|
Khi Hoàng Cầm
nằm xuống, chưa kịp đậy nắp áo quan, là Gấu đã đi 1 đường hỏi thăm về
cái vụ
Người viết tự kiểm, tự thú trước bàn thờ Ðảng, và một độc giả TV nhẹ
nhàng nhắc
nhở, đợi ít ngày không được sao.
Kể thật bậy,
nhưng vấn đề vẫn còn nguyên đấy: Tại làm sao mà cả một miền đất, không
bói ra nổi,
một ông Brodsky, một ông Mandelstam, một bà Anna Akhmatova… ?
Tự hào mê
văn học Nga, cả một tầng lớp tinh anh sành tiếng Nga, vậy mà tại làm
sao toàn
mê ba thứ xái xảm, thí dụ, Mai a cốp ki, đến nỗi đi tù mà cũng mang
theo ông
này?
Có thể nói,
Bắc Kít gần như mù tịt về 1 nền văn học Nga, thứ thiệt, thứ thật bảnh.
Tại làm sao
như thế?
Liệu hậu duệ
của 1 Huy Cận đúng là cái thứ mà chúng ta đang đòi hỏi chăng? Tiếng nói
đầu
tiên của 1 miền đất, thừa hưởng tinh anh của tầng lớp cha ông, sĩ phu
Bắc Hà, địa
linh nhân kiệt, nói Không với BBP [Bắc Bộ Phủ]?
Chúng ta tự
hỏi, ở cái nôi Cách Mạng đó, Maia có được nâng bi như ở xứ Bắc Kít?
Gấu nghi rằng,
cái sự học tiếng Nga, không phải do mê văn học Nga, mà đây là con đường
tiến
thân của tầng lớp sĩ phu Bắc Hà, cũng tương tự, học tiếng Tây của Miền
Nam, là
phương tiện để bỏ chạy cuộc chiến, qua con đường du học. Bao nhiêu đấng
rành tiếng
Tây của Miền Nam có ông nào viết cái gì ra hồn, chính là do cái tâm địa
kiếm đường
bỏ chạy chứ thực sự cũng chẳng mê gì… Camus, hay Sartre. Ông Mít Butor
phán,
khi cả Sài Gòn đang trong cơn sốt hiện sinh thì ông đã bước qua tiểu
thuyết mới
rồi, là thế. Ông đâu biết sở dĩ lớp trẻ Miền Nam mê hiện sinh, tìm đọc
Hố Thẳm,
Ý Thức Mới, là vì cũng như bậc đàn anh tìm
trong Mác Xít cái điều đuổi Tây thực dân, thí dụ, thì họ tìm
điều cắt
nghĩa cuộc chiến khốn kiếp, chứ đâu phải chạy theo Tây để ăn kít Tây.
Ăn hết
kít hiện sinh thì ăn sang kít tiểu thuyết mới.
Cứ coi ông
Tây mũi tẹt đã từng ở Paris, trước khi cuộc chiến hứa hẹn những điều
khủng khiếp,
là rõ. Những ông khác, thì “từ thưở qua Tây bỏ chạy cuộc chiến, lòng
lúc nào
cũng hướng về Thăng Long, Bắc Bộ Phủ", vì họ đều tin chắc, Miền Bắc sẽ
thắng
cuộc chiến, và cái ngày về của họ mới vinh quang biết là chừng nào.
Gấu học tiếng Tây, những
ngày bắt đầu cuộc đời tên nhóc Bắc Kít
học trung học tại trường Nguyễn Trãi Hà Nội, thì cũng như học các môn
học khác,
nhưng trong thâm tâm, là cố làm sao sau này có thể viết được một bức
thư bằng
tiếng Tây, cho một ông Tây thuộc địa, chồng bà cô, Cô Dung của Gấu, một
me Tây
bị cả miền đất coi khinh. Một lá thư cám ơn, nhờ có ông nuôi tôi mà tôi
có được
con đường thoát ra khỏi cái xứ Bắc Kít khốn nạn. Ðúng là như thế. Nhưng
về già,
Gấu mới hiểu ra, trên cả lời cám ơn đó, là lời cám ơn cái nước Tây, cái
văn hóa
Tây, hơn hẳn cái văn hóa sông Hồng, chỉ chất chứa đầy cái đói, cái rét,
cái nhục,
cái thù hận. Thành thử Gấu thấy sự kiện ông NBC vội vã xin vô quốc tịch
Tây,
khi biết mình được Nobel Toán, thật giống như Gấu, khi cố làm sao viết
được cái
lá thư cám ơn ông Tây thuộc địa, c’est à vous que je dois tout, nhờ ông
mà có tôi.
Ðúng ra, cái sự giải phóng
Miền Nam, thống nhất đất nước, nó
cũng xêm xêm như thế: một cơ hội đổi đời của Miền Bắc. Nhưng lũ ăn
cướp, tâm địa
ăn cướp đâu có nghĩ như thế, chúng nghĩ chúng là kẻ chiến thắng, đem ơn
mưa móc
tới cho lũ Ngụy, mà nhà thì chúng cướp, đàn bà thì chúng hãm hiếp, đàn
ông thì
chúng tống đi cải tạo, nói 10 ngày mà thực ra là 5 năm, 10 năm, 15 năm,
là suốt
đời, là bỏ thây nơi rừng thiêng nước độc. Bất nhân bất nghĩa đến như
thế, mà cái
đám tinh anh Miền Bắc vờ, chưa có lấy 1 tên nói ra lời ân hận, thử hỏi
có đúng
là chúng bị liệt một nửa bộ óc không?
Chuyện thê lương như thế mà bảo quên đi ư,
cứ đến ngày 30 Tháng Tư là hãi lắm, mong cho qua mau ư?
Trình độ tiếng
Tây của Bác H
Trong khi Gấu,
cố học tiếng Tây, thứ căn bản, để cám ơn ông Tây thuộc địa, thì Bác H,
sử dụng
tiếng Tây bồi, để chửi, cũng ông Tây thuộc địa [Chửi Mẽo, đúng hơn, khi
trả lời
Tây]
Chắc chắn, khi Cẩm Linh
cho khui hồ sơ mật của Bác H, chúng ta sẽ còn
biết nhiều
sự thật dã man hơn nữa, về vị Cha Già Của Dân Tộc.
Trên website Ánh Dương, có cái video
Ui chao lại
nhớ lần Gấu trở về Hà Nội, gặp ông cậu, Cậu Toàn, người được Hồ Tôn
Hiến, Sáu Dân
trao trách nhiệm làm thông ngôn, khi Người "trở về nơi một thời vang bóng"
Lần gặp cuối
cùng cách đây hơn nửa thế kỷ, giữa hai cậu cháu, cũng diễn ra tại Hà
Nội, ông cậu
vừa từ chiến khu Việt Bắc về, còn thằng cháu thì đang lăm le tìm cách
chuồn xuống
Hải Phòng, trước khi thời hạn 300 ngày chấm dứt, cánh cửa nhìn ra thế
giới của miền
bắc hoàn toàn đóng sập xuống cho tới tận… Sea Games 22 này mới lại hé
ra!
Trong những
mẩu “vừa đi quanh Hồ Gươm vừa kể chuyện”
đó, có hai mẩu liên quan đến
chuyện dịch
thuật của “đồng chí sếp” của ông cậu tôi, là Nguyễn Khắc Viện.
Được vinh dự
trao nhiệm vụ dịch Di Chúc Bác Hồ sang tiếng Tây, khi Nguyễn Khắc Viện
dịch cụm
từ “rất minh mẫn” ở trong di chúc thành “lucide”, ông
bị phê phán, [bị “chỉnh” nặng lắm], rằng tại
sao dám sửa Di Chúc, sao dám bỏ đi từ “rất”. Ông sếp của ông cậu tôi
chỉ cười. Sau
phải đem tới nhờ một ông Tây chính gốc 100 phần dầu phân giải. Ông này
nói,
lucide là đủ rồi. Thêm chữ très nữa là… hỏng! Nhân loại, không riêng gì
giống
Tây, khi nói về mình, không ai dám dùng tới chữ “très”, dù vào lúc hấp
hối, con
người hơi bị quá minh mẫn!
Câu
chuyện thứ nhì liên quan tới nhan đề cuốn
sách viết về đồng chí Nguyễn Văn Trỗi: Sống Như Anh. Sau bao nhiêu đấng
dịch,
nào là vivre tel qu’il est... tới
tai
Nguyễn Khắc Viện, ông “phán”: dịch "sống cẩm lủy" (vivre comme lui)
là được rồi!
*
Trong bài viết Causework, uy
quyền của thi sĩ trong thời đại không tưởng, Andrew Kahn, trên tờ TLS
10.9.2010, đặt vấn nạn, chuyện
gì xẩy ra cho những nhà thơ trữ tình khi họ, thay vì làm tà lọt cho nữ
thần thi
ca, [“service to the muse”, chữ của Pushkin], thì làm tà lọt cho nhà
nước [to
the service of the nation]. Liệu cái thứ thơ ca chính trị vượt tới cõi
xuyên quốc
gia, [liệu Maia là một tên Mít, đại khái như thế]. Liệu nhà thơ khi bỏ
chạy được
qua Mẽo, thí dụ, thì thoát ra khỏi 1 chữ S tâm linh?
Tất cả những
tác phẩm trên, là những toan tính nghiêm trọng, serious attemps, khi
đặt vấn đề,
sự liên hệ giữa nghệ thuật thi ca với cuộc đời của những nhà thơ. Clare
Cavanagh
với tác phẩm Thơ trữ tình và chính trị hiện đại: Nga, Ba Lan, và Tây
Phương, và
Irena Grudzinska Gross với Czeslaw Milosz và Joseph Brodsky, Fellowship
of
Poets, cả hai đều cho rằng, vào thế kỷ 20, ở Liên Xô và ở Ba Lan, tác
động thơ
ca trữ tình, the impact of lyric poetry, có tính quốc gia, bởi là
vì, những
nền văn hóa ở đó, bằng những đường hướng khác nhau, đã ban cho nhà thơ
một thứ
uy quyền đặc biệt – và đôi khi, nhà thơ phải đáp lễ, bằng chính cái
mạng sống của
họ!
Chúng ta thử
áp dụng nhận định trên vô xứ Bắc Kít
NBC
Nobel Toán
“Nhiều người
nói rằng, phiên tòa tuyên bố “xử công khai” thực ra là một cái bẫy dụ
người ta
đến để rồi bắt giam.”
Võ Thị Hảo
Ðúng như thế.
Cũng như thế, là đòn 10 ngày cải tạo, đánh lừa tất cả lũ sĩ quan Ngụy.
Mười ngày
phù du, xong, về, là xúm nhau xây dựng cái nhà Mít bằng trăm bằng ngàn
trước đó.
“ Có cố tình
làm mất thể diện quốc gia, cũng khó mà làm hơn mấy ông bà này. ..Không
thể lấy
sự cẩu thả và sự sợ hãi làm phương pháp bảo vệ chế độ”!
NBC
Thể diện quốc
gia đâu bằng lý do hiện hữu, không phải của quốc gia, không phải của
chế độ, mà
của cái giống người có tên là Mít.
Khi ăn cướp
Miền Nam, lấy đi cái “giấc mộng thực” về 1 vòng tay lớn, là VC đã lấy
đi cái lý
do hiện hữu của người Việt.
Một Cù Huy Hà
Vũ, làm sao so với cả 1 miền đất nước?
Ông NBC, bà
VTH này, khi suy nghĩ, và viết ra, những gì liên quan đến đất nước, thì
đều suy
nghĩ, viết ra, bằng 1 nửa bộ óc. NQT
“Cái tay”
Nobel Toán người Mít làm Gấu nhớ đến Shakarov, mà TV đã từng giới thiệu
nhân đọc
1 bài viết về ông trong Quê Hương Tưởng Tượng
của Rushdie. Ông Nga này rất yếu ớt, hơi tí là nhè, như Gấu còn nhớ
được, nhưng
khi đụng trận [bị lôi ra để đóng vai ngôn sứ, thiên sứ, thiên chức…],
thì lại
thật là dũng cảm. Ðể Gấu gõ Google, coi bài đó còn không, và tiện thể
giới thiệu
bài viết mới về ông mà TV hăm he dịch, nhưng vờ hoài.
Cái tít bài
viết của NBC là cũng đầy ngụ ý. Ông tính chơi chữ. Thường thì đám ly
khai sợ hãi
bị vấp ngã, thí dụ như NBC, sợ, nên không dám đứng giữa Ba Ðình, nhìn
về phía Xác
Bác Hồ, Lăng Liên Xô, mà phán, dẹp chế độ, dẹp Cờ, dẹp Lăng, dẹp Bộ Lạc
[cờ lăng,
clan] Mít Ðỏ, Bắc Kít độc ác như rắn như rết, làm lại từ đầu, từ... cái
khúc cuối Trăm
Năm Cô Ðơn, cố kiếm ra 1 thằng bé Mít không đuôi.
Nhưng, ở đây, là đám VC sợ hãi
cố bảo vệ chế độ, chứ không phải đám ‘rân chủ’ [chữ của đám VC trên
net] sợ vấp
ngã.
Nói về đám ly khai sợ "vấp
ngã" [chữ của thi sĩ kiêm nghề cớm NTH], tờ Người Kinh Tế, khi tưởng niệm Solz,
đi 1
đường thật là tuyệt.
Chép ra đây, để tặng đám suy tư bằng 1 nửa bộ óc.
“Vào
thời kỳ Xô viết, nói sự thực đòi hỏi can đảm lớn, và đem đến những hậu
quả đáng
sợ. Chính vì lý do đó, ly khai chống đối chẳng có bao, và thuộc đám trí
thức hạng
nặng, như Shakarov, người làm ra bom nguyên tử
cho Liên
Xô. Ngày nay, sợ hãi không hẳn đã là cái rọ bịt miệng trí thức. Nói sự
thực tuy
vẫn nguy hiểm, như vụ làm thịt nữ ký giả Anna Politkovskaya vào năm
2006, cho
thấy. Nhưng ẩn núp ở đằng sau sự im lặng của nhiều người thì không phải
là sự sợ
hãi mà là ‘appetite’: Một ‘appetite’ [sự ngon miệng] phủ lên bổng lộc,
và địa vị
mà hầu hết đám trí thức ‘enjoy’, [thưởng thức], như là tà lọt trung
thành của hệ
thống Xô Viết.”
Nguồn
Câu
trên, Hoàng Nguyễn, trên
talawas, dịch chính xác hơn:
Dưới thời Xô-viết, để nói sự
thật cần có lá gan lớn và chấp nhận những hậu quả đáng sợ. Đó là lý do
tại sao
những người đối kháng chỉ chiếm một thiểu số ít ỏi trong giới trí thức
chính
thức mà Liên bang Xô-viết tạo ra chủ yếu để xây dựng nền công nghệ
nguyên tử.
Ngày nay, nỗi sợ hãi không phải là yếu tố lớn nhất bịt miệng các trí
thức tuy
nói ra vẫn có thể bị nguy hiểm, chẳng hạn như vụ ám sát bà Anna
Politkovskaya,
một phóng viên điều tra, năm 2006, cho thấy. Nhưng ẩn đằng sau sự im lặng của
nhiều người không phải là nỗi sợ mà là sự thèm muốn: thèm muốn tìm lại
niềm
hãnh diện và vị trí mà đa số trí thức Nga được hưởng với tư cách những
nô bộc
trung thành của hệ thống Xô-viết.
Tks. NQT
Về Sakharov
I conclude with some words of
Leszek Kolakowski that, I am
convinced, reflect Andrei Sakharov's view: "No victory is
irreversible,
no defeat is definitive. That is what makes life worth living."
The New York Review 13 Jan 2011
Note: Khi NBC được Nobel Toán,
GNV đã mơ mòng tưởng tượng ra, một
cú tương tự như trên.
“Chàng” đứng giữa Bắc Bộ Phủ, Ba Đình, Lăng Bác H… dõng dạc cảnh cáo:
"Không có chiến thắng nào mà
không có thể đảo ngược, không có
thất bại nào là chung quyết. Đó là điều làm cho cuộc đời xứng đáng để
cho chúng
ta sống, nó".
Ui chao, mừng hụt! NQT
Sakharov by Rushdie
Tàn
Dư của chủ nghĩa toàn trị
*
Người Việt
Nam đã từng có thời kỳ cư xử trong sống – chết chả kém gì người Nhật
hôm nay,
đã từng được thế giới kính trọng. Đó là những năm tháng sống dưới bom
đạn Mỹ
“cho miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá”. Báo chí nước ngoài đưa các phóng
sự người
Việt ung dung đàng hoàng, sáng tập thể dục, anh bộ đội trực chiến qua
đêm đang
đánh răng ở nhà máy nước vỉa hè gần nhà máy. Mọi người xếp hàng vào ăn
phở
“không người lái” (không có thịt). Không có trộm cắp, đi đêm tha hồ.
Cửa nhà bỏ
đấy đi sơ tán chẳng ai đụng vào.
Vậy mà bây
giờ có bao tính xấu, ông Vương Trí Nhàn nghiên cứu tính xấu đó thì bị
“tấn
công” đến bỏ dở cuộc phỏng vấn, và câu của ông được treo trên mạng
“thói xấu nhất
của người Việt là sợ nói về thói xấu của mình”…
Người viết
bài này chắc chắn hiểu rõ lý do tại làm sao vẫn Bắc Kít , trước thì
như... Trời,
cả thế giới mong nằm mơ, sáng ngủ dậy thấy biến thành... Bắc Kít, thế
mà sau...
30 Tháng Tư, quá Quỉ, cả thế giới gớm sợ.
Trước 30
Tháng Tư, Bắc Kít là Savior, Thiên Sứ, sau 30 Tháng Tư, Quỉ Sứ, Demon.
Liên Xô cũng
bị cái họa này, theo D.M. Thomas, người viết cuốn tiểu sử của Solz.
Charles
Simic
Selected
Poems 1963-2003
Charles
Simic is something of a magician, a conjuror. Out of nothing it seems,
out of
thin air, the poems appear before our eyes. One apparently casual
observation
leads to another, and suddenly, exponentially, we are spellbound. It is
a trick
many have tried to imitate but few have achieved. At the centre of
Simic's art
is a disarming, deadpan precision, which should never be mistaken for
simplicity. Everything appears pared back to the solid and the
essential, and
it is this economy of vocabulary and clarity of diction which have made
his
poetry so portable and so influential wherever it is published. Simic
is one of
the few poets of our time to achieve both critical and popular acclaim;
he is
genuinely quotable, and it is entirely possible that some of his
phrases and
lines will lodge in the common memory. Without any hint of loftiness,
then, and
from a position which is entirely his own, Simic manages to speak to
the many
and not just the few.
Charles Simic
có cái gì đó của một nhà ảo thuật. Dưng không, hay, từ lớp khí trời
mỏng dính, những
bài thơ của ông xuất hiện trước chúng ta. Một cú nhận xét bâng quơ dẫn
tới một
cú khác, và bất thình lình, như ngồi trong hỏa tiễn, chúng ta nghẹt thở
vì thất
thần, ngạc nhiên, sững sờ. Ðây là 1 tuyệt chiêu nhiều người bắt chước,
nhưng ít
người làm được. Ở trung tâm nghệ thuật của Simic, là sự chính xác khiến
chúng
ta đờ đẫn, bái phục, cởi giáp qui hàng. Và đừng bao giờ lầm lẫn nó với
sự giản
dị. Mọi điều xuất hiện là để tỉa gọt đưa về cái vững chãi, cái cơ bản,
cái yếu
tính, và cái sự kiệm từ, kiệm chữ, cái sự sáng sủa của câu phán, nó làm
cho thơ
của ông dễ dàng mang theo cùng với chúng ta và ảnh hưởng nhiều đến
người đọc cho dù in ấn ở
đâu. Simic
là 1 trong số ít những nhà thơ của thời chúng ta được ca ngợi ở cả hai
giới phê
bình và bình dân; ông được trích dẫn một cách thật là nguyên thuỷ
[không phải
theo cái kiểu tam sao thất bản], và chuyện, một vài dòng thơ của ông
dính chặt
vào trí nhớ của chúng ta, những con người bình thường, là chuyện hoàn
toàn có
thể.
Chẳng 1 tí bầy
đặt, không phách lối, kênh kiệu, và rồi thì, từ 1 vị trí hoàn toàn của
riêng mình,
thi sĩ lèm bèm với tất cả chúng ta, chứ không phải chỉ với một dúm
người.
MY SHOES
Shoes,
secret face of my inner life:
Two gaping
toothless mouths,
Two partly
decomposed animal skins
Smelling of
mice nests.
My brother
and sister who died at birth
Continuing
their existence in you,
Guiding my
life
Toward their
incomprehensible innocence.
What use are
books to me
When in you
it is possible to read
The Gospel
of my life on earth
And still
beyond, of things to come?
I want to
proclaim the religion
I have
devised for your perfect humility
And the
strange church I am building
With you as
the altar.
Ascetic and
maternal, you endure:
Kin to oxen,
to Saints, to condemned men,
With your
mute patience, forming
The only
true likeness of myself.
Ðôi giầy của tôi
Giầy, bộ mặt
bí mật của cuộc đời bên trong của tôi :
Hai cái miệng
không có răng, cách nhau một khoảng
Hai miếng da
loài vật đã bị phân huỷ từng phần
Có mùi ổ chuột
Ông anh bà
chị của tôi đã chết ngay khi ra đời
Vẫn tiếp tục
sự hiện hữu ở trong bạn
Hướng dẫn cuộc
đời của tôi
Về một sự ngây
thơ trong sạch không làm sao hiểu được của họ
Sách thì dùng
làm gì đối với tôi?
Một khi mà, ở
nơi bạn, có thể đọc
Thánh Kinh của đời tôi ở trên mặt đất
Và, quá thế
nữa, những điều chưa tới, chưa xẩy ra?
Tôi muốn tuyên
bố một tôn giáo
do tôi làm
ra vì sự khiêm
tốn tuyệt hảo của bạn,
Và một ngôi
nhà thờ lạ kỳ tôi đang xây cất
Với bạn, là
bàn thờ
Khổ hạnh, và
mẫu tử, bạn như thế, đời đời
Bà con với dưỡng
khi, với Thánh Thần, để kết án con người
với sự kiên
nhẫn câm nín của bạn, tạo thành
cái thực giống
độc nhất với cái tôi
của tôi
PRODIGY
I grew up
bent over
a chessboard.
I loved the
word endgame.
All my
cousins looked worried.
It was a
small house
near a Roman graveyard.
Planes and tanks
shook its
windowpanes.
A retired
professor of astronomy
taught me how to play.
That must
have been in 1944.
In the set
we were using,
the paint
had almost chipped off
the black pieces.
The white
King was missing
and had to be substituted for.
I'm told but
do not believe
that that
summer I witnessed men
hung from telephone poles.
I remember
my mother
blindfolding me a lot.
She had a
way of tucking my head
suddenly under her overcoat.
In chess,
too, the professor told me,
the masters play blindfolded,
the great
ones on several boards
at the same
time.
Người Không Tầm Thường (1)
Tôi
lớn lên, trên
một cái bàn cờ
Tôi
mê cái từ tàn cuộc
Tất
cả bà con họ hàng đều tỏ ra buồn lòng.
Ðó
là 1 căn nhà nhỏ
ở gần một nghĩa địa Ba Lan
Máy bay và xe tăng
lắc lắc mấy khung cửa sổ của nó
Một
vị giáo sư thiên văn về hưu
dạy tôi chơi cờ
Hẳn
là năm 1944
Bộ
cờ của chúng tôi
Quân đen tróc sơn gần hết
Tướng trắng, mất
Phải thay bằng một mẩu gỗ
Tôi nghe kể nhưng không tin
rằng
mùa hè năm đó, tôi chứng kiến những
người đàn ông
treo trên những cột điện
thoại
Tôi
nhớ mẹ tôi đã bịt mắt tôi khá nhiều lần
Bà
luôn luôn có cái cách của bà
bất
thình lình cuốn đầu tôi
trong
chiếc áo khoác của bà
Trong
cờ tướng, thì cũng vậy, vị giáo sư biểu tôi
những
bậc thầy chơi cờ mắt bịt kín,
những
bậc đại sư phụ thường chơi,
cùng một lúc vài cuộc cờ.
(1)
Tôi vốn không đặc biệt hâm mộ ông
Cù
Huy Hà Vũ. Những lý lẽ ông đưa ra tôi cũng không thấy có tính thuyết
phục đặc
biệt. Nhưng với những gì xảy ra gần đây, ông thể hiện mình như một con
người
không tầm thường. Như Hector người thành Troy, như Turnus người Rutuli
hay như
Kinh Kha người nước Vệ, ông Vũ không hề sợ hãi khi phải đối mặt với số
phận của
mình. Những nhân vật huyền thoại này đã làm mọi thứ để được đối mặt với
số
phận, để hoàn thành sứ mệnh của mình trong cuộc đời này.
*
Mặc Lâm: Tại
sao chị thích lập những hình ảnh ẩn dụ từ bài thơ này sang bài thơ khác
trong
khoảng thời gian rất xa. Chẳng hạn như: (2002) “Chân của anh em giấu
vào giầy
nhỏ / anh sẽ theo em đi thật là xa / khi trở về dẫu tuổi gầy sương
tuyết / bốn
bàn chân sẽ làm ấm thềm nhà” và mới đây, năm 2006 ”Anh đang ở trong đôi
giầy /
em bỏ giầy ra / tôi quăng giầy thật xa / còn hai bàn chân nhỏ / hai bàn
chân trần
/ đặt trên mặt đất / mỗi ngón chân như một câu thơ / làm sao vứt / Giầy
có phải
là hình ảnh quen thuộc trong trí nhớ hay chỉ đơn thuần vì cái “form”
của chúng
đã thuyết phục chị?
Trần Mộng
Tú: Anh đọc kỹ thật. Tôi không có ý dùng ẩn dụ này nọ đâu. Những hình
ảnh mà
anh nêu ra đó là những hình ảnh rất thân mật, rất gần gũi của đời sống
hàng
ngày. Tôi nhìn ngắm chúng hàng ngày. Tôi yêu mến chúng. Tôi thích dùng
những
hình ảnh rất thân mật của đời thường trong thơ.
Sẵn trước mắt
tại sao mình không dùng lại đi tìm đâu xa, phải không anh? Chân tay,
giầy dép,
khăn áo, thân thể là những thứ mình chạm vào thường ngày, mình cho nó
là thơ
thì nó thành thơ. Năm 2002 hay 2006 hay năm 2050 chăng nữa thì giầy hay
áo vẫn
thơ như thường.
TMT trả lời
RFA
Chỉ là 1 tình
cờ, hết sức tình cờ, bài thơ Người
Phi Thường, hình như được viết ra, để nhắm vào
trường hợp ông con trai Huy Cận!
Tuyệt cú mèo!
Nhất là câu: Tôi mê cái từ
“tàn cuộc”.
1944: Học chơi cờ với Cú
Cách Mạng Mùa Thu?
2011: Bịt mắt, chơi một lúc, mấy cuộc cờ?
Gấu cứ thử tưởng
tượng ra cái cảnh bà mẹ ông Cù Huy Hà Vũ, vào cái năm xẩy ra trận đói
khủng khiếp
đó, lấy vạt áo che cho con mình khỏi nhìn thấy cảnh người chết như rạ,
nằm la liệt
trên đường phố Hà Nội…
“Nhiều người
nói rằng, phiên tòa tuyên bố “xử công khai” thực ra là một cái bẫy dụ
người ta
đến để rồi bắt giam.”
Võ Thị Hảo
Ðúng như thế.
Cũng như thế, là đòn 10 ngày cải tạo, đánh lừa tất cả lũ sĩ quan Ngụy.
Mười ngày
phù du, xong, về, là xúm nhau xây dựng cái nhà Mít bằng trăm bằng ngàn
trước đó.
“ Có cố tình
làm mất thể diện quốc gia, cũng khó mà làm hơn mấy ông bà này. ..Không
thể lấy
sự cẩu thả và sự sợ hãi làm phương pháp bảo vệ chế độ”!
NBC
Thể diện quốc
gia đâu bằng lý do hiện hữu, không phải của quốc gia, không phải của
chế độ, mà
của cái giống người có tên là Mít.
Khi ăn cướp
Miền Nam, lấy đi cái “giấc mộng thực” về 1 vòng tay lớn, là VC đã lấy
đi cái lý
do hiện hữu của người Việt.
Một Lê Huy Hà
Vũ, làm sao so với cả 1 miền đất nước?
Ông NBC, bà
VTH này, khi suy nghĩ, và viết ra, những gì liên quan đến đất nước, thì
đều suy
nghĩ, viết ra, bằng 1 nửa bộ óc. NQT
“Cái tay”
Nobel Toán người Mít làm Gấu nhớ đến Shakarov, mà TV đã từng giới thiệu
nhân đọc
1 bài viết về ông trong Quê Hương Tưởng Tượng
của Rushdie. Ông Nga này rất yếu ớt, hơi tí là nhè, như Gấu còn nhớ
được, nhưng
khi đụng trận [bị lôi ra để đóng vai ngôn sứ, thiên sứ, thiên chức…],
thì lại
thật là dũng cảm. Ðể Gấu gõ Google, coi bài đó còn không, và cũng lúc,
giới thiệu
bài viết mới về ông, mà TV đã hăm he dịch hoài, nhưng vờ hoài.
Cái tít bài
viết của NBC là cũng đầy ngụ ý. Ông tính chơi chữ. Thường thì đám ly
khai sợ hãi
bị vấp ngã, thí dụ như NBC, sợ, nên không dám đứng giữa Ba Ðình, nhìn
về phía Xác
Bác Hồ, Lăng Liên Xô, mà phán, dẹp chế độ, dẹp Cờ, dẹp Lăng, dẹp Bộ Lạc
[cờ lăng,
clan] Mít Ðỏ, Bắc Kít độc ác như rắn như rết, làm lại từ đầu, từ... cái
khúc cuối Trăm
Năm Cô Ðơn, cố kiếm ra 1 thằng bé Mít không đuôi.
Nhưng, ở đây, là đám VC sợ hãi
cố bảo vệ chế độ, chứ không phải đám ‘rân chủ’ [chữ của đám VC trên
net] sợ vấp
ngã.
Nói về đám ly khai sợ "vấp
ngã" [chữ của thi sĩ kiêm nghề cớm NTH], tờ Người Kinh Tế, khi tưởng niệm Solz,
đi 1
đường thật là tuyệt.
Chép ra đây, để tặng đám suy tư bằng 1 nửa bộ óc.
“Vào
thời kỳ Xô viết, nói sự thực đòi hỏi can đảm lớn, và đem đến những hậu
quả đáng
sợ. Chính vì lý do đó, ly khai chống đối chẳng có bao, và thuộc đám trí
thức hạng
nặng, như Shakarov, người làm ra bom nguyên tử
cho Liên
Xô. Ngày nay, sợ hãi không hẳn đã là cái rọ bịt miệng trí thức. Nói sự
thực tuy
vẫn nguy hiểm, như vụ làm thịt nữ ký giả Anna Politkovskaya vào năm
2006, cho
thấy. Nhưng ẩn núp ở đằng sau sự im lặng của nhiều người thì không phải
là sự sợ
hãi mà là ‘appetite’: Một ‘appetite’ [sự ngon miệng] phủ lên bổng lộc,
và địa vị
mà hầu hết đám trí thức ‘enjoy’, [thưởng thức], như là tà lọt trung
thành của hệ
thống Xô Viết.”
Nguồn
Về Sakharov
I conclude with some words of
Leszek Kolakowski that, I am
convinced, reflect Andrei Sakharov's view: "No victory is
irreversible,
no defeat is definitive. That is what makes life worth living."
The New York Review 13 Jan 2011
Note: Khi NBC được Nobel Toán,
GNV đã mơ mòng tưởng tượng ra, một
cú tương tự như trên.
“Chàng” đứng giữa Bắc Bộ Phủ, Ba Đình, Lăng Bác H… dõng dạc cảnh cáo:
"Không có chiến thắng nào mà
không có thể đảo ngược, không có
thất bại nào là chung quyết. Đó là điều làm cho cuộc đời xứng đáng để
cho chúng
ta sống, nó".
Ui chao, mừng hụt! NQT
Thích
Học Toán
[Không
biết có phải tại Gấu không, nhưng ông Nobel Toán khoá mẹ trang của ông
rùi!]
Tôi vốn không đặc biệt hâm mộ ông
Cù
Huy Hà Vũ. Những lý lẽ ông đưa ra tôi cũng không thấy có tính thuyết
phục đặc
biệt. Nhưng với những gì xảy ra gần đây, ông thể hiện mình như một con
người
không tầm thường. Như Hector người thành Troy, như Turnus người Rutuli
hay như
Kinh Kha người nước Vệ, ông Vũ không hề sợ hãi khi phải đối mặt với số
phận của
mình. Những nhân vật huyền thoại này đã làm mọi thứ để được đối mặt với
số
phận, để hoàn thành sứ mệnh của mình trong cuộc đời này.
Đối diện với ông Vũ là những người
bắt
ông bằng hai bao cao su đã qua sử dụng, là phiên tòa nửa công khai, nửa
bí mật
xảy ra ngày hôm qua và là ông quan tòa từ chối thực hiện thủ tục tố
tụng để
tránh tranh luận về nội dung những bài viết, chứng cớ về những việc
được cho là
vi phạm pháp luật của ông Vũ. Có cố tình làm mất thể diện quốc gia,
chắc cũng
khó mà làm hơn mấy ông bà này. Nghĩ mãi tôi cũng chỉ tìm ra hai cách lý
giải.
Khả năng thứ nhất là họ muốn làm nhanh cho xong việc. Trong trường hơp
này, họ
rất xứng đáng được truy cứu trách nhiệm. Khả năng thứ hai là ông quan
tòa sợ
phải đối mặt với những lý lẽ của ông Vũ. Trong trường hợp này, rất nên
tạo điều
kiện cho ông ta chuyển sang công tác khác, phù hợp hơn. Không thể lấy
sự cẩu
thả và sự sợ hãi làm phương pháp bảo vệ chế độ.
Note: Bài viết này, GNV
đọc trên Diễn Ðàn
Thế Kỷ [tên kêu như chuông!], thật tuyệt cú mèo, vì bạn
đọc ngược cũng
được, mà xuôi cũng được.
Ðây là kiểu đọc ngược:
Tôi vốn đặc biệt hâm mộ
Nobel Toán
NBC, với cái đốn ngộ của ông, nối kết hai ngành toán học từ
trước tới
nay không thể nối kết, chẳng ai thấy có gì mắc mớ, ở hai bên sông, hai
bên núi,
cứ như Trường Sơn Ðông, Trường Sơn Tây, thế mà ông ném ra 1 cây cầu nối
chúng lại,
thế mới thiên tài.
Nhưng cái vụ ông đứng trước tòa án lịch
sử Mít thì thật là nhảm, thật là nhát, và thật là khôn.
Thật là thuyết phục đặc biệt.
Trong cái vụ đọc ngược
này, chỉ thiếu
1 cái condom đã xài rồi!
Chán thật!
NQT
Tuy nhiên, thật là tình
cờ,
hi hữu, bạn
phải đọc cả hai ấn bản trên, cùng với bài thơ sau đây, của Zagajiewski,
“Chủ
nghĩa thần bí dành cho mấy kẻ mới bắt đầu”, thì mới đã.
Cực đã!
Tập thơ này, G mới vớ được, trong 1 tiệm sắp
sập tiệm, mua 1 biếu 1.
G chỉ chọn được 1.
Anh chủ nói, còn 1 cuốn
free, đâu, G trả
lời, không làm sao kiếm ra.
Anh ta bật
cười.
Mysticism
for Beginners
The day was
mild, the light was generous.
The German
on the cafe terrace
held a small
book on his lap.
I caught
sight of the title:
Mysticism
for Beginners.
Suddenly I
understood that the swallows
patrolling
the streets of Montepulciano
with their
shrill whistles,
and the
hushed talk of timid travelers
from Eastern, so-called Central Europe,
and the
white herons standing-yesterday? the day before? -
like nuns in fields of rice,
and the
dusk, slow and systematic,
erasing the outlines of medieval houses,
and olive
trees on little hills,
abandoned to the wind and heat,
and the head of the Unknown Princess
that I saw and admired in the Louvre,
and stained-glass
windows like butterfly wings
sprinkled with pollen,
and the little nightingale
practicing
its speech beside the highway,
and any journey, any kind of trip,
are only mysticism for beginners,
the elementary course, prelude
to a test
that's been
postponed.
Chủ
nghĩa thần bí dành cho mấy tay mới bắt đầu
Ngày dịu dàng, ánh sáng rộng
lượng
Một anh Ðức mũi lõ ngồi ở sân quán cà phê
để 1 cuốn sách ở trên đùi
Tôi thoáng nhìn thấy cái tít
Chủ nghĩa thần bí cho
những người mới bắt đầu
Bất thình lình tôi hiểu, đám nhạn
đang tuần hành trên đường phố Montepulciano,
với những tiếng huýt sáo chói tai,
và những lời nói vội vàng của những người du lịch e thẹn
từ phía Ðông, nơi được gọi là Trung Âu
và những con cò trắng đứng – hôm qua? ngày trước đó? -
như những vì nữ tu trong những cánh đồng lúa,
và bóng tối chạng vạng cuối ngày, chậm rãi, tuần tự
xóa đi những đường viền của những căn nhà thời Trung cổ
và những cây ô liu trên những đồi nhỏ
bỏ mặc cho gió và nóng
và cái đầu của vị Công Chúa Vô Danh
mà tôi chiêm ngưỡng nhìn tại
Viện Bảo Tàng Louvre,
và những cửa sổ kính màu giống như những cánh bướm
điểm phấn hoa
và con chim sơn ca nhỏ tập
bài diễn văn của nó ở bìa xa lộ
và một chuyến đi, bất cứ kiểu đi nào
thì đều là 1 thứ thần bí dành cho những kẻ mới tập,
một giáo án bậc tiểu học, được soạn trước, cho một cuộc thi
thử
được dời ngày
This review
is from: Mysticism for Beginners: Poems (Hardcover)
Zagajewski's
work is a treasure - poems here are the best to come from Europe in a
long
time. This is a major poet who has no equals in his generation. The
mysticism
here is how to be a human being. Though it comes from Europe, this book
is
about ourselves. We should bow our heads for this is the voice of
Orpheus
speaking.
[lấy trên
net]
Cái chủ
nghĩa thần bí ở đây là, làm thế nào là người. Mặc dù từ Âu Châu, nhưng
tập thơ
này là về chúng ta... đây là tiếng nói của Orpheus...
*
Bài thơ sau đây,
dành cho chúng ta, sau khi đọc ba bài trên.
Whatever
Happened
Whatever
happened had already happened.
Four tons of death lie on the grass
and dry
tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever happened will stay with us
and with us
will grow and diminish.
But we must
live,
the rusting
chestnut tells us.
We must live,
the locust
sings.
We must
live,
the hangman
whispers.
Chuyện xẩy
ra
Chuyện xẩy
ra thì đã xẩy ra.
Bốn tấn người
chết nằm trên cỏ
Và những giọt
nước mắt khô queo
lì lợm bám mãi vào những chiếc lá herbarium
Cái gì xẩy
ra thì sẽ ở với chúng ta
Và cùng chúng
ta, sẽ triển nở, và sẽ lụi tàn.
Nhưng chúng
ta phải sống,
Cây hạt dẻ nâu
bảo chúng ta.
Chúng ta phải
sống,
Con châu chấu
hát.
Chúng ta phải
sống,
Tên đao phủ
thì thầm.
I am neither
here nor there
Never can I
be at home
Water claims
me not, nor air,
Nor the
light of fairy foam
On the hills
I cannot pass
Clouds are
low
For me to
roam
As the sun
upon the grass,
As the water
touched by air
Stirs life
shadows in a glass,
I shall come
where you are fair,
Quick, look
up and see me there
"A halo
of deep quiet in the wind/
A twilit
place for me amid the dark/
A church
without a god, between the clouds".
TLS
25.3.2011
Như Hector
người thành Troy, như Turnus người
Rutuli hay như Kinh Kha người nước Vệ, ông Vũ không hề sợ hãi khi phải
đối mặt
với số phận của mình. Những nhân vật huyền thoại này đã làm mọi thứ để
được đối
mặt với số phận, để hoàn thành sứ mệnh của mình trong cuộc đời này.
NBC
Ngoài “Turnus
người Rutuli”, Gấu thực
sự chưa hề nghe qua, những tay còn lại, Gấu không lần
ra sự liên hệ giữa họ với ông Cù Hậu Duệ. Giá mà NBC ném thêm vài cây
cầu nữa
thì đỡ khổ.
Bởi
vì rõ ràng NBC cũng 1 thứ nhân vật huyền thoại như thế. Ông được
ông Trời
cho xuống đời [địa linh nhân kiệt, chỉ có thể ra đời từ cái nôi Bắc Kít
toàn đẻ ra thần đồng, nhất là thần đồng toán học, nhờ con sông Hồng, và
những cơn lũ lụt
của nó…], để làm cái việc đối mặt với số phận, để hoàn thành sứ mệnh
trong cuộc
đời này.
Giả như khi ông cầm cái bửu bối Nobel Toán, đứng giữa Ba Ðình, Mỹ Ðình
gì gì đó, mà làm như Cù Hậu Duệ đã làm, thì hay biết mấy!
Cái
này, Mít cũng thường nói rồi, chân mình thì đầy kít, mà cứ nhè chân
người mà ngửi! NQT
Bọn tao
Lê Đình Nhất
Lang
Bọn tao là một
khối đặc
Bọn tao già
đi nhưng không lệ thuộc vào một niên đại
Bọn tao
không chấp nhận sự thông suốt
Bởi sự thông
suốt đe dọa tính đặc của bọn tao
Bọn tao ngăn
cản mọi sự túa ra
Bọn tao bưng
bít
Bởi sự túa ra
làm cho bọn tao hở
Bọn tao chống
mọi lực đẩy
Bọn tao trì
kéo
Bọn tao kết
chùm
Bọn tao vinh
danh quán tính và thần thoại quá trình quánh
Bọn tao hút
hết mọi điều hiển nhiên vào chất ruột đen kịt
Từ lớp bụi mỏng
phập phù của chứng cứ
Cho tới những
hạt sạn gân gổ của phản biện
Trộn chúng
vào làm ruột bọn tao đen thêm
Bọn tao xử
thế bằng cách lăn tròn
Đó là truyền
thống của bọn tao
Lăn tròn làm
tất cả nhỏ đi
Nhưng tất cả
sẽ không phát hiện ra sự nhỏ đi
Cho nên làm
gì có sự nhỏ đi
Bọn tao biết
trước sau rồi cũng bị toát hơi
Hoặc nhão ra
dưới sức vặn khổng lồ của những viễn kiến nhân loại
Bọn tao nghĩ
tới chuyện phơi khô
Để dành và
không bao giờ rửa
Không bao giờ
được rửa
4/2011
NĐT khen bài
thơ này “tuyệt tác” là không quá lời! Đây là kết quả của trầm tư dài
hơi về một ám ảnh,
hóa thành cái tứ “KHỐI ĐẶC” được triển khai thành các câu thơ hàm súc
đan dệt
quanh một ý tượng chủ chốt ( dùng từ chuyên môn thi học là extended
metaphor).
LĐNL đã chứng
minh qua bài thơ masterpiece ngắn này một điều căn bản về sáng tạo thi
ca, một
điều mà các người thích lý lẽ hoặc ngôn thuyết ồn ào về cách tân và thử
nghiệm
thường bỏ quên là công phu thâm hậu của một thi sĩ sẽ được minh chứng
bằng một
bài thơ nhất dĩ quán hạ trong đó tư tưởng , hình tượng, cảm xúc được
kết tinh một
cách tuyệt diệu khiến các độc giả có trình độ phải tấm tắc đọc đi đọc
lại, mỗi
lần đọc đều có khám phá mới về
thi phẩm.
Có ý kiến
cho rằng bài thơ này ám chỉ một tập đoàn đảng trị nào đó – điều này
không sai nhưng có thiếu
sót. Loại thơ ẩn dụ vốn đa nghĩa với nội hàm mở tùy theo kinh nghiệm và
cách diễn giải
của từng người đọc.
CHÂN PHƯƠNG/ DM
*
Bài thơ trên là 1 bài thơ
chính trị, tố cáo chế độ, và như thế, thuộc loại thơ ám dụ,
allegory, không phải ẩn dụ, metaphor; cả hai, đều là những hình tượng,
figures, tu
từ, nhưng
ám dụ “yếu” hơn nhiều, và không được coi như là 1 “hình ảnh thơ”, ở một
số thi
sĩ.
Nhất là thứ ám dụ cởi truồng.
Khối Ðặc so với Ông Bình Vôi, thua xa.
Vậy mà cũng xúm lại mà nức nở, quái đản thật.
Ðể minh họa sự
thấp kém của ám dụ, so với ẩn dụ, thử lấy một lời nhạc TCS, “từ vườn
xưa
bước về/bàn
chân ai rất nhẹ/tựa hồn những năm xưa”, nó là 1 ẩn dụ đến Borges mà còn
phải trầm
trồ đi một đường nắc nỏm, khi Gấu nhờ ông vinh danh BHD giùm, (1) nhưng
khi được nhà thơ NDT dùng thủ pháp
nhạo
nhại, biến thành ám dụ, chỉ nhắm mục đích
chửi chế độ, mới thảm hại làm sao.
Còn cái vụ "ẩn
dụ mở rộng", "ẩn dụ banh lớn mãi ra", extended metaphor, xin để kỳ tới bàn tiếp. NQT
(1)
She walks in beauty, like the
night
Byron: Hebrew Melodies (1815):
Nàng bước trong cái đẹp, như đêm
Borges phán:
Để chấp nhận dòng trên, người đọc phải tưởng tượng ra một em, cao, tối,
tall,
dark, bước đi như Đêm, và Đêm, đến lượt nó, là 1 người đàn bà cao, tối,
và cứ
thế, cứ thế.
Tưởng tượng đẩy tưởng tượng,
câu "hót" BHD, thần sầu,
"không phải của GNV", làm nhớ đến lời nhạc thần sầu của TCS, trong Phôi
Pha:
Từ vườn khuya bước về
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa.
BHD ở ngoài đời, cao, đen, nhập
vào với đêm, y chang lời nhạc của
TCS mô tả, những lần "bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa!"
*
Ui chao, GNV bữa nay, lôi bài
viết của Borges, post dưới đây, ra
đọc lại, mới khám phá ra 1 cái lỗi trầm trọng, là bỏ qua cái ‘tiểu chú’
của
ông:
Baudelaire
writes, in "Recueillement":
"Entends, ma chère,
entends,
la douce Nuit qui marche"
[Hear, my darling, hear, the sweet Night who
walks]. The silent walking of the night should not be heard.
Soure
Kim Dung, trong Lục Mạch
Thần
Kiếm có một minh họa thật tuyệt, có thể áp dụng ở đây, để cho thấy sự
khác biệt
giữa ám dụ và ẩn dụ. Tương truyền không ai có thể sử dụng được 72 tuyệt
kỹ võ công
của Thiếu Lâm, ngoại trừ Đạt Ma Tổ Sư. Khi Cưu Ma Tri tới Thiếu Lâm
thách đấu,
bốc phét, rành 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm, và để chứng tỏ, đã sử dụng chiêu
Niêm Hoa
Chỉ đả thương thần tăng Huyền Độ. Sự thực, CMT sử dụng Tiểu vô tướng
công, tức
nội công của Đạo gia, để ra chiêu này, không phải là võ công của Phật
môn. Vị sư
già chuyên quét dọn Tàng Kinh Các sau đó giải thích, bề ngoài thì giống
nhau,
nhưng trong cái chi ly của nó, thì không phải. Những ông thi sĩ Mít của
chúng
ta, đại khái, cũng đã lầm như vậy, và coi ám dụ, ẩn dụ thì cũng giống
nhau tuốt
luốt! Bởi thế mà nhà thơ NDT mới dám nhại lời nhạc của TCS, làm ra
những bài vè
chẳng ra cái thể thống gì hết, chỉ làm trò cười cho VC.
Có hai món hình tượng tu
từ
mà thi sĩ “mê”, thì là ẩn dụ, và hoán dụ, metaphor and metonymy, theo
Roland
Barthes, trong bài viết Món Quà Tuyệt Vời.
Không có ám dụ.
Những
phát giác quan trọng nhất, về
thơ, của Jakobson, qua Roland Barthes, mà chúng ta có được:
Jakobson
đã ôm lấy Văn chương bằng
ba cách.
Trước tiên, ông tạo ra, ngay chính bên trong môn ngôn ngữ học, một bộ
phận đặc
biệt, "Thi học"; bộ phận này (và đây là điều mới mẻ trong việc làm
của ông, phần đóng góp lịch sử của ông), ông không định nghĩa nó, từ
Văn chương
(như thể Thi học vẫn còn phụ thuộc vào 'thơ tính' hay vào 'thi ca'),
nhưng từ
nghiên cứu những nhiệm vụ của ngôn ngữ: mọi hành động nói
(speech-act), nhấn
mạnh tới hình dạng của thông điệp, là thơ; từ đó, ông có thể, "khởi
từ
vị trí ngôn ngữ học", gia nhập, tiếp nối những dạng thức sinh động nhất
(và thường là đầy chất giải phóng), của Văn chương: quyền hàm hồ
của nghĩa
(meanings), hệ thay thế, system of substitutions, mã hình tượng, code
of
figures (ẩn dụ và hoán dụ, metaphor and metonymy)
.…
“nghĩa
của ký" (a sign's
meaning), chỉ là sự phiên dịch của nó (its translation) vào một ký hiệu
khác,
nó xác định "nghĩa", không "một lần rồi xong", nhưng là một
mức độ "nghĩa" khác (which defines meaning not as a final signified
but as "another" signifying level).
Món quà tuyệt vời
*
Những phát giác quan trọng, chúng ta cần, ở đây, là:
1. quyền hàm hồ của “nghĩa” [meaning].
2. nghĩa của một ký hiệu ở trong sự chuyển dịch của nó, vào một ký hiệu
khác.
Thành
thử, lấy thí dụ, khi Phạm Duy
làm bản nhạc của ông, về lá diêu bông, và Hoàng Cầm nói, ông không hiểu
lá diêu
bông của tôi, như vậy không có nghĩa, PD hiểu sai HC.
Đã có sự chuyển dịch về nghĩa, ở ký hiệu 'lá diêu bông', chúng ta có
thể nói
như vậy. Đẩy thêm một mức, PD không có ý định "hiểu" Hoàng Cầm. Ông
đẩy [chuyển dịch] lá diêu bông của Hoàng Cầm vào "hệ thay thế", là hệ
âm nhạc, thí dụ.
Ông ban cho lá diêu bông một nghĩa mới, nghĩa âm thanh.
[Note: To K. Art2all nhân vụ Lá Bâng Khuâng].
Ẩn dụ mới về Lá Diêu Bông
|