombed and her relatives killed, and she'd had to make this two-week trek through the mountains to the refugee camp.”
        Seventeen years after making the portrait, McCurry returned to Afghanistan, hoping to find out whether the girl was still alive-and to finally learn her name. Sharbat Gula, now a grown woman, had survived. "When we found her, we knew it was her,” he says. "They wanted to do a check by examining a picture of the iris of her eye against the iris of the original picture, but we all knew it was her. The best part was being able to help make her life better. There was a school built in Kabul based on donations collected from that picture.”

Trong mắt của cô bé có vẻ dò hỏi, có điều gì làm rộn cô, có điều gì không đúng, tại sao mi nhìn ta như thế, hình như mi muốn kiếm 1 cái gì đó ở nơi ta, hình như mi lầm ta với 1 cái gì đó...

Khi gặp BHD, Gấu nhận ra liền, tuổi thơ của thằng cu Bắc Kỳ, nhà quê, thấp thoáng ở trong dáng đi, nụ cuời ánh lên mầu da đen nhẻm cùng với chiếc răng khểnh của Em, là vậy.
Ngoài ra, còn là nỗi ước mong, BHD cầm giữ suốt cuộc đời còn lại của Gấu!
Hà, hà!

Nhưng, bằng cách nào mà BHD lại ‘thấu thị’ ra tất cả, và, bèn bỏ Gấu, và vừa đi vừa ngoái lại, lắc đầu:
Mi đâu có thương yêu gì ta! Mi thương một đứa con nít 11 tuổi, là ta đời thuở nào, và Hà Nội của mi ở trong con bé con đó!

She's seen more than she should at such a young age. Cô bé nhìn thấy nhiều hơn nhiều so với tuổi của cô.
Ui chao, đúng như thế. Thê thảm đúng như thế

Mi “THNM” rồi, nhìn đâu cũng thấy VC!
Nếu không, thì là... BHD!
Hà, hà!

Rõ ràng là cô bé nghèo. Mặt cô nhem nhuốc, quần áo tơi tả, tuy nhiên, có cái gọi là phẩm hạnh, sự tin tưởng….

Ui chao, cũng vẫn là những dòng viết về BHD, lần đầu GCC gặp. Sau này, mỗi lần nhớ, là nhớ luôn câu nói tâm sự của Em, đi học chỉ có mỗi một cái áo dài trắng, mấy đứa bạn nói sau lưng, con bé này giả bộ, nhà nó giầu lắm...

Lần Gấu qua Cali thăm bạn, một đấng phán, mày sướng thật, vì gặp được BHD. Không có BHD, chắc gì mày đã là mày?
Ố là là, nghe sướng điên lên được! (1)
*

Viết bên lề "Bên Thắng Nhục
Will Geography Decide Our Destiny?

Địa dư quyết định số phận của Mít,
hay là
The Revenge of Geography:
What the Map Tells Us About Coming Conflicts and the Battle Against Fate
Cuộc trả thù của chữ S.

Bài gãi đúng chỗ ngứa [vết thương hình chữ S] của Gấu Cà Chớn!
Sự trả thù của địa dư cũng là sự trả thù của những giống dân Hời, Chiêm... đã bị  giống dân Mít làm cỏ trong suốt lịch sử dựng nước của nó.
Khi hết kẻ thù thì nó đè thằng em Nam Bộ ra “phán, trảm, làm thịt, đưa đi cải tạo mút mùa lệ thuỷ….”

Bài này NYRB đếch cho đọc free. Tin Văn se scan, và dịch sau, hầu độc giả, thay vì kiếm đọc Bên Thắng Nhục!

*

Giang hồ bồ tát


Note: TV tính đi bài này. Nhưng lại tính đi bài dưới đây, về Xứ Lào bi thương, quê hương của mấy đứa nhỏ.

Còn 1 vụ “giang hồ bồ tát”, là vị bác sĩ Đức, chọn Miền Nam để hành đạo.
Đúng là cú ị vào mặt đám tinh anh Miền Nam, bỏ chạy cuộc chiến, bợ đít VC:

AFP: Một người Đức kiện nhà cầm quyền Hà Nội

Kiện đòi mấy bài thơ làm trong tù.
Tuyệt!


The future of Laos
A bleak landscape
A secretive ruling clique and murky land-grabs spell trouble for a poor country




Danilo Kis


*

ML đọc "Tuổi thơ của Jesus", của Coetzee

Tout le livre, placé sous le signe de Cervantès, clairement nommé, et de Kafka, à l’influence récurrente, chemine, de question en question, sans jamais apporter de réponse claire, comme si les poser était déjà une victoire. Chaque fois qu'il croit avoir trouvé une solution, Simon est confronté à un autre problème et cherche à nouveau à le résoudre, jusqu'à cette évasion finale dont on ne sait si elle est une ouverture vers autre chose ou le début d'une fuite en avant qui n'aboutira qu'à tourner en rond. Coetzee, se situe là dans ce registre de l' «angoisse comique féroce » avec laquelle il définissait l'art de ce maitre revendiqué qu'est pour lui Samuel Beckett. +

Le Magazine Littéraire, Oct 2013

Cả cuốn sách - đặt dưới ký hiệu của Cervantès, qua tuyên bố huỵch toẹt, và của Kafka, qua ảnh hưởng tái đi tái lại - lượn lờ, không hề đưa ra câu trả lời dứt khoát, như thể đặt câu hỏi là đã quá bảnh rồi....


Ghi chú trong ngày

**

TLS đọc cuốn tiểu sử của Danilo Kis, của Mark Thompson: Giấy Khai Sinh: Chuyện của Danilo Kis.
Một giai thoại. Kis ghiền thuốc lá. Và phải Gitanes không đầu lọc Và ông giải thích: A man writes so that he can smoke. Nhưng lý do thực sự, theo tay điểm sách, là dù ở đâu, Paris hay New York Kis vẫn chỉ mình ên, Kis was still isolated. “Là 1 nhà văn Yugoslav ở Paris có nghĩa là mình ên"

Câu trên giải thích luôn cả trường hợp Camus, theo GCC. Ông là Tẩy, nhưng Tẩy “chân đen”, từ Algeria tới Paris, và không làm sao nhập vô được. Có thể vì lý do này, ông kết bạn với Milosz khi không ai dám chìa tay ra?

*

"Thiên tài của một thời điểm, kinh nghiệm, nơi chốn đặc biệt". Nadine Gordimer thổi Kis.
Trong Một cuộc gặp gỡ Kundera viết về ông:

Trung thành với Rabelais và đám Siêu thực: Những kẻ lục lọi những giấc mộng.

Tôi ngồi lật lật cuốn của Danilo Kis, cuốn sách cũ về suy tưởng, và có cảm tưởng đang ngồi với ông, trong một quán rượu gần Trocadéro, và ông đang nói với tôi bằng một giọng oang oang, gầm gừ, như muốn vặc vào mặt kẻ đối diện.
Trong tất những nhà văn lớn lao cùng thế hệ, Tây hay ngoại quốc, vào những năm 1980 sống ở Paris, ông là kẻ vô hình nhất. Vị nữ thần có tên là Thời Sự chẳng có lý do gì để mà giọi đèn vào mặt ông. "Tôi không phải là một tên ly khai", ông nói.
Ông cũng chẳng phải một tên di dân. Ông đi lại thoải mái giữa Belgrade và Paris. Ông chỉ là một “nhà văn-đứa con tư sinh, écrivain bâtard, đến từ một thế giới chìm khuất, englouti, của Đông Âu”. Cho dù chìm khuất, thế giới này, trong suốt cuộc đời của Danilo (ông mất năm 1989), là một cái hố đen chứa trọn thảm kịch Âu Châu. Nam Tư: cuộc chiến dai dẳng, đẫm máu (và chiến thắng) chống Nazi; Lò Thiêu, sát hại, nhất là, surtout, những người Do Thái Đông Âu (trong số họ, có bố ông); cuộc cách mạng Cộng Sản, tiếp theo liền, là cuộc đổ vỡ, cắt bào đoạn nghĩa, thật bi thảm (và cũng lại chiến thắng) với Staline và chủ nghĩa Stalinisme.
Với một dấu ấn giống như một vết chàm lên cơ thể như thế, bởi cái thảm kịch lịch sử như vậy, trọn đời ông, ông không hề hy sinh những cuốn tiểu thuyết của mình cho chính trị.
Từ đó, là số phận nghiệt ngã của ông, của những kẻ bị quên lãng ngay từ khi sinh ra: những thảm kịch riêng tư về thanh quản. Ông có thể đồng ý với Orwell, nhưng làm sao ông có thể yêu nổi 1984, cuốn tiểu thuyết của một phát ngôn viên chống lại chủ nghĩa toàn trị, pourfendeur du totalitarisme, nhưng lại giản lược cuộc sống con người chỉ còn có một chiều chính trị, y hệt như những tên Mao ít trên tthế giới. Để chống lại sự hạ nhục con người, làm cho cuộc sống của nó trở thành hèn hạ, ông cầu cứu Rabelais, với những trò khôi hài, tiếu lâm, tức cười, nhóm siêu thực, những kẻ “lục lọi tiềm thức, những giấc mộng”.
Tôi lật những trang sách cũ của ông, và nghe giọng nói mạnh mẽ, chối tai của ông: “Thảm thay, cái giọng trưởng thượng, le ton majeur, của văn học Pháp, bắt đầu với Villon, đã biến mất”.
Khi ngộ ra điều trên, ông càng thêm trung thành với Rabelais, với siêu thực, những kẻ “lục lọi những giấc mộng”, và với xứ Nam Tư của ông, mắt cũng bị bịt kín, lầm lũi tiến vào cõi mất.

Kundera: Gặp Gỡ

Danilo Kis kể chuyện tiếu lâm, thời gian ở Paris, ông nhận "thư nhà", từ Nam Tư, một phong bì dán tem, đóng dấu bưu điện hẳn hoi. Mở ra, trang thư thứ nhất, là con dấu, với những dòng chữ như sau: Thư này không bị kiểm duyệt.
Câu chuyện tiếu lâm, tưởng như đùa đó thực sự đã xẩy ra, với một ông Danilo Kis mũi tẹt nào đó, trở về trong nước, và mang những trang sách đã từng được xuất bản tại hải ngoại, và trình nhà nước, để được đóng dấu chứng nhận:
Những trang sách này ở hải ngoại chưa "bị", nay xin, "được", kiểm duyệt!

*

Danilo Kis, Paris, 1985

A Genius from Four Countries
May 23, 2013
Charles Simic.

Bài này tuyệt lắm.

Thiên tài văn chương Kis đã từng được Susan Sontag vinh danh. Bây giờ tới lượt Simic gọi ông là thiên tài từ bốn xứ sở. Còn chính Kis, thì gọi mình là “giống hiếm”, “ethnographic rarity".

Bỏ ra ngoài cái chuyện tự thổi, thì những định nghĩa về mình như vậy, rất quan trọng đối với 1 người viết. TTT chẳng gọi mình là đứa con tư sinh của 1 miền đất ư? Một nhận xét như thế, tiên tri ra cả 1 giống nhà văn, bị ruồng bỏ, và tự ruồng bỏ.

Kis phán, “Không có sự cực nhọc thời thơ ấu chiến tranh, tôi đếch thèm làm nhà văn”, “If not for the hardships of a wartime childhood,” Kiš once told an interviewer, “I’d never have become a writer.”

Danilo Kis


Camp 14: Liệu, ai cũng muốn tự do?

Trong hồi ức về Lò Thiêu, Primo Levi tự hỏi, con người là cái chó gì, khi nó bị thuổng hết mọi giá trị [thể chất cũng như tinh thần] “người là người”, nhờ những thứ đó đó.
Tuy nhiên Levi đã có thời từng là người, trước khi bị tống vô Lò Thiêu.

Giả như 1 đấng VC Bắc Kít, sinh ra dưới thời Bác Hát, bị chôm hết mọi thứ tự do, thì tay này có đòi tự do, hay là không?
Hà, hà!
Đây chính là điểm mà DTH dựa vô, khi quả quyết chế độ văn minh Nam Kít thua chế độ dã man Bắc Kít!
Đấng VC Bắc Kít này có biết tự do là gì đâu mà đòi?
Hà, hà!
Rõ rệt nhất là trường hợp cái tay Bắc Hàn Shin Dong Hyuk, ở trong cuốn phim tài liệu Camp 14, suốt đời không hề biết của hiếm, của quí, xa xỉ phẩm tự do....


WHAT IS THE OPIUM OF THE PEOPLE?


THE OPIUM IS OUR CHILDREN

Câu phán của Marx, “tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng”, có một khải huyền, “genesis”, thầm lặng. Ông viết câu trên vào năm 1843, như là một nhận xét thoáng qua, trong bài giới thiệu cho 1 cuốn sách về phê bình tôn giáo mà chẳng bao giờ ông hoàn tất. Năm sau, ông cho in trong 1 tờ báo cấp tiến tối tăm, với số lượng in khiêm tốn, 1 ngàn tờ. Chỉ mãi đến thập niên 1930, khi Mạc Xít trở thành mốt thời thượng, thì câu trên trở thành “thánh ngôn”, của Đảng CS, tất nhiên!
Sự thực Mác đếch chống tôn giáo. Với ông, niềm tin là cái  mà “quần chúng” làm trò ảo thuật với chính họ, cội nguồn của thứ hạnh phúc dởm, thứ bánh vẽ mà họ phịa ra, để cố nuốt nỗi đau trong đời.
Nó là “tiếng thở dài của thứ sinh vật bị đàn áp, kìm kẹp”!
Một bữa, Marx ngủ dậy, vươn vai phán, con người phải thức dậy, “như là mặt trời của chính nó”, [liệu Tố Hữu có đọc, và “chế”, thành “mặt trời chân lý chiếu qua tim”? Thảo nào Bác ghen tài, đếch bao giờ khen thơ Tố Hữu!] Nếu thế giới được tái cấu trúc – thông qua cách mạng, tất nhiên - chúng ta đếch cần tôn giáo nữa!


Gấu Cà Chớn vs Du Tử Cà


Ghi chú trong ngày

Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh hơn hết. Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ còn có anh. Hãy cho anh sự tin tưởng khi anh có dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc thật thà từ trước, ràng buộc, ấy là Thanh. Không phải những người cùng máu mủ với mình. (1)

Câu văn trên, trích dẫn sai.

Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh hơn hết. Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ còn có anh. Hãy cho anh sự tin tưởng khi anh có dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc, ấy là Thanh. Không phải những người bạn. Bạn chưa đủ. Buộc vào quê hương phải là những người cùng máu mủ với mình. (2)

Cái ý này, cũng là của Walter Benjamin, khi viết về Hóa Thân của Kafka:

Không phải ngẫu nhiên mà Gregor Samsa thức giấc như là một con bọ ở trong nhà bố mẹ, mà không ở một nơi nào khác, và cái con vật khác thường nửa mèo nửa cừu đó, là thừa hưởng từ người cha. (3)


Ghi chú trong ngày


Eleanor Catton becomes youngest Booker prize winner

Prospero

Man Booker prize for fiction
Eleanor Catton’s star

Man Booker 2013 về tay 1 em trẻ nhất.
25 tuổi khi viết, 28 tuổi, khi nhận.

Cuốn truyện 832 trang [dày/i] nhất. Một bí ẩn liên quan đến 1 án mạng lịch sử, được cấu trúc chung quanh 12 con giáp của Tử Vi Tây.

ELEANOR CATTON’S second novel, “The Luminaries”, an historical murder mystery structured around the signs of the zodiac, received a cosmic boost last night when it won the Man Booker prize, an important award for fiction in English.

At 28, Ms Catton is the youngest author ever to win the 45-year-old prize. And at 832 pages, “The Luminaries” is the longest winner.
“It’s a dazzling work…a luminous work,” said Robert Macfarlane, the young Cambridge English don who chaired the judges. "'The Luminaries' slowly but deeply staked its claim on us. 832 pages might seem like one of Henry James's monster novels, but the dividends it pays are enormous."

Man Booker prize winner Eleanor Catton
on growing up in New Zealand:


The land of the long white cloud
Miền đất mây trắng dài


Ghi chú trong ngày

Những màu khác: đọc và viết giữa hai thế giới (1)

- Orhan Pamuk, Những màu khác, Lâm Vũ Thao dịch, Nhã Nam & NXB Văn học, 482tr., 120.000đ. 

Có đủ mọi khía cạnh của Orhan Pamuk trong tập tiểu luận này, trong đó có Pamuk đỉnh cao (“Hỏa hoạn và đổ nát”, “Thợ hớt tóc”, “Động đất” và loạt bài về Dostoyevsky) nhưng cũng có Pamuk không hề đỉnh cao, thậm chí có thể nói là những bài tiểu luận kém, như bài về Salman Rushdie, vài bài diễn văn rất dài và bài trả lời phỏng vấn có lẽ thuộc hàng kém hấp dẫn nhất trong lịch sử Paris Review. (2)

Note:

Những sắc màu khác, như 1 tay mũi lõ nào nhận xét - TV đã nhắc tới, bây giờ không biết nằm ở đâu - không phải được viết bởi 1 tiểu luận gia, lại càng không phải bởi 1 phê bình gia. Nó là 1 cuốn viết bên lề những tác phẩm của chính Pamuk, như Istanbul, thí dụ, thành ra mới có nhận xét "có đủ mọi khía cạnh... ".

Đây là kinh nghiệm đọc của Pamuk, một nhà văn Thổ. Kinh nghiệm của ông, của Vargas Llosa, của TTT, của GCC... là cùng 1 thời, cùng đọc hiện sinh, thí dụ.

Thành ra những cái gì gì, "giữa hai thế giới", "viết tiểu luận dở quá"… là...  nhảm cả!

Gấu đọc cuốn này rất khoái, là thế.

Pamuk viết về Camus, Gấu đọc song song với Gấu đọc Camus, và viết Những Ngày ở Xề Gòn. Cũng thế, là những bài Pamuk viết về Dos, Gấu đọc song song với... Gấu, khi đọc Dos, trong khi chờ BHD, trong 1 quán cà phê túi Xề Gòn, đọc song song với [Dos trong] Bếp Lửa của TTT.

Phải 1 tay mê viết văn cơ, sống cùng thời với Pamuk, ở 1 xó xỉnh nào đó, của thế giới, mới khoái cuốn này.

Gấu đã tính đi thêm vài đường, nhưng 1 ông nào đó, làm xb, mail, I “can” U, tui mua rùi, đành thui!
[Hi. Take care, me-xừ "nào đó". NQT]

Gunter Grass, khi được hỏi [về hiện sinh] đã chọn Camus, thay vì Sartre, và ông “rất ư là mừng” vì chọn đúng!
Còn Vargas Llosa, lúc đầu chọn Sartre, sau, chắc là đụng 1 tên khủng bố, trong khi tranh cử, bèn ngộ ra, và bèn chọn Camus.
TTT, khi Camus chết, đi 1 bài tưởng niệm, với lời chúc, cái chết đã nhốt chặt Camus vào quá khứ!
Thành thử không có chuyện "giữa hai thế giới", ở đây, mà cả thế giới nhìn về hiện sinh [Paris] về Dos [Nga, St. Petersburg], cái nôi, thành trì cách mạng vô sản sau đó…
Trong bài viết về Những Con Quỉ của Dos, Pamuk cũng tỏ thái độ của mình, như TTT, của ông, đối với cuộc cách mạng vô sản [ra ngoài đó thì cũng là 1 thứ đánh đĩ, hay, khi Chúa nhập xác phàm thì cũng khốn khổ, khốn nạn như 1 xác phàm, và chỉ thoát ra bằng sự thất bại!...]

Vì bạn NL chê bài trả lời phỏng vấn The Paris Review của Pamuk, GCC lôi ra đọc, thấy cũng đâu đến nỗi tệ. Bài tệ nhất, theo GCC, là của Graham Greene, ngắn, và chẳng nói được gì hết về cả 1 lô tác phẩm của ông. Trong khi Pamuk luôn xoáy vào việc viết, vào sự suy tàn của Thổ, vào thái độ của Tây Phương đối với Thổ…

Thí dụ, ông viết về cuốn Istanbul của mình, và cái gọi là “còn trinh” [originality]:

Cái công thức còn trinh thì thật đơn giản – cho hai sự vật chưa bao giờ cùng với nhau trước đó, đụng nhau [put together two things that were not together before]. Hãy nhìn Istanbul, một tiểu luận về thành phố và về như thế nào một số nhà văn ngoại quốc – Flaubert, Nerval, Gautier – nhìn thành phố, và như thế nào, cái nhìn của họ ảnh hưởng lên 1 số nhà văn Thổ. Trộn [combined] với cái tiểu luận về sự chế ra, invention, phong cảnh lãng mạn của Istanbul, là 1 tự thuật, autobiography. Chưa ai trước đó từng làm như vậy. Hãy chấp nhận rủi ro, risk, và anh sẽ có 1 cái gì mới. Tôi thử chấp nhận rủi ro với Istanbul, để làm 1 cuốn sách “còn trinh”…. "Cuốn sách đen" thì cũng thế - trộn thế giới hoài nhớ kiểu Proust với những ám dụ, allegories, những câu chuyện, những mánh mung, tricks, Thổ, rồi thảy [set] chúng vô Istanbul coi ra sao.

Hai bài Gấu thích, vì thấy có Gấu, và Xề Gòn những ngày mới vào đời của Gấu ở trong đó, trong “Những màu sắc khác”, TV đã dịch và giới thiệu [có hai bài về Seagull, thì cùng đọc với Seagull].
Post lại ở đây, để cho thấy cách đọc Camus và Dos của Pamuk, là từ góc Thổ, so với cách của Gấu, từ góc Xề Gòn, bổ túc cho nhau.

Về già, Gấu hiểu ra, Pamuk do không bị cuộc chiến Quốc Cộng làm khổ, nên không đọc 1 số tác giả, gần như chỉ có Gấu đọc, trong đám bạn quí hồi đó, là Lukacs và Lefebvre. Pamuk đọc Dos, và được ông ghé vô tai, thầm thì 1 bí mật, chỉ ông được biết, về Những con quỉ: 

Ui chao, cứ như thể Dostoevsky thì thầm vào tai tui, dậy cho tui cái ngôn ngữ bí mật của linh hồn, đẩy tôi vào xã hội của đám tiến bộ, tuy, bừng bừng vì những giấc mộng thay đổi thế giới, nhưng bị khoá chặt ở trong những hội kín hội hở, và hơi bị thích thú cái trò khốn nạn, đánh lừa những kẻ khác, nhân danh cách mạng, đầy đọa, làm nhục, làm mất nhân phẩm, những người không nói thứ ngôn ngữ cách mạng, không chịu cùng chia sẻ viễn ảnh về một ngày mai ca hát của chúng.

Ui chao, tuyệt cú mèo. Cứ như Pamuk nhìn thấy cảnh Văn Cao, đói lả người, bị tên khốn mật vụ VC, Vũ Quí, đưa bát cơm ra nhử, ở một cửa hàng cơm ở Ga Hàng Cỏ! 

Những Con Quỉ

Pamuk viết về Camus:

Pressed to take sides, Camus chose instead to explore his psychological hell in "The Guest." This perfect political story portrays politics not as something we have eagerly chosen for ourselves but as an unhappy accident that we are obliged to accept. One finds it difficult to disagree with the characterization."

Camus khi bị đẩy đến phải chọn bên, thay vì chọn, bèn bầy ra cái địa ngục tâm lý như ở trong Người Khách [The Guest]. Câu chuyện chính trị tuyệt vời này trình ra một thứ chính trị không phải như là một điều gì mà chúng ta hăm hở chọn cho chúng ta, nhưng mà là một tai nạn chẳng sung sướng gì mà chúng ta bắt buộc phải chấp nhận. Thật khó mà nói ngược lại với sự "khái quát hoá" như vầy!"

Đây là câu chuyện một anh giáo làng, đang dậy học, thì được một cớm VNCH đem đến giao cho một anh VC nằm vùng, nói giữ giùm, để anh ta lên thành phố cầu viện binh, mới dám đưa tên VC về nhà giam trên đó. Anh giáo làng nói, tôi làm nghề dậy học, sao bắt tôi làm thêm nghề canh tù. Đâu có phải nghề của tôi. Ối dào, trong chiến tranh, ở đó mà đòi chọn nghề. [À la guerre on fait tous les métiers].

Anh giáo làng đành nhận. Và khi anh cớm VNCH đi rồi, bèn thả anh VC nằm vùng, cho tiền, đồ ăn, thức uống, đủ thứ, rồi chỉ hướng cho vô rừng. Đâu ngờ, chính cái hướng đó, có mấy anh lính Cộng Hòa đang chờ sẵn.
Khi anh giáo làng nhìn lại cái bảng đen, thì đã thấy bản án của Mặt Trận:

Mi đã bán đồng bào của ta. Mi sẽ phải trả giá.[ "Tu as livré notre frère. Tu paieras"]

Pamuk đọc Camus

Cái vụ chọn Sartre hay Camus, nó khủng khiếp lắm, chứ không đơn giản đâu. Satre và người đẹp Beauvoir thời đó là “giáo hoàng” Paris, “thánh địa” của tả phái, trong khi Camus thì bị coi là tên du thử du thực, đá cá lăn dưa Chợ Cầu Muối, ở mãi xứ Algeria, lạc qua.  Bạn đọc TV đọc bài Tình Bạn giữa Weil, Milosz và Camus, là biết. Đúng thời kỳ đó, Milosz đào thoát. Ông bị coi như hủi, không chỉ đối với đám phò VC, mà luôn cả ở đám Chống Cộng Điên Cuồng, vì là một viên chức của Bắc Bộ Phủ! Chỉ có mỗi Camus là giơ tay ra, bảnh như thế chứ, thế mới là bạn quí chứ!
*

Orhan Pamuk tiểu thuyết gia đã rất thành công với Tên tôi là Đỏ, Pháo đài trắng hay Cuốn sách đen, nhưng vì là một nhà văn rất tham vọng, “phổ màu” của ông còn muốn bao trùm rộng lớn hơn nữa, lên chính trị, hội họa cổ điển, những tản văn ngắn, và lên sự đọc.

“Những màu khác” minh chứng cho tham vọng văn chương Orhan Pamuk. Cuốn sách là sự nối dài đầy ngoạn mục, những “ngoại truyện” bổ sung cho các tiểu thuyết của ông, những thêm thắt về cảm giác vốn đã huy hoàng trong cuốn hồi ký tuyệt vời Istanbul, và nhất là ở đây, ta được chứng kiến Pamuk trong tư cách một người đọc cự phách; người đọc ấy hào phóng dẫn dắt ta đến với thế giới những tác giả mà ông sùng mộ nhiều chục năm nay: Camus, Flaubert, Dostoyevsky, Nabokov… những thế giới của sự đọc ấy mở rộng nhiều lần đường biên giới của sự viết ký tên Pamuk.

Blog NL

Khi “Những sắc màu khác” mới ra lò, TV có đi vài bài, và có ý định đi hết cuốn, nếu không, thì những bài liên quan tới xứ Mít, nhưng nhớ là, một “tay nào đó”, hình như đại diện cho NN, mail, cho biết đã có bản quyền cuốn sách, cho nên GCC bèn ngưng.

Cách viết NSMK, theo GCC, là những kinh nghiệm cá nhân, riêng tư, của Pamuk, một nhà văn Thổ, khi đọc “thế giới”, trong cái tham vọng vươn ra thế giới, qua những tác giả như Dos, Camus… Pamuk có "giấc mơ Thổ" của ông, khi viết Istanbul, và cũng giấc mơ đó, khi viết NSMK. Độc giả TV có thể nhận ra điều này, khi đọc ông viết về Dos, hay về Camus.

Trên tờ TLS số 21 Tháng Ba, 2008, Christopher de Bellaigue, điểm cuốn "Những mầu sắc khác", tập tiểu luận của Pamuk, coi ông là tiểu thuyết gia hơn là tiểu luận gia. Theo người viết, Pamuk là một thứ nhà văn hướng nội, introspective writer, mặc dù dính líu vô những chuyện chính trị, và từng bị buộc tội "sỉ nhục cộng đồng Turki". Và có thể nói, toàn bộ tiểu thuyết của ông  tạo nên một trong những tự thuật lằng nhằng, lẵng nhẵng nhất trong văn chương. [Pamuk is an introspective writer. Indeed, it might be said that the sum of his novels constitues one of the most sustained, if elliptical, autobiographies in literature].

Về tính lằng nhằng, lẵng nhẵng, tác giả bài viết kể lại kinh nghiệm viết của Pamuk:

Vào năm 1988, một nhà văn chưa được người đời biết tới tên là Orhan Pamuk đang phải chiến đấu, làm thế nào hoàn tất cuốn Cuốn Sách Đen, cuốn thứ tư và là cuốn tham vọng nhất của ông cho tới lúc đó. "Trong khi chữ bò mãi ra", Pamuk nhớ lại trong Những mầu sắc khác, "cuốn sách dầy mãi lên, thú viết sâu đậm thêm", nhưng đây đúng là một niềm an ủi nho nhỏ, bởi vì "cuốn tiểu thuyết nhất định không chịu ngưng"! [the novel refused to end].

Riêng về nhà văn bắc cầu, người viết nhận xét, trong Những mầu sắc khác, Pamuk để lộ mình ra nhiều hơn là ông tưởng. Những mầu sắc khác cho chúng ta thấy một con người cô đơn, quyết tâm tự học, thiên về tự tha thứ cho mình, và bịnh hoạn [Other Colors shows him to be a solitary, determined autodidact, prone to self-indulgence and morbidity].

Bài diễn văn Nobel được in lại trong sách, bắt đầu bằng những lời cảm tạ, vinh danh ông bố, chấm dứt bằng liệt kê những lý do khiến ông viết, cho thấy, đây là một người nhân bản, human, mâu thuẫn, vị tha, và ích kỷ, đúng như chính tác giả.

Tin Văn đã cống hiến bản dịch một số bài viết trong cuốn này, thí dụ bài viết về Những Con Quỉ của Dostoevsky.
Pamuk cũng coi Dos như là một trong những sư phụ của ông. (a)

Orhan Pamuk


Nhà thơ Đỗ Trung Quân: Tôi không nhận được ý kiến… xin phép “biên tập” (1)

Nhà thơ Đỗ Trung Quân:
Câu cuối của bài Quê Hương không có trong nguyên bản

Ui chao, trễ quá rùi!

“Tốt nhất là thôi cứ để nó có số phận của nó”!
Trong số phận của nó, có cả sự tủi hổ [trễ quá rùi] này!

Bất giác Gấu lại nhớ câu chuyện Xì Ta Lìn “mất cà táp”, bèn phôn cho Beria. Đâu mấy tiếng sau, kiếm thấy, bèn phôn tiếp, Beria báo cáo: Thưa đồng chí, trễ quá, có chục tên nhận tội rùi!
Làm sao biết, con số bao nhiêu người, thiếu, mất, hoặc không có quê hương, và "không lớn nổi thành người"?
Nhưng nếu coi đây là phút sự thực, trước khi đi tầu suốt, thì Gấu lại nhớ ra câu chuyện tếu khác, về một cặp vợ chồng già hỳ hục làm chuyện ấy. Xong, chồng hỏi:
Phó phướng phông?
Phướng phì phó phướng phông phướng phằng phúc phương phì!
[Do mất hết cả răng, nên nói phều phào: Có sướng không. Sướng thì có sướng, không sướng bằng lúc đương thì].

Ui chao, giá “lúc đương thì” Đỗ quân khui ra chuyện này, thì đúng là giai thoại.
Bi giờ, chẳng biết gọi là gì!
*

Gấu quen Đỗ thi sĩ qua Nguyễn Mai, khi anh làm nghề sửa mo rát cho nhà xuất bản Văn Học phiá Nam, gần cầu Trương Minh Giảng, chợ Phú Nhuận. Đỗ thi sĩ làm chân “loong toong” cho nhà xuất bản, [Cách Mạng gọi là giao liên, chắc thế!]. Khi đó, anh đã nổi tiếng với bài Quê Hương rồi. Có lần Nguyễn Mai mời anh và Gấu tới nhà nhậu. Gấu tới vì lịch sự, thời gian đó, Gấu không nhậu được, và cả hai, NM và DTQ đều rành lý do tại sao.
Đó là quãng đời thật thê lương của Gấu, tận cùng thê lương, nhờ vậy mà bỏ chạy được quê hương, và thoát, sau đó.
Ghi chú trong ngày

         Bạn muốn gì trong một bản dịch hiện đại? What Do You Look for in Modern Translation?
(NYT 11-10-13)

VC xì tóp đi thôi! 

Look For?
Muốn gì ?
Muốn thoi!

Tọa đàm về tùy bút, tạp văn Tràng Thiên

Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, nhà văn Nguyên Ngọc, phó giáo sư Nguyễn Thị Bình cùng nói về cái hay, đặc sắc trong tùy bút, tạp văn Tràng Thiên.

Note: Đếch dám nhắc nick VP, “tên chống cộng số 1” của Miền Nam trước 1975!
Đau thật!
Cú độc, đòn hồi mã thương của VC, chơi lại VP.
Mày không dám nhắc tên XỊA, thì chúng ông đếch nhắc tên mày!

Tuỳ bút của VP, thua xa của Nguyễn Tuân theo Gấu.
Và Gấu cũng đã từng lèm bèm nhiều lần về chuyện này rồi, và nó liên quan đến tâm lực, chứ không phải bút lực.

Ghi chú trong ngày

Một Kafka Khác

A Different Kafka
by John Banville 

Note: Tay này, John Banville , nhà văn số 1, phê bình, điểm sách cũng số 1.
Phê bình gia Mít, ít khi viết điểm sách, vì lười đọc, và đọc, cũng đếch biết viết 1 bài điểm sách cho ra hồn!
Đó là sự thực.

Thử đếm coi, Thầy Kuốc điểm sách của ai, khui ra được nhà văn nào. Mũi lõ cũng không, mà mũi tẹt lại càng không?
Thầy Phúc thì cũng rứa.
Nữ phê bình gia viết bằng tiếng Tẩy, DCT, cũng thế.
TK y chang.

GCC ư? Nhiều lắm.
Bảo Ninh, thí dụ, Gấu phát giác ra, ở hải ngoại, và cái ông BN mà Gấu viết, cũng khác ông ở trong nước.
Vầng Trăng Góa, Gấu chỉ ra.
Nhà dzăng đang lú lên, Bà Tám nào đó, cũng GCC phát giác!
Hà, hà!
Miêng, Mai Ninh, Trần Thanh Hà, Trần Thị NgH... Gấu đều trân trọng viết về họ.
 

Of course, Kafka is not the first writer, nor will he be the last, to figure himself as a martyr to his art—think of Flaubert, think of Joyce—but he is remarkable for the single-mindedness with which he conceived of his role. Who else could have invented the torture machine at the center of his frightful story “In the Penal Colony,” which executes miscreants by graving their sentence—le mot juste!—with a metal stylus into their very flesh?

Lẽ dĩ nhiên, Kafka đâu phải nhà văn đầu tiên, càng không phải nhà văn cuối cùng, nhìn ra mình, lọc mình ra, như là 1 kẻ tuẫn nạn, vì cái thứ nghệ thuật mà mình chọn lựa cho mình: “dziếc dzăng”!
Hãy nghĩ tới Flaubert, hãy nghĩ tới Joyce [Xém 1 tí là thêm tên GCC vô!]. Nhưng ông bảnh nhất, khác hẳn mấy tay kia, là, loay hoay hì hục, chỉ chúi vô có mỗi cú đó, với “cái mình, cái đầu, cái tim của mình” [the single-minded] chỉ xoáy vô có mỗi chỗ “ấy ấy”, và từ đó, tìm ra, nhận ra vai trò của mình, "nhà dzăng".
Làm sao có thằng cha nào, ngoài Kafka ra, phịa ra được cái máy tra tấn người ở trung tâm câu chuyện đáng sợ “Ở thuộc địa trừng giới" [xém thêm cái tên của nó, là Xứ Mít bi giờ!], nó hành quyết những tên “ly khai, dám chống lại Đảng VC”, bằng cách dùng cây kim châm khắc mẹ bản án [le mot just], vô da vô thịt họ.

“Kim chích vô thịt thì đau” là theo nghĩa này đấy!

Kafka, “the poet of his own disorder”



Ghi chú trong ngày

Water in China
Desperate measures
Rivers are disappearing in China. Building canals is not the solution
Oct 12th 2013 |From the print edition

Sông biến mất ở xứ Tẫu.



**

-Nghe nói mấy bữa trước đây, Jonathan Franzen thọi ông đau lắm, Mr. Rushdie?
Ui dào, như muỗi đốt. Ông ta là nhà văn bảnh, tôi khoái [apprécier] ông ta. Đúng ra ông ta chỉ nên lo viết văn thôi.
-Còn ông, với Grossman, họ nói, như kẻ thù?
Chúng tôi thực sự đếch phải bạn quí!

Ui chao, lại nhớ ông bạn Bạn. Ông phạng Gấu, bên ly rượu, ở nhà ông, khi đêm xuống quá khuya:
Ông vô xứ Nam Kít, học cái gì không học, học thói xuề xoà, thành ra gây họa hoài. Nghe nói, có mấy thằng định thoi ông, vì cái tính xuề xòa, coi ai cũng là…  bạn. Ông không đụng tới tụi nói, tụi nó cũng kiếm cớ thọi ông, tại làm sao mà “moa toa” với mấy thằng cà chớn đó!

**

Số Granta mới thú lắm. Sau cuộc chiến về nhà, chúng ta bèn viết về điêu tàn, về VC cuỗm mất bà vợ sĩ quan, khi đẩy anh chồng đi cải tạo mút mùa lệ thủy, hà hà!
Có cái truyện ngắn của em Tẫu, Yiyun Li, Từ Mơ đến Mơ, From Dream to Dream. Nhìn cái hình minh họa là ứa nước miếng- nước mắt, sorry - ra rồi!

*


*

The Paris Review:
Bà cụ ông hẳn là hài lòng khi VC Liên Xô đưa cuốn sách của ông ra tòa?
Bà hài lòng quá! Bả nói, đúng là mẹ quỉ đẻ ra con quỉ sứ!

From the moment you are alive, you are exposed to separation, mourning, death. In my case, I have incredibly been spared from that kind of pain. On the other hand, everything that is of the order of neurotic misery I know well.
Carrière

Kể từ khi vào đời, là bạn phơi mình ra trước chia lìa, tang thương, chết chóc.
Trong trường hợp tôi, quái lạ sao, được Ông Giời tránh cho ba cái thú đau thương lẻ tẻ đó.
Về mặt khác, về nỗi khốn cùng thuộc về não, tôi lại rất rành, hà, hà!  

**

Note: Mua cuốn này vì nhớ tới bạn quí. Đọc nội dung cuốn truyện, thì có vẻ cùng 1 dòng với của NXH, và của NMG:
Không chỉ về Kẻ Vô Tích Sự, Người Đi Trên Mây, Kẻ Tà Đạo, không chỉ về Xứ Nam Kít, VNCH, mà còn là câu chuyện về cả lũ chúng ta, trước 1975....

Limonov là 1 nhân vật có thực ở ngoài đời, và 1 trong 10 tiếng nói lớn của văn chương ngoại ở Pháp.

*

“Tôi đọc Orwell, ở dưới đáy địa ngục Tẫu”
Chỉ có cách xé nước Tẩu ra thành 20 nước, thì mới thoát!

Vì một và 100 bài ca

ENGLISH TITLE FOR A SONG AND A HUNDRED SONGS

AUTHOR LIAO YIWU

ORIGINAL LANGUAGE CHINESE

TRANSLATOR WEN HUANG 

"As the country was whipped into a frenzy," writes the Chinese poet Liao Yiwu near the beginning of this memoir, "I took pride in my coolheadedness." It was 1989. Students were protesting across China, but Liao remained indifferent. Then in early June the army opened fire in Tiananmen Square. Something in him changed, and he wrote a protest poem called "Massacre".
He was locked up in Chongqing, and this book—written three times because the authorities kept stealing his manuscripts—is a shocking document of the daily horrors of life in a Chinese prison, subject to guards who were often sadistic. In the most grotesque moment—and there are hundreds—he is sodomised with an electric baton. The sadism even spreads to the prisoners. Liao lists a "menu" of tortures dished up in the cells. "Noodles in a Clear Broth" involves eating toilet paper soaked in urine. "Sichuan-Style Smoked Duck" ends with the victim’s penis being burnt. Like several inmates, Liao tries to commit suicide by smashing his head against the wall.

"I found myself trapped", he says, "in an invisible kingdom ruled by blood and iron." It’s the best sentence in the book, showing Liao’s gift for a lyrical line, which is sometimes marred by lumps in the translation. "Stinky scumbags", for one, doesn’t ring entirely true as a cell-block insult. But what stands out is Liao’s calm reporting, mirroring his trauma’s terrifying regularity. The darkness is so deep that redemptive sparks blaze like magnesium. One night he sees a young death-row inmate called Little surrounded by his friends, "cuddling him like loving fathers". 

New Harvest, out now

"Khi xứ sở bị tẩn đến biến thành khùng điên", nhà thơ Tẫu Liao Yiwu viết, ở gần khúc mở ra cuốn hồi ký của mình, "tôi đếch thèm để ý đến". Đó là năm 1989. Đám sinh viên theo nhau xuống đường. Kệ cha tụi bay, ông làm mặt lạnh với cái đầu của chính mình. Rồi đầu tháng Sáu, xe tăng quân đội nhân dân Tẫu bắn vào nhân dân Tẫu, ở Thiên An Môn. Có cái gì thay đổi ở trong ông, Và ông đi 1 bài thơ, đặt tên là “Tàn Sát”.
Nhà nước Tẫu ném ông vô tù. Và cuốn sách - viết ba lần, vì bị cớm Tẫu chôm đi chôm lại, là 1 tài liệu gây sốc về cuộc sống thường nhật ghê rợn ở nhà tù Tẫu, lũ quản giáo đa số là những tên sa đích.
Ghi chú trong ngày

*

Mới tậu, nhân đầu tháng, đi gặp Bác Sĩ lấy thuốc, ghé tiệm sách cũ ở kế cái shelter ngày nào mới tới Xứ Lạnh được xe nhà nước Canada chở tới... Cô bạn  phù dâu cởi bao tay, bắt tay Gấu, tự nhiên như dân...  Canada, còn GCC thì run như "thằn lằn đứt đuôi" [thuổng chữ của Kiệt, trong MCNK], Gấu Cái vừa đau lòng nhìn, vừa thương hại "cho cả ba", ngày nào cùng ngồi thuyền.... (1)

Hà, hà!

Cuốn này cũng tuyệt lắm, TV đã từng giới thiệu. Applebaum đưa ra 1 cái nhìn mới mẻ hẳn, về chủ nghĩa Xì Ta Lin, ở những vùng đất Đông Âu. Thư thả, GCC, sẽ lèm bèm tiếp, vì nó cũng  liên quan đến cái nhìn của chúng ta về cuộc chiến Mít.

'''Totalitarianism' remains a useful and necessary empirical description. It is long overdue for a revival".
Chủ nghĩa toàn trị vẫn là 1 miêu tả có ích và cần thiết, về mặt thực dụng.
Nó trở nên lỗi thời, và cần làm mới.

VLADIMIR TISMANEANU trên tờ TLS, điểm cuốn Bức Màn Sắt.

Đời sống đằng sau Bức Màn Sắt

Louis Menand đọc Bức Màn Sắt của Applebaum

Iron Curtain by TLS

Encyclopedia of the dead
Bách Khoa Toàn Thư về Những Người Chết

VLADIMIR TISMANEANU

A history of 1945
Darkness before dawn
1945 is often seen as the year when war ended and normality returned. It wasn't
Sep 28th 2013 |From the print edition


Herodotus: Cha già Lịch sử


Ghi chú trong ngày

September 27, 2013

Claude Lanzmann’s “The Last of the Unjust”
Posted by Richard Brody

There are some terrific films on view in this year’s New York Film Festival, which starts tonight. Of those I’ve seen so far, one is historic: Claude Lanzmann’s “The Last of the Unjust” (screening this Sunday). It’s not just because of the subject, as there are plenty of banal, insignificant documentaries about aspects of the Holocaust. Lanzmann is a director whose art and aesthetic imagination have marked the age no less than his historical investigations.

Note: Cái tít nhại tên 1 cuốn tiểu thuyết, “Người Công Chính Cuối Cùng, Le Dernier Des Justes”, TV đã giới thiệu. Một phim về Lò Thiêu phải mất 40 năm mới hoàn thành.

Witness

*

LOOK AGAIN


THE MAN WITH THE GOLDEN CANON
*

*

Love and squalor

Kẻ Xa Lạ

IT DISGUSTED him, really, how people loved "The Catcher in the Rye". It was not that Jerome David Salinger did not crave literary recognition. Growing up on Park Avenue in Manhattan, he was 15 when he first longed to be published in the New Yorker. Over beers in his 20S, when he was churning out little yams for middlebrow "slicks" such as the Saturday Evening Post, he would brag that he was better than all the greats, from Dreiser to Hemingway (though he allowed that Melville was pretty good). Tall, suave and handsome - "like a candlestick, a Giacometti statue," recalled one admirer-he swarmed about, declaring that he would one day write the great American novel. The problem was what happened when he did.
    Salinger spent ten years writing "The Catcher in the Rye" and "the rest of his life regretting it," observe David Shields and Shane Salerno in a new biography and related documentary. Since it was first published in 1951, the book has sold more than 65m copies. With Holden Caulfield, its vulnerable, jaded, teenage anti-hero, Salinger touched countless readers who were startled to discover an author who knew just how they felt. Like pilgrims, many sought him out, craving time, answers, friendship and approval. They stalked his remote cabin in Cornish, New Hampshire, where he struggled to lead a private life until he died in 2010, aged 91. "I'm a fiction writer!" he once complained to a needy fan. "If I'd have known this was going to happen, I don't think I would have started writing."
    But he loved to write. As a child he scribbled by flashlight under the covers at boarding school. As an adult he referred to his creations-not just Holden but also the sad and precocious Glass family children, Franny, Zooey, Seymour and Buddy-as if they were real people. He seemed to prefer them to his own, according to his daughter Margaret (who aired her grievances in a bruised memoir). And they kept him company long after he published his last story in the New Yorker in 1965. Apparently Salinger kept writing nearly every day until he died. To the delight of his fans, Messrs Shields and Salerno reveal that in 2015 the author's estate will begin releasing the manuscripts he left behind.
    Arranged like an oral history (awkwardly without an index), "Salinger" draws on some previously inaccessible letters and interviews with more than 200 people. Those seeking serious scholarship will be disappointed. This is an inelegant, prurient and often fascinating smorgasbord of insight and anecdotes from historians, friends and random talking heads.
    From the "Rashomon"-like chorus of voices, readers learn that Salinger could be seductively charming and ruthlessly petty. He punished editors over commas and reprimanded dates for using clichés. He also apparently had a penchant for wooing "girls at the edge of their bloom". He troublingly befriended and sometimes seduced teenage women decades his junior, only to unceremoniously abandon them on a dime. The authors un convincingly ascribe this pattern to Salinger's unconsummated first love, arguing that he was moved to revisit the terrain of that lost romance again and again.
    Salinger clearly pined for innocence. The intelligent adolescents of his stories of- ten struggled to find meaning in a world filled with "phoneys"-a struggle that mirrored his own. Spiritually hungry, he sought fulfillment in Vedanta Hinduism, and often neglected his own family (he would ultimately marry three times and have two children).
    Messrs Shields and Salerno argue that Salinger's fiction and retreat from society were largely informed by his traumatic experiences during the second world war. As a staff sergeant he fought in some of Europe's bloodiest campaigns, and pounded away at his novel in foxholes. He helped liberate a German concentration camp in 1945, which left a mark ("You never really get the smell of burning flesh out of your nose entirely," he once told his daughter). During the war he also met and admired Ernest Hemingway, who praised Salinger's ability to "write tenderly and lovingly without getting wet."
    Full of color and intrigue, "Salinger" can be gripping. It is also exactly the kind of messy, unsubtle, intrusive and speculative work the man himself understandably shunned. +


*

War in peace

James Campbell

Dân Xề Gòn ngày nào rành cuốn này lắm, qua cuốn phim thần sầu, với cái tên thần sầu, Khi vưỡn còn đực rựa trên thế gian này:

Tant qu'il y aura des hommes

*

GCC coi phim này, đúng lúc mới lớn, với cuộc chiến ở trước mặt, và không làm sao quên được tiếng kèn khóc bạn ở trong phim.

Cuốn tiểu thuyết, ngay khi được in ra, là đã bị cắt bỏ rất nhiều. Và theo như tay điểm sách trên TLS, thì nhờ cắt bỏ nên mới hay! Chúng ta gặp trường hợp của Raymond Carver ở đây, và câu hỏi, không có tay biên tập, liệu Carver trở thành nhà văn thần sầu của thứ truyện cực ngắn? 

Normail Mailer phán về James Jones, và những người cùng thời với ông, “tài năng ở trong phòng” hiện thời:

In "Evaluations", an infamous essay written in 1959, Norman Mailer dispatched the current "talent in the room" in a sequence of pugnacious deliveries: Saul Bellow "knows words but writes in a style I find self-willed .... I cannot take him seriously"; Truman Capote "has given no evidence that he is serious about the deep resources of the novel"; J. D. Salinger was "the greatest mind ever to stay in prep school" [nhà văn lớn lao nhất của…  prep school]; James Baldwin was "too charming a writer to be major ... the best of his paragraphs are sprayed with perfume". Gore Vidal, William Styron and a dozen other contenders were left seeing stars. The essay, published in Advertisements for Myself, is remembered for its belligerence - though many of Mailer's verdicts endure - but it extended the occasional embrace as well, none more bearish than in its opening sentence: "The only one of my contemporaries who I felt had more talent than myself was James Jones". Jones was, moreover, "the one writer of my time for whom I felt any love". From Here to Eternity, the first of Jones's (by then) three novels was not only the best book about the experience of being a soldier in the Second World War, but seemed to Mailer to be "the best American novel since the war ... it has the force of few novels one could name". America had farmed a home-grown War and Peace, it seemed. Jones himself was not above marking his achievement at a high value, even before the novel appeared in print.

"I, personally, believe it will stack up with Stendhal's Waterloo or Tolstoy's Austerlitz", he advised his editor at Scribner's, Burroughs Mitchell, on submitting the final chapter - a "tour de force" - in 1949. "That was what I was aiming at, and wanted to do, and I think it does it." At the very least - not that the debutant would be satisfied with that - From Here to Eternity was a satisfactory response by a member of the younger generation to the writers who had seen action in the First World War, Hemingway foremost among them in readers' minds. "We must remember people will be reading this book a couple hundred years after I'm dead."

Bảnh hơn cả Nguyễn Du, tác giả chắc nịch, vài trăm năm sau, sau khi tớ chết rồi, thiên hạ vưỡn tìm đọc “Từ Đây Tới Vĩnh Cửu”, và nó được đặt kế bên Stendhal's Waterloo, hay Tolstoy's Austerlitz".

Ghi chú trong ngày

Lydia Davis, Some Notes on Translation and On Madame Bovary

Not long ago, I was chatting with an older friend who is a retired engineer and also something of a writer, but not of fiction. When he heard that I had just finished a translation of Madame Bovary, he said something like, “But Madame Bovary has ­already been translated. Why does there need to be another translation?” or “But Madame Bovary has been available in English for a long time, hasn’t it? Why would you want to translate it again?” Often, the idea that there can be a wide range of translations of one text doesn’t occur to people—or that a translation could be bad, very bad, and unfaithful to the original. Instead, a translation is a translation—you write the book again in English, on the basis of the French, a fairly standard procedure, and there it is, it’s been done and doesn’t have to be done again.

A new book that is causing excitement internationally will be quickly translated into many languages, like the Jonathan Littell book that won the Prix Goncourt five years ago. It was soon translated into English, and if it isn’t destined to endure as a piece of literature, it will probably never be translated into English again.

But in the case of a book that appeared more than one hundred and fifty years ago, like Madame Bovary, and that is an important landmark in the history of the novel, there is room for plenty of different English versions....

Note: Bài viết này rất thú. Nó làm bật ra điều này, một tác phẩm, nếu đúng là văn học, là cứ phải dịch đi dịch lại hoài.
Còn cái thứ ăn xổi, dịch một lần, là thôi.

Nó cảnh cáo luôn cái trò, viết bằng tiếng Mít, thí dụ, đếch ai đọc, thì vứt vô thùng rác, đừng dịch ra tiếng Anh, tiếng U, hay mang về trong nước in, kiếm độc giả, chịu nhục nhã xin Cớm VC kiểm duyệt!

GCC đọc bài này, khi mua tờ báo, tính "đi" hoài, "thua". Bận quá, tham quá, chẳng làm gì ra trò cả!

Bài viết này còn... phản biện Thầy Phúc, khi Thầy phán, dịch thuật rất cần trong thời hội nhập, toàn cầu hóa cái con mẹ gì!
Đúng là dịch thuật cần trong thời kỳ này, nhưng cái cần này đếch dính đến dịch văn, mà chỉ là do, "mỏi tay" quá, khi mũi lõ mũi tẹt nói chuyện với nhau thôi.

Thầy này cũng một dạng phê bình gia dởm, theo GCC. May mắn qua được xứ người, đi học trường người, rành tiếng người, thế là tự phong mình là phê bình gia, viết về đủ thứ tác giả, chẳng bài nào ra hồn, theo nghĩa, chẳng khui ra được 1 nét gì đặc biệt của 1 tác giả, và cứ mỗi lần Người viết phê bình, là xổ giọng bùi ngùi, cải luơng!
Người coi đó là…. văn chương, hẳn thế!
Đúng như thế, chứ hẳn thế gì nữa. Đây là do không sáng tác được – truyện ngắn, dài không, thơ lại càng không - nên viết phê bình bằng văn chương mùi mẫn, văn chương vọng cổ.
Cái kiểu chấm hết bài bằng 1 từ “Tiếc”, thí dụ, của Thầy Kuốc, là cũng y chang!

Chán!

Rõ ràng là những dòng sau đây, áp dụng cho ai mà chẳng được:

Có sự trộn lẫn của thực tại với hồi ức, của cuộc đời hằn xé với những mộng tưởng thanh xuân. Có nắng mưa, gió sóng, cùng những bụi bặm, náo động của cuộc đời. Nhưng cũng có, trong những dòng văn chân thật ấy, những khoảng thinh lặng cần thiết và ấm áp của tình người.

Bùi Vĩnh Phúc

Ngoài đời, GCC đã từng quen ông, thời viết cho Văn Học.
Chẳng có gì thù oán. Nhưng sắp đi xa rồi, viết vội cho Người, may ra, còn kịp!

(2)
Dịch thuật (văn học) trong bối cảnh toàn cầu hóa: Một số chiến lược diễn dịch & những hệ hình mới

Đọc cái tít, là rét rùi!

Dịch, là sáng tạo. Mày mê thằng nào, mày dịch thằng đó, là mày trở thành nhà văn, Alain dạy đệ tử [Maurois].
Thầy Phúc này, ngoài đời, có bao giờ dịch đâu, mỗi lần phán về dịch, là lôi mấy cuốn sách Thầy học, khi còn ngồi trường người ra trộ.

A new book that is causing excitement internationally will be quickly translated into many languages, like the Jonathan Littell book that won the Prix Goncourt five years ago. It was soon translated into English, and if it isn’t destined to endure as a piece of literature, it will probably never be translated into English again.

But in the case of a book that appeared more than one hundred and fifty years ago, like Madame Bovary, and that is an important landmark in the history of the novel, there is room for plenty of different English versions....

Một cuốn sách mới ra lò, gây chấn động trên toàn thế giới, về 1 đề tài vẫn còn đang làm nhức nhối luơng tâm nhân loại, thí dụ, như cuốn ăn giải Goncourt của Littell, thì bèn được dịch qua tiếng Anh liền, nhưng nếu nó đếch trụ lại được, cùng với thời gian, là sau đó tự nó chui vô thùng rác văn học lẫn lịch sử.
Nhưng 1 cuốn như “Bà Bô”, thì càng nhiều bản dịch tiếng Anh càng tốt. Thời nào cũng cần 1 ấn bản mới.
“Những Linh Hồn Chết” của Gogol, phải qua bao ấn bản “dởm”, mới có được ấn bản tiếng Anh “đơ đỡ, đường được”.
“Bác sĩ Zhivago” cũng mới được dịch lại.
“Toàn cầu hoá” mắc mớ gì đến chúng?


*

Simic's 4 poems, The Paris Review
Fall 2013 (1)

SO EARLY IN THE MORNING

It pains me to see an old woman fret over
A few small coins outside a grocery store-
How swiftly I forget her as my own grief
Finds me again-a friend at deaths door
And the memory of the night we spent together.

I had so much love in my heart afterward,
I could have run into the street naked,
Confident anyone I met would understand
My madness and my need to tell them
About life being both cruel and beautiful,

But I did not-despite the overwhelming evidence:
A crow bent over a dead squirrel in the road,
The lilac bushes flowering in some yard,
And the sight of a dog free from his chain
Searching through a neighbor's trash can.

Một buổi sáng sớm tinh sương

Tôi cảm thấy đau khi nhìn một cụ già
Loay hoay với mấy đồng bạc ở bên ngoài tiệm chạp phô
- Mau lẹ làm sao tôi quên nàng như nỗi đau buồn riêng của tôi
lại tìm thấy tôi - một người bạn ở cửa cái chết
Và hồi ức đêm chúng tôi qua bên nhau.

Trong tim tôi tràn đầy tình yêu sau đó.
Tôi có thể trần truồng chạy ngoài phố
Yên trí mọi người sẽ hiểu
Sự khùng điên của tôi, và sự cần thiết, cũng của tôi
Để nói cho họ về đời sống
Vừa độc ác vừa đẹp ơi là đẹp.

Nhưng tôi đã không - mặc dù chứng cớ thì hiển nhiên, quá hiển nhiên:
Một con quạ cúi xuống một con sóc chết trên mặt đường,
Hoa lilac nở rộ trong một khu vuờn gần đó
Và cái nhìn, một con chó thoát khỏi sợi dây xích
Xục xạo một cái lon trong sọt rác nhà hàng xóm

Số mới này, đọc sơ qua, trên đường về nhà, thấy có hai bài thú. Phỏng vấn nhà văn, Tẩy Emmanuel Carrière. “Lần đầu tiên trong đời, tôi viết nhật ký bằng Nga. Thứ tiếng tôi đếch nói được. Lạ làm sao, nó lại có vẻ riêng tư, intimate, như thể tôi có thể viết những điều mà tôi không thể, [nếu] viết bằng tiếng Tẩy.
Ui choa [choa nhe], nhớ cái hồi ở Trại Tị Nạn Thái Lan, GCC viết nhật ký, bằng tiếng Tẩy! Viết đơn xin thanh lọc, xin đi định cư, “ngụy tạo” hồ sơ thanh lọc, gửi UNHCR, cho những người đã bị đánh rớt… bằng tiếng Anh!

Bài “Against Heine” của Karl Kraus, cũng tuyệt. Trong có câu, trích Heine:
Tôi càng rành về người bao nhiêu, càng yêu chó bấy nhiêu!
[The more I get to know people, the more I like dogs]

Tuyệt cú!

Hà, hà!

Note: Trên TV đã giới thiệu, Emmanuel Carrère, với cuốn Limonov của ông. Ông viết “không giả tưởng”, non-fictions, hay, cái mà ông phịa ra: tiểu thuyết không giả tưởng, non-fiction novels.

**

Note: Mua cuốn này vì nhớ tới bạn quí. Đọc nội dung cuốn truyện, thì có vẻ cùng 1 dòng với của NXH, và của NMG:
Không chỉ về Kẻ Vô Tích Sự, Người Đi Trên Mây, Kẻ Tà Đạo, không chỉ về Xứ Nam Kít, VNCH, mà còn là câu chuyện về cả lũ chúng ta, trước 1975....

Limonov là 1 nhân vật có thực ở ngoài đời, và 1 trong 10 tiếng nói lớn của văn chương ngoại ở Pháp.
Tếu thế!

*

*

Ghi chú trong ngày

[Olfaction]

IS PARIS BATHING?

From 112 Gripes About the French, a 1945 handbook for American soldiers in occupied France, edited and republished this month by the Bodleian Library.

"Why isn't there decent plumbing in French houses? The toilet facilities are disgusting!"
    They are. What should the French do about it? It takes money to have decent plumbing. That's why so many people in France don't have it. That's why so many people in our own United States don't have decent plumbing, either. The Germans have much better plumbing than the French-the Germans could afford it. Most French buildings are very old: it's harder to install plumbing in an old house than in a new one.

"French cities are filthy."
   
The French haven't had paint for a long time. In some cities and districts, the acute shortage of gasoline prevents refuse trucks from making daily rounds. French cities and houses are a great deal older than ours; old cities and houses smell more than new ones.

"The French are unsanitary."
    The French have a lower living standard than we in the United States. So do the Poles, the Russians, the Greeks, the Yugoslavs, the Chinese, the Mexicans, the Hindus, the Turks, and most of the other peoples of the world. Sanitary standards rise as the standard of living rises. It is not cheap to install modern plumbing.

"The French don't bathe."
    The French don't bathe often enough. They can't. They have had no soap worthy of the name since 1940. The Germans took the soap, for four years. That's a long time.

"You ride on the subway and the smell almost knocks you out. Garlic, sweat-and perfume!"
   
You smell garlic because the French, who are superb cooks, use more of it than we do. You smell sweat because the French must use a very poor ersatz soap-and don't get enough of that. You smell perfume because French women would rather smell of perfume than of an un-washedness which they dislike as much as you do. Incidentally, the Chinese will confess to you, if you're a friend, that the scent of white people, no matter how well scrubbed they are, is unpleasant to the Chinese.

"The French villages are pigsties. They pile their manure right in front of the houses."
   
Some French villages are pigsties. Others are not. The malodorous custom of piling manure in front of houses is practiced in many villages throughout Europe, including many villages in south and central Germany.

"I'd like the French a lot better if they were cleaner."
    That's perfectly understandable.

Harper’s Magazine Oct 2013
Paris có tắm không?

Ui chao, đọc khúc trên - một cái cẩm nang dành cho GI, khi tới Paris, những ngày đầu giải phóng - thì bèn nhớ ngay đến lần về lại xứ Bắc Kít, và nỗi sợ mỗi lần phải đi cầu!
Ở Hà Nội, thì không sao. Nhà ông cậu, Cậu Toàn, Phố Cổ, nhưng có nhà cầu đàng hoàng. Chỉ đến khi thuê 1 cái xe, đưa mấy gia đình bà con về làng cũ, mới thấm đòn “nhà cầu”. Bà vợ ông cậu, Mợ Toàn, cho biết, chẳng bao giờ bà trở lại làng cả, chỉ vì nỗi sợ nhà cầu!
Cold War Kids, Những đứa trẻ của Cuộc Chiến Lạnh, trong số báo trên, đọc cũng thấm lắm.

Giai thoại kể là, khi Bộ Đội Cụ Hồ vô Xề Gòn, thấy cái bồn cầu, bèn thả cá “cảnh” xuống, cho chúng tung tăng!

Dám thiệt lắm a.

Chuyện này thì thiệt.

Sủng, Nguyễn Quốc Sủng, 1 trong Thất Hiền - bẩy thằng bạn thân hồi đi học của GCC, đảng truởng là Chất, ông em nhà thơ TTT - lần đầu được bà cụ Tín - Trần Trung Tín, cũng trong Thất Hiền - mời tới nhà ăn cơm.

Về, anh kể lại cho GCC nghe. Tao vô nhà cầu, thấy cái bàn cầu, không biết làm sao ị, bèn ngồi lên thành bàn cầu, như tụi mình vẫn ngồi chồm hỗm…

Khó ị quá Gấu ạ!

Một anh bạn, Bắc Kít, GCC quen ở xứ người, kể, quê anh, mỗi lần đi cầu, không cần Kiss Me cái con mẹ gì, kê đít vô 1 thanh nứa, hay tre, và cứ thế chịn đi chịn lại. Nghe 1 phát, là GCC nhớ ngay đến ông chú, trong cái mẩu “Tên Của Cuộc Chiến”. Lần đầu gặp ông, khi vô Xề Gồn, 1954, theo bà chị họ, Chị Giậu, vợ nhà văn Nguyễn Hoạt tới trình diện, ông kể cái thú ỉa đồng Thanh Trì, thời gian từ Phú Hữu ra học ông giáo làng: Chịn đít lên cỏ đồng, xanh rờn, mát rười rượi!

Thứ nhất ỉa đồng,
Thứ nhì quận công
là vậy!

Tên Của Cuộc Chiến

Hồi đó ở với bà chị họ, nơi ngoại ô Bạch Mai. Một bữa có một ông chú, từ Sài-gòn ghé. Gọi là chú, vì ngày trước học chung với ông già. Chú Th. quê Phú Hữu, một làng nằm trên sườn một ngọn đồi, dưới chân núi Tản. Ngày nhỏ theo bà già từ Thanh Trì, ven sông Hồng, vượt hết cánh đồng Sơn, đứng từ dưới nhìn lên, những căn nhà lẩn sau đám cây trên đồi. Bà già chỉ: nhà bà Hàn kia kìa. Gái Thanh Trì thường làm dâu Phú Hữu. Cậu bé có mấy bà cô ở trên đồi. Trai Phú Hữu thường ra Thanh Trì làm học trò ông giáo Dực. Ông già và chú Th. học chung lớp. Chú thi rớt, bị bố la, bỏ xứ Bắc, nhẩy tầu đi một lèo tới Sài-gòn làm giầu. Ông già thi vô sư phạm, ra làm hiệu trưởng trường tiểu học, mỗi nhiệm sở đẻ một đứa con làm dấu. Đứa Hải Dương, đứa Lục Yên Châu... Nhiệm sở chót Việt Trì (Vĩnh Yên), năm 1945, rồi "thôi" luôn. 

    Lần đó chú Th. ghé chơi trên đường về quê, mang làm quà cho mấy trái xoài, và dẫn thằng cháu đi mua cho một đôi giầy, vô tình cho nó một thú vui: đánh thật bóng, rồi thử xem bụi hè phố Hà-nội mất mấy ngày mới làm mờ. 

Lần gặp lại, là ở Sài-gòn. Ông hỏi: "Nước nhà độc lập rồi, còn 'dzô' đây làm gì?" Ông hình như lấy làm tiếc cho thằng con người bạn học. Cộng sản "nòi", bố bị đảng phái thủ tiêu. Lý lịch "tốt" như thế, bỏ đi thật uổng! Chửi một hồi thấy tội, ông nhắc lại một vài kỷ niệm, hồi học chung với ông già. Giầu có như vậy, ông vẫn nhớ, và cười cười, mày chắc cũng đã hưởng qua nhiều lần, cái thú ngồi giữa đồng làng, làm một trong tứ khoái, rồi "chịn" lên mặt cỏ tươi. Làng Thanh Trì của tôi, chú chỉ nhớ có vậy. Thú thật! Làng Thừa Lệnh, quê Chu Tử, kế ngay bên Phú Hữu. Hai người hình như quen nhau, từ hồi còn nhỏ. Cô bé con chú Th. là "mặc khải" miền nam, Sài-gòn của tôi. Dây mơ rễ má với Hà-nội, là vậy. 

"Nới" rộng ra, nó liên can đến cả một miền đất.

Nhiều người bắc chắc còn nhớ cái váy nâu, cái quần thâm. Vải may xong, nhúng nâu, nhúng bùn, phơi nắng, cho tới khi cứng như mo cau, mới được xỏ vào người. Lần bà chị đưa đứa em tới "trình diện" ông chú, người đàn bà miền nam xuất hiện trước thằng nhỏ Bắc-kỳ, là hình ảnh một cô bé trong bộ bà ba đen, mỏng, mượt, mát, như... làn da thứ nhì của con người.
*

Trơng 1 số Intel, đề tài, phát minh thần sầu thế kỷ gì gì đó, bàn cầu giựt nước được coi là số 1.
Nhưng cũng có nhiều người bỏ phiếu cho cái máy giặt đồ.
Theo bạn, cái nào bảnh hơn cái nào?

Book censors target teen fiction, says American Library Association

Edgy novels about sex, drugs and suicide are increasingly banned from libraries and classrooms.
Sách dành cho con nít, trong có mùi sex, xì ke ma tuý, và xúi tự tử - ngày càng bị chiếu tướng, ở thư viện và ở nhà trường


Chỗ nào cũng nắng
NNT


Tình yêu thời thổ tả


*

Unholy Alliances
Đồng Minh Khốn Kiếp:
Nixon, Kissinger và Cuộc Làm Cỏ Bangladesh.

Mishra đọc hai cuốn mới xb: “1971: A Global History of the Creation of Bangladesh”, của Srinath Raghavan (Havard) và The Blood Telegram: Nixon, Kissinger, and the Forgotten Genocide” by Gary Bass (Knopf).

Ghi chú trong ngày

'Well, that's the end of the Booker prize, then'

Allowing US writers entry into the UK's most prestigious prize spells disaster, says Philip Hensher
Cho đám nhà văn Mẽo vô là hư mẹ Booker Prize rùi!

Giả như giải văn học VC, Hồ Chí Manh cao quí cái con mẹ gì đó, trao cho 1 anh Mít lưu vong bò về, thí dụ Người Đàn Bà Khác, của TYT?
Why not?
Có kiểm duyệt rùi mà!
Một độc giả
trong nước nhận xét, đọc 1 tác phẩm của Việt Kiều Iêu Nước, thấy cứ ngượng ngượng thế nào đó!
Ui choa, đến 1 độc giả mà còn thấy ngượng ngượng, làm sao tác giả không thấy!

Chính trị là đỉnh cao của văn học là theo nghĩa này.
Cao Hành Kiện mới ghê, tớ đếch thèm đọc đám Tẫu đương thời!


... it is hard to see how the American novel will fail to dominate. Not through excellence, necessarily, but simply through an economic super-power exerting its own literary tastes, just as the British empire imposed the idea that Shakespeare was the greatest writer who ever lived throughout its 19th-century colonies.

Thật khó mà không nhận ra, đám Yankee mũi lõ không làm mưa làm gió, không phải nhờ tài năng, mà nhờ tính siêu quyền lực đè lên khiếu thưởng ngoạn văn chương, y chang đế quốc Anh phán, chỉ có... Thạch Sĩ Bia, nhà văn lớn lao nhất đã từng sống, suốt thế kỷ 19, ở những thuộc địa của nó!

Hà Nội không bỏ 1 chữ nào, NMG đã từng mừng "đến phát khóc", khi tác phẩm của Người được xb ở trong nước.
Giả đúng như thế, thì 1 độc giả trong nước, như vị trên đây, hẳn vứt nó vô thùng rác!

Một trong những Search Keyphrases (Top 10), mấy ngày gần đây, theo server, là “điểm sách là gì”?

Chắc là độc giả TV tò mò, muốn biết "ngu ý" của Gấu Ngu, khi tính trình ra, cách điểm sách của TV, nhân viết về DNV, khi anh đọc bạn quí NXH
(1)
*

Đọc sách là đọc thứ văn chương "tức thời". Trên 1 bực, là văn chương "đương thời". Trên tí nữa, là văn chương.
Một bài điểm sách, bực Thầy, là phải làm sao nối kết được cả ba,  tức thời, đương thời, và văn chương [tức thứ hoài hoài, thời nào cũng có nó].

Gấu Cà Chớn đưa ra 1 thí dụ. Lần đọc bài thơ của Szymborska, khi vừa cầm lên tờ báo, mê quá, chơi liền. Biết là thần sầu, nhưng vưỡn chưa làm sao nói ra được, chỉ trong 1 câu, hay, 1 hình ảnh.
Thế rồi, đọc bài của Prospero, cái tay chuyên điểm sách cho tờ Người Kinh Tế Mới, mới ồ 1 phát, nó đây rồi. Prospero gọi, đây là bài thơ chống lại tận thế!
Tuyệt!
*
Szymborska có bài thơ, cực ngắn, thần sầu. Gấu đọc ngay trên báo, khi vừa xuất hiện. Cùng lúc với tay Prospero. Ông đọc trên net, chắc là sau Gấu 1 tí.
Ðọc 1 phát, là sững sờ, 1 bài thơ chống lại cả một nhân loại tha hóa, lừng lững đi vào huỷ diệt, vậy mà vẫn tràn trề hy vọng về con người.

VERMEER

Một khi mà người đàn bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế giới.

I love the shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.
Tôi mê cái dáng của bài thơ - mỏng như sợi sữa, tự nó đổ nó ra, chẳng cần tới ai. Tôi cũng mê sức căng mà thi sĩ tạo ra, giữa W và w, nó làm lộ ra đẳng cấp nhưng cũng còn làm lộ ra sự trơn trượt.

Bài thơ chống lại Tận Thế


Chỗ nào cũng nắng
NNT

Lại nói về “viết lách nhẹ không”

Theo nhà văn Bảo Ninh, cuốn Ký ức vụn "viết lách nhẹ không, như chơi, mà cuốn hút người đọc ngay lập tức.. Đây là một tác phẩm sâu nặng buồn vui. Buồn nhiều hơn vui". Dù trang bìa quyển sách ghi đây là tạp văn chọn lọc, Bảo Ninh cho rằng, tác phẩm này gần với thể loại truyện ngắn hay tiểu thuyết hơn, dù nó không mang tính hư cấu. "Sự thực thì tôi thấy Ký ức vụn là một cuốn tiểu thuyết. Cuốn ấy viết cho những người cùng thời cùng kiểu với tôi. Bởi tiểu thuyết là thế. Không có đời mình trong đó, nhưng đọc thấy đời mình, đời bạn bè mình, thấy lại trước mắt năm tháng đã qua, những năm tháng hiện hữu trong các câu chuyện và cả ở khoảng trống giữa các câu chuyện. Thời thơ ấu, tuổi học trò, mối tình đầu, tang thương chiến tranh, đời văn, quê nhà và tha hương lang bạt. Trần Vàng Sao. Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đoàn Anh Thắng. Phùng Quán. Bạn bè ở Huế…", Bảo Ninh bày tỏ.
Bảo Ninh cũng chia sẻ, không chỉ ông mà nhiều độc giả, nhất là độc giả trẻ thích thú tìm đến với cuốn Ký ức vụn và đó là điều đáng mừng cho văn học.
eVăn

Gấu đọc NQL, khi ông vừa xuất hiện trên VHNT của PCL, trong bài viết về Quảng Trị. Nổi Chìm Một Thị Xã.
Thấy được quá.
Rồi khi mới viết Blog. Quá được.
Nhưng sau đó thì không được nữa.
Nói 1 cách gọn ghẽ, thì như thế này:
NQL khi mới viết, có nhiều lửa lắm, và viết, là muốn đốt cháy, muốn đả phá, muốn chống lại, [đốt cháy, đả phá, chống lại… cái gì thì tùy bạn thêm vô], sau đó, ông viết để nịnh bợ cuộc đời.
Có lần Gấu nhận xét, ông xuất hiện như ánh lửa ma trơi, rồi vụt tắt.
Làm nhà văn ở trong 1 thế giới toàn trị, khó lắm, cũng phải thông cảm cho ông.
Được như vậy cũng là tốt rồi.
Nên nhớ, Bảo Ninh nhận xét “viết lách nhẹ như không”.
Ông không viết, “viết nhẹ như không”.
Đây là lời chê nặng nhất, còn nặng hơn cả những dòng của GCC.
Được, được!
NQT

+ Đọc blog của Nguyễn Quang Lập (cái này chắc ai cũng biết rồi chẳng cần quảng cáo thêm): ngày xưa tôi đọc Những mảnh đời đen trắng thấy chán, xem mấy cái phim thấy sến, giờ đọc kiểu viết blog thấy nhiều cái hay, đầy tài năng, nhưng là tài năng của cái nhìn phía dưới đầu gối, thỉnh thoảng cũng nâng lên trên, cách được khoảng hai gang tay.

Nhị Linh's Blog.

Đọc NQL mà hiểu như vậy, thì hơi khí nặng tay với tác giả.

Phải đọc, như những truyền kỳ, về một thế giới hồ ma của Liêu Trai, hay như những "cửa sổ" nhìn ra thế giới bên ngoài, như cách Kundera đọc Kafka, trong Những di chúc bị phản bội, hay đọc song song với "Ba thằng lăng nhăng" của Tô Hoài...

Biến thái của nó, sau 30 Tháng Tư, là dòng văn Bóng Đè, dòng thơ Mở Miệng, dòng thơ đóng đinh thập tự của Nguyễn Viện...
Đây cũng là cách Mishra đọc Ma Jian, Tiananmen's wake, coi sexual love là antidote chống lại sự kiểm soát của Đảng!

(1) Nên nhớ NQL là thuộc thế hệ Chống Mỹ Cứu Nước, khác hẳn thế hệ... Nhị Linh.
 Thay vì chọn cách viết của mấy ông kia, hay những ông như Đào Hiếu, Lữ Phương, ông chọn cách viết "truyền kỳ".
Cũng là một cách nhìn lại thời của ông! (1)

(1)

Không có đời mình trong đó, nhưng đọc thấy đời mình, đời bạn bè mình, thấy lại trước mắt năm tháng đã qua, những năm tháng hiện hữu trong các câu chuyện và cả ở khoảng trống giữa các câu chuyện. Thời thơ ấu, tuổi học trò, mối tình đầu, tang thương chiến tranh, đời văn, quê nhà và tha hương lang bạt. Trần Vàng Sao. Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đoàn Anh Thắng. Phùng Quán. Bạn bè ở Huế…", Bảo Ninh bày tỏ.

Note: Post lại mấy dòng trên tặng thứ văn chương “chỉ là đồ chơi” của ông “Vịt Cìu Iu Nước” TYT



Ghi chú trong ngày

**

Note: Cuốn của Fitz, là về ghiền rượu. Trong có cái truyện The Crack-Up. Bìa sau là câu trứ danh của Fitz mà TV đã từng chôm: Đầu tiên, bạn chơi 1 ly, sau đó 1 ly uống 1 ly ,và sau cùng ly uống bạn: First you take a drink, then the drink takes a drink, then the drink takes you.

Geoff Dyer, Gấu biết đến tên ông, khi đọc lời giới thiệu, bìa sau bản tiếng Anh Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh.
Nhưng mua cuốn này là vì quá cần. Bạn coi cái hình bìa, và đọc cái tít, là đã đoán ra được.
Vả chăng, đọc loáng thoáng, đúng cái đoạn ông ca Camus thấu trời:
G. Dyer đã từng hành hương, đến thánh địa Tipasa - vì đọc Camus viết về “tình yêu lớn dành cho thiên nhiên và biển cả” ở Tipasa - để đọc những từ sau đây, mà bạn bè của Camus khắc lên một phiến đá nâu, để tưởng niệm Camus, sau khi ông mất:

JE COMPRENDS ICI CE QU’ON APPELLE GLOIRE LE DROIT D'AIMER SANS MESURE ALBERT CAMUS
Ở đây tôi hiểu ra điều mà người ta gọi là vinh quang, quyền yêu không điều kiện. Albert Camus

GEOFF DYER

Out of Sheer Rage

In the shadow of D.H. Lawrence

Introduction by
Maggie O'Farrell

CANONGATE
Edinburgh• London• New York• Melbourne

'Looking back it seems, on the one hand, hard to believe that I could have wasted so much time, could have exhausted myself so utterly, wondering when I was going to begin my study of D.H. Lawrence; on the other, it seems equally hard to believe that I ever started it, for the prospect of embarking on this study of Lawrence accelerated and intensified the psychological disarray it was meant to delay and alleviate. '

In his own eccentric style, Dyer expresses the fears, hopes and obstructions we all experience when settling down to work. Out of Sheer Rage is a comic masterpiece and one of Dyer's best-loved books.

Trong cái bóng của [sư phụ] D.H. Lawrence.
Đếch có nhà văn Mít dám viết như thế, ở ngay trang đầu cuốn sách của mình!
Do đó, đếch có nhà văn Mít!
Hà, hà!

Ăn cắp thì nhiều!
Tu luyện đến thành “Á Thánh” mà vưỡn ăn cắp!

Out of Sheer Rage, Chỉ từ giận dữ đến điên, đến khùng mà ra. Đây là 1 cuốn sách vinh danh, và than thở về sự trần trừ, trì hoãn, như Maggie O’Farrell, trong lời giới thiệu viết. Trần trừ, trì hoãn... viết! Dyer trích dẫn D.H. Lawrence, làm đề từ cho cuốn sách của mình: “Out of sheer rage I've begun my book on Thomas Hardy". Từ giận dữ điên khùng tôi bắt đầu cuốn sách về Thomas Hardy.  
Trong cái bóng của D.H. Lawrence. Tuy nhiên, rất nhiều nhà văn khác được Dyer nhắc tới. Camus, Kundera...  và tất cả thì đều xoáy về, chỉ 1 điều, tiểu thuyết là cái gì, và làm sao viết nó!

Dyer nhắc tới Thầy, với Lawrence, tiểu thuyết là cuốn sách sáng ngời của cuộc đời, “the one bright book of life”, cái “hình thức cao nhất đạt được của biểu hiện người”, “the highest form of  human expression so far attained”.
Vào những ngày này, tiểu thuyết chỉ là chôm chĩa, cóp lại những tiểu thuyết khác, theo L. tiểu thuyết vẫn còn những tiềm năng của nó. Marguerite Youcenar cũng đồng ý với L. khi viết, “Vào thời của chúng ta tiểu thuyết ngốn, devour, tất cả những hình thức, thể loại khác, tiểu thuyết là hình thức con người bắt buộc phải sử dụng, như môi trường diễn tả, a medium of expression.
Milan Kundera's faith in the novel is the equal of Lawrence's but the logic of his apologia for the form actually carries him beyond it. Kundera takes inspiration from the unhindered exuberance of Rabelais and Sterne, before the compulsive realism of the nineteenth century. 'Their freedom of composition' set the young Kundera dreaming of 'creating a work in which the bridges and the filler have no reason to be and in which the novelist would never be forced - for the sake of form and its dictates - to stray by even a single line from what he cares about, what fascinates him'. Kundera duly achieved this in his own fictions, the famous novels 'in the form of variations'. In his 'Notes Inspired by The Sleepwalkers', meanwhile, Kundera paid tribute to Broch who demonstrated the need for 'a new art of the specifically novelistic essay'. Novels like Immortality are full of 'inquiring, hypothetical' or aphoristic essays like 'this but compared with these, my favorite passages, I found myself indifferent to Kundera's characters. After reading Immortality what I wanted from Kundera was a novel composed entirely of essay, stripped of the last rind of novelisation. Kundera duly obliged. His next book, Testaments Betrayed, provided all the pleasure - i.e. all the distractions - of his novels with, so to speak, none of the distractions of character and situation. By Kundera's own logic this 'essay in nine parts' - more accurately, a series of variations in the form of an essay – which has dispensed entirely with the trappings of novelisation, actually represents the most refined, the most extreme, version yet of Kundera's idea of the novel.
'A book which is not a copy of other books has its own construction,' warned Lawrence and the kind of novels I like are ones which bear no traces of being novels. Which is why the novelists I like best are, with the exception of the last-named, not novelists at all: Nietzsche, the Goncourt brothers, Barthes, Fernando Pessoa, Ryszard Kapuscinski, Thomas Bernhard ...
Ghi chú trong ngày

*

Lê Quốc Quân vs VC


Les dissidents contre-attaquent

Lực Lượng Ly Khai Phản Công

LÊ QUÔC QUÂN (VIETNAM, 42 ANS) L’AVOCAT DES DROITS DE L'HOMME

Depuis décembre 2012, l'avocat et blogueur croupit avec une douzaine de détenus dans une cellule de la prison numéro1 de Hanoi, officiellement accusé d'«évasion fiscale ». Il a été arrêté neuf jours après la publication par la BBC d'un article dans lequel il proposait d'amender la Constitution - notamment l'article 4, qui fait du Parti communiste le centre de la vie nationale. Ce qui livre la véritable raison de son arrestation et de son maintien en détention au-delà des quatre mois théoriquement requis pour l'instruction. Fondateur d'un cabinet d'avocats spécialisé dans la défense des droits de l'homme, Lê Quôc Quân, qui n'a plus le droit d'exercer son métier depuis six ans, a déjà été arrêté en 2007, au retour d'un séjour aux Etats-Unis. Libéré trois mois plus tard, en raison des protestations au Vietnam et à l'étranger, il a repris son activite de blogueur, réclamant le pluralisme politique, le respect des droits de l'homme et de la liberté religieuse. Sans cesser d'être surveillé. Avec un rappel à l'ordre sous forme de passage à tabac. Dans un pays qui vient de renforcer son arsenal répressif contre l'usage politique des réseaux sociaux, Lê Quôc Quân est l'un des 35 blogueurs emprisonnés et des 7 avocats interdits de plaidoirie. Originellement fixé au 9 juillet, son procès a été reporté à une date indeterminée. Désormais connu dans le monde entier, Lê Quôc Quân est menacé d'une peine de trois à sept ans de prison. R. B.

Từ Tháng Chạp 2012, luật sư kiêm "bốc g[x]ơ", cùng hơn chục người khác, bị nhét vô 1 xà lim ở nhà tù số 1 ở  Hà Nội. Cái mũ chính thức VC nhét vô đầu ông, "trốn thuế". Ông bị bắt, 9 ngày sau khi cho công bố trên BBC một bài viết trong đó ông đề nghị VC huỷ bỏ hiến pháp, nếu chưa được, thì ngay lập tức, thiến mẹ điều số 4, trong đó ban cho Đảng VC cái quyền là rốn của vũ trụ Mít. Đó là lý do thực sự của vụ bắt giữ ông, và ông bị giam giữ quá 4 tháng, thời gian tối đa bị giam giữ để điều tra!
Là luật sư, chủ văn phòng một cửa tiệm chuyên cãi cho quyền con người, ông mất mẹ quyền này, đã sáu năm, và bị bắt vào năm 2007, sau khi đi giang hồ vặt ở Mẽo về. Được thả, ba tháng sau đó, do áp lực từ những phản đối ở trong nước cũng như ở hải ngoại, ông gia nhập hàng ngũ blốc-gơ, đòi đa nguyên chính trị, tôn trọng quyền con người, từng cá nhân con người, tự do tôn giáo. Thường trực được Đảng theo dõi, lấy lý do bảo đảm an ninh trật tự cho đất nước, tránh hỗn loạn, diễn biến hòa bình. Trong 1 đất nước vừa mới tăng cường thêm bộ máy kìm kẹp bằng sắc luật cấm sử dụng mạng lưới thông tin vào mục đích chính trị, Lê Quốc Quân  là 1 trong số 35 blốc-gơ bị bắt giữ, và 7 luật sư bị cấm hành nghề thầy cãi. Vụ án của ông, được ấn định ngay ra tòa ngày 9 Tháng Chín, nay bị hoãn, không biết đến ngày nào. Được biết đến trên toàn thế giới, Lê Quốc Quân đang đối mặt với 1 bản án VC, từ 3 đến 7 năm tù.


Xâm Lăng Prague

Si tu lis les premières pages du Manifeste communiste, c'est le plus fameux éloge du capitalisme qu'on ait jamais vu.
Nếu bạn đọc những trang đầu tiên của Tuyên ngôn CS, thì đó là những trang vinh danh hiển hách nhất chủ nghĩa tư bản mà người ta đã từng đọc.
Hannah Arendt

Cái cú 30 Tháng Tư 1975, ngay VC thổi nào là những đỉnh cao thời đại, bước ngoặt lịch sử…. gì gì đi nữa, cũng chưa xứng với nó!

Dân Mít, Bắc Kít, đúng hơn, được ông Trời cho phép có mặt ở trên cõi đời này, là để có giấc mơ này, và làm sao thực hiện nó.
Chỉ đến khi thực hiện được nó, thì mới hỡi ơi, vì đúng lúc đó, mất nó!

“Nó” liên quan đến cái cực tốt, và cái cực xấu của cái gọi là Bắc Kít.
Cái cực tốt của Bắc Kít tạo ra hình ảnh Thiên Sứ của Sến Cô Nương. Nhờ nó có giống dân Bắc Kít, ở kế ngay tên Đại Hán[g] Gian Ác mà vẫn trường tồn!
Cái cực xấu, là Cái Ác Bắc Kít, tạo ra Lò Cải Tạo!
Tạo ra…  Anus Mundi, mang cái thúi Bắc Kít đi reo rắc cùng khắp thế giới, biến cả thế giới thành bãi đánh hàng, khiến cả thế giới khiếp sợ gọi là họa Hoàng Quỉ.
Và sau cùng hủy diệt giống Mít!

Giống dân nào, được nhân loại nằm mơ, sáng ngủ dậy, biến thành nó: Bắc Kít.
Giống dân nào, ngủ dậy thấy mình biến thành bọ: Bắc Kít!

Làm gì có cách mạng Ả Rập

*

Nhà thơ Syrie, Adonis, chụp tại tư gia ở Paris, 2004



*

Làm đếch gì có thứ chiến tranh “đỉnh cao chói lọi, bước ngoặt lịch sử” nữa!

*

Obs: Ông viết nhiều “tạp ghi văn học” [chroniques littéraires], tựa [préfaces], đặc biệt cho những ấn bản về Daniel Defoe, Graham Greene, Saul Below, Robert Musil và Samuel Beckett. Những tác giả này có 1 ảnh hưởng đặc biệt lên ông?
Coetzee: Chỉ khi còn trẻ người ta mới ảnh hưởng bởi những nhà văn khác. Về già, người ta không bắt chước họ nữa, mà giản dị, đọc, biết [apprendre] về họ. Hồi nhỏ, tôi mê Beckett. Những tác giả khác mà ông nêu tên, trễ hơn.
Ông có sợ già không?
Tôi sống quá lâu trên trái đất này rồi, chẳng còn sợ cái đếch gì nữa [quoi que ce soit].
Ba cuốn ông mang theo, nếu đi tới "đảo xa" [ile déserte]?
Hai thôi, “Iliade” và “Don Quichotte”.



Khe Sanh,1968

MICHAEL HERR IN A BLOODSWARM

(The only Vietnamese many of us knew was the words "Bao Chi! Bao Chi!" - Journalist! Journalist!- or even "Bao Chi Fap!"- French journalist!- which was the same as crying, Don't shoot! Don't shoot!)

From Dispatches. The conflict in Vietnam between the communist North and anticommunist South began after the North defeated the French colonial administration in 1954. By 1965 President Johnson had committed over 180,000 US. troops to the country. Herr served six months of active duty in the Army Reserve in 1963 and 1964 and was in Vietnam in the late 1960s as a correspondent for Esquire. In 1977 he published his memoir, Dispatches, which John le Carré called ''the best book I have ever read on men and war in our time. "

Mấy từ tiếng Mít độc nhất mà đa số chúng tôi biết, là "Báo chí! Báo chí!", hay, "Báo Chí Pháp", và nó có nghĩa, “Đừng bắn! Đừng bắn!” “Tha mạng cho tôi!”

John le Carré phán, số dách! Tớ chưa từng đọc cái nào bảnh hơn nó, viết về đờn ông và chiến tranh, trong cái thời của chúng ta!

Ui chao, giá mà xừ luý đọc “Tứ Tấu Khúc”, hay “Cõi Khác”, của Gấu Cà Chớn, nhỉ!

Đau khổ nhất là những ngày cô bạn đi lấy chồng. Vẫn những ngày tháng ngây ngô bên mớ máy móc, nghe tiếng người nói xôn xao từ những thành phố xa lạ phía bên ngoài địa ngục, qua đường dây điện thoại viễn liên, mơ màng tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ hạnh phúc, hạnh phúc... Hết còn nỗi ngây thơ tưởng mình ở trên cao, trên tận đỉnh cồn, thấy hết, hiểu hết. Vẫn những đêm dài điên cuồng đuổi theo bóng mình sợ hãi trốn sâu dưới đáy địa ngục, trong những hang cùng ngõ hẻm thành phố, chạy hoài, chạy hoài, không còn nơi để ghé, không còn chỗ để ngừng... Chỉ mong gặp lại những hồn ma quen, những gã phóng viên người Nhật, người Mỹ, hai gã chuyên viên Phi Luật Tân, để hỏi coi họ có còn luyến tiếc đất nước này hay không, chỉ muốn la lớn, tôi yêu em, tôi yêu em, cho cả thế giới, cả loài người đều nghe...
Cho người chết gật đầu thông cảm.
Ghi chú trong ngày

… Người ta hay ví một tác-phẩm-được-đọc với dòng sông của Heraclites, nơi không ai có thể tắm hai lần là vì vậy.”

Ts Nguyễn Ngọc Tuấn (Nguyễn Hưng Quốc) (1)

Cái này, vớ được trên Blog Bà Tám.

Thú thực, Gấu chưa từng thấy ai ví một "tác phẩm được đọc" với dòng sông Heraclites, nơi không thể tắm hai lần!
Nhưng mà người ta nói, 1 tác phẩm, nếu nó hay, là chịu được sự đọc lại. Một tác phẩm, là tác phẩm, khi được đọc lại.
Cái “đọc lại”, đếch giống cái "tắm hai lần trong 1 dòng sông”, mà là nó biến tác phẩm thành... cổ điển, nghĩa là, tác phẩm đó có chỗ của nó ở trong dòng sông… văn chương!
Bởi thế, 1 tay điểm sách, khen 1 cuốn sách "vừa mới ra lò", một tác phẩm "cổ điển", là bạn phải đi kếm nó đọc liền tù tì!

Đúng là phán loạn cào cào!

“Tại sao đọc những tác phẩm cổ điển”

Hãy thử bắt đầu bằng một định nghĩa:

Tác phẩm cổ điển là thứ mà người ta nói, “tôi đang đọc lại nó”, không hề nói, “tôi đang đọc nó.”
Điều này chí ít chỉ có thể xẩy ra giữa đám “đọc rộng”, không thể áp dụng cho tuổi trẻ, vào tuổi đó, cái gì gì thì cũng là nụ hôn đầu, tình đầu, lần đầu gặp gỡ, cú sét đánh…
Cái mẩu “lại”, trong “đọc lại” có thể làm cho một độc giả nào đó, đỏ mặt, nhất là những đấng nghĩ rằng mình chưa từng đọc một dòng Tội Ác và Trừng Phạt, thí dụ. Để an ủi họ, chúng ta có thể nói, ngay cả thằng cha Gấu, được đời khen tặng uyên bác, hay chữ, thực sự, cái đọc của hắn ta thì cũng chỉ quanh quẩn nơi lò thiêu người, lò lao động cải tạo Đỗ Hòa, Cần Giờ, hay Phạm Văn Cội, Củ Chi Thành Đồng, là cùng!
Nào, ai đã từng đọc hết Nguyễn Khải, Lê Lựu, Nguyễn Minh Châu, Bọ Lập Ký Ức Vụn… giơ tay lên! Ngay cả những bộ sách lãng mạn trứ danh, thì cũng chỉ nghe người đời xướng danh, thay vì đọc chúng. Ở Pháp, người ta bắt đầu đọc Balzac khi đi học, và qua những những lần tái bản cho thấy, Tây mũi lõ vẫn tiếp tục đọc Balzac, khi hết còn mài đít quần trên ghế nhà trường. Ở Ý, đám fans của Dickens thì cũng chỉ có một dúm, và mỗi lần gặp nhau, là mỗi lần trộ nhau, cứ như là thằng nào cũng quá rành Oliver Twist!
Cách đây vài năm, Michel Butor, dậy học tại Mẽo, quá chán vì cứ nghe lải nhải, Thầy đã đọc Emile Zola chưa, sự thực, ông chưa từng đọc, và thế là một ngày đẹp trời, bèn chúi mũi vào Zola. Kết quả ông khám phá ra một điều không thể ngờ được về bộ Rougon–Macquart: Một phả hệ học tuyệt vời về huyền thoại và vũ trụ, và sau đó ông chỉ ra trong một tiểu luận thật đẹp.
*
Coetzee mở ra cuốn Những bến bờ lạ lẫm hơn, Stranger Shores, bằng bài viết Cái Gì Là Cổ Điển ? thật tuyệt.
Bài này độc giả Mít chắc thú hơn bài của Calvino, vì ông chú trọng tới cái thời của riêng chúng ta, khi đọc một cổ điển.

Theo cái kiểu, sống sót Lò Cải Tạo, một buổi chiều nơi xứ Mẽo, nhớ Sài Gòn, bèn lôi Nguyễn Du ra đọc!
[Gấu sẽ đi luôn cả hai bài, trong khi chờ... , en attendant M mail!]

Coetzee dẫn lời nhà thơ cổ điển vĩ đại nhất của thời của riêng chúng ta, nhà thơ Ba Lan Zbigniew Herbert.
Ông này phán: đối nghịch của cổ điển thì không phải là hiện đại, mà là man rợ.
Cú đụng độ “cổ điển vs man rợ” không hẳn một đối nghịch, mà là một đối đầu [not so much an opposition as a confrontation].
Từ đó suy ra, những “Thơ ở đâu xa”, “tôi cùng gió mùa”… đều là… cổ điển: Chúng dám đối đầu với man rợ.
*
Câu trả lời của Coetzee, cho câu hỏi, “Cổ điển là cái gì?”: Cổ điển là cái sống sót, … that the classic is what survives…. the classic defines itself by surviving… what survives the worst of barbarism, surviving because generations of people cannot afford to let go of it and therefore hold on to it at all costs – that is the classic.
Cái sống sót những gì tệ hại nhất của man rợ, sống sót theo cái nghĩa, hết thế hệ này qua thế hệ khác, con người không thể chịu nổi chuyện buông xuôi, cố ôm lấy nó, không thể cho man rợ thắng thế, cái đó gọi là cổ điển.
Gấu này tin rằng, cái gọi là cổ điển của Mít, chính là văn chương Miền Nam trước 1975. Chỉ có nó sống sót trong trận chiến "cổ điển vs man rợ"!

Ba cái thằng bỏ chạy bợ đít VC, mà là… sống sót ư?
*
“Tại sao đọc cổ điển” của Italo Calvino gồm những bài viết về một số tác giả. Cách đọc “Bác sĩ Zhivago” của ông, trong bài “Pasternak và cách mạng”, thật là tuyệt. Ông không đồng ý với Lukacs, khi tin rằng, chẳng phải ngẫu nhiên mà thế kỷ của chúng ta là của truyện kể, récit, của tiểu thuyết ngắn [roman court, không phải sử thi], của những chứng từ có tính tiểu sử, tự thuật [témoignage autobiographique]. Calvino viết câu sau đây - có thể là để vinh danh một số câu văn thần sầu của… Gấu, [vừa thôi cha nội!], thí dụ như câu: "Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể", hay câu "Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu", [thì đã nói rồi, cái đám bỏ chạy làm sao viết nổi những câu như thế, và đây chính là điều Calvino "ngộ" ra, khi không đồng ý với phê bình gia tổ sư Mạc xít Lukacs, khi viết]: de nos jours, une prose narrative véritablement moderne ne peut faire porter sa charge poétique que sur le moment….

Cái gọi là ‘sur le moment’, đám bỏ chạy làm sao có?

Source

Những Bếp Lửa, Một Chủ Nhật Khác…  đã trở thành những tác phẩm cổ điển.
Chúng chống lại Man Rợ, Cái Ác VC Bắc Kít,
Có thể TTT muờng tượng ra điều này, và…  ngưng viết?

de nos jours, une prose narrative véritablement moderne ne peut faire porter sa charge poétique que sur le moment….

Vào những ngày Mậu Thân, dòng thơ xuôi tự sự, thứ thiệt, [như được GCC sử dụng, để tả nỗi nhớ cô bạn], thì chỉ có thể mang chất thơ trên cái khoảnh khắc, và đó là cái khoảnh khắc “nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề với cái chết….”

Ui chao thổi tới quá!

 'And so we write of the war, of homecoming, of what we had seen in the war and what we found on returning home: we write of ruins.' 

Heinrich Boll

[Sebald trích dẫn, trong Giữa Lịch sử và Lịch sử Tự nhiên, Between History and Natural History, trong Campo Santo.]

"Và chúng ta viết về cuộc chiến, về trở về nhà, về những gì chúng ta nhìn thấy trong chiến tranh và những gì chúng ta tìm thấy khi về nhà: chúng ta viết về điêu tàn."



*

*

Jackie & Daughter


*

  *

Note: Bức hình này, có trong số báo Death, trên, và được ghi là: Góa phụ khóc trên xác chồng được kiếm thấy từ mồ tập thể, Huế, Việt Nam, 1969. Hình của Larry Burrows [Widow crying over the remains of her husband found in mass grave, Hue, Vietnam, 1969]

Huế Mậu Thân

Kiếm thấy câu này, cũng trong số báo:
Ai điếu thì có rồi, mà thằng khốn GCC đếch chịu chết!

Get the coffin ready, and the man won't die
Chinese proverb

*

Xác Đại Dâm Tăng Rasputin

Trong lời mở ra cuốn tiểu sử Solzhenitsyn, D.M. Thomas nhớ lại cảnh tượng, ngồi uống vodka với một tay mật vụ, cựu đại tá KGB, đã về hưu, và được nhà nước ban cho nhiệm vụ 'đánh bóng' hình ảnh đất mẹ, ở hải ngoại.
Cả hai ngồi tại khách sạn Helsinki, nhìn ra biển đóng băng phía bên ngoài. Khi được hỏi, ông nghĩ sao về một hình ảnh mở ra cuộc cách mạng Nga.

"Hình ảnh nào ư?", ông ta gật gù, nhìn ra Vịnh Phần Lan.

Vài tuần trước đó, con tầu phà Estonia đã chìm ở ngoài đó, đem theo cùng với nó hàng ngàn người. "Crắc" một cách, rồi cứ thế chìm xuống, nhẹ nhàng, êm ru bà rù. Cả hai cùng đồng ý, đó là hình ảnh tuyệt vời, để diễn tả sự tận cùng của Chủ Nghĩa Cộng Sản.

Nhưng hình ảnh khởi đầu?

Sự cứu rỗi cuối cùng

Hình ảnh mở ra Cách Mạng Nga là cái chết của Rasputin, qua bình chọn của tay cựu mật vụ KGB. (1)

Hình ảnh mở ra Cuộc Cách Mạng Mùa Thu, của dân Mít, có lần Gấu đề nghị, là cái chết của Đỗ Đức Phin, dưới tay nhà thơ, nhạc sĩ, kiêm đao phủ thủ Văn Cao.
Và Thiên Thai bặt tiếng kể từ sau đó.

Liệu hình ảnh 'đám mây khói' bay lên kia, tiên tri cái chết của… VC? (1)


*

FOUND IN TRANSLATION
A real-life horror story

ENGLISH TITLE FOR A SONG AND A HUNDRED SONGS
AUTHOR LIAO YIWU
ORIGINAL LANGUAGE CHINESE
TRANSLATOR WEN HUANG

"As the country was whipped into a frenzy," writes the Chinese poet Liao Yiwu near the beginning of this memoir, "I took pride in my coolheadedness." It was 1989. Students were protesting across China, but l.iao remained indifferent. Then in early June the army opened fire in Tiananmen Square. Something in him changed, and he wrote a protest poem called "Massacre". He was locked up in Chongqing, and this book - written three times because the authorities kept stealing his manuscripts - is a shocking document of the daily horrors of life in a Chinese prison, subject to guards who were often sadistic. In the most grotesque moment - and there are hundreds - he is sodomised with an electric baton. The sadism even spreads to the prisoners. Liao lists a "menu" of tortures dished up in the cells. "Noodles in a Clear Broth" involves eating toilet paper soaked in urine. "Sichuan-Style Smoked Duck" ends with the victim's penis being burnt. Like several inmates, Liao tries to commit suicide by smashing his head against the wall. "I found myself trapped", he says, "in an invisible kingdom ruled by blood and iron." It's the best sentence in the book, showing Liao's gift for a lyrical line, which is sometimes marred by lumps in the translation. "Stinky scumbags", for one, doesn't ring entirely true as a cell-block insult. But what stands out is l.iao's calm reporting, mirroring his trauma's terrifying regularity. The darkness is so deep that redemptive sparks blaze like magnesium. One night he sees a young death-row inmate called Little surrounded by his friends, "cuddling him like loving fathers". - SIMON WILLIS

New Harvest, out now
Intel Life

SLEEPING WITH THE ENEMY


Tessa Hadley's top 10 short stories

Nadine Gordimer says short stories should 'burn a hole into the page'.
Here are 10 of the most incandescent examples of the form
Truyện ngắn, hay, đốt thủng 1 cái lỗ, trên trang  giấy.

Other Colors: Những màu khác
Blog GM

Theo GCC, Dùng “sắc màu”, từ đúp, để chỉ “other colors”, đúng ý tác giả Pamuk và nội dung cuốn sách hơn, theo GCC.

Như PICO IYER viết::

“Other Colors” is too eagerly inclusive to make up the single-pointed, honed narrative that its author promises. Like the maximalist “Black Book” or “My Name Is Red,” it is more a fireworks display than a rounded sculpture (it’s no surprise that a favorite Pamuk character is the “encyclopedist ”). (2)



*

Mud
Beautifully filmed Coming-of-Age tale on the Mississippi River

Somewhere between Huckleberry Finn and Stand By Me, Mud (review here) is a coming of age tale that puts McConaughey in as the mysterious 'Mud', a drifter who befriends two local boys, Ellis (Tye Sheridan) and Neckbone (Jacob Lofland). (1)

Note: Một phim thần sầu, ở đâu đó, giữa Huckleberry Finn và Stand by Me, “Mud” là 1 phim về hai đứa con nít mới lớn.
Gấu có cảm tưởng như những phim trước đó, đã từng coi, là để coi phim này. Chưa kể con sông Mississippi của Faulkner, của Mark Twain…


Ghi chú trong ngày

Pursuit of evil
Truy nã Cái Ác

Sài Gòn chìm trong mưa lụt

Syria and the Echoes of Vietnam
September 4, 2013

Eisenhower 1954, Obama 2013

Cái vụ, Tông Tông Đen, Obama, luỡng lự trước Syria, làm nhớ Eisenhower, trước Việt Nam, khi xẩy ra cú Điện Biên Phủ. “Historic parallels are risky”, so sánh lịch sử kiểu này thì hơi bị liều lĩnh, hung hiểm, tác giả bài viết cảnh báo… Bài viết ngắn, nhưng giúp lũ Mít, nhìn lại cả hai cuộc chiến, với Pháp, và với Mẽo. TV sẽ đi 1 đường chuyển dịch, sure!

Haruki Murakami emerges as favourite for Nobel prize for literature

Japanese writer long tipped for Nobel recognition poised to see off rivals including Joyce Carol Oates and Ko Un, say bookies.

Murakami hy vọng đợp Nobel năm nay, theo giới Búc Kít!


Khải huyền dối trá 

The rise of documentary film

The shocking truth

But why are audiences increasingly choosing fact over fiction? Perhaps the current dearth of realism (endless comic-book sequels and apocalyptic action movies) is forcing more discerning viewers to choose authentic storytelling over spectacular visuals and far-fetched plots. Documentaries such as “Blackfish” may also fill a gap in investigative journalism, as fewer newspapers and broadcasters invest in long-term projects.

Có lẽ bởi, sự khan hiếm hiện thời, của chủ nghĩa hiện thực, làm cho người kén coi, phải chọn chuyện kể chân thực thay vì hình ảnh hoành tráng, đặc dị, và những tình huống quai quái, xa sự thực. Những phim tài liệu như “Cá Đen” lấp được cái hố trong báo chí điều tra, như giới báo chí và truyền thanh, truyền hình đầu tư vào những dự án đường dài. 


Nghe Nói Mùa Thu Ở Đây Đẹp Lắm

Tuyệt tác thế giới

The Great Gatsby

Ithaca

Camus 100

Kafka: Years of insight

Tưởng niệm 7 năm TTT mất

In Memory of Borges

*

9

I Always Thought of  Paradise As a Library  

New York PEN Club,
March 1980

I knew that my destiny would be to read, to dream, well, perhaps to write, but that was not essential. And I always thought of paradise as a library, not as a garden. We also have been created by Edgar Allan Poe, that splendid dreamer, that sad dreamer, that tragic dreamer.

ALASTAIR REID: You once said in London-and I was sitting beside you on the occasion in 197o-that all great literature eventually became children's literature and you hoped in the long run your work would be read by children. Would you like to amplify that?

JORGE LUIS BORGES: Yes. I think that that statement is true, though I said it. For example, the works of Edgar Allan Poe are read by children. I read them when I was a child. The Arabian Nights are read by children. But maybe that's all to the good, since, after all, children read as we should read. They are simply enjoying what they read. And that is the only kind of reading that I permit. One should think of reading as a form of happiness, as a form of joy, and I think that compulsory reading is wrong. You might as well talk of compulsory love or compulsory happiness. One should be reading for the pleasure of the book. I was a teacher of English literature for some twenty years and I always said to my students: if a book bores you, lay it aside. It hasn't been written for you. But if you read and feel passion, then go on reading. Compulsory reading is a superstition.

Borges @ 80

Tôi biết, số phẩn của tôi, là đọc, mơ, và, có lẽ viết nữa, nhưng cái đó không thiết yếu. Và tôi luôn luôn cho rằng, thiên đàng thì như là một thư viện, không như một cái vườn. Và chúng ta thì được tạo ra bởi Poe, gã mơ mộng thần sầu, bi thương đó.


Gấu Cà Chớn vs Du Tử Cà

*

Sinh nhật GCC: 16.8.
19.8: Mừng Cách Mạng Tháng Tám với hai ông bạn thi sĩ ở Tiểu Cali, tại quán Lan Hương, tên khai sinh của BHD

Trong những kỷ niệm tha hương ngộ cố tri, giữa GCC và cái gọi là dòng văn học Miền Nam kéo dài ở hải ngoại, kể từ khi đến được Xứ Lạnh – không kể cái lần bạn quí bỏ hết công việc nơi xứ người, cất công qua tận trại tị nạn thăm, không kể cái lần nhận được thư của 1 trong 5 nhà văn nữ hàng đầu của Miền Nam trước 1975, than thở giùm, mi qua chậm quá, hết mùa biển động, mùa vượt biển, mùa con khỉ gì gì nữa, rồi – thì cái lần gặp lại bạn Cà, khi qua Cali, thật là tuyệt, vì thấy bạn thực sự là mừng, vì thằng bạn ngày nào thực sự sống sót, vượt qua được cả hai ngục tù, VC và đệ tử Cô Ba!
Mày đúng là tái sinh, bạn Cà phán.

Vậy mà bi giờ mang bạn Cà ra phạng tới tấp, khốn nạn thật! 

Hà, hà!

GCC đã kể ra rồi, trong số bạn bè hồi đó, thì chỉ có VL và bạn Cà, thực sự mừng, vì Gấu sống sót. Mỗi người mừng 1 kiểu. Cà phán, mi tái sinh, còn VL thì khen Gấu Cái, nhờ Hồng mà thằng Trụ sống lại.
Nghe Bả kể lại, hồi đó đó, VL thấy Gấu Cái cơ khổ quá, có đưa đề nghị, thằng Trụ mà không lo cho em, thì còn khối kẻ khác!

Hà, hà!

Ui chao, viết lại đời của cặp Gấu, chỉ khoảng thời gian, khi gặp nhau, lấy nhau ra sao, thì cũng đủ 1 cuốn tiểu thuyết thượng hạng hảo hạng rồi!

Ngày từ hồi còn mồ ma Quán Chùa, là bạn Cà đã sửa soạn cho mình, 1 thứ đạo Cà, mà bạn là giáo chủ, còn tất cả, đệ tử. Toàn một lũ lau nhau, xưng tụng sư phụ. Thú thực, GCC chưa từng thấy, trong số những tên ca tụng thi sĩ Cà, 1 tên, chỉ 1 tên, thực sự đọc, thực sự mê thơ, và đủ tài để mà nói ra cái hay, cái dở của nó.
Có thằng nào như Gấu, mê, chỉ hai câu thơ của bạn Cà, như Gấu mê, chưa?

Em đi áo lụa mềm lưng phố
Có động lòng thương kẻ cuối đường.

Chưa 1 tên nào xứng là đệ tử Cà, thứ thiệt, nói gì...  bạn!

Thua xa Gấu.
Có bạn thực, chưa kể bạn quí, hơn Gấu nhiều, như Joseph Huỳnh Văn, như Đỗ Long Vân, thí dụ.
Bạn Cà thử kể 1 tên, đáng là bạn, hoặc đệ tử...  thứ thiệt của Cà, coi?

Không lẽ 1 tên ăn cắp thơ của kẻ khác, mà là...  bạn Cà ư?

Cà thân với tôi lắm!
Một tên Cớm VC mà dám tự nhận "thân với Cà" lắm?

Yếu điểm - đúng ra phải nói nhược điểm- của bạn Cà, là quá mê thiên hạ ca tụng Kà. Bất cứ 1 thằng cà chớn nào thổi Cà, là Cà OK!
Khi đếch có ai thổi Cà, thì Cà bèn thổi Cà!
Cái này là do DN, người bạn đời cũ của Cà kể cho Gấu nghe, thời gian Bà dành cho Gấu 1 mục trên tờ SGN của Bà.
Hồi đó đó, thấy ông ta đói quá, tôi bèn để cho ông giữ 1 mục trên tờ báo của tôi. Ông đăng toàn những bài thổi ông, với rất nhiều cái tên người viết, đều do ông phịa ra!


NT vs VC

Trong cái thèse của “em” NT, và trong cái bài phát biểu của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9, về nhạc sĩ Mít VC hát nhạc Ngụy/VC…  ngầm chứa vấn đề mà Brosdky - chỉ Brodsky - nhận ra, khi viết về St-Petersburg của ông: Trung tâm vs Ngoại vi, Quá khứ [Miền Nam đếch VC] vs Hiện tại [VC]
GCC sẽ post đoạn, Volkov và Brodsky lèm bèm về nó, trong “Một Tuổi Trẻ Leningrad”, A Leningrad Youth, trong Trò chuyện với Joseph Brodsky


Pamuk & Vila-Matas & New York Writers

St-Petersburg

Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Cali 2012 With H/A 

Phở Nguyễn Huệ là 1 nơi chốn may mắn đối với Gấu. Gấu gặp lại Chiêu, bạn của thằng em trai đã tử trận ở đây. Rồi họa sĩ Chính [Cao], bạn của thằng em cũng ở đây.



Kafka: Years of insight         

A Crossbreed 

I have a curious animal, half-cat, half-lamb. It is a legacy from my father. But it only developed in my time; formerly it was far more lamb than cat. Now it is both in about equal parts. From the cat it takes its head and claws, from the lamb its size and shape; from both its eyes, which are wild and changing, its hair, which is soft, lying close to its body, its movements, which partake both of skipping and slinking. Lying on the window-sill in the sun it curls itself up in a ball and purrs; out in the meadow it rushes about as if mad and is scarcely to be caught. It flies from cats and makes to attack lambs. On moonlight nights its favorite promenade is the tiles. It cannot mew and it loathes rats. Beside the hen-coop it can lie for hours in ambush, but it has never yet seized an opportunity for murder.

    I feed it on milk; that seems to suit it best. In long draughts it sucks the milk into it through its teeth of a beast of prey. Naturally it is a great source of entertainment for children. Sunday morning is the visiting hour. I sit with the little beast on my knees, and the children of the whole neighborhood stand round me. Then the strangest questions are asked, which no human being could answer: Why there is only one such animal, why I rather than anybody else should own it, whether there was ever an animal like it before and what would happen if it died, whether it feels lonely, why it has no children, what it is called, etc.

    I never trouble to answer, but confine myself without further explanation to exhibiting my possession. Sometimes the children bring cats with them; once they actually brought two lambs. But against all their hopes there was no scene of recognition. The animals gazed calmly at each other with their animal eyes, and obviously accepted their reciprocal existence as a divine fact.

    Sitting on my knees the beast knows neither fear nor lust of pursuit. Pressed against me it is happiest. It remains faithful to the family that brought it up. In that there is certainly no extraordinary mark of fidelity, but merely the true instinct of an animal which, though it has countless step-relations in the world, has perhaps not a single blood relation, and to which consequently the protection it has found with us is sacred.

    Sometimes I cannot help laughing when it sniffs round me and winds itself between my legs and simply will not be parted from me. Not content with being lamb and cat, it almost insists on being a dog as well. Once when, as may happen to anyone, I could see no way out of my business difficulties and all that depends on such things, and had resolved to let everything go, and in this mood was lying in my rocking-chair in my room, the beast on my knees, I happened to glance down and saw tears dropping from its huge whiskers. Were they mine, or were they the animal's? Had this cat, along with the soul of a lamb, the ambitions of a human being? I did not inherit much from my father, but this legacy is worth looking at.

    It has the restlessness of both beasts, that of the cat and that of the lamb, diverse as they are. For that reason its skin feels too narrow for it. Sometimes it jumps up on the armchair beside me, plants its front legs on my shoulder, and puts its muzzle to my ear. It is as if it were saying something to me, and as a matter of fact it turns its head afterwards and gazes in my face to see the impression its communication has made. And to oblige it I behave as if I had understood and nod. Then it jumps to the floor and dances about with joy.

    Perhaps the knife of the butcher would be a release for this animal; but as it is a legacy I must deny it that. So it must wait until the breath voluntarily leaves its body, even though it sometimes gazes at me with a look of human understanding, challenging me to do the thing of which both of us are thinking.

FRANZ KAFKA: Description of a Struggle (Translated from the German by Tania and James Stern)

Jorge Luis Borges: The Book of Imaginary Beings

I have a curious animal, half-cat, half-lamb. It is a legacy from my father: Tôi có 1 con vật kỳ kỳ, nửa mèo, nửa cừu. Nó là gia tài để lại của ông già của tôi

Không phải ngẫu nhiên mà Gregor Samsa thức giấc như là một con bọ ở trong nhà bố mẹ, mà không ở một nơi nào khác, và cái con vật khác thường nửa mèo nửa cừu đó, là thừa hưởng từ người cha.
Walter Benjamin

Một chuyến đi

Perhaps the knife of the butcher would be a release for this animal; but as it is a legacy I must deny it that. So it must wait until the breath voluntarily leaves its body, even though it sometimes gazes at me with a look of human understanding, challenging me to do the thing of which both of us are thinking.
Có lẽ con dao của tên đồ tể là 1 giải thoát cho con vật, nhưng tớ đếch chịu như thế, đối với gia tài của bố tớ để lại cho tớ. Vậy là phải đợi cho đến khi hơi thở cuối cùng hắt ra từ con vật khốn khổ khốn nạn, mặc dù đôi lúc, con vật nhìn tớ với cái nhìn thông cảm của 1 con  người, ra ý thách tớ, mi làm cái việc đó đi, cái việc mà cả hai đều đang nghĩ tới đó!


Tưởng niệm 7 năm TTT mất

Brodsky nói về thành phố quê hương của ông:
Petersburg đẻ ra một nền văn chương được đánh dấu bởi sự "âu lo, như thể nó được viết ra từ mép bờ trái đất. Và nếu có thể đưa ra một quan niệm chung, một âm điệu nào đó, thì đó là sự vong thân".

Câu này cũng có thể áp dụng cho TTT, và Hà Nội của ông.
*

Một lần nào đó chú đã nói rằng văn phải được chở bằng thơ. N cũng nghĩ thế. Những tác phẩm lý sự sắc sảo và quá bám vào hiện thực đang diễn ra thường hấp dẫn người đọc kinh khủng vào lúc đó, nhưng khi hiện thực đã là 'khác' và khi sự tò mò của người đọc về những ám chỉ, hoặc cao quý hơn: nhu cầu phát huy trí thông minh cùng tác giả của họ được thỏa mãn thì tác phẩm sẽ bị để lên giá.
Thư độc giả
*
Cần phân biệt, thơ khác, trữ tình khác.
Cái gọi là thơ, poétique, ở trong văn, nó ở dạng rất thô, tức là thi ảnh, image poétique, theo như định nghĩa của Bachelard.

Còn trữ tình, lyrique, nói nôm na, là mùi mẫn, cụp lạc, vãi lệ, thứ văn chương mà Bùi Giáng đã từng diễn tả: Em chưa đái mà hồn anh đã ướt!

Cũng ý đó, Kundera viện dẫn Kafka:
Con tim khô héo luôn ngụy trang bằng thứ văn phong ướt đẫm tình cảm.
[Sécheresse du coeur dissimulée derrière un style débordant de sentiments].

Thí dụ, câu này, của nhà phê bình BVP:

Có sự trộn lẫn của thực tại với hồi ức, của cuộc đời hằn xé với những mộng tưởng thanh xuân. Có nắng mưa, gió sóng, cùng những bụi bặm, náo động của cuộc đời. Nhưng cũng có, trong những dòng văn chân thật ấy, những khoảng thinh lặng cần thiết và ấm áp của tình người.
Nguồn

Hay những câu văn kiểu "Ra biển gọi thầm" của THT, thí dụ.
*
Toni Morrison, khi trả lời phỏng vấn The Paris Review, cho biết, bà rất ghét bị coi là “nhà văn thơ”, a ‘poetic writer’. Theo người phỏng vấn, có vẻ như bà nghĩ rằng, khi chú tâm đến chất trữ tình ở trong văn của bà là coi nhẹ tài năng của bà, và tước đoạt ở truyện của bà sức mạnh, quyền năng, và sự ròn rã, cộng hưởng của chúng, their resonance.
Như là một trong một số ít những tiểu thuyết gia mà tác phẩm được cả giới hàn lâm lẫn độc giả bình thường tán thưởng, bà tự cho mình sự khiêm nhường: chọn lựa những lời khen tặng. Bà không từ chối sự sắp xếp, và thích được coi là một nhà văn nữ da đen, a “black woman writer”. Khả năng của bà, trong việc biến đổi, những cá nhân thành những sức mạnh, những phong cách riêng thành những điều không thể tránh được, đã khiến có những nhà phê bình gọi bà là ”D.H. Lawrence của tâm linh đen” [of the black psyche].
*
Kiệt Tấn có kể, trên talawas, lần VP qua thăm Paris, ông có hỏi ông tiên chỉ về trường hợp TTT, và VP phán, TTT thành công như là nhà văn, không phải nhà thơ.
Bản thân TTT, qua bài viết của Ninh Hạ, cũng trên talawas, cho biết, thời gian cùng đi tù, NH có hỏi, và TTT cho biết, ông làm thơ thoải mái hơn viết truyện.
*
Văn TTT, nếu được mến mộ, theo Gấu, chính là ở chất thơ của nó. Và cái sự ông không thích viết truyện, cho thấy, ông không có được tài năng và quyền năng như là một tiểu thuyết gia, như Morrison. TTT viết nhiều văn xuôi, nhưng sự thực, chúng đều không phải là tiểu thuyết, trừ cuốn Một Chủ Nhật Khác.
Cái hỏng của Bếp Lửa, nói lên sự không thoải mái của TTT, khi viết 'tiểu thuyết', như chính ông xác nhận: Trong nhiều năm sau khi quyển sách này được xuất bản, dường như tôi đã hì hục viết một BẾP LỬA khác. Mỗi lần sửa lỗi ấn loát để cho tái bản, tôi đều muốn viết lại nó. Kể cả bây giờ, sau mười bẩy năm.


Gấu Cà Chớn vs Du Tử Cà

Những người đã chết đều có thật
Tuesday, June 21, 2005

Câu thơ trên, là của "Ông Số 1". "Ông số 2" bèn chôm, làm của ông.  
“Nhân Dụng” là còn có ý đó, mi là thứ mà để ta chôm, ta sử dụng. "Dụng nhân, chôm của nhân", như...  dụng mộc!

Ông chê thơ của bạn ông là Du Tử Cà, bài thơ đó, ai làm mà chẳng làm được.
Gấu quê quá, bèn đứng về phe bạn Cà của mình, đi 1 bài, chửi cả băng, cả 1 bộ lạc Cờ Lăng.

Ai ngờ bạn quí của Gấu đếch đứng về phe với Gấu, ông đi 1 "trường thiên tụng ca" thi sĩ "Hai Hòn Bi"!
Chán thế!

Tính viết “tởm thế”, nhưng nặng quá!
Hà, hà!
GCC bị cú này 1 lần rồi. Khi Người Vịt đăng hình GCC ghé thăm, uý lạo, 1 vị bạn quen, ngạc nhiên quá đỗi, tụi khốn đó không bao giờ làm chuyện đăng hình như thế, nhất là hình anh!
Thế rồi 1 vị bạn khác, đề nghị GCC làm ơn bỏ cái “sự cố” đó đi, nhất là delete tên cái ông nhận xét như thế về băng Cờ Lăng!
Phiền cho tôi lắm lắm đấy!
Chán thế!


In Memory of Borges


NT vs VC

St-Petersburg

*

Rodion R. Raskolnikov

Origin: Fyodor Dostoyevsky's 1866 novel, Crime and Punishment

From Dante's Inferno, where hell seems a good deal more interesting than heaven, to Milton's Paradise Lost, where Satan gets all the best lines, to Shakespeare's Othello, where Iago's intrigues are more compelling than Othello's virtues, writers have learned fiction's dark secret: the allure of evil trumps the banality of good. Yet in Fyodor Dostoyevsky's Crime and Punishment, the author passes rapidly over his main character's evil deeds-the pointless murders of an innocent old woman and her half-sister-to explore their psychological consequences.
    Dostoyevsky understood punishment not as a concept but as bitterly lived experience. A parlor radical in his youth, he was arrested, along with dozens of utopian associates who questioned the regime of Czar Nicholas I, and put through a mind-bending form of psychological torture: he was convicted of treason, sentenced to death, blindfolded and put in front of a firing squad-only to be given a reprieve at the last moment and sentenced to four years of exile in a Siberian prison camp.
    The author's years in chains deepened and darkened his view of the human condition and inspired his creation of Raskolnikov, the impoverished former student whose love of idealistic concepts outpaces his love for the messy realities of human life and leads him to justify his murders as an expression of his self-declared superiority over the common man. In Raskolnikov, Dostoyevsky traced the chilling trajectory of the sort of evil that begins with grandiose visions of the superhuman, only to end in the death camps of Hitler's Germany, the gulag of Stalin's Russia and the horrors of the Great Cultural Revolution of Mao's China. The guilty young man is the dark prophet of the 20th century's false gods.

Time: The 100 most influential people who never lived, 100 người ảnh hưởng nhất chưa hề sống.

GCC đọc Tội Ác đúng thời mới lớn, quen BHD, khi chờ Em, trong 1 quán cà phê túi của Sài Gòn, cùng những tác giả của thời mới lớn như Sartre, với Buồn Nôn, Camus với Kẻ Xa Lạ, Faulkner, và những tác giả Mác xít như Henri Lefebvre, Lukacs..

Cùng với những cuộc phiêu lưu của những tác phẩm lớn ở trong tôi, Sài-gòn trở thành một sân khấu cho tôi đóng vai những nhân vật-nhà văn. Thành phố thân yêu, một buổi sáng đẹp trời bỗng nhường cho một St. Petersbourg thời Dostoievsky với những cầu thang âm u, và cậu sinh viên, trong một góc bàn tại một tiệm cà phê Tầu nơi Ngã Sáu, một mình đi lại trong giấc mơ vĩ đại, biến đổi thế giới, làm lại loài người.


Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Cali 2012 With H/A 
Camus 100

Orhan Pamuk tiểu thuyết gia đã rất thành công với Tên tôi là Đỏ, Pháo đài trắng hay Cuốn sách đen, nhưng vì là một nhà văn rất tham vọng, “phổ màu” của ông còn muốn bao trùm rộng lớn hơn nữa, lên chính trị, hội họa cổ điển, những tản văn ngắn, và lên sự đọc.

“Những màu khác” minh chứng cho tham vọng văn chương Orhan Pamuk. Cuốn sách là sự nối dài đầy ngoạn mục, những “ngoại truyện” bổ sung cho các tiểu thuyết của ông, những thêm thắt về cảm giác vốn đã huy hoàng trong cuốn hồi ký tuyệt vời Istanbul, và nhất là ở đây, ta được chứng kiến Pamuk trong tư cách một người đọc cự phách; người đọc ấy hào phóng dẫn dắt ta đến với thế giới những tác giả mà ông sùng mộ nhiều chục năm nay: Camus, Flaubert, Dostoyevsky, Nabokov… những thế giới của sự đọc ấy mở rộng nhiều lần đường biên giới của sự viết ký tên Pamuk.

Blog NL

Khi “Những sắc màu khác” mới ra lò, TV có đi vài bài, và có ý định đi hết cuốn, nếu không, thì những bài liên quan tới xứ Mít, nhưng nhớ là, một “tay nào đó”, hình như đại diện cho NN, mail, cho biết đã có bản quyền cuốn sách, cho nên GCC bèn ngưng.

Cách viết NSMK, theo GCC, là những kinh nghiệm cá nhân, riêng tư, của Pamuk, một nhà văn Thổ, khi đọc “thế giới”, trong cái tham vọng vươn ra thế giới, qua những tác giả như Dos, Camus… Pamuk có "giấc mơ Thổ" của ông, khi viết Istanbul, và cũng giấc mơ đó, khi viết NSMK. Độc giả TV có thể nhận ra điều này, khi đọc ông viết về Dos, hay về Camus.

Trên tờ TLS số 21 Tháng Ba, 2008, Christopher de Bellaigue, điểm cuốn "Những mầu sắc khác", tập tiểu luận của Pamuk, coi ông là tiểu thuyết gia hơn là tiểu luận gia. Theo người viết, Pamuk là một thứ nhà văn hướng nội, introspective writer, mặc dù dính líu vô những chuyện chính trị, và từng bị buộc tội "sỉ nhục cộng đồng Turki". Và có thể nói, toàn bộ tiểu thuyết của ông  tạo nên một trong những tự thuật lằng nhằng, lẵng nhẵng nhất trong văn chương. [Pamuk is an introspective writer. Indeed, it might be said that the sum of his novels constitues one of the most sustained, if elliptical, autobiographies in literature].

Về tính lằng nhằng, lẵng nhẵng, tác giả bài viết kể lại kinh nghiệm viết của Pamuk:

Vào năm 1988, một nhà văn chưa được người đời biết tới tên là Orhan Pamuk đang phải chiến đấu, làm thế nào hoàn tất cuốn Cuốn Sách Đen, cuốn thứ tư và là cuốn tham vọng nhất của ông cho tới lúc đó. "Trong khi chữ bò mãi ra", Pamuk nhớ lại trong Những mầu sắc khác, "cuốn sách dầy mãi lên, thú viết sâu đậm thêm", nhưng đây đúng là một niềm an ủi nho nhỏ, bởi vì "cuốn tiểu thuyết nhất định không chịu ngưng"! [the novel refused to end].

Riêng về nhà văn bắc cầu, người viết nhận xét, trong Những mầu sắc khác, Pamuk để lộ mình ra nhiều hơn là ông tưởng. Những mầu sắc khác cho chúng ta thấy một con người cô đơn, quyết tâm tự học, thiên về tự tha thứ cho mình, và bịnh hoạn [Other Colors shows him to be a solitary, determined autodidact, prone to self-indulgence and morbidity].

Bài diễn văn Nobel được in lại trong sách, bắt đầu bằng những lời cảm tạ, vinh danh ông bố, chấm dứt bằng liệt kê những lý do khiến ông viết, cho thấy, đây là một người nhân bản, human, mâu thuẫn, vị tha, và ích kỷ, đúng như chính tác giả.

Tin Văn đã cống hiến bản dịch một số bài viết trong cuốn này, thí dụ bài viết về Những Con Quỉ của Dostoevsky.
Pamuk cũng coi Dos như là một trong những sư phụ của ông. (a)

Orhan Pamuk

Phi lý của Camus ở đâu mà ra?

Những Con Quỉ Đáng Sợ Của Dostoevsky.

Sartre mở ra cuốn “Chủ nghĩa hiện sinh là gì ?” bằng câu của Dos: “Nếu Thượng Đế không có, thì mọi chuyện đều được phép”, và coi đây là khởi điểm của chủ nghĩa hiện sinh. Từ ý này, Sartre phán, thật hách, như... Nghị Hách: Con người bị kết án phải tự do!

Tôi luôn luôn coi Những Con Quỉ là một cuốn sách công khai hoá những bí mật nhục nhã mà đám trí thức tiến bộ (những kẻ sống xa trung tâm, ở mép bờ của Âu Châu, hục hặc với những giấc mơ Tây Phương của họ, và bị hành hạ bởi những hồ nghi của họ về Thượng Đế), mong giấu kín, chúng ta.

Ui chao, bạn đọc những dòng trên, song song với những đoạn trong Bếp Lửa, thí dụ đoạn Tâm và Đại cà khịa với nhau về Dostoevsky, hay Tâm trả lời tay Nhiên, khi qua Bắc Ninh dậy học tại một trường đạo...

Cách đọc sách của Pamuk không phải như là 1 phê bình gia, mà như là 1 tiểu thuyết gia. Ông đọc những vị thầy của ông – như là 1 độc giả Thổ - để trở thành 1 nhà văn, viết từ miền đất của ông, từ cái đế quốc Thổ hoang tàn đổ nát. Đây là 1 phát giác rất quan trọng, “của riêng Gấu”, về ông, ngay khi đọc “Những Sắc Màu Khác”. Và cách này, quy về Gấu, nhìn lại những gì Gấu đọc thời mới lớn, thì nó ra nhận xét này: Gấu đọc Mác Xít, để cố tìm cách giải thích cuộc chiến Mít, tại sao nó xẩy ra, và sau này, từ khi ra được hải ngoại, đọc Lò Thiêu, để hiểu Cái Ác Bắc Kít, nguồn cơn của cuộc chiến, không phải chủ nghĩa Mác.

Tôi nhớ là đã tự hỏi chính mình, vào thời kỳ đó, là, tại sao chẳng có ai nói về những phát giác như thế ở trong cuốn sách. Nó có quá nhiều điều để nói với chúng tôi về chính thời đại của chúng tôi, tuy nhiên, trong những sinh hoạt tả phái, [left circles] điều này [cuốn sách] bị vờ đi, và có thể, vì lý do đó, cho nên, khi tôi đọc, cuốn sách như nói thầm với tôi, một bí mật.
Pamuk

*

10 tiếng nói văn chương ngoại thật bảnh. Trong có hai, Gấu cực khoái, Enrique Vila-Matas, và Orhan Pamuk.

Cái nick, tên “Mơ Mộng Lưu Vong” - le “Rêveur en Exil” - thay vì, "Kẻ mơ mộng đang tỉnh thức", "Le Rêveur en Éveil, cũng có thể ban cho GCC.
Tất nhiên, cả vòng hoa Nobel văn chương, chôm của GCC:

"who in the quest for the melancholic soul of his native city has discovered new symbols for the clash and interlacing of cultures."

"Người mà trong khi tìm kiếm linh hồn sầu muộn của thành phố quê hương của mình, đã khám phá ra những biểu tượng mới cho cuộc đụng độ và quấn quít lấy nhau của những nền văn hoá."

Vòng hoa trao tặng Pamuk vinh danh nhà văn Nobel 2006 một cách nào đó, là kết hợp của hai vòng hoa, của Gấu, tặng Sài Gòn, viết khi ở nhà tù Bangkok và trại tị nạn Thái Lan:

Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể...

Nhìn bước đi của thời gian, của thành phố trong cơn tuyệt vọng chạy đua với chiến tranh, trong nỗi hối hả đi tìm ông chủ đích thực, sau những ông chủ thuộc địa, thực dân cũ, thực dân mới... cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ thù.

Lần Cuối Sài Gòn

*

Kẻ mơ mộng tỉnh thức: Từ này, nguyên của Borges. 

Trong "Chuyện Nghề" (The Writer's Apprenticeship), Borges viết:
Nghề văn, nghề thơ, là một nghề kỳ cục. Chesterton có nói: "Chỉ có một điều cần - tất cả mọi điều." Với một nhà văn, tất cả mọi điều là một từ không chỉ có nghĩa "bao gồm"; phải hiểu theo nghĩa đen của nó. Thí dụ, một nhà văn cần sự cô đơn, và anh ta được chia phần, của nỗi cô đơn. Anh ta cần tình yêu, anh ta được chia, tình yêu, và luôn cả, tình yêu không được chia.
Theo một nghĩa nào đó, nhà văn là một kẻ mơ-ngày, a day-dreamer, một kẻ sống cuộc đời kép. Anh ta bắt đầu viết, bằng cách bắt chước những nhà văn mà anh ta thích. Đó là cách nhà văn trở thành chính mình, bằng cách làm mất bản thân - cung cách kỳ cục của một cuộc sống kép, sống hết mình trong thực tại này, cùng lúc, trong thực tại khác - thực tại mà anh ta sáng tạo ra, thực tại "của những giấc mơ".
Một cuộc sống kép, sống hết mình trong thực tại này, và cùng lúc, trong một thực tại khác... Một kẻ mơ ngày.... Murakami có lẽ cũng nghĩ như vậy, khi ông cho rằng, viết, là một cách mơ mộng, nhưng mà trong tình trạng tỉnh thức, “écrire, c’est comme rêver éveillé” (1)
Ghi chú trong ngày

NA9 phán về nhạc Mít ca sĩ Mít

Thật ra, giọng Đàm Vĩnh Hưng nửa Nam nửa Bắc, cách thức hát cũng không có và lối hát cũng vậy. Hồi xưa, Đàm Vĩnh Hưng mà đi hát thì chỉ xứng là ca sỹ loại C hát lót chứ không được vào hạng ca sỹ chính của phòng trà đâu! 

Những nhận xét của NA9, theo GCC, không chỉ nằm gọn trong âm nhạc. Gấu Cái cũng đã từng chê văn của Gấu, nửa đực nửa cái - đây mới đúng là giọng hát của "Mrs. Đàm", NA9 không nói thẳng ra - [nửa Nam Kít nửa Bắc Kít]. Khi Gấu về lại xứ Bắc Kít, bị một bướm chửi, giọng của mi là của 1 tên Nam Kít bắt chước giọng Bắc Kít.

Lúc đầu GCC buồn và bực, sau lại mừng quá.

Fuentès chẳng đã từng mong, xứ Mễ của ông mất mẹ gốc Mễ mà chỉ còn giống dân lai đủ thứ giống.

Cái này thì quá phạm vi bài viết của NA9, và lạc qua 1 vấn đề khác.  

Lại nói về lúc đầu buồn bực, sau lại vui.

Brodsky cũng gặp 1 cas giống của Gấu. Trong 1 lần trò chuyện với Volkov, nghe ông này báo cáo, tụi VC Liên Xô nằm vùng ở hải ngoại chửi ông, sử dụng ngôn ngữ Nga làm bàn đạp, để bước lên đài danh vọng, giật Nobel…  mặt Brodsky đỏ bừng, tính xổ nho, nhưng bất chợt ông sướng điên lên, phán, tuyệt quá, có thằng nào như thằng Brodsky này, làm được điều vĩ đại như thế, với tiếng mẹ đẻ của nó! (1)

Hà, hà!

Và đây là tham vọng của 1 nhà văn Mít: Làm sao viết, mà đếch ai nhận ra mi là thằng Quảng Nôm, hay em Huệ, hay là một Cô Tư Cà Mâu!
Nhưng giả có 1 tên như thế, bản thân nó, cũng đâu có sướng gì. Bởi là vì chính cái tiếng nói riêng của nó, mới là cái mà người ta gọi là thiên tài của nơi chốn!

Hồi xưa, có những giọng ca còn để tiếng đến bây giờ như Lệ Thu, Thanh Thúy, Thái Thanh… nhưng bây giờ những ca sỹ hát giọng tốt đếm trên đầu ngón tay, đã vậy lại bị vướng vào kỹ thuật thanh nhạc.

Tôi nói có lẽ sẽ đụng chạm đến những người học thanh nhạc. Người ca sỹ học thanh nhạc hát phải phát âm cho tròn chữ, và cố gắng đưa giọng mình cho tròn trịa, giọng ngân cao vút… nhưng quá mải lo kỹ thuật nên hát không có cảm xúc!

Thanh Lam hát Cô đơn còn thua ca sỹ nghiệp dư 

Bài trả lời phỏng vấn của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 đặt ra nhiều vấn đề, kinh nghiệm đúc kết của 1 đời làm nhạc sĩ, chớ coi thường. Trong đó, có cái lòng hoài vọng về một quá khứ vàng son, khi giá trị con người, từng con người, từng giọng nói, giọng hát được trân trọng… Những điều ông phán về thanh nhạc cũng thật là tuyệt, và nó làm chúng ta nhớ đến phim My Fair Lady, trong có 1 em nói tiếng Mít đặc giọng Quảng Trị, được 1 ông giáo sư thạc sĩ ngôn ngữ Mít mang về nhà, cố sửa cho đúng giọng Hà Lội, em bực quá, bỏ đi, lúc đó, ông thầy mới nhớ, không chỉ em, mà còn giọng nói sai bét nhè tiếng Mít của em, bèn lôi mấy cái dĩa cũ ra để mà nghe đi nghe lại....

Gấu cũng đã từng gặp một em Quảng Trị như thế, và xém mất mạng vì giọng của em!

Hà, hà!

Phản ứng của Madame Đàm thì cũng đúng thôi.
Làm gì mà Madame Đàm không nhận ra, NA9 chửi, mi chỉ là 1 thằng lại cái!

(1)

Once I told Brodsky about a malicious comment from some Russian émigré journal, which accused him of "climbing to the heights of fame over the steps of the Russian language." Brodsky, who tended to take criticism hard, paled immediately; the blood drained from his face, he seemed about to break into a wolfish snarl, when suddenly he laughed out loud and said: "Lord! What could be better, right?"

&

Hơi hướm đàn bà

Em ở đâu, ở đâu
Thèm chút mồ hôi trên ngấn cổ (1)

GCC biết đến John Fowles, qua NTV, những ngày mới tới Canada, qua một cuốn của ông, Gấu phải vô thư viện mượn đọc, đúng hơn, qua  chỉ một câu phán của ông, trong đó.

Khi kiếm thấy rồi, thì phải thở hắt ra 1 phát thật dài, vì đáng công tìm đọc quá.

Cái câu ấy, nó "hơi hướm" với bài viết của Đặng Đình Tuý, về mùi đờn bà, đúng hơn, mùi mồ hôi của họ.

John Fowles, trong The Aristos: A Self-Portrait in Ideas, Poems... nhân mùa World Cup 1966, đã đưa ra nhận xét:

"Bóng đá gồm 22 cây gậy [của tên ăn mày, như các cụ thường nói], đuổi theo một cái âm hộ; cái chày của môn chơi golf là một dương vật cán bằng thép; vua và hoàng hậu trong môn cờ là Laius và Jocasta, mọi chiến thắng đều là một dạng, hoặc bài tiết hoặc xuất tinh."

Trước Cuộc Truy Hoan

Mọi chiến thắng đều là một dạng, hoặc bài tiết hoặc xuất tinh!

Tuyệt cú mèo!

Viết như thế, chứ đâu có dơ dáy, như "cái gì gì" sáng ngủ dậy, thấy thằng nhỏ dựng đứng!

Bài viết này, đã từng được Sến Cô Nương cho đăng trên Chợ Cá nhân một mùa bóng đá. Người biên tập, hay người "hiệu đính" của Chợ Cá, chắc là nghi Gấu dốt, viết sai tên của Fowles, thế là bèn sửa thành….  Fowler:

31.5.2002

Nguyễn Quốc Trụ

Lễ hội cuối thế kỷ

Bóng đá, môn chơi của sức mạnh “thuộc về đàn ông”, nhưng đàn ông tới cỡ nào, có lẽ chỉ mấy ông tiểu thuyết gia, tức chuyên viên về một “hình thức sung mãn nam tính” (G. Lukacs), mới tưởng tượng nổi.

John Fowler, trong bài viết The Aristos: A Self-Portrait in Ideas, Poems... nhân mùa World Cup 1966, đã đưa ra nhận xét: “Bóng đá gồm 22 cây gậy [của tên ăn mày, như các cụ thường nói], đuổi theo một cái âm hộ; cái chày của môn chơi golf là một dương vật cán bằng thép; vua và hoàng hậu trong môn cờ là Laius và Jocasta, mọi chiến thắng đều là một dạng, hoặc bài tiết hoặc xuất tinh.”. Có thể nói, văn chương nghệ thuật Tây phương bắt đầu, bằng cuộc tranh giành một nàng Hélène de Troie.

[Laius là phụ vương, Jocasta là mẫu hậu mà Oedipus, bị lời nguyền của con nhân sư, phải giết chết cha và lấy mẹ làm vợ. Jocasta sau treo cổ tự tử, Oedipus tự chọc mắt, làm người mù chống gậy đi lang thang giữa sa mạc]

Ở giữa (thí dụ như: giữa hai nền văn hóa, hai miền đất, hai nơi chốn: trong và ngoài...) có nghĩa là chẳng ở đâu. Ðối với bóng đá, người ta càng không thể ở giữa. Khi cuộc chơi bắt đầu, lập tức chúng ta chọn bên, chọn người, giữa 11/11, và 1/11, để có được cây gậy số một. Ông vua Cúp thế giới kết thúc thiên kỷ, mở đầu thiên kỷ thứ ba của nhân loại, vị thần trên sân cỏ Stade de France - sân vận động của thiên kỷ thứ ba - phải chăng sẽ là Ronaldo, 21 tuổi, thuộc đội bóng Brazil, như anh xuất hiện trong dáng dấp của một vị thần La mã, trên bìa một số báo Paris Match?

Chào mừng bạn tới trái tim hành tinh “planète foot”: Stade de France, chiếc đĩa bay khổng lồ trên nền trời Plaine-Saint-Denis, là niềm tự hào của kỹ thuật, với 6 ấn bản khác nhau: là sân cỏ 80 ngàn chỗ ngồi, hoặc sân vận động thể dục điền kinh (75 ngàn), thính đường nhạc hòa tấu (75 ngàn), vận động trường thể thao, như đua xe super-motorcross (30 ngàn), sân khấu cổ điển ( théâtre antique): 18 ngàn chỗ. Với cái bụng lớn gấp rưỡi chiều cao Khải Hoàn Môn, nó có thể chứa thoải mái tháp Eiffel trong lòng đĩa. Mái hình ellipse, là một siêu phẩm kiến trúc, diện tích 60 ngàn mét vuông, nặng 9100 tấn thép, kể thêm phụ tùng 17 ngàn tấn, lơ lửng cách mặt đất 42 mét, hoàn thành trong chưa đầy 9 tháng! Trên ngọn 18 cây cột của nó là những thiết bị khí tượng thật tinh nhậy. Nhà hàng toàn cảnh (panoramique) gồm hai từng, chứa 300 bàn ăn. Thực đơn thứ nhất: 180 francs. Với rất nhiều lối ra, 80 ngàn khán giả giải tán trong vòng chưa đầy 15 phút. Riêng thảm cỏ 900 mét vuông, trị giá chiếm 10 triệu francs trong tổng số 2, 6 tỉ trị giá kỳ quan của thế kỷ.

Chỉ mới cách đây vài năm, một trong những ngôi sao chiếu sáng những ngày cuối cùng của thế kỷ, soi đường cho nhân loại bước vào thiên kỷ tới, Ronaldo Luis Nazario de Liam còn sống với cha mẹ trong một khu xập xệ ở Rio. Học dở, anh kiếm sống bằng cách bán trái cây chui. Như mọi chuyện thần tiên về bóng đá, trong khi chơi với bạn bè cùng trang lứa trên đường phố, anh đã lọt mắt một chuyên viên săn lùng tài năng. Ronaldo vẫn còn nhớ, anh đã khóc ròng, khi đội banh Pháp của Platini loại Brazil khỏi Cúp Thế Giới 1986. Tất cả mọi người đều khóc, bữa đó, ở Brazil, anh kể lại. Ðó là một trong những Cúp Bóng Ðá đẹp nhất trong lịch sử bóng đá. Nhưng Trời ơi! Sao nó buồn đến như vậy!

Francis Huster, trong lá thư ngỏ gửi cho Fernand Sastre và Michel Platini, viết, đại khái: Hãy cứ coi đây là nụ cười thiên lương (bonté), của thế kỷ 20, vào những giờ phút hấp hối của nó. Hãy cứ coi đây như là một lễ hội. Như tất cả đều được quên lãng. Như hai cuốn phim vĩ đại nhất Cuốn Theo Chiều Gió, Titanic đã từng làm người ta (tạm) quên đi những thiên tai, nhân tai của thế kỷ: một phim cháy sáng trong nỗi đau đớn, những trò độc ác của cuộc nội chiến Nam Bắc, bắt nguồn từ kỳ thị chủng tộc, vốn chẳng tàn lụi đi mà cứ được nhân lên mãi. Một biến mất vào lòng đại dương, như một biểu tượng cho sự tan biến của chủ nghĩa CS, bách chiến bách thắng như một con tầu không thể nào chìm... Trên sân cỏ, cũng như trong cuộc sống, không phải cứ giỏi giang là hơn hết. Nhưng đôi khi, như trong cuộc sống, kẻ nào năng động, tích cực, kẻ ấy thắng. Xin cám ơn cả hai vị, Fernand Sastre và Michel Platini về điều các vị đã toan tính, trông mong, kỳ vọng: lại đem đến cho toàn thế giới phẩm giá của nó. Hãy tái chinh phục tâm hồn trẻ thơ. Hãy quên đi sự khinh khi, và hãy chìa tay ra, hỡi những Croatia và Nam Tư, Hoa-kỳ và Iran... 

Bài viết trên đây, được viết trước khi Pháp đoạt Cúp Vô Ðịch. Fowler đưa ra những nhận xét trên trước khi có những đội nữ chuyên nghiệp.

Mới đây, Mario Vargas LLosa, nhà văn Peru, trong bài viết World Cup, Spain 1982 (xem Making Waves, Penguin Books), ông có nhắc tới nhà văn người Pháp Albert Camus. Camus viết, những bài học đạo hạnh đẹp nhất mà ông học được, không phải ở trong những căn phòng đại học, mà chính là trên sân cỏ.

Mở ra bằng một nhận định như thế, bài viết tuy nhiên lại có cái nhan đề “Trước cuộc truy hoan” (Before the orgy) thật đúng ý Fowler, nhà văn gốc Hồng Mao, nơi phát sinh ra môn bóng đá. Trong bài viết, tác giả cũng đưa ra một vài ẩn dụ rất ư là bực mình, và cũng thật đáng quan ngại, về bóng đá, mà ông bảo là, của một người bạn của ông: Khung thành là một cái âm hộ qua đó, một cầu thủ, một đội banh, một sân đất, một xứ sở, cả nhân loại, “bất thình lình xả hết sinh lực tạo giống của ‘chúng mình’ ra”. Mọi xứ sở đều chơi bóng đá theo đúng cái kiểu mà họ làm tình. Những mánh lới, kỹ thuật này nọ của những cầu thủ, nơi sân banh, đâu có khác chi một sự chuyển dịch (translation) vào trong môn chơi bóng đá, những trò yêu đương quái dị, khác thường, khác các giống dân khác, và những tập tục ân ái từ thuở “Hùng Vương lập nước”, (thì cứ thí dụ vậy), lưu truyền lại. Ông đưa ra thí dụ: Những cầu thủ Brazil mân mê trái banh thay vì đá nó. Anh ta không muốn rời nó ra, và thay vì đá trái banh vào khung thành, anh ta lao cả người vô theo! Ngược hẳn với cầu thủ người Nga, buồn bã, u sầu, và hung bạo, hứa hẹn những pha bộc phát không thể nào tiên đoán được và cũng thật là đầy chất tranh luận! Mối liên hệ giữa anh ta và trái banh làm chúng ta liên tưởng tới những anh chàng yêu đương dòng Slav với những cô bạn gái của họ: đầy thơ ca và nước mắt, và tận cùng bằng những pha bắn súng.

Và để kết luận ông trở lại với Camus: “Khi tôi chào từ biệt ông bạn Andrés, cuối cùng tôi hiểu ra tại sao Camus lại nói như vậy, về sân bóng đá, và tôi quá nôn nao vẽ ra ở trong đầu mình những cuộc truy hoan khác thường đang chờ đợi chúng ta, ở Cúp Thế Giới...”

NQT @ talawas

*

STEPHEN J. MORRIS

Lien-Hang T. Nguyen

HANOI'S WAR

An international history of the war for peace in Vietnam
444pp. University of North Carolina Press. £31.50
(US $34.95).

TLS August 16 & 23 2013 đọc Hanoi's War.
TV sẽ giới thiệu sau.

*

INTERVIEW

Lien-Hang T. Nguyen and Hanoi's Secrets

Amid the tumult and chaos of Saigon falling on April 30, 1975, Tran Thi Lien clung to her infant daughter as her husband, Nguyen Thanh Quang, desperately navigated his family, including nine children, out of a country that in a matter of hours would no longer exist. While their youngest child Lien-Hang T. Nguyen was too young to recall her harrowing experience as the Vietnam War ground to an ignoble end, her in-depth insights into that war's final chapter is turning much of what is known about the war on its head. Through her perseverance and extraordinary access to Vietnamese archives, the former refugee, a Yale scholar and historian, crafted the groundbreaking Hanoi's War: An International History of the War for Peace in Vietnam, which challenges many long- held assumptions about North Vietnam's leadership and military and diplomatic strategies. An associate professor of history at the University of Kentucky, Nguyen recently spoke with Vietnam about her life and her work.

Phỏng vấn Giáo sư Nguyễn Liên Hằng, tác giả 'Hanoi's War' (1)

Note: TV sẽ dịch bài phỏng vấn trên tờ báo Mẽo, The Vietnam War, sau.

Bài interview trên Viet Nam War, những  ý chính của nó, thì cũng tương tự  như bài trên VOA. Vả chăng, cái ý tưởng khai phá của cô sử gia - Bác Hồ bị cho ra rìa, Lê Duẩn mới là Kẻ Đại Ác [từ của Kim Dung] - thì cũng nhiều người biết từ hồi Diễm Xưa rồi. Bác thừa biết, chúng lôi ra làm cái bung xung, và có thể còn biết cả chuyện, vợ của Bác , tức vị nữ hoàng cuối cùng của Mít Triều, bị chúng lôi ra hiếp, rồi làm thịt, mà Bác đâu dám mở miệng?

Hà hà!

Cả đến khi biết mệnh Trời, bèn đi 1 đuờng di chúc, tụi mi tha cho cái xác của tao, chúng nói, NO, xác của Bác còn quí hơn Bác nhiều!

Viết bên lề "Bên Thắng Nhục"

Ít khi tui ngồi đọc một cuốn sách từ đầu đến cuối một cách mê say, vậy mà mấy ngày nay tui vô Google tìm đọc cuốn “Bên Thắng Cuộc” rồi đọc miệt mài từ trang này sang trang khác, bà nhà tui thắc mắc cứ tưởng là tui mê đọc truyện chưởng hay truyện bậy bạ…
Đến lúc tui nói với bà nhà tui là đang đọc “Bên Thắng Cuộc” thì bả cũng đòi xem ké, thế là cả hai vợ chồng đều mê một cuốn sách… Đọc ngấu nghiến như sợ chữ nghĩa bỏ mình chạy mất vậy.
Phải nói cảm nghĩ đầu tiên của tui về cuốn sách ấy là “tuyệt vời”, ngòi bút của tác giả Huy Đức sắc sảo quá! càng đọc càng ghiền…
Blog Người Vịt

“Tuyệt vời”.
Một đấng khác, khi đọc “Bóng Đêm Giữa Ban Ngày”, cũng của 1 đấng nhà văn VC, cũng được băng đảng Cờ Lăng vồ ngay lấy, “trác tuyệt”!

Đếch ai thấy đau cả! Thế mới tếu!

Chưa tếu bằng trường hợp bài thơ Tẩu Khúc của Thần Chết, của Celan. Đám giết người Nazi rất mê bài thơ, đọc lên thấy “khuây khoả”, xứng ngang với "khôi hài đen" hồi đó: Người Đức sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho người Do Thái vì vụ Lò Thiêu.

Băng đảng Cờ Lăng biết trước là cuốn sách sẽ thuộc loại best-seller, vồ liền.
Cứ có mùi tiền là lũ ruồi bọ xúm lại.

NQT

Ghi chú trong ngày

Ở hay Về?

GCC lầm về tay này, khi thấy dịch Kundera, và nghĩ, chắc cũng mê K.

Không phải.
K đếch về, xin vô quốc tịch Tẩy, chọn Tẩy làm chỗ chôn cái xác của ông. Trong khi ông Mít, không chỉ bò về mà còn trách bố mẹ ngày xưa khi ta còn bé, bắt ta di cư vô Nam:

Tôi đứng nhìn sững hai vết hõm sâu hoắm lở lói trên mặt cổng thành. Cổng Bắc thành Hà Nội. Hai vết hõm như vết thương con thú bị đâm rồi kẻ đâm cứ thế chọc ngoáy cho đến khi con thú gầm thét rũ ra chết thảm. Con thú đây là thành Hà Nội và hai vết thương là vết đạn đại bác quân Pháp bắn vào trong lần chiếm thành lần thứ hai năm 1882. Quân Pháp, với chừng hai trăm lính thuỷ và vài trăm lính bộ, dưới quyền chỉ huy của Trung tá hạm trưởng Henri Rivière, chiếm thành sau gần ba giờ đồng hồ nã súng. Đọc sử, tôi biết như thế và đấy là trang sử bi thảm, đau buồn của dân tộc, bắt đầu cho nhiều trang sử đau buồn khác tiếp theo sau…. 

Với Hà Nội, tôi là kẻ lạ. Tôi sinh ra ở đấy nhưng tôi chẳng biết gì về nó. Chưa kịp có chút ý thức nào thì tôi đã bị bứng gốc ném giạt về những miền đất xa lạ. Kẻ lạ cũng là kẻ bạc tình. Kẻ bạc tình vồn vã khi đến nhưng lạnh lùng lúc ra đi. Tôi chẳng bao giờ khóc vì nhớ thương Hà Nội như Vũ Bằng, nhưng một hôm có người bạn hỏi đùa, “Nếu có ngày về lại Việt Nam sinh sống thì cậu sẽ chọn ở nơi đâu.” Không kịp suy nghĩ, bất giác tôi buột miệng trả lời anh, “Hà Nội chứ còn đâu nữa.”

Nguồn

Bà Tám on August 23, 2013 at 1:51 pm said:

Hehe. Hỏi ông Trịnh Y Thư đó chứ sao hỏi tui. Chưa đọc nhưng mới mở một trang đã thấy tá hỏa. “Bốn giờ sáng, sau giấc ngủ chập chờn đầy mộng mị ông Hảo tỉnh giấc và thấy dương vật mình căng cứng.” Đổ mồ hôi lạnh. Hihi.
Nghe nói ông tác giả này ân oán của ổng nhiều lắm mình điểm sách sợ chọc giận những người có thù oán với ổng đâm ra bị vạ lây.

Note: TYT nghe nói rất lành hiền. GCC chưa từng hân hạnh gặp. Và cũng chưa từng ân oán gì với ông. Sorry. NQT

“Tôi đã bị bứng gốc ném giạt…”, đây chắc là ông nhà văn nói về cái vụ ông bị gia đình bắt di cư vào Nam vào năm 1954?
Miền đất xa lạ? Chắc là Miền Nam đã từng nuôi ông ta đến ngày 30 Tháng Tư 1975?

Khó hiểu thật!


*

Un salaud lumineux: Một tên Mít, bệt xà lù, sáng chói! (1)

Bài ai điếu của “Người Kinh Tế” bỏ quên chi tiết, ông gốc Mít:

1925: Born in Ubon Ratchathani, Siam (now Thailand), to Vietnamese schoolteacher Pham Thi Khang and French doctor and consul Raymond Vergès. (2)

Controversial French lawyer Jacques Vergès, whose clients included Algerian separatists, former Nazis, Khmer Rouge leaders, Saddam Hussein's foreign minister Tariq Aziz and Carlos the Jackal, was buried in Paris on Tuesday. Vergès was dubbed "terror's advocate", by film-maker Barbet Schroeder and "the devil's advocate" by the Catholic priest who conducted his funeral.

Vergès was full of suprises to the end, choosing to have a Catholic funeral after a career that began in the Communist Party and the French resistance to Nazi occupation, saw him become a lawyer, a Maoist and a Muslim when he married a former client, Algerian independence activist Jamila Bouhirad, who was condemned to death and then pardoned for her alleged part in a bombing that killed five and injured 60.

Vergès, mẹ là bà giáo, người Việt, bố Pháp. Có tới hai nick: “Luật sư của Khủng Bố” và “Luật Sư của Quỉ”. Đã từng vô Đảng CS, nhưng chết thì lại xin theo Chúa.

“Xà Lù”, một từ thật bảnh! Nó “huýt” 1 phát, qua không khí, và để một “dấu ấn” [chữ này thuổng của SCN, khi viết về thơ của nữ thi sĩ Vàng Anh] trên mặt, như 1 cục bùn.
Nhiều người gọi Jacques Vergès là thằng con hoang, a bartard, nhưng ông đếch cần. Mà có thể ông con hoang, thiệt, bởi là vì ngày sinh của ông bị ông bố giấu, có lẽ là để che giấu 1 cuộc tình vụng trộm. Chẳng có gì đụng tới ông kể cả những viên đạn của mật vụ Tẩy.
Ghi chú trong ngày

Bạn đã đọc "Don Quixote" chưa?

Cái chết của Don Quixote ở trang cuối là tuyệt đỉnh, của không khí toàn câu chuyện. Tôi (Leys) đố bạn đọc đến đây mà không rớt nước mắt. Điều làm ông ngạc nhiên, một tác phẩm lớn lao như thế, tại sao lại bắt nguồn từ một thông điệp chật hẹp như vậy: viết chỉ để chống lại thứ văn chương kiếm hiệp ba xu, rẻ tiền? Và Leys nhớ đến câu chuyện về Hemingway, khi trả lời một ký giả, về những thông điệp trong tác phẩm của ông: Chẳng có thông điệp nào ở trong đó. Khi cần gửi thông điệp, tôi tới Bưu Điện.

Ghi chú trong ngày

*

Mới ra lò: “Độc giả như là Ẩn dụ”

Tay này dân Canada. Gấu mê lắm. Cũng một “Great Reader”. Vừa mới ra hải ngoại, là đọc ông liền, qua giới thiệu của NTV
Đọc loáng thoáng trên xe buýt, vớ được câu này: 

Hãy để  Bắc Kít đọc sách Đạo Đức, lạy Giời,
Đừng cho chúng thơ, để chúng làm khổ em Nhã!

Let the masses read morals, but for goodness sake
don't give them poetry to spoil.

Stéphane Mallarmé, Proses de jeunesse

Camus 100

*


*


*


Simon Leys viết về ánh sáng tình bạn giữa Simone Weil, Czeslaw Milosz và Albert Camus, trên 1 số báo local của Toronto. Bài này, thú thực, Gấu tính viết từ khuya, nhưng may quá, Leys viết giùm!


**

Bữa trước có nhắc tới Simon Leys. (1)
Nay mò ra cuốn tiểu luận của ông, mua khi còn tiệm sách Tẩy, Champlain, 11/12/2001.

Cuốn này "cũng" tuyệt lắm.
Thí dụ, câu này, Leys, viện dẫn Delacroix, để vinh danh Hugo:  Ông [Delacroix] viết, trong hội họa, “cú đánh vật căng nhất, lớn lao nhất, là giới thiệu thực tại ở giữa một giấc mộng, "en peinture, le plus grand de tous les tours de force, c'est l'introduction de la réalité au milieu d'un songe". Điều này giải thích cái sức mạnh ma mị của những viễn ảnh mà Hugo chuyển vô cây cọ [la puissance hallucinante des visions que Hugo a tracées au pinceau]

Cuốn của Leys, vinh danh Gide, và Hugo, và Cervantès…  Bài về Don Quichotte, GCC chôm, ngay khi còn trên báo NYRB:

Bạn đã đọc Don Quixote chưa?

Cái chết của Don Quixote ở trang cuối là tuyệt đỉnh, của không khí toàn câu chuyện. Tôi (Leys) đố bạn đọc đến đây mà không rớt nước mắt. Điều làm ông ngạc nhiên, một tác phẩm lớn lao như thế, tại sao lại bắt nguồn từ một thông điệp chật hẹp như vậy: viết chỉ để chống lại thứ văn chương kiếm hiệp ba xu, rẻ tiền? Và Leys nhớ đến câu chuyện về Hemingway, khi trả lời một ký giả, về những thông điệp trong tác phẩm của ông: Chẳng có thông điệp nào ở trong đó. Khi cần gửi thông điệp, tôi tới Bưu Điện.


NT vs VC

Tôi khinh bỉ mùa thu trên tóc em...

Em Nhã viết về Phạm Công Thiện

Ghi chú trong ngày

*

The Plight of the Honeybee

Số phận con ong và cái giá mà con người phải trả, nếu nó bị hủy diệt.

Số báo này, có bài về hoàng tử Hâm Liệt tái sinh mới cực thú

Hello, Sweet Prince

Hamlet is reborn as a Choose Your Own Adventure

Much scholarly commentary has been expended on Shakespeare's Hamlet, maybe more than on any other play in the English language, but I don't think it's ever been said of Hamlet that it would make a good Choose Your Own Adventure novel. Nevertheless: that was the pitch that a 32-year-old Canadian writer named Ryan North made last November on Kickstarter. North figured it would take about $20,000 to produce To Be or Not to Be: That Is the Adventure. The Internet disagreed. It gave him $580,905.

Hamlet cũng là 1 trong 100 nhân vật ảnh hưởng nhất chưa từng hiện hữu, qua bình chọn của Time.

 *

Hâm Liệt

Des mots, des mots, des mots. Shakespeare

“Polonius : - Que lisez-vous, Monseigneur? - Hamlet : - Des mots, des mots, des mots."
Polonius: Thưa Hoàng Tử, Ngài đọc gì đó?
Hamlet: Chữ, chữ, chữ.

D.M.Thomas cho biết, Hamlet, ngay từ thoạt kỳ thuỷ của thời đại Stalin, đã bị cấm. Tuy không chính thức, nhưng đám cận thần đều biết, Stalin không muốn Hamlet được trình diễn. Trong một lần tập dượt tại Moscow Art, Stalin hỏi, có cần thiết không, thế là dẹp. Vsevolod Meyerhold, đạo diễn, người ra lệnh Pasternak dịch Hamlet, đành quăng bản dịch vô thùng rác, nhưng ông tin rằng, nếu bất thình lình, tất cả những kịch cọt đã từng được viết ra, biến mất, và may mắn sao, Hamlet còn, thì tất cả những nhà hát trên thế gian này đều được cứu thoát. Chỉ cần diễn hoài hoài kịch đó, là thiên hạ ùn ùn kép tới đầy rạp. Tuy nhiên, cả đời ông, chẳng có được cơ may dựng Hamlet.

Nguyễn Huy Thiệp phải đợi 30 năm sau khi cuộc chiến chấm dứt, phải đợi chính đứa thân yêu của ông ngập vào ma tuý, mới nhìn ra vóc dáng ông hoàng Đan Mạch, và sứ mệnh bi thảm của hắn: Giết bố!
Ui choa, chẳng lẽ cái cảnh biểu tình, là để… giết ông bố Bắc Kít?
Amen!

*

Một mình ta gọi ông ta là Bố, là đủ rồi. Ta không muốn mi lấy ta và phải gọi ông ta là Bố!

ZHIVAGO'S POEMS

HAMLET

Bản tiếng Anh

The noise is stilled. I come out on the stage.
Leaning against the door-post
I try to guess from the distant echo
What is to happen in my lifetime.

The darkness of night is aimed at me
Along the sights of a thousand opera-glasses.
Abba. Father, if it be possible,
Let this cup pass from me. 

I love your stubborn purpose,
I consent to play my part.
But now a different drama is being acted
For this once let me be.

Yet the order of the acts is planned
And the end of the way inescapable.
I am alone: all drowns in the Pharisee’s hypocrisy.
To live your life is not as simple as to cross a field (1).

(1) The last line is a Russian proverb

Bản tiếng Tây

Tout se tait. Je suis monté sur scène,
Et j'écoute, adossé au montant
De la porte, la rumeur lointaine
Qui m'annonce tout ce qui m'attend. 

Et je suis la cible des ténèbres
Cent jumelles sont braquées sur moi.
S'il se peut encore, Abba mon père,
Cette coupe, écarte-la de moi!

Ton dessein têtu, pourtant je l'aime,
Et ce rôle, je le prends en gré.
Mais un autre drame est sur la scène:
Donne-moi pour cette fois congé.

Mais on a pesé l'ordre des actes,
Rien ne peut changer le dénouement.
Je suis seul. Les pharisiens sont maîtres.
Vivre, ce n'est pas franchir un champ. 

Bản tiếng Mít

Tiếng ồn tắt ngấm. Tôi bước lên sàn diễn
Dựa vào cột cửa,
Tôi cố phân biệt tiếng dội từ xa,
Nó sẽ quyết định phần số của tôi.

Tôi trở thành cái đích của đêm đen
Nó chiếu vào tôi hàng trăm ống nhắm
Abba. Cha ơi. Nếu có thể,
Hãy bỏ qua cho con, cái cúp này.

Con yêu cái ý định bướng bỉnh của cha.
Con b
ằng lòng chơi phần của con.
Nhưng lúc này một vở khác đã được trình diễn:
Vở này, cho phép con được nghỉ chơi.

Nhưng, lệnh lạc đã được phát ra,
Thế là sau cùng đành chịu trận.
Tôi thì chỉ có một mình:
Tất cả là do thói đạo đức giả của đám người Pharisee
.
Sống, không có đơn giản như là vượt qua 1 cánh đồng. (1)

(1)
Tục ngữ Nga

Khi được tờ VG hỏi nếu thất cử ông có nghĩ tới chuyện làm nghề tài xế taxi không, ông Stoltenberg trả lời: "Tôi nghĩ tôi sẽ phục vụ được đất nước Na Uy và các hành khách đi taxi tốt hơn nếu tôi làm thủ tướng chứ không ngồi ghế tài xế".
Source

Tuyệt!
Cẩm như Gấu, khi phán, nếu mi không...  TV, thì làm được cái chó gì bây giờ?

Hà, hà!
Ghi chú trong ngày

*

Obs 8-14 Aout, 2013
Kỷ niệm 100 năm sinh Camus: Chưa từng in ấn!

*

Camus letter to Sartre discovered revealing buds of early friendship
Thư Camus gửi bạn quí Sartre cho thấy hai đấng quí nhau lắm!

**

*

Xuống phố, trình diện bác sĩ gia đình, lấy thuốc [có thứ thuốc, bác sĩ phải nhìn thấy còn sống, mới kê toa]. Ghé tiệm sách cũ, bệ  mấy cuốn còn mới tinh. Cuốn nào thì cũng bảnh, và đều muốn đọc, biết đâu, nhờ vậy có chớn viết cuốn, cuối đời, độc nhất, về GC!

Hà, hà!

  Ghi chú trong ngày

- William Faulkner, Nắng tháng Tám, Quế Sơn dịch, Phương Nam & NXB Hội Nhà văn, tủ sách "Tinh hoa văn học", 670tr., 155.000 đ. 

Một trong những tác phẩm lớn nhất của Faulkner đã có tiếng Việt. Light in August với đoạn mở đầu kinh điển: "Ngồi bên bờ đường, đưa mắt dõi theo chiếc xe la đang leo dần lên đồi về phía nàng, Lena nghĩ, 'Mình đến từ Alabama: thiệt là một quãng đường xa'". Câu chuyện về Lena Grove sắp đẻ hòa trộn với câu chuyện về Joe Christmas và mục sư Gail Hightower.
Giờ đây nhìn lại, có thể khẳng định rằng Nắng tháng Tám có phần dịch thuật tốt nhất trong mấy tác phẩm Faulkner xuất bản tại Việt Nam thời gian vừa rồi: Bọn đạo chích, Thánh địa tội ác và Khi tôi nằm chết. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng, văn chương Faulkner vẫn là quá khó.

Blog NL

"Nắng Tháng Tám", như Gấu đọc ở đâu đó, chưa kiểm tra lại được, là 1 “phương ngữ”, của Miền nam nước Mẽo, mà nghĩa của nó là “nằm ổ”, đi đẻ, và nếu như thế, nó nói đến cái bụng chửa của em Lena, và đứa con sắp sinh, cũng 1 thứ “oẳn tà roằn”.

Viết ở đây, như 1 viên gạch, để tra cứu thêm.
NQT

Note: Một vị độc giả trong nước cho biết, bản tiếng Việt có nhắc tới chi tiết mang thai, nằm ổ.

Tks. NQT 

GCC đọc Nắng Tháng Tám, trên con đường rong ruổi, giữa Sài Gòn và Đà Lạt, thời gian BHD, sau khi đậu Tú Tài II, lên đó nghỉ hè. Và những lúc chờ em ở quán cà phê Tùng.
Về Sài gòn, cuộc tình kéo dài suốt năm em học Đệ Nhất, Gia Long. Rồi Gấu ăn mìn VC, tại nhà hàng Mỹ Cảnh [26.6.1965], nằm dưỡng thương ở Đài, vì đâu có bỏ công việc của UPI được. Sinh nhật Gấu, 16.8.1965, [cũng sắp tới, hà, hà!], “sinh nhật lần thứ ba mươi mà cũng là sinh nhật lần thứ nhất”, nàng tới thăm với 1 cuốn của Durrell, và với dòng ký tặng, "Je serai ta femme." [Tứ Tấu Khúc]
Lành vết thương chiến tranh, thì bể vết thương tình, em đậu Tú Tài II, vô Y Khoa, và nghỉ chơi với Gấu.


The Man Who Got It Right

NYRB đọc
The Hall of Uselessness: Collected Essays
by Simon Leys

Note: Leys là 1 chuyên gia về văn học TQ. Độc giả TV biết tới ông, lần đầu tiên, khi Leys phạng Malraux thật ra trò, và Vargas Llosa phải lên tiếng, chửi nặng quá, và không đúng!


**

**

Báo mới! Mại dô, mại dô!

TV sẽ nhẩn nha giới thiệu 1 số bài vở trong mấy số báo mới tậu. Những nhà văn tham dự cuộc chiến 14-18, toàn thực, so với những người chưa hề sống - những nhân vật giả tưởng - nổi tiếng, và "Lịch sử và Mơ mộng", gồm những nhân vật của cả hai, được 1 họa sĩ, Corto Maltese, cho sống lại 1 lần nữa, qua những bức họa tuyệt vời của ông, thí dụ Saint-Ex, và chuyến đi sau cùng của ông.

*


Pamuk trả lời  phỏng vấn


The invention of solitude

*

Mấy bài essays trong Collected Prose, thần sầu! Trước Gấu cứ nghĩ tay này chỉ viết tiểu thuyết, và nếu như thế, làm sao so được với Faulkner!
Một cách nào đó, New York, và bộ ba, trilogy, viết về nó, của Auster giống “Quận Cam”, giả tưởng, của Faulkner. Phịa không à, so với thành phố thực. Mà thực, thì cũng biến thành phịa.

Paul Auster còn mê điện ảnh. Trong số Obs đã dẫn, ông viết:

Je crois qu'il n'y a rien de plus irréel que le cinéma! C'est un monde complètement artificiel. Le cinéma est bidimensionnel: c'est un simple rectangle, un cadre à remplir. Un roman est multidimensionnel: quand j'en écris un, je percois l'odeur et la saveur des choses, je suis immergé dans un monde, dans un récit qui se déploie. Mes romans n'ont rien de cinématographique: il y a peu de dialogues, peu de descriptions, le récit n'est pas divisé en scènes. Voilà pourquoi je prends plaisir à travailler de temps en temps sur des films: l'approche est complètement différente, On y raisonne non seulement en termes de cadre, mais de scènes: le récit comme l'espace sont totalement fragmentés, Et puis, il faut tenir compte du dialogue et montrer les lieux en guise de description.

Tôi tin rằng chưa có cái gì phi thực cho bằng điện ảnh! Đó là 1 thế giới giả tạo. Điện ảnh hai chiều, chỉ là 1 hình chữ nhật, 1 cái khung để làm đầy. Tiểu thuyết đa chiều, khi tôi viết 1 cuốn tiểu thuyết tôi ngửi ra mùi vị sự vật, tôi ngập vô 1 thế giới, 1 câu chuyện kể, và nó cứ thế mở mãi ra. Những cuốn tiểu thuyết của tôi không có tính điện ảnh: ít đối thoại, ít miêu tả, câu chuyện kể không chia thành những xen, chính vì thế mà tôi mò tới điện ảnh...

*

Quận Cam
, Yoknapatawpha County, của Faulkner
  Ghi chú trong ngày

Kính thưa bác Gấu,

Tính ghé thăm Tản Viên để kiếm chút tinh tuý văn chương bác thường bố thí một cách hào phóng thì … chẳng hiểu sao "vào" chẳng được, với chẳng tới, vội xin kính thăm bác sức khoẻ và an lành.
Lạy trời còn được r/giong chơi Tản Viên hoài hoài, bác Gấu nhà ta càng chửi đời càng khoẻ ra.
Thành thật mong bác bình an.
Kính thăm.
TN

Đa tạ,
Tin Văn, server bị trouble, off line gần như nửa ngày, khoảng đó, mới online, thì nhận mail của bạn, bèn vội trả lời, và cũng muợn dịp để thông báo tới tất cả độc giả.
Kính
NQT

4:20 PM, August 2, 2013 [local time]

Cảm ơn bác đã báo tin
hú hồn tưởng chuyện … thất kinh
thiệt tình!
TN

Tin Văn, do chẳng ai rành ba cái chuyện server, domain name… nên Gấu đã trả tiền trước. Domain name, tanvien.net, đến 2015 mới phải renew. Server, trước trả từng tháng, mới đây, trả 1 năm. Sau mấy cú báo động “hoảng” vừa rồi [không post bài được, off line bất tử… ] Gấu sẽ đi 1 đường trả tiền server, cũng đến 2015, nghĩa là, dù Gấu có bất thình lình “đi xa”, thì tự động Tin Văn sẽ sống tới 2015. Sau đó, ra sao thì chưa biết được.
Tks again.



*

“Mỏa, Tông Tông xứ Bolivie, bị Âu Châu cầm tù”!

Cú này dã man thực. Cả 1 cựu lục địa sợ anh Mẽo quá, đếch dám cho phi cơ chở Tông Tông Bolivie bay qua vùng trời của nó, đừng nói ghé ngang. Trước nhất là anh Tẩy, “Paris rút lại sự cho phép bay qua Thủ Đô Ánh Sáng. Chúng ta đếch được bay qua vùng trời của Công Bằng, Bác Ái cái con mẹ gì gì đó. Chúng tôi tính bay trở lại Nga Xô nhưng sợ không đủ xăng”.

Trong số báo, có bài về Mendela, thật là tuyệt.

* 

Một khi Nelson Mendela tắt sáng, éteint, người ta có quyền phán, thế kỷ 20 chấm dứt, la fin du 20 siècle.

Khi thi sĩ Joseph Brodsky mất, 1996, T. Tolstaya than thở, phải chi ông sống dôi ra, chỉ bốn năm thôi, thế kỷ chúng ta đã có một sự tận cùng vẹn toàn.
Và cùng với việc ông ra đi, ở nơi quê người, căn nhà Nga bây giờ mới thực sự trống rỗng.

Hai câu bổ túc cho nhau thật là tuyệt.

Ai cho phép anh là thi sĩ?

Bao giờ "đằng ấy" về?
-Có thể, tớ không biết. Có lẽ. Nhưng năm nay thì chưa. Tớ nên về chứ, nhưng có ai cần tớ ở đó đâu?
-Đừng nói bậy, họ sẽ không để cho "đằng ấy" một mình đâu. Họ sẽ công kênh "đằng ấy" trên đường phố Xề Gòn....  tới tận Hà Nội. “Đằng ấy” sẽ cưỡi ngựa trắng, nếu muốn.
-Đó là điều khiến “đằng tớ” không về.
“Đằng tớ” đếch cần thằng đéo nào ở đó!
*

I write to exorcise evil spirits
Tôi viết để trục quỉ

Amos Oz

Sở dĩ Gấu Đực lấy Gấu Cái, là để “pha loãng” cái độc Bắc Kit ở mấy đứa  nhỏ, và đây là một trong những lý do khiến Gấu Cái điên người, khi phát giác, chửi toáng, ta tưởng mi lấy ta vì 'thươn' ta, mi làm hư cả cuộc đời của ta rồi, thằng Bắc Kỳ ăn cá rô cây kia ơi!

Bạn có thể đọc, những hồi ký Đi tìm cái tôi đã mất, Tớ là thằng hèn, hồi ký NDM, Ba Người Khác.. trong cái dòng "trục quỉ Bắc Kít", cũng được!

Hà, hà!

Nhưng, những kẻ sau 30 Tháng Tư lặng thinh, đưa con mắt giận dữ nhìn tên công an phường, hay nở nụ cười thông cảm khi gặp cái nhìn của chúng tôi, hay ngồi vệ đường Sài Gòn khóc rưng rức, hay cúi mắt ra dáng hổ thẹn, hay viết hồi ký trục quỉ Bắc Kít, viết Thiên Đường Mù… tất cả những kẻ đó, thì hơi bị ít, thành ra khó mà giơ hai tay, ngẩng mặt lên trời, "Trời cứu chúng ta rồi, Phật lại nhập thế rồi!"

[Ceux qui pendant le Troisième Reich ont fui le Troisième Reich, en se taisant, en lançant un regard courroucé à l'adresse du rapporteur SS Rakas, en ébauchant un sourire de compassion à notre égard, ou en baissant les yeux de honte, tous ceux-là n'étaient pas assez nombreux pour imprimer à ma statistique non chiffrée une orientation salvatrice.]....
Je ne me sens pas bien dans ce beau pays pacifique, habité par des gens respectables et modernes. Pourquoi, on l'aura deviné : j'appartiens à cette espèce humaine heureusement en voie de dispariition que l'on s'est mis d'accord de baptiser globaalement du nom de "victimes nazies".

Tôi chẳng cảm thấy dễ chịu trong cái xứ sở hòa bường, giải phóng, với những con người đàng hoàng đàng ngoài.
Tại sao?
Thì bạn đoán ra rồi đấy: Chúng tôi là Ngụy!

Tớ là thi sĩ

-Tau đây này. Nhớ mi quá!
Joseph Huỳnh Văn

The destruction of someone's native land is as one with that person's destruction. Séparation becomes déchirure [a rending], and there can be no new homeland. "Home is the land of one's childhood and youth. Whoever has lost it remains lost himself, even if he has learned not to stumble about in the foreign country as if he were drunk." The ‘mal du pays’ to which Améry confesses, although he wants no more to do with that particular pays—in this connection he quotes a dialect maxim, "In a Wirthaus, aus dem ma aussigschmissn worn is, geht ma nimmer eini" ("When you've been thrown out of an inn you never go back")—is, as Cioran commented, one of the most persistent symptoms of our yearning for security. "Toute nostalgie," he writes, "est un dépassement du présent. Même sous la forme du regret, elle prend un caractère dynamique: on veut forcer le passé, agir rétroactivement, protester contre l'irréversible." To that extent, Améry's homesickness was of course in line with a wish to revise history.

Sebald viết về Jean Améry: Chống Bất Phản Hồi: Against The Irreversible.

Sự huỷ diệt quê nhà của ai đó thì là một với sự huỷ diệt chính ai đó. Chia lìa là tan hoang, là rách nát, và chẳng thể nào có quê mới, nhà mới. 'Nhà là mảnh đất thời thơ ấu và trai trẻ của một con người. Bất cứ ai mất nó, là tiêu táng thòng, là ô hô ai tai, chính bất cứ ai đó.... ' Cái gọi là 'sầu nhớ xứ', Améry thú nhận, ông chẳng muốn sầu với cái xứ sở đặc biệt này - ông dùng một phương ngữ nói giùm: 'Khi bạn bị người ta đá đít ra khỏi quán, thì đừng có bao giờ vác cái mặt mo trở lại' - thì, như Cioran phán, là một trong những triệu chứng dai dẳng nhất của chúng ta, chỉ để mong có được sự yên tâm, không còn sợ nửa đêm có thằng cha công an gõ cửa lôi đi biệt tích. 'Tất cả mọi hoài nhớ', ông viết, 'là một sự vượt thoát cái hiện tại. Ngay cả dưới hình dạng của sự luyến tiếc, nó vẫn có cái gì hung hăng ở trong đó: người ta muốn thọi thật mạnh quá khứ, muốn hành động theo kiểu phản hồi, muốn chống cự lại sự bất phản hồi'. Tới mức độ đó, tâm trạng nhớ nhà của Améry, hiển nhiên, cùng một dòng với ước muốn xem xét lại lịch sử.

Note: Sebald viết giùm GCC về nỗi sầu xa xứ Bắc Kít!



*

For Whom The Bell Toll: Chuông Gọi Hồn Ai:
What to do with Hitler's Bell? Chime dedicated to the Fuehrer has Austrian government in tizzy (1)

Đọc bài viết, Chuông khắc tên Bác H - The bell with Adolf Hitler's name on it in the castle of Wolfpassing, Austria - gọi hồn Bác, tếu làm sao, Gấu nhớ đến bài viết về Dương Nghiễm Mậu:

Thật chững chạc, thật cảm động

Trong kho chuyện cổ của Trung Hoa, có câu chuyện về một quả chuông, đánh lên không nghe, nhưng lại ngân lên ở một nơi khác. Rượu Chưa Đủ bản thân nó cũng là một tiếng chuông lạ, đến từ một miền đất khác, âm thanh của nó như được nén lại, ra tới nơi quê người, mới thực sự rền rĩ. Ở đây, chúng ta như mường tượng ra bức địa đồ tỉ lệ xích 1/1 của Borges, mà người Việt cố mang ra ngoài để vá víu lại, cho nó như xưa.....

Dân làng sau đó, tới nơi chuông ngân, làm lễ thỉnh tiếng chuông trở về, từ đó, nó bình thường như mọi quả chuông khác. (2)

Vưỡn mê Bác "H"

*

“Vi La Tàn Sát”, nơi “Giải Pháp Chót” - làm cỏ Do Thái - được quyết định.
Cái vụ thành phố Xề Gòn mất tên, thì chắc có từ trước đó, và cũng thế, là cú làm cỏ Ngụy qua Lò Cải Tạo.
Note: Vietbao online vưỡn còn lưu trữ 1 số bài viết của Gấu, mà có thể, trên Tin Văn không có!
Thí dụ bài này:

Giới Thiệu Nhà Văn Người Do Thái, Avraham Yehoshua

(08/15/2006) (Xem: 978)

Lần Gấu về VN, gặp 1 tay, lôi về nhà, chỉ cho thấy những bài viết của Gấu, được đăng trên Việt Báo online, và phán: Tôi có đủ hết, không thiếu 1 bài nào của anh!

Ui chao, cảm khái chi đâu.
Tks again, all of U.
NQT

  Ghi chú trong ngày

Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Văn học miền Nam: Huỳnh Phan Anh

Miền Nam trước 1975 có những nhân vật đa dạng đến đáng kinh ngạc.
Trong số ấy có Huỳnh Phan Anh: viết văn, viết báo, dịch sách, phê bình, nghiên cứu...

(còn nữa)
Blog NL

*

@ Tiệm thịt chó, chân cầu Thị Nghè, 2001

Trang HPA

Gặp gỡ cuối năm

Nhà văn Guenter Grass, khi Đức quốc còn bị chia đôi - bởi vì tên ông luôn được nhắc tới, ròng rã trên hai thập kỷ - ông vẫn thường tự hỏi, tại sao không chia giải thưởng Nobel, cho hai nhà văn thuộc hai miền của một đất nước bị chia cắt, cho Christa Wolf, và tôi? Và, "hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc…", khi mấy ông Hàn Thụy điển đóng kín cửa phòng lo tranh cãi, bàn bạc, Guenter Grass bảo cô thư ký, họ lại ỳ ra thôi, và chúng ta sẽ có một mùa thu tuyệt vời!

Khi nghe tin được giải, ông nhắc lại đề nghị, nhưng mấy ông Hàn lắc đầu.

Và ông kết luận: may mắn thay, cả hai chúng tôi đều sống sót.

Grass cho rằng, cũng như ông, Wolf, bằng tác phẩm đã cố gắng ngăn chặn một sự "chia cắt vĩnh viễn" nước Đức. Tình bạn và sự kính mến giữa hai người, đã có từ nhiều năm. Nhân dịp sinh nhật thứ 70 của ông, Wolf đã viết thư chúc mừng, kể kỷ niệm, về cảm giác lúc nào cũng thấy ông hiện diện, nhưng không đâu bằng, ở Dantzig-Gdansk. "Bạn đã 70 tuổi rồi. Không có bạn, tôi không thể nào tưởng tượng ra được phong cảnh văn hóa Đức. Hãy cứ khỏe mạnh. Và hãy lấy cái ống vố ra khỏi miệng nhé!" 

Theo Grass, sau chiến tranh và suốt chiến tranh lạnh, nước Đức bị tuyệt đối chia cắt về kinh tế, ý thức hệ, quân sự, nhưng hai nền văn chương, không bao giờ bị đứt đoạn. Trong bài phỏng vấn trên tờ Magazine Littéraire, sau khi được Nobel, ông nhớ lại những chuyến vượt bức tường qua Đông Bá Linh gặp bạn văn, trong những căn hộ ấm cúng, khi ra về trời đã khuya, vui như Tết, hồn thoáng chút hơi men, và tội nghiệp cho mấy tay mật vụ suốt buổi ở bên ngoài trời lạnh! 

Người viết cứ luẩn quẩn với những điều Grass viết, nhân chuyến gặp gỡ ông bạn cũ Huỳnh Phan Anh, ở nơi xứ người. Bên chai rượu đỏ, tại sao chúng tôi không có quyền đi một đường cảm khái: may mắn thay, cả hai vẫn còn sống! 

Nhưng gặp ở đâu, chứ ở Paris thì còn ca cẩm gì nữa!
*

GCC mua số báo Cahiers du Cinéma, sống lại quãng đời mới quen HPA, con hẻm Trần Quí Cáp với ngôi trường Kiến Thiết, nơi BHD học tiểu học, rồi sau đó, vô Gia Long, khu Chợ Đũi với quán cà phê hủ tíu, nơi vẫn thường ngồi chờ BHD sau khi đưa em đi học - cũng ngôi trường Kiến Thiết - và sau gặp Gấu... nhưng còn là vì bài viết trên, nhất là câu mở ra nó, tính bệ về, chép tặng…  Sến và Bọ Lập, khi cả hai chửi giả tưởng, chẳng đáng xách dép cho hiện thực kít đái xứ Mít hiện tại: “Giữa lịch sử và giai thoại, tớ chọn giai thoại” [John Ford]. Gấu cũng “tâm đắc với cái ý này” – thuổng nhà thơ Mít VCC - khi cho rằng, sau này, chỉ giả tưởng mới nói lên được sự thực xứ Mít, không phải ba thứ hồi ký dởm "Đêm giữa ban ngày", hay "Bên Thắng Nhục", hay những trang viết của Bọ Lập mà xừ luỷ rất tự hào, cái gì gì [Cái gọi là hư cấu trong văn học hầu như đã quá lạc hậu, ai còn đánh đu với nó kẻ đó chỉ chuốc lấy thất bại mà thôi. Nếu như bên truyền hình người ta đã chán những phóng sự cắt dựng theo lối hư cấu và bị hút hồn bởi truyền hình thực tế, thì với văn học tuồng như văn tả thực đang rất quyến rũ mọi người. Điều này giải thích vì sao mình không còn ngó ngàng gì đến truyện ngắn nữa, chỉ mải miết viết tạp văn. Ngay cuốn tiểu thuyết mình vừa viết xong xét cho cùng cũng là một tạp văn dài 350 trang mà thôi. NQL]

JOHN LE CARRE'S MEASURED FURY

Về từ Miền Lạnh
Bạt

[Cho lần xb 50 năm sau, tháng này, Tháng Tư, 2013)

Tôi viết Tên điệp viên về từ miền đất lạnh ở cái tuổi ba mươi của mình, dưới sức ép thật căng, không thể chia sẻ với ai, và cực kỳ cá nhân. Là 1 sĩ quan tình báo với cái vỏ bọc là 1 nhà ngoại giao trẻ ở Tòa Đại Sứ Anh ở Bonn, tôi là 1 bí mật, với những đồng nghiệp, và trong hầu hết thời gian, với chính tôi. Tôi đã viết vài cuốn tiểu thuyết trước đó, bắt buộc dưới 1 cái tên giả, và Sở của tôi gật đầu cho phép in. Và sau 1 hồi dài tra hỏi linh hồn (soul-searching), họ cũng gật đầu với The Spy.
Vào ngày này, [50 năm sau], tôi tự hỏi, nếu Sở lắc đầu, thì quyết định của tôi sẽ ra sao.
Như chuyện xẩy ra, họ có vẻ như kết luận, hẳn là có ngần ngại, rằng cuốn truyện thuần giả tưởng, từ đầu cho tới cuối, chẳng có gì cho thấy là rút ra từ kinh nghiệm cá nhân, và như thế, nó không phạm luật xé rào an ninh. Tuy nhiên, đây không phải là cách nhìn của giới báo chí thế giới, mà, với một tiếng nói, quyết định rằng, cuốn sách không hoàn toàn chân thật, nhưng mà là 1 thứ Thông Điệp Từ Phía Bên Kia có tính phát giác, mặc khải gì đó, một phán quyết như thế khiến tôi, đâu có phản ứng nào khác, ngoài chuyện ngồi im re, và theo dõi, lẽ dĩ nhiên cũng rất ư là lạnh cẳng, như thể cuốn sách leo mãi lên tít cao của danh sách những best-seller, rồi chết sững ở đó, trong lúc hết nhà phê bình này tới nhà phê bình khác gật gù, đúng thứ thiệt đấy!
Và cái lạnh cẳng của tôi, thì sau đó được thêm vào, với thời gian, cái giận dữ, cũng của tôi.
Một giận giữ bất lực.
Bởi là vì, kể từ ngày cuốn tiểu thuyết của tôi được xb, tôi nhận ra là, bây giờ cho đến mãi về sau, tôi bị chụp mũ, một tên điệp viên biến thành nhà văn, chứ không phải, một nhà văn, và, bởi vì là nhà văn, lại có tí lem nhem với thế giới bí mật, và thế là bèn viết về nó. Tôi là 1 tên bí mật ngay cả với chính tôi!
Nhưng những ký giả thời đó không phải như thế. Tôi là 1 tên điệp viên Ăng Lê, một kẻ bước ra khỏi thế giới bí ẩn của mình, và nói, nó thực sự như thế nào, và bất cứ cái gì tôi nói ngược lại, thì đều củng cố thêm lên, huyền thoại. Và, bởi vì tôi viết cho một công chúng ăn phải bả [hooked on] Bond và tuyệt vọng cố tìm thuốc rã độc [desperate for the antidote], huyền thoại càng dính cứng. Cùng lúc, tôi có được 1 thứ quan tâm mà nhà văn mơ tưởng. Vấn đề độc nhất của tôi là, tôi đếch khoái công chúng của riêng tôi. Tôi đếch khoái, ngay cả khi tôi phụ thuộc vào nó, đăng ký nó [subscribing to it].

Một sự thực tế nhị, A delicate truth, (1) là tên cuốn tiểu thuyết mới nhất của le Carré, và Bạt, là của tác giả, 50 năm sau, khi nhìn lại cuốn tiểu thuyết điệp viên đưa ông lên đài danh vọng, Tên điệp viên về từ miền đất lạnh, “The Spy Who Came in from the Cold”.

Tác giả giải thích: Cuốn tiểu thuyết của tôi không bảnh [the merit], vì nó chân thực [authentic] nhưng mà là vì nó đáng tin cậy, credible.

Mít chúng ta cần thứ sự thực này, khi viết về cuộc chiến vừa qua. Chúng ta đếch cần sự thực, vì “đéo” có. Chúng ta cần 1 “sự thực tế nhị”. Trên trang Tin Văn, có 1 sự thực tế nhị như thế, khi GCC viết về VC, bởi rõ là họ rất quí Gấu Cà Chớn, khi dám viết ra rằng cuộc chiến vừa qua là giấc mơ tuyệt vời của dân Mít: Chúa cho giống dân này ra đời, để thực hiện giấc mơ đó. Nhưng sau cùng, giấc mơ biến thành ác mộng!

Hà, hà!

Không chỉ "sự thực tế nhị", Mít chúng ta còn cần cả 1 cơn "cuồng nộ kiềm chế", a "measured fury"!

Le Carré: Notes on a voice
TYPICAL SENTENCE

It takes three (two short, one long) to show his measured fury. "'This is a war,' Leamas replied. 'It’s graphic and unpleasant because it is fought on a tiny scale at close range; fought with a wastage of innocent life sometimes, I admit. But it’s nothing, nothing at all besides other wars—the last or the next.'" ("The Spy Who Came in from the Cold")

Câu văn thần sầu

Phải ba (hai ngắn, một dài), để chỉ ra, cơn cuồng nộ cố dằn lại của ông. “Đây là một cuộc chiến,” Leamas trả lời. “Nó có tính đồ thị, minh họa, và làm khó chịu, bởi là vì xẩy ra trong 1 phạm vi hẹp, và ngay trong tầm tay; đôi khi làm phí những mạng người vô tội, tôi đồng ý. Nhưng bõ bèn gì, bên cạnh những cuộc chiến khác – cái vừa qua, hay cái sắp tới.” ("Tên điệp viên về từ miền lạnh”)
*
Với Gấu Cà Chớn, câu văn thần sầu của Gấu mà nhờ Le Carré mới viết được - vắt qua hai cuộc đời, một đã qua cùng cuộc chiến đã qua, và một sắp tới, cùng cuộc chiến hội nhập sắp tới - là câu văn mà, chỉ 1 khi Gấu được Cao Uỷ Tị Nạn cho xe tới rước, sau hai tháng tù vì tội nhập vô Thái Lan bất hợp pháp, tại nhà tù quốc tế Bangkok, và sau đó đưa vô Trại Phanat Nikhom - chỉ tới khi đó, mới viết được khúc đuôi của nó:
"Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng đây là hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể." (1)

Note: "Đáng kể", “kể”, kể ra, viết ra...

**

Dân Đức ngày càng mê Hitler!


*

Phản bội

*

Trong số báo, có bài trên, trong bài viết, Tabucchi, 1 tác giả Ý, coi mình là "alias" [nick, bí danh] của Pessoa.
Tabucchi khám phá ra bài thơ "Tiệm Thuốc Lá" của Pessoa, mê quá xá quà xa!

Nếu như thế, thì Gấu cũng là "alias" của Pessoa!
Bởi là vì trên TV, Gấu cũng đã từng coi "Tiệm Thuốc Lá" là bài thơ thần sầu nhất của Pessoa.

Bài viết ngắn, nhưng quá tuyệt. "Hoài nhớ" đã ghê, ở đây, là hoài nhớ bình phương, la “Nostalgie au carré”!
Không phải hoài nhớ cái đã có, mà cái có thể có – “không phải tiếc cuộc đời đã sống, mà cuộc đời bỏ lỡ, nhớ hoài”, thơ Gấu Cà Chớn!

"Reviens demain, réalité! Ajourne-toi présent absolu!"
Thực tại ư? Mai trở lại nhé!
Mà nhớ thêm vô hiện tại tuyệt đối, nhe!"
Pessoa viết

Tiệm Thuốc Lá

*

Khi ta chết hãy đem ta ra biển: Chàng du tử Ulysse trở về Xề Gòn

Từ hoài nhớ, nostalgie, nguồn của nó là nostos, tiếng Hy Lạp, theo Jacques Lacarrière, tác giả bài viết Le Chemin vers Ithaque, về nhà thơ Cavafy, và cũng là dịch giả bài thơ Ithaque của nhà thơ này, trong số báo Le Magazine Littéraire, Janvier 2004, đặc biệt về Homère. Từ này, là từ những tiếng nhấp môi của người Hy Lạ mà ra, và nó bắt chước tiếng thì thầm của biển khi những con sóng của nó chết và tan ra khi đụng bờ.        

L'Odyssée, poème du nostos, ce désir intense de revoir le pays natal éprouvé depuis toujours par tout marin expatrié ou exilé. Quand Ulysse va pleurer sur le rivage dans l'ile de Calypso, il pleure sous la brusque emprise du nostos, ce mot qui revient souvent dans l'Odyssée et qui, des siècles plus tard, a donné en francais nostalgie, terme aujourd'hui banal et affadi mais qui, au temps d'Homère et longtemps par la suite, en fait jusqu'à nos jours, fut toujours synonyme en Grèce d'état quasi visceral de manque,  le privation et de dépossession.
Je me souviens, à Ithaque précisement, où je suis allé dans les années 60 et retourné en 1978, de ma logeuse lisant une lettre de son fils, marin sur un tanker grec. Il était absent depuis trois ans et naviguait alors sur les mers d'Australie et dans sa lettre, il y avait trois fois le mot nostos ! Voilà un phénomene vraiment propre à la langue grecque : des mots vieux de plus de trois mille ans continuent d'être utilisés aujourd'hui dans un contexte presque identique. II suffit qu'un Grec, marin ou non, se sente loin de chez lui pour que sur ses lèvres, en son coeur ou en sa mémoire, surgisse le mot nostos. Je me suis d'ailleurs souvent dit que, par sa consonnance et ses deux consonnes sifflantes, ce mot reproduisait ou imitait le murmure lancinant de la mer quand ses vagues viennent de mourir ou expirer sur le rivage ...

*

Ghi chú trong ngày

Thông Báo:
Everything OK now
July, 25, 11.31 AM, local time


Bất hạnh là tài sản

“Bất hạnh là tem phiếu” vs “My Madeleine”:

You were not who you were, but what you were rationed to be. 

Note: Một mẩu hồi ức của em Tẫu, Yiyun Li, một nữ văn sĩ, "cẩm" như em Phan Vịt của Mít, về 1 thời tem phiếu, sắp hàng, không phải để rỏ máu đầu ngón tay, ký tên xung phong vượt Trường Sơn, vô R. đánh Mẽo kíu nước, mà là để lãnh thực phẩm, nhu yếu phẩm.

Một cách nào đó, nó cũng nằm trong dòng Nước Nắm Lá Chuối của Gấu Cà Chớn, và còn dây dưa tới cái bài "Chiến lợi phẩm" của Brodsky, mà, qua bài viết, ông đưa ra 1 khẳng định thật là khủng:

Trong bài Chiến lợi phẩm (Spoils of War), Brodsky kể, lần đầu tiên ông được ăn đồ hộp: "Thoạt kỳ thuỷ, có một hộp thịt bò. Đúng hơn: Thoạt đầu, có một cuộc chiến, Đệ Nhị Thế Chiến; trận phong tỏa thành phố quê hương của tôi, Leningrad; Trận Đói Lớn, nó đòi người chết nhiều hơn là những trái bom, những trái pháo, những viên đạn tất cả cộng lại. Và khi cuộc vây hãm chấm dứt, có những hộp thịt bò từ Mỹ. Thụy Sĩ là nhãn hiệu bên ngoài hộp, tôi nghĩ vậy, tuy có thể lầm; tôi mới bốn tuổi khi nếm nó lần đầu tiên."

Cũng trong bài viết, ông đã nhắc đến tiếng hú của người rừng Tarzan, và khẳng định một điều, vào những năm đầu thập niên 1950, loạt phim Tarzan đã "đọc bài ai điếu cho chủ nghĩa Stalin" (de-Stalinization), còn hơn tất cả những bài diễn văn của Khrushchev ở Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên xô, và sau đó.

 Trở lại nơi 1 thời vang bóng

*

Khách sạn Hilton, Hà Nội

Chẳng có ai người cười nổi, những ngày đó
Ngoại trừ những người chết, sau cùng tìm thấy sự bình an
Như 1 cánh tay thừa thãi, 1 sức nặng vô dụng
Hà Nội đong đưa quanh Hỏa Lò
Hàng theo hàng, đám Ngụy diễu [không phải diễn] hành,
Khùng vì đau, nhắm nỗi bất hạnh của họ
Bài ca vĩnh biệt, sắc, gọn
Tiếng còi tầu chở súc vật rú lên
Ngôi sao thần chết đứng sững trên nền trời Hà Nội
Và xứ Bắc Kít, ngây thơ vô tội,
Quằn quại dưới gót giầy máu
Dưới bánh xe chở tù.

Không phải tôi. Ai đó đau khổ
Tôi làm sao chịu nổi nỗi đau đó
Hãy choàng nó bằng vải liệm đen
Và mang đèn đi chỗ khác
Đêm rồi!

Akhmatova: Kinh Cầu

Note: Bài giới thiệu tập thơ Akhmatova, của Brodsky, được in trong Less Than One, với cái tên: The Keening Muse. Nữ thần thơ ca ai oán
TV sẽ dịch bài này, làm thành“bộ ba”, “trilogy”, hai bài còn lại là Trong Căn Phòng Rưỡi, Tưởng Niệm Nadezhda Mandelstam [1899-1980].

Akhamatova, có vẻ như được sửa soạn để đóng cái vai của bà, hơn hầu hết những nhà thơ cùng thời. Ngoài ra, vào lúc xẩy ra Cách Mạng, bà 28 tuổi , không quá trẻ để tin hay không tin, và cũng không quá già để biện minh cho nó. Sau đó, là 1 người đàn bà, trong vai “gái” [“cái” cũng được] thì cũng khó mà thổi Cách Mạng, hay kết án nó. Bà cũng không quyết định thay đổi trật tự xã hội….

Đọc bài viết của Brodsky về Akhmatova, nữ thần thơ bi ai Nga, thì Gấu ngộ ra điều, tại sao mà GCC này chịu không nổi, phải nói, tởm, cái giọng của đám VC ly khai, thứ ngôn ngữ nhơ bẩn, “máu què”, thí dụ, cũng như cái giọng gà mái gáy của Sến, vẫn thí dụ.

Nhà thơ chỉ phán một câu thôi: Bà nhận ra nỗi đau, she recognized grief.
Và trước đó, Brodsky giải thích:
Bà không vứt Cách Mạng vào thùng rác. Một dáng đứng thách đố cũng đếch hợp với bà. Bà giản dị coi nó như là nó có, và chấp nhận nó, như là nó xẩy ra: cơn đau của cả nước, đau chừng nào, nỗi đau của mỗi cá nhân, đau theo chừng đó.

The poet is a born democrat not thanks to the precariousness of his position only but because he caters to the entire nation and employs its language: Nhà thơ sinh ra, và bèn dân chủ, không phải chỉ vì cái bấp bênh của dáng đứng, vị trí của mình, mà còn bởi cái sự mua vui cho đời, cho cả nước, và sử dụng cái ngôn ngữ của nó.
Cũng thế, là bi kịch.

Đâu có phải cứ đụng tới chữ nghĩa, tới văn chương, tới thơ ca, là vãi nước đái ra, hoặc văng tục, hoặc gáy?

Bearing the Burden of Witness:
Requiem 

Requiem was born of an event that was personally shattering and at the same time horrifically common: the unjust arrest and threatened death of a loved one. It is thus a work with both a private and a public dimension, a lyric and an epic poem. As befits a lyric poem, it is a first-person work arising from an individual's experiences and perceptions. Yet there is always a recognition, stated or unstated, that while the narrator's sufferings are individual they are anything but unique: as befits an epic poet, she speaks of the experience of a nation.

The Word That Causes Death’s Defeat
Cái từ đuổi Thần Chết chạy có cờ

Kinh Cầu đẻ ra từ một sự kiện, nỗi đau cá nhân xé ruột xé gan, và cùng lúc, nó lại rất là của chung của cả nước, một cách cực kỳ ghê rợn: cái sự bắt bớ khốn kiếp của nhà nước và cái chết đe dọa người thân thương ruột thịt. Bởi thế mà nó có 1 kích thước vừa rất đỗi riêng tư vừa rất ư mọi người, rất ư công chúng, một bài thơ trữ tình và cùng lúc, sử thi. Nó là tác phẩm của ngôi thứ nhất, thoát ra từ kinh nghiệm, cảm nhận cá nhân. Tuy nhiên, trong lúc chỉ là 1 cá nhân đau đớn rên rỉ như thế, thì nó lại là độc nhất: như sử thi, bài thơ nói lên kinh nghiệm toàn quốc gia….

Đáp ứng, của Akhmatova, khi Nikolai Gumuilyov, chồng bà, 35 tuổi, thi sĩ, nhà ngữ văn, trong danh sách 61 người, bị xử bắn không cần bản án, vì tội âm mưu, phản cách mạng, cho thấy quyết tâm của bà, vinh danh người chết và gìn giữ hồi ức của họ giữa người sống, the determination to honor the dead, and to preserve their memory among the living….

Solzhenitsyn đã không nhận ra điều này, như trong cuốn sách kể ra, về lần gặp gỡ giữa ông và Akhmatova...


Sĩ phu Bắc Kít vs Dalai Lama

Gấu nhiều lần lèm bèm, sĩ phu Bắc Kít bị liệt một nửa bộ não, ngay cả ["nhất là", mới đúng] đấng Nobel Toán!
Thú vị quá, với riêng Gấu, Đức Phật Sống cũng phán như thế, về Tẫu VC!

“Tôi nói với Tông Tông Mẽo, Obama, đám Bắc Bộ Phủ Bắc Kinh, bộ não của họ bị thiến mất 1 mẩu, đúng mẩu có cái gọi là lương tri của con người”. Đức Dalai Lama nói với tôi, [ký giả Jonathan Mirsky của tờ NYRB] trong lần lèm bèm giữa chúng tôi tại London vào giữa Tháng Sáu, 2012

Evil Axis

Nhân đây tôi cũng hi vọng bài viết này không bị tất cả các trang của chính quyền ma này đồng loạt đăng lại, như trường hợp bài “Báo quan” mới đây. Không thể tránh, nhưng tôi không mong có những đồng minh bất ngờ như thế. (1)

Đám mê đội dĩa Sến [như DDTK, NV của băng Cờ Lăng, Diễn Đàn HV…  thí dụ], có thấy nhục & nhột...  không?
NQT


Kafka: Years of insight

Những năm đốn ngộ

Note: Bài này tuyệt lắm.

Franz Kafka
Nervous brilliance
A definitive biography of a rare writer
Jul 27th 2013 |From the print edition


They Know Much More Than You Think

Chúng biết nhiều lắm. Hơn nhiều, so với bạn tưởng.

Tiếp tục khui vụ “Edward Snowden”. Trên tờ Điểm Sách London, số 4, July, 2013, David Bromwich đi 1 đường ngợi ca người hùng, thật đẹp: In Praise of Edward Snowden.
Cùng lập luận như NYRB, LRB thọi anh Tông Tông Mẽo Đen Thui, Obama: Hắn khốn nạn hơn Bush nhiều, trong cái trò nghe lén!
Còn tờ  L'Express, số 17 & 23 Juillet, 2013:

*

*

NXH & NQT & Nguyễn Văn Sâm @ Café Factory Quận Cam

Trịnh Y Thư hỏi thăm Bắc Cali nóng tin nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng người hào hoa thừa kế báo Văn từ tay Mai Thảo ở Sài Gòn và ở Cali.  Nay đang gặp bạo bệnh suy yếu. Trịnh Y Thư trầm giọng tình.
LTH (1)

Nè, đừng đi trước Gấu Cà Chớn nhe!
Chúc chóng bình phục, an lành.

NQT


*

*

Borges, Palerme 1984

Tờ Books điểm cuốn tiểu sử của Borges [dịch bài điểm sách của Foster Wallace trên New York Times]. Tờ Books này, tiếng Tây, chuyên dịch những bài viết trên báo tiếng Anh, dành cho độc giả Tẩy. GCC mua, vì nhiều khi muốn đọc bằng cả hai thứ tiếng, cùng 1 bài viết!

Cuốn tiểu sử của Borges, Gấu mua lâu lắm rồi, nhân số báo, bèn lôi ra đọc, và rất ư là tình cờ, nhân đọc về tổ tiên của Borges, mà bật ra 1 câu hỏi khủng: Giữa Bắc Kít và Nam Kít, bên nào/tên nào thực sự mong....  thống nhất?

Nam Kít!

Đây là câu trả lời của Gấu, ngay những ngày đầu tới được Trại tị nạn Thái Lan, và viết ra trong Lần Cuối Sài Gòn, gửi đăng 1 tờ báo ở Canada, hy vọng có tí tài liệu lúc thanh lọc.
Cái ý của Gấu, khi viết về tay VC nằm vùng, Sơn Nam, là cũng nằm trong câu trả lời, Miền Nam mong thống nhất hơn Miền Bắc:
Đối với lịch sử Miền Nam chỉ có công: Bại trận! (1)

*

Books

Borges on the Couch

Published: November 7, 2004