TTT 2012
TTT
có hoa có cỏ
và lệ đá
có tiếng
xuân về gọi vang vang
có ai về
gióng hồi chuông mới
khép lại một
lần với lưu vong
Đài Sử
Thư
tín:
@ Sonata: Thần
Ky Tô, Chúa Ky Tô thì cũng rứa. Ở đây dùng chữ Thần, để đúng nội dung
của
Lukacs.
Kẻ vấn nạn,
dịch từ "être prolématique", vấn nạn khác vấn đề, problème, Việt Nam
ta hình như dùng tưới, như nhau!
Regards
NQT
Sonata
Mar 7, 2012
06:06 PM
Vâng, vấn nạn
khác vấn đề, nhưng em nghĩ Việt nam nếu có dùng tưới như nhau thì cũng
không
dùng "kẻ vấn nạn"/"kẻ vấn đề", nếu dùng "kẻ "có vấn
đề"" thì tạm hiểu được ạ.
Blog GM
Theo GCC, “vấn
nạn” và “vấn đề” khác nhau. Một từ, thuộc phạm trù triết học, một, đời
thường. Theo từ điển
Robert, vấn nạn, là ‘nghệ thuật đặt vấn đề”, une problématique, c’est «
l’art
de poser les problèmes ». Vấn nạn hóa, problématiser, có khả năng
tra hỏi 1
đề tài, và làm bật ra một hay nhiều vấn đề. (1)
Có thể nói,
với nhân vật Tâm, trong Bếp Lửa,
lần đầu tiên chúng ta gặp thứ nhân vật, như là “kẻ vấn nạn”, kẻ
mang
trong mình “căn bịnh siêu hình”, [le mal
ontologique, nỗi đau bản thể học] đúng theo nghĩa của Lukacs, về
nhân vật
tiểu thuyết.
Cái thế
giới
"về chiều" trong Bếp Lửa chẳng
đã tiên đoán mọi tai ương giáng lên nước
Mít sau đó, sau 1954?
Bài viết
"Cette Guerre", "Cuộc chiến này", chưa từng in ấn của Thomas Mann làm
nhớ... TTT:
“À plus de trois mille
lieuses de distance, un Allemand s'obstine
en vain à se demander ce que peuvent penser ses compatriotes..”
Cách hơn ba
ngàn dặm, 1 trong những đứa con tư sinh của một miền đất, khăng khăng
tự hỏi, cái
lũ VC Bắc Kít, chúng nghĩ gì!
Những
nhà phê bình ở Hànội đã gọi các nhân vật trong cuốn sách này là bọn tôi
mọi nô
lệ. Họ hỏi: trong khi họ xây dựng xã hội chủ nghĩa, bọn này đi đâu?
[Tựa BL]
Vào cuối thập
niên 1930, thủ đô Paris, miếng mồi ngon của những hồ nghi và của quỉ
sứ, en
proie aux mêmes doutes et démons, như phần còn lại của Cựu Lục Địa,
nhưng còn là đất hứa, bếp lửa trí thức, un foyer intellectuel, của
những
nhà văn
chọn lưu vong, như Walter Benjamin.
GCC tưởng tượng
ra cái cảnh TTT ngồi thư viện Hà Nội, đọc Mác xít, chờ “di tản”, (1) và
cảnh GCC,
ngồi thư viện Gia Long Sài Gòn, liền sau đó, những ngày sau 1954,
chờ... cuộc chiến
hứa hẹn những điều khủng khiếp, và trong khi chờ, đọc Hồ Hữu Tường,
“Con thằn lằn
chọn nghiệp”, đọc… Trần Đức Thảo, [mấy thứ này là sách cấm, cũng như
sách Mác
Xít mà TTT đọc ở thư viện HN, bà cụ Chất biểu Gấu, nó đọc Mác Xít nhiều
quá, đến
nỗi bị ghi tên vào Sổ Đen. Nên nhớ TTT là giáo sư dậy Mác Xít ở Đại Học
Đà Lạt],
thực sự là chép, những trang tiếng Tây, như chép Kinh Phật, Bí Kíp… vì
làm sao mà
đọc, cuốn Phénoménologie et matérialisme dialectique (Hiện tượng luận
và chủ
nghĩa duy vật biện chứng). [Minh Tâm. Paris 1951].
Ui chao hồi đó
sướng thật, chỉ tiếc 1 điều, tiếng Tây tệ quá!
Và tất nhiên,
nhớ BHD!
Hà, hà!
(1)
Bếp Lửa,
"miêu tả không khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa
miễn
cưỡng, chia lìa hoặc cái chết. Lập tức có phản ứng của những nhà văn
cách mạng.
Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi: "Trong
khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân
vật
trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ diệt của
lịch
sử," mỗi nhà văn là một kẻ sống sót.
Tác phẩm thứ
nhì của tôi, Ung Thư (1970)
có thể coi như tiếp nối Bếp Lửa. Ung Thư là chấp nhận
giữa "vô thường", và chút hơi ấm của nỗi chết (l'existence de notre
acceptation entre la vanité et la tièdeur de mort). Cuốn sách chẳng bao
giờ được
in ra...
“Thơ Thanh
Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của một
thành phố
mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh
ấy, người
ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”
Quỳnh Giao.
Hai cái tít Ung Thư, và Nỗi Chết Không Rời, như trên cho
thấy, là từ câu của
Malraux, G nhớ đại khái, hình như trong La Voie Royale, mais accepter vivant la
vanité de son existence, comme un cancer, vivre avec cette tièdeur de
mort dans
la main.
Tuy nhiên, cái tít Mắt
Bão, tên một cuốn tiểu thuyết mà ông tính viết, như trong thư riêng gửi
“đảo xa” của nhà thơ, cho biết, là của… Gấu!
Nhớ, lần ngồi
Quán Chùa, GCC nói với ông anh, mình sẽ viết 1 cuốn tiểu thuyết đặt tên
là Mắt
Bão, trung tâm của bạo động, nhưng bất động, đúng cái cảnh GCC ở
trên đỉnh
cồn, là Đài Liên Lạc VTD thoại quốc tế, gửi hình chiến sự trên toàn cõi
Miền Nam, đi khắp nơi
trên toàn
thế giới, tức là ngồi ở mắt bão..., ông anh gật gù, gợi ý thêm, mi phải
đọc sách... địa
lý, thì mới khui ra được những cái tít thần sầu.
Chắc là thấy
thằng em chẳng viết viếc [làm đệ tử Cô Ba mà viết khỉ gì nữa],
ông anh bèn
lấy cái tít và tính viết giùm thằng em chăng?
Chắc là không,
vì cuốn mà ông tính viết, như thư riêng gửi “đảo xa” cho thấy, thì vẫn
là thời của ông,
và Hà Nội, trước 1954.
Một câu hỏi,
có tính 'tâm linh', liên quan tới
cái việc cắt bỏ những năm tháng cải tạo của TTT, trong đời ông, khi đưa
cây thơ
TTT vô Văn Miếu.
Liệu đây là một việc làm tuyệt vời, theo nghĩa, thơ của ông, nhất là
những dòng
thơ ở đâu xa, khi hoàn thành, là hoàn toàn thoát ra khỏi cõi đó, cõi
tù, hay
hơn cả cõi đó, cõi đời?
Chúng, như hạc vàng "đi mất từ xưa", như rồng "được điểm
nhãn", "nhất khứ bất phục phản"?
Theo cái nghĩa mà Bonnefoy nói về thơ, D.M. Thomas nhận định về Dr.
Zhivago.
Hay, TTT nói về cõi thơ tù.
“ ...There is another, more recent poetry which aims at
salvation.
It conceives of the Thing, the real object, in its separation from
ourselves,
its infinite otherness, as something that can give us an instantaneous
glimpse
of essential being and thus be our salvation, if indeed we are able to
tear the
veil of universals, of the conceptual, to attain to it".
["Có một thứ thơ khác, gần đây thôi, nhắm sự cứu rỗi. Nó cưu mang Sự
Vật...
trong sự tách rời của nó ra khỏi chúng ta... trong cõi khác vô cùng của
nó... nếu
cần phải xé toạc bức màn vũ trụ, bức màn quan niệm để có cho được."
Bonnefoy
Bác
sĩ Zhivago không chính trị một cách lộ liễu, như nhiều người
tại
Tây Phương hô hoán, một cuốn tiểu thuyết nhằm lên án, tố cáo... Nhưng
nhà cầm
quyền Xô Viết nhận ra, đây đúng là một kẻ thù chết người đối với chế
độ. Bất cứ
một trang là một sự chơn chất, nhiệt thành, cho một điều gì hết sức lớn
lao, thực
hơn nhiều, so với bất cứ một chế độ chính trị nào, đâu
phải chỉ
cái thứ chính quyền toàn trị, xây dựng bằng hàng triệu người chết, lao
động khổ
sai, và một thứ ngôn ngữ vô nghĩa.
[Every page asserted a fidelity to something infinitely greater and
more
truthful than any political system, let alone a creed built on
millions
of deaths, slave labor, and a dead and a meaningless language].
D.M. Thomas: Solz, thế kỷ trong ta
Đẫm
mình trong thời gian "không lịch sử",
hay đúng hơn, lịch sử ở bên ngoài, người ta khám phá ra rằng, những
ngày, những
tháng đều không phương hướng, không mục đích, trần trụi. Tuyệt đối trần
trụi. Sự
không hiện hữu (inexistence) của cuộc sống đem đến sự bình an ở bên
trong. Cõi
thơ êm đềm ngự trị ở bên trên sự bình thản của vũ trụ. Từ đó, mỗi bài
thơ là một
thời gian khép kín, tách ra khỏi chuyển động của cuộc sống. Thời gian
bất thần,
của nỗi kinh hoàng, trở thành thời gian cô đọng; chẳng có chi khác
biệt, giữa
kìm hãm, và bay bổng.
Thơ giữa Chiến Tranh và
Trại Tù
Source
Cũng cái ý của
Quỳnh Giao, trên, Steiner viết về tác phẩm 1984,
của Orwell, và về mẫu tự cảm tính "K", của Kafka.
Bằng cách chọn
cái tít 1984, Orwell ký tên và lấy 1
mẩu thời gian cho mình.
[By opting
for Nineteen Eighty-Four, George
Orwell achieved an uncanny coup. He put his signature and claim on a
piece of
time. G. Steiner: Killing Time]
Trong
bảng mẫu tự cảm tính và tri giác của nhân loại, chữ cái K vĩnh viễn
thuộc về,
chỉ một người. (1)
Và nếu như thế, thì TTT
cũng đã xén một mẩu thời
gian, 1954, để ký tên tác phẩm của ông.
“Tại sao đọc những tác
phẩm cổ điển”
Hãy thử bắt đầu bằng một định
nghĩa:
Tác phẩm cổ điển là thứ mà người ta nói, “tôi đang đọc lại nó”, không
hề nói,
“tôi đang đọc nó.”
Điều này chí ít chỉ có thể xẩy ra giữa đám “đọc rộng”, không thể áp
dụng cho
tuổi trẻ, vào tuổi đó, cái gì gì thì cũng là nụ hôn đầu, tình đầu, lần
đầu gặp
gỡ, cú sét đánh…
Cái mẩu “lại”, trong “đọc lại” có thể làm cho một độc giả nào đó, đỏ
mặt, nhất
là những đấng nghĩ rằng mình chưa từng đọc một dòng Tội Ác và Trừng
Phạt, thí
dụ. Để an ủi họ, chúng ta có thể nói, ngay cả thằng cha Gấu, được đời
khen tặng
uyên bác, hay chữ, thực sự, cái đọc của hắn ta thì cũng chỉ quanh quẩn
nơi lò
thiêu người, lò lao động cải tạo Đỗ Hòa, Cần Giờ, hay Phạm Văn Cội, Củ
Chi
Thành Đồng, là cùng!
Nào, ai đã từng đọc hết Nguyễn Khải, Lê Lựu, Nguyễn Minh Châu, Bọ Lập
Ký Ức
Vụn… giơ tay lên! Ngay cả những bộ sách lãng mạn trứ danh, thì cũng chỉ
nghe
người đời xướng danh, thay vì đọc chúng. Ở Pháp, người ta bắt đầu đọc
Balzac khi
đi học, và qua những những lần tái bản cho thấy, Tây mũi lõ vẫn tiếp
tục đọc
Balzac, khi hết còn mài đít quần trên ghế nhà trường. Ở Ý, đám fans của
Dickens
thì cũng chỉ có một dúm, và mỗi lần gặp nhau, là mỗi lần trộ nhau, cứ
như là
thằng nào cũng quá rành Oliver Twist!
Cách đây vài năm, Michel Butor, dậy học tại Mẽo, quá chán vì cứ nghe
lải nhải,
Thầy đã đọc Emile Zola chưa, sự thực, ông chưa từng đọc, và thế là một
ngày đẹp
trời, bèn chúi mũi vào Zola. Kết quả ông khám phá ra một điều không thể
ngờ được
về bộ Rougon–Macquart: Một phả hệ học tuyệt vời về huyền thoại
và vũ
trụ, và sau đó ông chỉ ra trong một tiểu luận thật đẹp.
*
Coetzee mở ra cuốn Những bến bờ lạ
lẫm hơn, Stranger Shores, bằng bài
viết Cái
Gì Là Cổ Điển ? thật tuyệt.
Bài này độc giả Mít chắc thú hơn bài của Calvino,
vì ông
chú trọng tới cái thời của riêng chúng ta, khi đọc một cổ điển.
Theo cái kiểu, sống sót Lò Cải
Tạo, một buổi chiều nơi xứ Mẽo, nhớ Sài
Gòn, bèn
lôi Nguyễn Du ra đọc!
[Gấu sẽ đi luôn cả hai bài, trong khi chờ... , en attendant M mail!]
Coetzee dẫn lời nhà thơ cổ điển
vĩ đại nhất của thời của riêng chúng
ta, nhà
thơ Ba Lan Zbigniew Herbert.
Ông này phán: đối nghịch của cổ điển thì không phải là hiện đại, mà là
man rợ.
Cú đụng độ “cổ điển vs man rợ” không hẳn một đối nghịch, mà là một đối
đầu [not
so much an opposition as a confrontation].
Từ đó suy ra, những “Thơ ở đâu xa”, “tôi cùng gió mùa”… đều là… cổ
điển: Chúng
dám đối đầu với man rợ.
*
Câu trả lời của Coetzee, cho câu hỏi, “Cổ điển là cái gì?”: Cổ điển là
cái sống
sót, … that the classic is what survives…. the classic defines itself
by
surviving… what survives the worst of barbarism, surviving because
generations
of people cannot afford to let go of it and therefore hold on to it at
all
costs – that is the classic.
Cái sống sót những gì tệ hại nhất của man rợ, sống sót theo cái nghĩa,
hết thế
hệ này qua thế hệ khác, con người không thể chịu nổi chuyện buông xuôi,
cố ôm
lấy nó, không thể cho man rợ thắng thế, cái đó gọi là cổ điển.
Gấu này tin rằng, cái gọi là cổ điển của Mít, chính là văn chương Miền
Nam
trước 1975. Chỉ có nó sống sót trong trận chiến "cổ điển vs man rợ"!
Ba cái thằng bỏ chạy bợ đít VC,
mà là… sống sót ư?
*
“Tại sao đọc cổ điển” của Italo Calvino gồm những bài viết về một số
tác giả.
Cách đọc “Bác sĩ Zhivago” của ông, trong bài “Pasternak và cách mạng”,
thật là
tuyệt. Ông không đồng ý với Lukacs, khi tin rằng, chẳng phải ngẫu nhiên
mà thế
kỷ của chúng ta là của truyện kể, récit, của tiểu thuyết ngắn [roman
court,
không phải sử thi], của những chứng từ có tính tiểu sử, tự thuật
[témoignage
autobiographique]. Calvino viết câu sau đây - có thể là để vinh danh
một số câu
văn thần sầu của… Gấu, [vừa thôi cha nội!], thí dụ như câu: "Trong
những
đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi,
tôi
tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa
cũ, sống
lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới
đáng
kể", hay câu "Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô
bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi
cận kề cái
chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo
ngang
đầu", [thì đã nói rồi, cái đám bỏ chạy làm sao viết nổi những câu như
thế,
và đây chính là điều Calvino "ngộ" ra, khi không đồng ý với phê bình
gia tổ sư Mạc xít Lukacs, khi viết]: de nos jours, une prose narrative
véritablement moderne ne peut faire porter sa charge poétique que sur
le
moment….
Cái gọi là ‘sur le moment’, đám
bỏ chạy làm sao có?
Source
Những
Bếp Lửa, Một Chủ Nhật Khác… đã trở
thành
những tác phẩm cổ điển.
Chúng
chống lại Man Rợ, Cái Ác VC Bắc Kít,
Có thể TTT muờng tượng ra điều này, và… ngưng
viết?
de
nos jours, une prose narrative véritablement moderne ne peut faire
porter sa
charge poétique que sur le moment….
Vào
những ngày Mậu Thân, dòng thơ xuôi tự sự, thứ thiệt, [như được GCC sử
dụng, để
tả nỗi nhớ cô bạn], thì chỉ có thể mang chất thơ trên cái khoảnh khắc,
và đó là
cái khoảnh khắc “nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng
khi cận kề
với cái chết….”
Ui
chao thổi tới quá!
'And so we
write of the war, of homecoming, of what we had seen
in the war and what we found on returning
home: we write of
ruins.'
Heinrich
Boll
[Sebald
trích dẫn, trong Giữa Lịch sử và Lịch sử
Tự nhiên, Between History and Natural
History, trong Campo Santo.]
"Và chúng ta
viết về cuộc chiến, về trở về nhà, về những gì chúng ta nhìn thấy trong
chiến
tranh và những gì chúng ta tìm thấy khi về nhà: chúng ta viết về điêu
tàn."
"Years
ago we in the South made our women into ladies. Then the War came and
made the
ladies into ghosts. So what else can we do, being gentlemen, but listen
to them
being ghosts"
William
Faulkner: Absalom, Absalom!
Nhiều năm
trước đây, Miền Nam chúng ta biến những người đàn bà thành những vị phu
nhân. Rồi
Chiến Tranh do Bắc Kít mang tới, biến những vị phu nhân thành những hồn
ma. Những
con người phong nhã như chúng ta, [trong có GCC, tất nhiên], thì biết
làm gì, nếu
không là ngồi nghe hồn ma kể chuyện.
*
Những con đường đưa cá nhân đến
tội ác / đưa xã hội đến cách mạng,
là như nhau.
(Camus, Thèse sur Dostoevsky: Les
mêmes chemins qui mènent l’individu au crime
mènent la société à la révolution)
Nói về Possédés, vào năm 1955, nhân dịp đài Radio-Europe
tưởng niệm Dostoevsky, Camus tuyên bố: Tôi gặp tác phẩm này năm 20
tuổi, và cơn
bàng hoàng cứ thế kéo dài, hai mươi năm tiếp theo sau đó.
Cơn choáng váng mà Camus đụng phải khi đọc Lũ Người Quỉ Ám
không chỉ kéo dài ở ông, mà còn lây sang nhiều người, khi đụng Kẻ Lạ.
Một cách
nào đó, Bếp Lửa, Kẻ Lạ, là những phiên bản của Tội Ác,
Possédés...
Những Người Quỉ Ám mới là con chim báo bão về một chủ nghĩa toàn
trị sắp
tới (Lời giới thiệu trang bìa ấn bản tủ sách bỏ túi).
Võ Phiến,
nhà văn Bình Định
Một cách nào đó, Bếp Lửa
của TTT, là cũng từ Dos mà ra.
Không phải từ Những Con Quỉ, mà là Tội Ác và Hình Phạt.
Chúng
tôi bước
ra sân. Người thanh niên vẫn chăm chú làm việc không để ý đến sự có mặt
của
tôi. Đại cầm ở tay cuốn Crime et Châtiment. Tôi hỏi:
“Cậu đến trường
luôn không?”
“Không.”
“Làm gì ở
nhà?”
“Đọc sách và
suy nghĩ.”
“Suy nghĩ về
phép giết người chăng?” Tôi nói đùa.
Đại không
đáp. Chúng tôi đứng nhìn xuống khu xóm lao động phía dưới. Đại bỗng nói:
“Nó đến trường
tìm mình dữ lắm.”
“Cậu quyết định
thế nào?”
Đại trầm
ngâm một phút:
“Chưa.”
Đại là sinh
viên khoa học, đã qua được chứng chỉ căn bản. Hắn bị gọi động viên và
đang trốn.
“Nghĩ gì về
Dostoievski?”
“Bệnh.”
Tôi không ưa
lối nói cụt lủn của Đại. Hắn rất say đắm chủ nghĩa cộng sản. Những căn
nhà đã bốc
khói. Không khí ấm hơn. Tôi nhìn bâng quơ những ngọn cây
Bếp Lửa
Một cách nào
đó, cái bóng đen của cuốn Tội Ác phủ
lên toàn Bếp Lửa. Toàn Hà Nội. Toàn Đất Bắc.
Tiên báo Cái
Ác Bắt Kít xuất hiện trên toàn thể nước Mít, từ 30 Tháng Tư 1975: Sự
lên ngôi của Những Con Quỉ của
Dos.
NBC [Toán]
vs Thơ
Khi Hoàng Cầm nằm xuống, chưa
kịp đậy nắp áo quan, là Gấu đã đi 1
đường hỏi thăm về cái vụ Người viết tự kiểm, tự thú trước bàn thờ Ðảng,
và một
độc giả TV nhẹ nhàng nhắc nhở, đợi ít ngày không được sao.
Kể thật bậy, nhưng vấn đề vẫn còn nguyên đấy: Tại làm sao mà cả
một miền đất, không bói ra nổi, một ông Brodsky, một ông Mandelstam,
một bà Anna
Akhmatova… ?
Tự hào mê văn học Nga, cả một tầng lớp tinh anh sành tiếng Nga,
vậy mà tại làm sao toàn mê ba thứ xái xảm, thí dụ, Mai a cốp ki, đến
nỗi đi tù
mà cũng mang theo ông này?
Có thể nói, Bắc Kít gần như mù tịt về 1 nền văn học Nga, thứ
thiệt, thứ thật bảnh.
Tại làm sao như thế?
Liệu hậu duệ của 1 Huy Cận đúng là cái thứ mà chúng ta đang đòi
hỏi chăng? Tiếng nói đầu tiên của 1 miền đất, thừa hưởng tinh anh của
tầng lớp
cha ông, sĩ phu Bắc Hà, địa linh nhân kiệt, nói Không với BBP [Bắc Bộ
Phủ]?
Chúng ta tự hỏi, ở cái nôi Cách Mạng đó, Maia có được nâng bi như
ở xứ Bắc Kít?
Gấu nghi rằng, cái sự học tiếng Nga, không phải do mê văn học Nga,
mà đây là con đường tiến thân của tầng lớp sĩ phu Bắc Hà, cũng tương
tự, học
tiếng Tây của Miền Nam, là phương tiện để bỏ chạy cuộc chiến, qua con
đường du
học. Bao nhiêu đấng rành tiếng Tây của Miền Nam có ông nào viết cái gì
ra hồn,
chính là do cái tâm địa kiếm đường bỏ chạy chứ thực sự cũng chẳng mê
gì… Camus,
hay Sartre. Ông Mít Butor phán, khi cả Sài Gòn đang trong cơn sốt hiện
sinh thì
ông đã bước qua tiểu thuyết mới rồi, là thế. Ông đâu biết sở dĩ lớp trẻ
Miền
Nam mê hiện sinh, tìm đọc Hố Thẳm, Ý Thức Mới, là vì cũng như bậc đàn
anh tìm trong Mác Xít cái điều đuổi Tây thực dân, thí dụ, thì họ
tìm điều cắt
nghĩa cuộc chiến khốn kiếp, chứ đâu phải chạy theo Tây để ăn kít Tây.
Ăn hết
kít hiện sinh thì ăn sang kít tiểu thuyết mới.
Cứ coi ông Tây mũi tẹt TTD, đã từng ngồi cà phê Quán Chùa Paris, kế
ngay bàn của Sartre, dịch "Sa Đọa", bỏ chạy cuộc chiến, trước khi nó
hứa
hẹn những điều khủng khiếp, là rõ.
Những ông khác, thì “từ thưở qua Tây thì lúc nào cũng hướng về Thăng
Long, Bắc Bộ Phủ", vì họ đều
tin chắc, Miền Bắc sẽ thắng cuộc chiến, và cái ngày về của họ mới vinh
quang
biết là chừng nào.
Gấu học tiếng Tây, những ngày bắt đầu cuộc đời tên nhóc Bắc Kít
học trung học tại trường Nguyễn Trãi Hà Nội, thì cũng như học các môn
học khác,
nhưng trong thâm tâm, là cố làm sao sau này có thể viết được một bức
thư bằng
tiếng Tây, cho một ông Tây thuộc địa, chồng bà cô, Cô Dung của Gấu, một
me Tây
bị cả miền đất coi khinh. Một lá thư cám ơn, nhờ có ông nuôi tôi mà tôi
có được
con đường thoát ra khỏi cái xứ Bắc Kít khốn nạn. Ðúng là như thế. Nhưng
về già,
Gấu mới hiểu ra, trên cả lời cám ơn đó, là lời cám ơn cái nước Tây, cái
văn hóa
Tây, hơn hẳn cái văn hóa sông Hồng, chỉ chất chứa đầy cái đói, cái rét,
cái
nhục, cái thù hận. Thành thử Gấu thấy sự kiện ông NBC vội vã xin vô
quốc tịch
Tây, khi biết mình được Nobel Toán, thật giống như Gấu, khi cố làm sao
viết
được cái lá thư cám ơn ông Tây thuộc địa, c’est à vous que je dois
tout, nhờ
ông mà có tôi.
Ðúng ra, cái sự giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, nó cũng
xêm xêm như thế: một cơ hội đổi đời của Miền Bắc. Nhưng lũ ăn cướp, tâm
địa ăn
cướp đâu có nghĩ như thế, chúng nghĩ chúng là kẻ chiến thắng, đem ơn
mưa móc
tới cho lũ Ngụy, mà nhà thì chúng cướp, đàn bà thì chúng hãm hiếp, đàn
ông thì
chúng tống đi cải tạo, nói 10 ngày mà thực ra là 5 năm, 10 năm, 15 năm,
là suốt
đời, là bỏ thây nơi rừng thiêng nước độc. Bất nhân bất nghĩa đến như
thế, mà
cái đám tinh anh Miền Bắc vờ, chưa có lấy 1 tên nói ra lời ân hận, thử
hỏi có
đúng là chúng bị liệt một nửa bộ óc không?
Chuyện thê lương như thế mà bảo quên đi ư, cứ đến ngày 30 Tháng Tư là
hãi lắm,
mong cho qua mau ư?
Source
Cái tay
PN, chủ Blog, nơi tung hê thư tình của Ông Số 1, viết cho “hòn đảo xa”
quả đúng là 1 tay
Miền Nam, bỏ chạy cuộc chiến. Bữa trước đọc, đã nghi, nay coi lại quả
đúng như vậy.
NQT
Date: Tue,
31 Jan 2006 05:02:27 -0800 (PST)
From:
Subject: Cam
on Ong
To:
Nhân dịp năm
mới kính chúc ông và gia đình thật an khang thịnh vượng.
….
Ở vào cái tuổi
“xế chiều” ông đã một lần gặp/nói chuyện lại với “ông số một” chưa?
[Câu hỏi
riêng tư, xin ông đừng chấp].
Kính,
một bạn
đọc.
Phúc đáp,
Cám ơn lời
chúc của bạn. Xin chúc bạn và gia đình mợi điều bình an nhân dịp Xuân
về.
Về TTT,
"ông số một”, từ ngày ra hải ngoại, tôi chưa được gặp, nhưng có nói
chuyện
điện thoại, email, cũng vài lần. “Ông số một” không muốn ai làm phiền
ông, ngay
cả thằng em này, thành thử cũng ngại.
Riêng ông em
ruột của ông, tôi vẫn thường liên lạc.
V/v TTT “biến
mất” ["biến đi cùng với cái tên Sài Gòn"] - như bạn viết, ông có giải
thích với thằng em, đại khái: Ông Trời cho sao thì hưởng vậy.
Ý ông muốn
nhắc tới Kiệt, trong Một Chủ Nhật
Khác: Kiệt là cạn kiệt rồi?
Ý ông muốn
nói, viết vậy đủ rồi?
Xin tuỳ bạn
hiểu.
Riêng tôi,
tôi nghĩ, chắc là ông ngưng viết.
Nhưng cũng
không thể biết được. Bản thân tôi, khi ra ngoài này, cũng đã dặn mình,
không viết
nữa. Vậy mà đâu có làm được?
Cám ơn bạn rất
nhiều.
Thân kính,
NQT
Một Chủ Nhật Khác: Cuốn tiểu thuyết duy nhất, đầu tiên, và có
thể, cuối cùng
(1) của Thanh Tâm Tuyền?
Quả như thế, theo tôi.
Trường hợp MCNK làm nhớ tới Những Kẻ Làm Bạc Giả của Gide. Cũng một
cuốn tiểu
thuyết duy nhất của một nhà văn với hầm bà làng tác phẩm.
"Không có bạn, liệu tôi viết nổi cuốn sách này không? Tôi nghi ngờ điều
đó, bởi vậy xin tặng bạn cuốn sách này."
Đó là lời đề tặng, trên bản thảo cuốn Những Kẻ làm Bạc Giả, của André
Gide.
Khi được xb, lời đề tặng ngắn gọn hơn, nhưng giật gân hơn: “Tặng Roger
Martin
du Gard cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi”.
Có giai thoại, Gide viết tác phẩm trên, khi bị Martin du Gard chê, bạn
đếch biết
viết tiểu thuyết (2).
Nhưng sự thực không đơn giản, và lý thú hơn nhiều.
(1) Riêng tôi, tôi nghĩ, chắc là ông ngưng viết. [Thư tín]
(2) Tôi cũng là một nhà văn thiên về quan niệm cho tiểu thuyết chỉ là
thứ
"văn học hạng hai", "á văn học".
Nếu không tin bạn thử đọc lại Chiến tranh và hoà bình của Leo
Tolstoy, Những
người khốn khổ của Victor Hugo, Ba người ngự lâm pháo thủ
của
Alexandre Dumas (cha) v.v…, bạn sẽ thấy những nhà văn ấy thật ra xét
cho cùng
cũng chỉ là những tay "đại bợm". NHT
Nhận xét của NHT, khoan bàn đúng, sai, duy mấy điều sau:
-Ba cuốn ông đưa ra đều là tiểu thuyết lịch sử. Thứ, không phải, thì
sao?
-Những nhà văn trên, vì là "đại bợm", cho nên viết á văn học?
Tôi sợ rằng, NHT, do "cũng" "đếch biết viết tiểu thuyết"
cho nên mới tuyên bố đại ngôn như trên, theo cái kiểu chó sói và giàn
nho!
Hay, bởi vì ông không là "đại bợm", nên không thể viết thứ á văn học
đó, trước đây, và bây giờ, "xét cho cùng cũng chỉ là một tay đại bợm",
cho nên đã "trước tác", Tuổi hai mươi yêu dấu, Tiểu Long Nữ... ?
Ôi chao, tuyên bố hung hăng dữ a?
Cứ như rắn độc cắn phải lưỡi!
*
Inconséquence et Contingence.
Bất hợp lý và Ngẫu nhiên.
Ở một trong những chương đầu Một Chủ Nhật Khác, tác giả mô tả giáo sư
Kiệt.
-Succès fou.
(1) Duy phụ họa - Giáo sư Kiệt
có một vẻ đẹp "tàn nhẫn", "đầy đực tính" không tưởng nổi.
Tôi đã từng nghe một cô sinh viên phê bình. Nguyên văn đấy.
MCNK 8
(1) Thành công như điên.
Nhưng suốt cả cuốn truyện, anh chàng xuội lơ.
Lần đầu đi với em Oanh, mồ hôi đầy tay, đổ cho bịnh con khỉ gì đó, [Em
có hiểu
tại sao chân anh run, đó là tại anh bị bệnh tê thấp. Khúc Thụy Du, Du
Tử Lê]. Lần
vợ lên thăm, cứ trơ ra, ỳ ra!
Source
Fri, 24 Mar
2006 01:14:44 -0800 (PST)
[…] xin chia
buồn với anh về sự ra đi của ông Thanh Tâm Tuyền, một người dường như
đã mang một
phần đời của anh.
Hay, anh
mang một phần đời của ông ấy?
Một độc giả
Khi
TTT đọc truyện đầu tay của Gấu, Những con dã tràng, gửi thẳng
xuống tòa
soạn Sáng Tạo, ông về nói với bà cụ, thằng Trụ nó sẽ đi xa hơn DNM. Ông
không
hề nói Gấu viết hay hơn DNM. Điều gì làm ông phán như thế. Hẳn là ông
tin vào
cái sự biết tí ti ngoại ngữ, cái sự học xong Trung Học…
Nói
rõ hơn, với ông, không có thứ nhà văn tự phát hoài hoài, cái mầm văn
học ở
trong bạn phải được nuôi dưỡng bằng kinh nghiệm sống, bằng sức đọc, sức
xâm
nhập vào thời của bạn.
Truyện
ngắn không được đăng, vì Sáng Tạo chết liền sau đó. Sau Gấu thấy tên
của Gấu,
khi đó ký Sơ Dạ Hương, ở trong mục hộp thư của tờ Văn Nghệ của Lý Hoàng
Phong,
và "băng" của ông. Không đăng. Tuy nhiên, Gấu chẳng hề để ý đến nữa.
vì còn lo học. Chỉ mãi đến khi ăn mìn VC, nằm nhà thương Grall, đọc 1
bài thơ
của CTC đăng trên báo Nghệ Thuật,
thì Gấu mới có lại cái hứng viết. Và
đó là
cái truyện ngắn Những ngày ở Sài Gòn.
Khi
viết Những con dã tràng,
"truyện ngắn hay nhất" của Gấu, đúng theo nghĩa
truyện
ngắn, tuy được TTT khen, nhưng bản thân, Gấu biết, đây không phải là
dòng văn
chương của mình! Cái thứ nhân vật hục hặc với đời sống, không phải týp
của Gấu.
Chỉ đến khi nhận ra điều này, thì Gấu mới hiểu “sẽ đi xa hơn DNM”, có
nghĩa là
gì.
Chỉ
đến khi viết được Những ngày ở Sài
Gòn, thì Gấu mới tin được, mình sẽ
trở thành
nhà văn!
Khi
đó, Gấu đã kiếm ra Thầy của mình.
Khi
gặp BHD, Gấu nhận ra liền, tuổi thơ của thằng cu Bắc Kỳ, nhà quê, thấp
thoáng ở
trong dáng đi, nụ cuời ánh lên mầu da đen nhẻm cùng với chiếc răng
khểnh của
Em, là vậy.
Ngoài ra, còn là nỗi ước mong, BHD cầm giữ suốt cuộc đời còn lại của
Gấu!
Hà, hà!
Nhưng, bằng cách nào mà BHD lại ‘thấu thị’ ra tất cả, và, bèn bỏ Gấu,
và vừa đi
vừa ngoái lại, lắc đầu:
Mi đâu có thương yêu gì ta! Mi thương một đứa con nít 11 tuổi, là ta
đời thuở
nào, và Hà Nội của mi ở trong con bé con đó!
Khủng
khiếp nhất, là, kể từ khi Gấu lấy một em "miệt vườn" làm vợ, cái xứ
Bắc Kít trả thù mới tàn bạo làm sao: Ta nguyền rủa đời mi, hễ cứ gặp
bất kỳ một
em Bắc Kít, là khốn khổ khốn nạn, là bấn xúc xích, là đều nhìn thấy một
BHD của
mi ở trong em đó!
Cuộc
tình chót đời, vào lúc sắp xuống lỗ, đơn phương, của Gấu, là... tưởng
tượng ra
1 em Bắc Kít, lấy chồng ngoại, và khi được hỏi, tại sao không lấy Mít,
và, tại
sao không lấy 1 tên Bắc Kít, Em trả lời, tụi khốn đó đâu có biết trọng
đàn bà,
nhất là đàn bà đã có 1 đời chồng mất đi vì cuộc chiến!
Thế là Gấu bèn tưởng tượng tiếp, ta sẽ là tên Mít đó, tên Bắc Kít đó,
và ta
nói, ta yêu Em, và chắc chắn em sẽ tin.
Nói
tiếng Vịt, tất nhiên:
Anh "thươn" EM!
[Em gốc “rau muốn”, thành “giá sống”, từ 1954]
Ui
chao, Em tin thiệt!
Gấu
nhận được cái mail sau cùng của Em, chắc là trong mơ, mới tuyệt vời làm
sao:
Tui
bận lắm, đâu có thì giờ rảnh mà trả lời mail của anh.
Nào chồng, nào con, nào
công việc chùa chiền, nào.. ‘viết’ nữa.
Nhưng cũng ráng viết vài
dòng…
Ui
chao GNV lại nhớ đến nhân vật của Camus, lo hết cuộc đời trần tục này,
rồi nếu
có tí dư, thì dành cho… trăng sao, và cho Gấu!
Tks.
Take Care. Plse Take Care.
NQT
James
Joyce có lần nói, tất cả các tiểu thuyết gia chỉ có mỗi một chuyện, và
họ nói
đi nói lại hoài, mỗi chuyện đó.
Gấu cũng đã từng bị mấy đấng độc giả quen biết phán, chỉ có mỗi chuyện
Mậu
Thân, đứa em trai tử trận, và BHD, kể đi kể lại hoài!
Tuy
nhiên, quái đản nhất, là chuyện BHD: mọi cuộc tình của Gấu, đều chỉ để
lập lại
chuyện tình BHD!
Trừ
cô bạn, cô phù dâu ngày nào.
Khủng
khiếp quá.
Đúng
là sự trả thù ngọt ngào, bi thương, và cũng dã man, tàn nhẫn, của xứ
Bắc Kít!
Source
Tiểu
thuyết, về bản chất, là đa nguyên.
Em
lười Google quá, nên hỏi Anh luôn: "Đa nguyên" ở đây nghĩa là gì?
Blog
GM
Note:
Không
lẽ, gõ Google mà ra được cái nghĩa của từ “đa nguyên” ở đây ư?
Về
nguồn gốc của tiểu thuyết, theo GCC, có hai thuyết, một, của
Kundera,
Vargas Llosa… theo đó, tiểu thuyết là sản phẩm của Âu Châu.
Nhưng
GCC thú nguồn của Lukacs hơn, như ông phán trong Lý thuyết về Tiểu thuyết.
Trong Lý
thuyết về Tiểu thuyết (1916), lưu vong có
nghĩa: trục xuất ra khỏi Hy Lạp cổ.
Theo chân Hegel, Lukacs tin rằng thế giới Hy
Lạp trở
thành ngạt thở đối với những thời đại tiếp theo sau nó. Đây là một thế
giới
khép kín. Chúng ta không thể thở được nữa trong một thế giới khép kín.
Hùng ca
Homer do đó mở đường cho tiểu thuyết.
Tiểu thuyết:
hùng ca của một thế giới
bị thần thánh bỏ rơi. Nói một cách khác, tiểu thuyết bắt đầu cùng với cái chết của thượng đế. Tiểu thuyết bắt đầu cùng
với giấc mơ của
con người: tìm lại
tính siêu việt đã mất. Những xã hội nặng chất tôn giáo không phải là
môi trường
thuận lợi của giả tưởng, là vậy. Don Quixote (của Cervantes) cho thấy
một điều:
thần Ky-tô đã tự ý vắng mặt, ra khỏi thế giới, và những cá nhân con
người bắt đầu
tìm kiếm ý nghĩa và bản chất, và chỉ có thể tìm thấy, trong cái linh
hồn
"vô gia cư vô địa táng" của họ.
Tiểu
thuyết, theo Lukacs,
là hình thức văn chương chính, la principale forme littéraire, của một
thế giới
trong đó, con người cảm thấy không ở nhà của mình, mà cũng không hoàn
toàn xa lạ.
Chỉ có tiểu thuyết,
khi có sự đối
nghịch cơ bản giữa con người và thế giới, giữa cá nhân và xã hội. Hùng
ca diễn
tả sự tràn đầy của linh hồn và của thế giới, của bên trong và bên
ngoài, đó là
một vũ trụ mà những câu trả lời đã có sẵn, trước khi những câu hỏi được
đặt ra,
một vũ trụ có hiểm nguy, nhưng không có hăm dọa, có bóng râm nhưng
không có tối
mù... Dùng một hình ảnh của ông, giữa văn chương của tuổi thơ và của
thời trai
trẻ (hùng ca) và văn chương của ý thức và của cái chết (bi kịch), tiểu thuyết chính là thể
loại văn chương
của sự trưởng thành hùng tính (Le roman est la forme de la maturité
virile).
Trong
bài viết nhan đề “tiểu thuyết”,
Fuentes có nhắc tới một câu của Kundera, thật tuyệt: Tiểu
thuyết là cuộc tái định nghĩa hoài
huỷ con người, như là
vấn đề, that the novel is a perpetual redefinition of the human being
as
problem.
Trong Gặp gỡ, Une rencontre,
Kundera coi La Peau của Malaparte là một “archi-roman”.
Tác giả của nó, trước Sartre cả hai chục năm, đã là một 'nhà văn dấn
thân’ rồi.
Đúng ra, theo ông, phải coi Malapartre là tiền khuôn mẫu, pré-modèle,
của
Sartre.
Câu của Kundera không ‘khủng’ bằng câu của Lukacs,
và có
thể, từ Lukacs mà ra:
Nhân vật tiểu thuyết là một kẻ vấn
nạn (un être problématique), một gã khùng hay một tên tội phạm, bởi vì
luôn tìm
kiếm những giá trị tuyệt đối dù chẳng biết, sống "chúng" một cách
toàn diện (chính vì vậy) mà không thể tới gần. Một tìm kiếm luôn tiến
mà chẳng
tới, một chuyển động Lukacs định nghĩa bằng
công thức:
"Con đường tận cùng, cuộc hành trình bắt đầu".
(Lucien Goldmann: Dẫn vào những bản viết
đầu tay của
Georges Lukacs).
Bếp Lửa
trong Văn chương
Source
Tiểu thuyết là
để diễn tả về
cõi không nhà siêu việt
(The form of
the novel is, like no other one, an expression of transcendental
homelessness)
G. Lukacs, Lý
thuyết về Tiểu thuyết.
Source
Năm di cư thứ
hai mươi [1974], khi viết bài Tử Địa,
nghĩ đến những đứa con tư sinh
của đất Bắc
ở cả hai miền lúc ấy....
TTT: Trong
đất trời
Tưởng
niệm Mai Thảo
Chúng ta, bữa
hôm nay, thử lèm bèm, về nó, về những đứa con "tư sinh", như một niềm
“tự hào”,
[tự hào
cái con khỉ!], hay như là 1 “bad faith"....
On being Jewish
If
Judaism has a central injunction,
Finkielkraut argues, it should be not "a matter of identity, but of
memory: not to mimic persecution or make theater of the Holocaust, but
to honor
its victims," to keep the Holocaust from becoming banal, so that the
Jews
are not condemned to a double death: by murder and by oblivion.
Tác giả tự nhận
ông là 1 đứa con tư sinh của Miền Bắc, nhưng không đưa ra 1 nhận xét gì
về nó,
nhân đọc bài viết “Về cái chuyện là 1 tên Do Thái”, GCC bèn thử đưa ra
1 số giả
thuyết....
Khi
Nguyễn Đức Quỳnh mất,
TTT đi một đường ai điếu, bằng bài viết:
Bạn đã đọc Thằng Kình chưa?
Và cho biết, đây là một trong tác phẩm gối đầu giường
của ông, khi mới lớn.
Sau này, khi đọc cuốn của Isabel Allende, Gấu mượn lại cái tít này:
Bạn đã đọc Ngôi nhà của những hồn ma chưa?
Bài điểm sách đăng trên tờ báo Tuổi Trẻ, gây
chấn động giang hồ. Đó
là sự thực, đừng nghĩ Gấu phịa, tự thổi. Tay Hoàng Lại Giang, ông trùm
nhà xb
VH, bộ phận phía Nam, sếp của Gấu, buổi sáng, khi Gấu ghé tòa soạn
trình diện,
kêu em thư ký, phát cho tên Ngụy liền một ngàn đồng VC cho ta!
Lúc đó, Gấu đang sửa lại bản dịch Mặt Trời Vẫn Mọc, cho VH,
dưới quyền
giám sát của ông em trai của Nhật Tiến, là Nhật Tuấn.
Sau này, ra hải ngoại, đọc búa xua, Gấu mới biết thuật ngữ “Bạn đã
đọc”, là rất
quen thuộc của giới giang hồ Tây Phương, cả ở trong viết, và nói.
Thú nhất, một ông bạn lúc đó trông coi một sạp báo, kể cho Gấu nghe,
một số
khách hàng quen của anh, mấy ngày sau, còn nhao lên vì cái bài điểm
sách, ghé
sạp hỏi, này, còn tờ báo đó không ?
NDQ là tác giả câu nói nổi tiếng: VC thì như bát cơm, gạo tám thơm,
trộn thuốc
độc, còn Quốc Gia thì là bát cơm, gạo hẩm, mốc, trộn… kít!
Xa Miền Bắc hơn nửa thế kỷ, khi
trở về, Gấu canh cánh trong lòng
một điều, giả như Gấu này không bỏ chạy vào Nam năm 1954, thì cái thằng
Gấu ở
lại, nó sẽ như thế nào.
*
Cuốn Bếp Lửa, khi vừa mới ra lò, Gấu
không được đọc, nhưng lại được đọc bài điểm sách trên tờ Tự
Do, báo nhà, ấy là vì ông anh Hiếu Chân là một trong những sáng
lập viên của tờ báo. Tác giả bài điểm sách là Hà Thượng Nhân, sau là
Sếp của
TTT, khi ông bị gọi nhập ngũ, và phục vụ tại tờ Tiền Tuyến.
HTN và báo Tự Do cũng mạt sát thơ tự do hết lời khi nó vừa xuất hiện.
Bài điểm sách lôi đoạn tả ông Chính mất, và vào lúc sắp hạ huyệt, cô
con gái
của ông lăn lộn khóc, ‘như một con chó điên’. HTN phán, tả như thế là
làm nhục
con người.
Nhưng, khi đọc cọp Bếp
Lửa
trên vỉa hè Sài Gòn, Gấu bị nó hớp mất hồn viá, và không hề nhìn thấy
những
dòng chữ trên.
Nhà văn Phi Châu Chinua Achebe
coi Trái Tim của Bóng Đen của
Conrad là một bản
văn 'racist', và để chứng minh, ông lôi đoạn Marlow tả một đám đông Phi
Châu,
‘a mass of naked, breathing, quivering, bronze bodies’. Phía trước là
ba người
đàn ông, ‘plastered with bright red earth from head to foot’.
Bởi vậy, cùng một bản văn, mà
mỗi người đọc một khác.
Cách đọc Bếp Lửa của Hà Thượng Nhân, theo
tôi, là nhìn thấy cây mà không thấy
rừng, hay dùng chữ của Alberto Manguel, khi biện minh cho Trái
Tim của Bóng Đen, một cách đọc, tuy có thể, nhưng không có
ích. Manguel viết: Cơ bản mà nói, ở trái tim của bóng đen không phải
Phi Châu,
cũng không phải cái nhìn của người da trắng về Phi Châu, hay là những
đoạn tả
cảnh man rợ của người da đen. Ở trái tim của bóng đen, là Kurtz. “His
soul is
mad”, says Marlow. "Tâm hồn của nó thì điên khùng, hoá dại rồi",
Marlow nói.
*
Di dân là
"số" phần, (a matter of arithmetic), theo Kundera. Joseph Conrad, sống
17 năm tại Ba-lan, và tại Russia, lưu vong cùng với gia đình. 50 năm
còn lại, ở
Anh, hay trên những con tầu Anh. Đương nhiên, ông viết văn bằng tiếng
Anh, về đề
tài Anh. Ông bị dị ứng, khi đụng phải những gì có "mùi Nga": dấu vết
Ba-lan độc nhất ở nơi ông. Tội nghiệp Gide, không thể hiểu tại sao
Conrad
"không thiện cảm" với Dostoevsky.
Mùa Thu, những
di dân
Cái sự không
thiện cảm với Dos của Conrad, nguồn gốc của nó sâu xa hơn nhiều, theo
như
Martin Seymour-Smith, biên tập và giới thiệu cuốn Điệp viên bí ẩn của
Conrad
[Penguin Books]: Điệp viên bí ẩn sẽ đếch thể có nếu không có Dos. Nhưng
bởi vì
Conrad ghét người Nga, và tất nhiên, ghét Dos, cũng vì vậy. Chính vì
thế mà
Conrad giấu biệt những dấu vết, ảnh hưởng Dos ở nơi ông, và những nguồn
gốc [chất
liệu] ở nền của The Secret Agent.
Cả hai, Conrad và Dos đều là những nhà tự do
lý tưởng và chấm dứt bằng ‘phản động’ [reactionaries]. Conrad thì liên
can đến
chuyện buôn bán súng, còn Dos, nhà khuấy động cách mạng, revolutionary
activism.
Cái chuyện
Conrad thu gom tài liệu, sự kiện từ báo chí, lịch sử cận đại, khi viết The
Secret Agent, là cũng để che giấu, đánh lạc hướng ảnh hưởng Dos,
bởi vì The
Secret Agent là từ Những Con Quỉ
của Dos mà ra. Khi Coetzee tìm ra mối liên hệ
thầy trò giữa Conrad và Greene, (1) và bây giờ chúng ta tìm ra thầy của
Conrad
là Dos, thì chúng ta mới vỡ ra, Dos, đúng hơn, Những Con Quỉ của ông, là nguồn
cơn của tất cả mọi chuyện.
(1) Graham
Greene, Brighton Rock, trong Inner Workings.
*
Những con đường
đưa cá nhân đến tội ác / đưa xã hội đến cách mạng, là như nhau.
(Camus,
Thèse sur Dostoevsky: Les mêmes chemins qui mènent l’individu au crime
mènent
la société à la révolution)
Nói về Possédés, vào năm
1955, nhân dịp đài Radio-Europe tưởng niệm Dostoevsky, Camus
tuyên bố: Tôi gặp tác phẩm này năm 20 tuổi, và cơn bàng hoàng cứ thế
kéo dài,
hai mươi năm tiếp theo sau đó.
Cơn choáng
váng mà Camus đụng phải khi đọc Lũ
Người Quỉ Ám không chỉ kéo dài ở ông, mà còn
lây sang nhiều người, khi đụng Kẻ Lạ. Một cách nào đó, Bếp Lửa, Kẻ Lạ, là những
phiên bản của Tội Ác, Possédés... Những Người Quỉ Ám mới là con chim
báo bão về
một chủ nghĩa toàn trị sắp tới (Lời giới thiệu trang bìa ấn bản tủ sách
bỏ
túi).
Võ Phiến,
nhà văn Bình Định
*
In the late
summer of that year we lived in a house in a village that looked across
the
river and the plain to the mountains. In the bed of the river there
were
pebbles and boulders, dry and white in the sun, and the water was clear
and
swiftly moving and blue in the channels. Troops went by the house and
down the
road and the dust they raised powdered the leaves of the trees. The
trunks of
the trees too were dusty and the leaves fell early that year and we saw
the troops
marching along the road and the dust rising and leaves, stirred by the
breeze,
falling and the soldiers marching and afterward the road bare and white
except
for the leaves.
So goes the
famous first paragraph of Ernest Hemingway's ''A Farewell to Arms,"
which
I was moved to reread by the recent announcement that what was said to
be
Hemingway's last novel would be published posthumously next year. That
paragraph, which was published in 1929, bears examination: four
deceptively
simple sentences, one hundred and twenty-six words, the arrangement of
which
remains as mysterious and thrilling to me now as it did when I first
read them,
at twelve or thirteen, and imagined that if I studied them closely
enough and
practiced hard enough I might one day arrange one hundred and
twenty-six such
words myself.
Joan Didion
Vào cuối mùa
hè năm đó, chúng tôi sống trong một căn nhà trong một cái làng nhìn ra
sông ra
đồng tới tận vùng núi. Ở lòng con sông là đá cuội và đá mòn, khô và
trắng trong
ánh nắng, và nước sông, trong và chảy nhẹ nhàng, xanh ở trong những
dòng rẽ. Những
toán quân đi kế bên nhà xuống con lộ và bụi dấy lên phủ lên lá. Thân
cây cũng bụi
bặm, lá rụng sớm năm đó và chúng tôi nhìn thấy những toán quân đi bộ
dọc theo
con lộ, bụi dấy lên, và những lá cây, theo làn gió thổi rớt xuống, và
những người
lính đi bộ, và sau đó con lộ trần trụi, vắng hoe, và trắng toát, ngoại
trừ những
chiếc lá cây.
Đó là đọan
văn trứ danh, hách xì xằng mở ra Giã
từ vũ khí, mà tôi, thật xúc động,
khi đọc lại, nhân có tin cuốn tiểu thuyết chót của Hemingway sẽ được
xb, sau
khi ông mất, vào năm tới.
Đoạn văn
trên, ấn bản 1929, nếu nhìn thật gần, thì nó như thế này: bốn câu đơn,
126 từ,
sự sắp xếp thì là một niềm bí ẩn mà ngay cả bây giờ, đọc lại tôi vẫn
cảm thấy
như lần đầu đọc nó, vào lúc 12, 13 tuổi, và tưởng tượng, nếu nhìn thật
gần, gẩn
nữa, gần nữa, thì tôi có thể, nếu trần lực ra mà đánh vật với chúng,
thì có một
ngày, tôi sẽ sắp xếp được những từ đó, chính tôi!
*
Ui chao, đó
là văn chương! Đó là cái thú vui “khủng khiếp tuyệt vời” và “tuyệt vời
khủng
khiếp” mà mấy tên ngu đần, giáo sư, triết gia... đếch
làm sao hiểu được!
Chúng viết,
chỉ một câu thôi, là đủ làm Gấu phát điên, chịu không nổi!
Một cách nào đó, Bếp Lửa của TTT,
là cũng từ Dos mà ra. Không phải từ Những
Con Quỉ, mà là Tội
Ác và Hình Phạt.
Source