|
Ngô
Bảo
Châu, Nobel Toán
Với Nobel văn
chương, có hai sự kiện thật quan trọng, đi kèm cùng với nó. Vòng hoa
đầu tiên,
tức thông báo dành cho báo chí của Viện Hàn Lâm, qua anh thư ký của Uỷ
Ban
Nobel.
Và sau đó, tất
nhiên, bài diễn văn Nobel của đích thị xừ luỷ, hay, ‘ẻn’!
Gấu quả thực
có ý chờ diễn từ Nobel Toán của thiên tài toán học Mít.
Và quả
thực quá ngỡ ngàng.
Đọc, có vẻ như ông suy nghĩ không giống.. Gấu. Hoặc là ông ta
chưa từng đặt ra cho ông một vị trí như… của Gấu, của những người mà
qua họ là
cái cảm giác mà Linda Lê gọi là ‘la tentation du déni’. Có vẻ như ông
là đứa
con cưng của miền đất đó, chưa từng có cảm giác bị nó hất hủi đến phải
bỏ chạy,
nhiều lần, nếu chỉ tính từ Nguyễn Hoàng ngày nào…
Thích
Học Toán
Mỹ Đình
Đây là toàn văn bài phát biểu ở Mỹ
Đình
Kính thưa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,
Kính thưa Chủ tịch Hội đồng học hàm Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân
Kinh thưa các vị khách quốc tế,
Kính thưa các thầy các cô giáo,
Kính thưa các quí vị, các đồng nghiệp,
Các bạn sinh viên, học sinh thân mến,
Trước hết tôi xin bầy tỏ tấm lòng
cảm
kích của tôi với nhà nước và chính phủ đã tổ chức buổi lễ mừng công hôm
nay với
một tấm lòng trân trọng và chân thành. Tôi cũng thực sự cảm động khi
nhận thấy
niêm vui, niềm tự hào của giải thưởng Fields đã được chia sẻ với đông
bào khắp
nơi trên cả nước. Bắt gặp sự hân hoan, niềm tự hào trong mắt các bạn
học sinh,
sinh viên có mặt trong buổi lễ ngày hôm nay, làm sự hân hoan, niềm tự
hào của
cá nhân tôi được nhân lên nhiều lần.
Lần đầu tiên, giải thưởng Fields,
giải
thưởng quan trọng nhất của toán học được trao cho một nhà toán học xuất
thân và
có quốc tịch của một nước đang phát triển. Sự kiện này có thể sẽ tạo
tiền đề
cho một sự thay đổi lớn, về chất, cho toán học Việt Nam nói riêng, công
tác
nghiên cứu khoa học nói chung. Ít nhất đây là cái mà cá nhân tôi, và
rất nhiều
nhà khoa học và nhà quản lý khoa học có tâm huyết, rất hy vọng. Nhưng
trước khi
nói về tương lai, tôi nghĩ chúng ta nên điểm lại quá khứ, để tìm hiểu
xem cái
gì là nguyên nhân, những nhân tố tích cực nào đã đưa đến thành công
ngày hôm
nay.
Tôi sinh ra trong chiến tranh chống
Mỹ
và lớn lên trong hoàn cành kinh tế khó khăn của thời kỳ hậu chiến. Tuy
không ai
thích thú chuyện ôn nghèo kể khổ, ta vẫn không thể không nhớ lại những
yếu tố
lập thành con người ta, cả về thể xác lẫn tinh thần. Ngay khi còn bé,
tôi đã
hiểu rằng bố mẹ phải nhịn ăn, nhịn mặc để nuôi tôi khôn lớn. Gần hai
mươi năm
trở lại đây, tôi sinh sống ở nước ngoài, rất lâu ở Pháp, gần đây ở Mỹ.
Tiếp xúc
nhiều với cuộc sống ở nước ngoài, tôi có hiểu ra một điều rằng, tuổi
thơ của
tôi và các bạn cùng lứa tuổi, có thể thiệt thòi hơn về chuyện ăn,
chuyện chơi,
nhưng về chuyện học tập thì hoàn toàn không, thậm chí theo một nghĩa
nào đó,
tôi còn có nhiều điều kiện thuận lợi đặc biệt. Sinh ra trong một gia
đình trí
thức truyền thống, việc học hành của tôi luôn là ưu tiên số một của bố
mẹ. Có
lẽ vì bố mẹ đều là những nhà khoa học, niềm ham mê khoa học, giá trị
tuyệt đối
của tri thức đã ngấm vào máu tôi từ lúc nào mà không biết. Trong hầu
hết các
gia đình Việt Nam, việc học hành rất được coi trọng, nhưng tình yêu tri
thức,
yêu khoa học, thì theo ý kiến chủ quan của tôi vẫn là chuyện hiếm.
Điều kiện thuận lợi đặc biệt nữa
cần kể
đến là tuổi học trò của tôi đã được cộng đồng toán học Việt Nam nuôi
dưỡng. Tôi
hiểu cộng đồng toán học theo nghĩa rộng, từ thầy Tôn Thân giáo viên
chuyên toán
trường Trưng Vương, đến thầy cô khối chuyên toán A0 trường Đại học tổng
hợp,
cho đến nhiều nhà toán học trẻ vào thời đó đã dạy tôi với tất cả sự tâm
huyết
của mình, hoàn toàn vô tư trong hoàn cảnh kinh tế vô cùng khó khăn của
lúc ấy.
Tôi không thể kể hết tên các anh, các thầy nhưng xin lấy ví dụ thầy
Phạm Hùng
khối chuyên toán. Tôi đến học thầy trong căn buồng 8 mét vuông, lúc nào
cũng
nghi ngút mùi thuốc bắc vì thầy hay đau ốm. Nhưng thù lao duy nhất thầy
Hùng
nhận từ bố mẹ tôi đôi khi là cân đường, đôi khi là vỉ thuốc bổ. Trong
cộng đồng
toán học Việt Nam, việc người đi trước nắm tay người đi sau là một
chuyện tự
nhiên . Gần đây, do có cọ sát với một số ngành khoa học khác, tôi mới
sực hiểu
ra rằng, tinh thần thương yêu, đoàn kết của cộng đồng toán học Việt Nam
là một
cái gì rất hiếm hoi, đáng quí. Khoa học của nước ta nói chung, và toán
học nói
riêng, chưa có một vị trí xuất sắc trên thế giới, nhưng nếu không có
tinh thần
đoàn kết, thương yêu nhau, cùng với tinh thần nghiêm khắc, không bao
che cho
những yếu kém về học thuật, thì toán học Việt Nam cũng như các ngành
khoa học
khác, sẽ không có bất kỳ một cơ hội nào để tiến bộ.
Cái may mắn đặc biệt tiếp theo là
việc
được chính phủ Pháp cấp học bổng để sang Pháp học đại học. Là một sinh
viên
nước ngoài, nhưng trong suốt quá trình học tập ở Pháp, chưa lần nào tôi
cảm
thấy được kém ưu tiên hơn so với sinh viên Pháp. Ngược lại, chính ông
trưởng
khoa toán trường Sư phạm Paris nơi tôi học, đã khuyên tôi đi làm luận
án tiến
sĩ với GS Laumon, một trong những nhà toán học Pháp xuất sắc
nhất, và
thuyết phục ông Laumon nhận tôi làm học trò. Ông Laumon là người đã
giúp tôi từ
một cậu sinh viên thích học toán trở thành một nhà toán học chuyên
nghiệp. Ông
là một người thầy tuyệt vời, trong số 6, 7 người học trò của ông, tính
đến nay
đã có hai giải thưởng Fields và gần đây nhất, cô học trò trẻ nhất của
ông đã
được phong làm giáo sư đại học Harvard khi cô chưa đầy 30 tuổi. Trưởng
thành
trong nhóm khoa học do ông Laumon và một vài đồng nghiệp của ông lãnh
đạo,
không chỉ có tôi và anh Lafforgue, người được giải thưởng Fields vào
năm 2002,
còn có rất nhiều nhà toán học trẻ xuất săc khác. Ôn lại thời gian này,
tôi hiểu
được sự quan trọng và sức mạnh của những nhóm nghiên cứu khoa học, kết
hợp
những nhà khoa học có tên tuổi, có kinh nghiệm, có hiểu biết trong
nhiều lĩnh
vực khác nhau, với những sinh viên nghiên cứu sinh tràn trể hăng say
khoa học.
Tôi thực sự hạnh phúc khi giải thưởng Fields tuy trao cho cá nhân tôi,
nhưng
cũng đem lại một sự vinh dự xứng đáng cho cộng đồng toán học Pháp.
Từ hơn ba năm nay, tôi có cái may
mắn
hiếm có được làm việc ở Viện nghiên cứu cao cấp ở Princeton. Viên được
thành
lập từ những năm 30 và là nơi Albert Einstein làm việc hơn 40 năm.
Ngoài một số
nhỏ những giáo sư cơ hữu của viện, hầu hết là những nhà toán học, vật
lý hàng
đầu của thế giới, viên thường xuyên có rất nhiều những nhà khoa học trẻ
đến làm
việc trong thời gian từ một đến hai năm, sau khi bảo vệ luận án tiến
sĩ. Ngoài
nguồn hỗ trợ tài chính rất lớn từ chính phủ Mỹ cũng như từ các tổ chức
tư nhân
và các cá nhân, cách tổ chức công việc hiệu quả của Viện là cái rất
đáng để học
tập. Sau 50 năm, tức là một khoảng thời gian không lớn so với lịch sử
khoa học,
Viện đã trở thành lá cờ đầu của toán học và vật lý lý thuyết và đã đóng
một vai
trò rất lớn cho sự hình thành của trường phái toán học Mỹ mà vào thời
điểm hiện
tại, vẫn đóng vai trò số một không thể bàn cãi. Nếu không có thời
gian
làm việc ở Princeton, rất có thể công trình Bổ đề cơ bản sẽ chưa hoàn
thành vào
thời điểm này. Ngoài ra, nhờ vào sự tiếp xúc với những nhà toán học
thiên tài
như Langlands, tôi đã xác định được rõ ràng chương trình nghiên cứu
tiếp theo
của mình sau khi Bổ đề cơ bản đã hoàn thành.
Từ trải nghiệm ở Pháp cũng như ở
Mỹ,
tôi hiểu ra rằng môi trường học thuật lành mạnh là điều kiện tiên quyết
cho sự
trưởng thành của các nhà khoa học trẻ. Môi trường khoa học lành mạnh
chính là
nơi học thuật và đạo đức trong học thuật được luôn được xếp ở vị trí
đầu tiên,
cùng với sự bình đẳng giữa các nhà khoa học, không phân biệt già trẻ,
cũng như
sự tự do tuyệt đối trong nghiên cứu khoa học.
Cuối cùng, tôi xin nhắc đến một con
người, một nhà khoa học, và một người bạn lớn của Việt Nam. Khi còn là
sinh
viên Henri Van Regemorter đã tham gia phong trào đấu tranh của sinh
viên Pháp
phản đối chính sách thực dân ở Đông dương. Sau này, ông đa qua Việt Nam
nhiều
lần và trở thành một người bạn thân thiết của cố thủ tướng Phạm Văn
Đồng và đại
tướng Võ Nguyên Giáp. Ông là người sáng lập ra Ủy ban hợp tác khoa học
kỹ thuật
Pháp Việt. Tôi có cái may mắn được sống trong ngôi nhà của ông nhiều
năm và học
được rất nhiều từ con người của ông. Ông không bao giờ nói dài như tôi
đang
làm, nhưng qua việc làm của ông, tôi hiểu rằng, nhiệm cụ của nhà khoa
học không
chỉ đơn thuần là làm chuyên môn, mà còn bao gồm việc đem đến cho những
người
trẻ tuổi, không kể đến nguồn gốc xuất sứ, không nhất thiết là người
thân, cái
cơ hội để tiềm năng của họ được phát triển, trong khoa học và rộng hơn
là trong
cuộc sống. Đấy là điều tôi muốn nói với những nhà khoa học Việt nam,
những nhà
quản lý, và với tất cả những người làm cha, làm mẹ.
Hiện trạng khoa học và giáo dục của
chúng ta chưa được như chúng ta mong đợi, nhưng ý thức của mỗi người và
sự cố
gắng của nhà nước, của chính phủ qua những quyết sách đúng đắn và dũng
cảm,
chính là tiền đề cho một sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực.
Cuối cùng, xin chúc các bạn trẻ
đang
lắng nghe tôi có đủ niềm tin và sự say mê để đi hết con đường mà mình
đã chọn.
Xin cảm ơn sự chú ý của quí vị.
Khuất phục
thiên nhiên
with 53 comments
Đến ngày 24 tháng 11 tới là tròn
bảy năm. Anh bạn trẻ của
tôi, Henri, mất khi mới bảy mươi bảy tuổi. Dưới đây là bản dịch một bài
tôi
viết bằng tiếng Pháp cho quyển sách Henri Van Regemorter (1925-2002) Parcours
d’un militant
biên tập bởi Alain Tessonière và Nicole Simon-Cortes,
nhà xuất bản l’Harmattan.
Bức ảnh dưới đây chụp ở Meudon, nhà
Henri, vào dịp cụ Ngụy Như Công Tum sang thăm Paris trong thời gian
chiến tranh
chống Mỹ. Cụ Tum là người cầm máy ảnh. Henri đứng bên trái cụ Tum. Phía
bên
phải ảnh, có hai nhân vật quan trọng trong lịch sử toán học : A.
Grothendieck
và L. Schwartz.
So với những người khác có đóng góp vào quyển
sách này,
tôi mới quen Henri. Mới mười hai năm. Nhưng ông và tôi đã có thời gian
để nói
cơ man là chuyện, và để cãi nhau không ít. Những cuộc tranh luận này
làm tôi
suy nghĩ nhiều, nhất là bây giờ khi Henri không còn nữa.
Đây là một câu chuyện thời trai trẻ, ông kể
cho tôi trong
lúc đi dạo ở công viên Paumier. “ Khi tớ còn thanh niên, tớ có vài dịp
diễn
thuyết về chủ nghĩa Marx trước cả một hội trường lớn. Lần đó là ở
trường đại
học Louvain-la-Neuve. Trong ngọn lửa của hành động, tớ say sưa hùng
biện về
tiến bộ, về con người khuất phục thiên nhiên. Bỗng có một bác Bỉ béo
đứng lên
hỏi : này ông kia, khuất phục thiên nhiên là khuất phục thế nào ? ” Với
cái tài
nhại giọng Bỉ của Henri, trong khung cảnh xanh tươi của công viên
Paumier, gợi
lại kỷ niệm về bác Bỉ béo đã cho chúng tôi một khoảnh khắc cười sảng
khoái.
Các sự kiện tiếp theo đã gán cho mẩu chuyện
này một nghĩa
khác hẳn. Trong những tuần cuối cùng, Henri đau rất nặng. Thế mà mỗi
lần nhìn
thấy ông, tôi vẫn gặp một nụ cười vừa ấm áp vừa tinh quái. Tôi có
cảm
giác cái con bệnh hiểm nghèo có thể đốn ngã bất kỳ ai, với ông chỉ là
một sự
phiền toái. Ông chỉ cảm thấy bị làm phiền vì không thể tập trung mọi
năng lượng
để làm những gì mình thích. Một hai tuần trước khi vào bệnh viện ở
Meudon-la-Forêt, đi bắt đầu khó khăn, chỗ nào cũng đau vì bệnh ung thư
ác tính,
ông kêu ca với tôi là ông cảm thấy mệt, ông không nghiên cứu vật lý vào
buổi
tối được nữa. Khi đi vào bệnh viện, ông mang theo bài ông đang viết dở
về L.
Schwartz, ông dặn tôi coi fax xem có trả lời của ông Đặng Vũ Minh người
mà ông
có viêt thư từ mấy hôm trước. Trong cái cặp ông mang vào bệnh viện còn
có bức
thư của bạn sinh viên trẻ, người mà ông đang cố gắng tìm mọi cách giúp
để có
học bổng sang Pháp học.
Ký ức về những tình tiết đau đớn này đã giúp
tôi hiểu
được thế nào là khuất phục thiên nhiên. Henri không thích những triết
lý hùng
hồn. Nhưng cái cách giản dị và thuyết phục mà ông biết đem đến cho hành
động
của mình, cuộc sống của mình một ý nghĩa, đáng để ta suy nghĩ. Để nó
cho ta một
vài niềm tin nho nhỏ. Đólà di sản vô giá của Henri
Ngô
Bảo
Châu, Nobel Toán
TV nhận mail của một độc
giả, đúng hơn,
một thân hữu, đúng hơn nữa, 1 trong 2 Tả Hữu Hộ Pháp của TV, qua đó,
than phiền bài viết về NBC.
Vì cái mail, GNV coi lại
và post 2 bài
viết của NBC, lấy từ blog. Trong hai bài viết này, NBC gọi cuộc chiến
‘thằng
anh ruột giết thằng em ruột’ vừa rồi là “chiến
tranh chống Mỹ”. Ông không
hề biết đến đám Ngụy trong có GNV, thành thử, GNV không
thể nào được ông liệt vào 1 trong những “‘bác’ mà NBC nhắc tới”!
Đọc
lại diễn từ Nobel Toán [đây là gọi đùa, nhưng nó còn hơn bất cứ một
diễn văn
Nobel nào khác. Hãy nghĩ tới một Brodsky khi ra tòa án Xô Viết, hay một
ông thi
sĩ HC, khi ngồi viết tự kiểm, thí dụ, rồi hãy đọc bài diễn văn Nobel
Toán của
NBC!], GNV nhận ra, NBC quả thuộc một cộng động nhỏ xíu ‘happy few’,
của
Miền Bắc, và ngoài ‘cái bảng đen và cục phấn' đó, ông chẳng biết gì về
nỗi khổ
đau của người dân Mít, ngay cả vào thời điểm này.
Có
thể có người nói, làm sao nhắc tới những nỗi đau như thế, trong một dịp
như thế.
NBC chẳng đã từng ký tên trong danh sách bô xít. Đã từng…
Không,
vào một dịp như thế, cầm trong tay 1 'bửu bối' như thế, phải nhắc tới,
và chờ phép
lạ xuất hiện!
Phép lạ nào?
Phép lạ
Nobel tới với Brodsky, sau đó. Phép lạ Solz: Chỉ
1 người làm sụp đổ cả một "Vương Quốc Ma
Quỷ".
Giả như đúng
vào lúc đó, NBC phán: Phải thay đổi chế độ, "được" không? Ông ta không
làm như vậy,
chỉ là vì ông ta không hề biết đến nỗi đau khổ của những kẻ dám nói
KHÔNG, với
chế độ đó!
Mít chúng
ta, thay vì Phép Lạ, có Lá Diêu Bông. Có Quỹ Học Bổng
NBC....
Hãy
nhớ tới vị giáo sư Toán ở 1 Đại Học Sài Gòn. (1)
Ông đã làm đúng điều
NBC không
làm.
Nhưng
thảm
thương thay, như bao nhiêu người khác, trong tay họ không một tấc sắt,
không một
bửu bối.
Thành ra Phép
Lạ hơi bị chưa xuất hiện!
(1)
Phạm Minh
Hoàng
V/v Phép Lạ.
Hồi nhỏ, GNV
có đọc, hình như trong “Những truyện ngắn hay nhất thế giới”, câu
chuyện một
anh chàng cực thù Chúa, và Ky Tô Giáo, và anh ta nguyền, ta sẽ trở
thành một vị
linh mục, hết sức ngoan đạo, hết sức thờ phụng Chúa, cho đến khi được
phong làm
Đức Giáo Hoàng, và đúng vào lúc nhận ấn tích, trong cuộc đại lễ ở… Mỹ
Đình đó đó,
ta sẽ nhổ vào, hay ị vào… như DTH đã từng ị vào…
Cầu sao được
vậy. Và đúng vào lúc vị linh mục trở thành Đức Giáo Hoàng, Người nhận
được Phép
Lạ, đúng hơn, Ân Sủng, và cùng với nó, là niềm tin vào Chúa, vào nhân
loại.
Đúng trường
hợp NBC.
Nhưng hơi bị
ngược lại!
Chán mớ đời!
Cù lần đến tận
chót!
APPRECIATION
Aleksandr
Solzhenitsyn.
The prophetic power and gentle touch of the
man who could not be silenced
BY RADHIKA JONES
I MET ALEKSANDR SOLzhenitsyn at his home in Vermont in 1993, through
his eldest
son, with whom I went to college. It was snowing hard, and he came in
from the
small separate house he used as his study to join the family for
dinner. He
looked a bit gruff, but his eyes were kind. He asked me what my major
was, and
I told him it was literature. "What kind?" he asked.
"English," I said. He said, "There are other kinds of
literature, you know."
We were standing in the living room, and I looked at the shelves full
of
foreign editions of The Gulag
Archipelago and at the writer with the
biblical
beard and piercing gaze and thought perhaps I should consider studying
Russian.
I went to Moscow in 1995, four years after the fall of the Soviet Union
and a
year after Solzhenitsyn had returned from exile. By then I had read Gulag, and
every time I walked through the Byelorusskaya metro station, I thought
of the
first chapter, in which he describes his arrival in Moscow in 1945, 11
days
after he was arrested for criticizing Stalin in a letter. He is
escorted by
three intelligence officers, but "not one of the three knew the
city," he writes, "and it was up to me to pick the shortest route to
the prison ...
"I was leading the SMERSH men through the circular upper concourse of
the
Byelorussian-Radial subway station on the Moscow circle line, with its
white-ceilinged
dome and brilliant electric lights, and opposite us two parallel
escalators,
thickly packed with Muscovites, rising from below. It seemed as though
they
were all looking at me! They kept coming in an endless ribbon from down
there,
from the depths of ignorance-on and on beneath the gleaming dome,
reaching
toward me for at least one word of truth-so why did I keep silent?"
In the end, he did not keep silent. His writing alternately saved and
condemned
him. One Day in the Life of Ivan
Denisovich, his searing account of the
Soviet-labor camp experience, found favor during Khrushchev's thaw and
was
published in 1962. By the time the temperature chilled again,
Solzhenitsyn's
international fame was such that he could not be altogether dispensed
with. In
1974, when the Brezhnev regime decided it would not tolerate the
foreign
publication of Gulag,
Solzhenitsyn was arrested and put on a plane. He
breathed
a little easier when the plane took off westward and not toward Siberia.
Whether at home or in exile, Solzhenitsyn was disciplined and
unwavering. As a
young man he had served a term of internal exile in
Kazakhstan;
deprived of writing supplies and the freedom to use them, he composed
in his
head, committing entire plays to memory. In Vermont, where he lived
from 1976
to 1994, he kept a rigorous schedule. Bearing witness to millions of
terrorized
voices does not indulge writer's block, nor allow for vacations. It was
a
family affair. His wife Natalya, a gracious, fearless woman, made it
her priority
to ensure that he could work undisturbed. His sons helped too. There
were
letters to answer, writings to translate. Even a non-Russian-speaking
guest
could chip in. On a summer visit, I was dispatched to pick raspberries
for
dessert. We ate them with ice cream. The Solzhenitsyns spoke Russian at
home,
but they were good Vermonters; they kept Ben & Jerry's in the
freezer.
In 1995, Solzhenitsyn published a memoir, Invisible Allies, in
which he
honors the people who helped him protect his writings from the state.
It reads
like a spy novel-coded messages, boxes with false bottoms-yet the
danger was
real. Were it not for these friends, from the fellow zeks (labor-camp
inmates) who assisted him to the foreign journalists who smuggled out
manuscripts, Gulag might not have seen the light of day.
Writers often speak of the courage it takes to face the blank page.
Solzhenitsyn's courage was of a completely different order. Equally
strong was
his belief that the communist system he had so thoroughly damned in his
work would
collapse in his lifetime, allowing him to return home.On the property
of the
Vermont house is a large rock, the subject of family lore: in the '70S,
Solzhenitsyn sat his sons astride the rock and told them that someday
it would
turn into a flying horse and take them back to Russia. It was the sort
of fairy
tale you might expect a writer to tell his kids, but this one came true.
Time August 18,
2008
Bài trên
Time, là do bạn học của ông con trai, cư dân Vermont, viết.
Có chi tiết thật thú vị, đọc, Gấu mới nhớ ra, và nhớ luôn kỷ niệm của
ông cậu,
Cậu Toàn, về những ngày đám người rừng Bắc Việt về tiếp thu thủ đô.
Cũng y chang!
Ba ông cớm bắt Solz đưa về thủ đô, nhưng chẳng ông nào biết đường,
thành thử
người tù bèn phải ra tay nghĩa hiệp!
Chi tiết trên lại còn làm nhớ đến TTT. Ông đi tù, đi lao động, chẳng có
ai canh
gác, nhưng chiều chiều, tới giờ bò về chuồng là ngoan ngoãn bò về trại!
Người ta đưa tôi lên vùng thượng du phía bắc,
cách biệt hẳn
thế giới bên ngoài, người ta thả tôi vào thiên nhiên, "tự do" với
"chỉ tiêu gỗ mỗi ngày", với cơ hội trốn trại. Nhưng mỗi ngày qua đi,
tôi lại tìm ra con đường trở về trại tù. Điều gì đã khiến tôi làm như
vậy? Phải
chăng là "chẳng còn hy vọng chi" hay là nỗi "vô vọng của một con
người bị bỏ rơi, tuyệt vọng"? Khi đó, tôi thực sự ở trong niềm hy vọng
về
không sinh tồn (inexistence); trong một vùng không thể lọt qua
(impénétrable),
trong tình trạng vô-liên (non-relation). Chẳng có chi là rõ ràng đối
với tôi.
Đây
còn là một đề tài cho một bài viết trên TLS: Tại sao trại tù Đức Quốc
Xã rất ít
lính gác, gần như không cần lính gác?
Trại cải tạo cũng rứa?
Nhà nước VC coi bộ còn đỡ
hơn NBC. Vì với họ, còn có lũ Ngụy, để mà xỉ vả, để mà khoe khoang
chiến
công...
Dưới mắt NBC, không có lũ Ngụy.
Ông không hề biết có lũ
Ngụy, có
Trại Tù, có Lò Cải Tạo.
Cù lần đến cỡ đó, thì hết
thuốc chữa!
Trong
số báo Time, viết về 100 nhà cách mạng, lãnh đạo của thế kỷ 20, bài
viết về Gorbachov,
được trao cho nữ văn sĩ Nga, Tolstaya. Bà cho rằng, ông Thánh Khùng này
là
'thiên sứ' mà nhân dân Nga chờ đợi. Khi ông xuất hiện, là họa CS tiêu.
Quả đúng như thế. Nhưng làm sao nhận ra ông Thánh Khùng?
Bà nhà văn cho biết, trên trán [?] của Gorbachov có một vết son [?] đặc
biệt,
để cho nhân dân Nga nhận ra ông, và để phân biệt với thiên sứ giả.
Nghe nói có ông đầu sói mới xuất hiện ở Việt Nam, Gấu thật mừng, tự
hỏi, hay là
ông này là Gorbachov của Việt Nam?
Bác có anecdotes chi -
Phục Bác Gấu sát đất về các anecdotes
quái dị của Bác - về cái đói khát, túng thiếu.. tác động lên tâm hồn
con người.
Bác thì kinh nghiệm đầy mình!
Một độc giả.
Phúc đáp:
Muôn vàn cảm tạ. Quả có thế. Gấu còn cả một bồ (1) kinh nghiệm, thời
gian sau
1975, tính để bụng mang đi, nay được lời như cởi tấm lòng, xổ ra hết,
đi cho
nhẹ cái thân!
Trân trọng. NQT
(1) Bồ, theo nghĩa chữ của Cao Bá Quát
Thánh Khùng
chẳng thấy. Chỉ thấy Thánh Toán xuất hiện. Ông phán, làm đếch gì có lũ
Ngụy!
*
Chế
độ CS Liên Xô chấm dứt, vào lúc, hai ông đoàn viên Cẩm Sờ Mồm,
Komsomol, là
Goóc Ba Chóp [Mikhail Sergeyevich Gorbachev sinh ngày 2 tháng Ba, 1931
tại Privolnoye,
Stavropol province. Ông học Đại học Moscow, tốt nghiệp Luật. Gia nhập
Đảng CS
năm 1952, và là Bí thư thứ nhất Đoàn TNCS, First Secretary of Stavropol
City
Committee of Komsomol, nhiệm kỳ 1955-1958] gặp Schevarnadze Eduard
(1928-)
trong một cuộc họp đoàn, và hai anh đoàn viên này, do đã đọc Tam Quốc,
nhớ cái
đoạn Tôn Quyền và Lưu Bị chém đá, bèn chỉ "viên gạch" là chủ nghĩa
CS, mà nói: Hai ta phải chém bể viên gạch này.
Nhân
sắp tới Sinh
nhật của ông, thiên hạ đang gửi Happy Birthday ì
xèo, Gấu
cũng xin được chúc ghé.
Không
có ông Thánh Khùng này, thì nhân loại còn khổ dài dài với chủ nghĩa CS.
Thánh
Khùng là chữ của Tolstaya ban cho ông Goóc.
Xin
xem bài tạp ghi Truyện ngắn, tình yêu, và chiến tranh nhắc
tới
ổng.
NKTV
Chính trị mới
là đỉnh cao của… văn chương. Tây có câu, “cái còn lại là văn chương”,
là để miệt
thị thứ văn chương bỏ qua nỗi đau, nỗi khổ của người đương thời, mà chỉ
đắm đuối
trong cõi mộng, trong cõi chân thiện mỹ. Naipaul
chửi Borges là cũng ý đó, ông ta lôi chữ “bất
tử” ra, và cứ thế đùa
nghịch với nó, quên mẹ mọi chuyện. Steiner phán, những người khóc khi
coi truyện
tình lãng mạn "Werther" hay nghe nhạc Chopin đâu có biết rằng, họ đi
qua địa ngục thực.
Đọc blog trong nước, của những nhà văn thứ thiệt, than thở, đừng nói
chuyện
chính trị, chán lắm, là cũng nghĩa đó.
Nên nhớ, vẫn nên nhớ, chẳng cần đến Steiner, văn học quốc tế, dân Mít
ngày xưa,
học TQ, cũng đã biết được ‘tu thân, tề gia, bình thiên hạ’.
Câu của
Naipaul chửi Borges, có thể áp dụng vào trường hợp NBC: Ông không hề
biết đến lũ
Ngụy, vì còn mải mê trong cõi bất tử của những con số.
NKTV
Nhưng câu của
Martel mới rõ ra ý đó. Ông viết về Borges:
Borges
is often described as a writer's writer. What this is supposed to mean
is that
writers will find in him all the finest qualities of the craft. I'm not
sure I
agree. By my reckoning a great book increases one's involvement with
the world. One seemingly turns away from the world when one reads a
book but only to
see the world all the better once one has finished the book. Books,
then,
increase one's visual acuity of the world. With Borges, the more I
read, the
more the world was increasingly small and distant.
*
Vụ Án còn là
một thứ chuyện “Liêu Trai” có tính tiên tri (un fantasme prophétique),
như rất
nhiều cuốn sách khác ở trong Bảng Phong Thần Cuối Cùng. Cuốn tiểu
thuyết được
in và xuất bản vào năm 1925, nhưng Kafka đã viết nó mười năm trước, tức
là năm
1914, trước khi có cuộc cách mạng Nga, Cuộc Đệ Nhất Thế Chiến, chủ
nghĩa Quốc
Xã Nazi, chủ nghĩa Stalin: thế giới được miêu tả ở trong cuốn sách,
chưa hiện hữu,
chưa “đi vào hiện thực”. Vậy mà ông nhìn thấy!
Liệu có thể
coi ông là Ông Thầy Bói Nostradamus của thế kỷ 20? Không phải vậy: cái
thế kỷ
có tên là Goulag đó chỉ là một đứa trẻ ngoan ngoãn tuân theo lời phán
bảo của
ông thầy của nó, mà thôi.
Ở đây, là một
giả thuyết, nghe đến rởn tóc gáy lên được, và cũng hoàn toàn có tính
Kafkaien:
Liệu tất cả những trò kinh tởm của thế kỷ: chiến tranh lạnh, những
chuyện đấu tố,
luôn cả bố mẹ, hiện tượng con người có đuôi, lò thiêu, trại tập trung
cải tạo,
Solhzenitsyn, Orwell…. tất cả là đều nảy sinh từ cái đầu của một anh
chàng làm
cho một công ty bảo hiểm ở Prague? Liệu hàng triệu triệu con người chết
đó, là
để chứng minh cho sự có lý, của một cái đầu chứa đầy những ác mộng?
NKTV
Bạn cứ thử
tưởng tượng ngược lại: Tất cả những khổ đau của dân Mít, là để chứng
minh cho một
cái đầu trong suốt, thánh thiện, không hề biết đến Cái Ác Bắc Kít, Lò
Cải Tạo,
Nguỵ… và cùng với nó, là giải Nobel Toán
cao quý?
*
Có
nhiều nhà thơ có tài, có thể ở vào chỗ anh ta khi đó, Efim
Etkind viết. Nhưng số phận đã chọn đúng anh ta, và ngay lập tức anh
hiểu trách
nhiệm về địa vị của anh - không còn là một con người riêng tư, nhưng
trở thành
một biểu tượng, như Akhmatova đã trở thành một biểu tượng quốc gia của
người
thi sĩ Nga, khi bà bị số phận lọc ra giữa hàng trăm nhà thơ, năm 1946.
Thật quá
nặng cho Brodsky. Ông có một bộ não tệ, một trái tim tệ. Nhưng ông đã
đóng vai
ông tại tòa án một cách tuyệt vời.
Brodsky không được may mắn với
sức khỏe của ông. Tim ông bị mổ hai
lần. Ông hút thuốc còn nhiều hơn Bogart, uống cà phê hơn cả Balzac. Khi
tôi
(David Remnick) tới gặp ông thực hiện cuộc phỏng vấn cho tờ Washington
Post, một
nhiếp ảnh viên tới. "Ông có thuốc lá không?", Brodsky hỏi thay cho
câu chào. "Tôi đang chết vì thèm thuốc."
Ông từ chối vai trò kẻ
tuẫn nạn nổi tiếng và chỉ làm công việc
của ông: làm thơ, nhưng khi bị đòi hỏi, ông tiến lên, ở tòa án, ở lưu
đầy xứ
người, ông làm việc này một cách tuyệt hảo. Y. Rein, là bạn của Brodsky
và cũng
là một nhà thơ lớn, đã từng tuyên bố tại Moscow: Nước Mỹ hãy nhớ lấy
lời này.
Brodsky là một tiếng nói Nga lớn lao nhất của thời đại anh ta. Anh ta
đến từ một
thời đại tiếp theo những trại tù, những cấm ngăn, một thời đại tự nuôi
nó bằng
văn chương trong khi chẳng còn chi, nếu có chăng, chỉ là trống rỗng. Và
anh
luôn luôn là số một của chúng tôi.
NKTV
Tuyệt. Một đất nước sản sinh ra
Gulag, nhưng cũng sản sinh ra những
con người như Brodsky, Mandelstam, Solzhenitsyn…
Trong khi Mít, không
có lấy một
mống! Một HC, một NBC, ‘từ chối làm kẻ tuẫn nạn, chỉ làm công việc
của họ’,
làm thơ, làm toán, nhưng khi ‘bị đòi hỏi, được số phận lọc ra’, thì bèn
từ chối làm ‘thiên
chức’.
Cũng của họ!
Gấu cứ tưởng tượng ra một NBC,
được sinh ra đời, không phải để trở
thành một thiên tài toán học, mà để dõng dạc phán, phải thay đổi chế
độ. Cái
Nobel Toán của ông, chỉ là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh.
Cũng như cái
lý tưởng chân lý nước VN là một chỉ là phương tiện, còn cứu cánh là
cuộc ăn cướp
Miền Nam!
*
Borges thường
được coi như nhà văn của nhà văn. Điều này có nghĩa những nhà văn sẽ
tìm thấy ở
trong ông ta những phẩm chất tuyệt hảo của ‘bản văn nháp’, mà họ làm ra
tác phẩm
của họ, từ đó. Tôi chắc là chẳng dám đồng ý. Theo tôi, một cuốn sách
lớn làm tăng
sự quan tâm, hay nói quá đi một chút, sự dấn thân của bạn với thế giới.
Có vẻ
như khi bạn đọc một cuốn sách là bạn quay mặt đi, nhưng chỉ là để, sau
khi đọc
xong nó, nhấn sâu thêm vào cuộc đời, nhìn thấy nó đẹp thêm, đáng sống
thêm lên.
Sách như thế làm cho bạn có một cái nhìn sắc bén đối với cuộc đời. Với
Borges,
càng đọc ông, tôi càng xa rời cuộc đời, càng thấy nó nhỏ bé.
Martel
*
Nếu chính
trị là đỉnh cao của văn chương, thì toán học là đỉnh cao của trí tưởng
tượng.
So với nhà toán học, thứ nhà văn ‘hiện thực chủ nghĩa’, ‘sao chép cuộc
đời’, ‘nhìn
sao viết vậy người ơi’… chỉ là những tên lùn, những kẻ bị ‘chậm lớn’,
về trí tưởng
tượng! Bạn không có trí tưởng tượng không làm sao học toán
bởi vì làm
sao bạn có thể tưởng tượng được, những miền, những không gian, không
phải 3 mà n chiều.
Cho một domain. Cho một
tam giác đều….
Nhà toán học phán, cứ
như Chúa
phán:
Hãy ánh sáng!
Chúng ta cứ
thử tưởng tượng NBC đứng ở Mỹ Đình phán, như… Đức Phật của HHT, trở lại
với dân
Mít:
Hãy thay đổi
giống Mít, bằng cách thay đổi cái chế độ khốn kiếp này!
Hãy huỷ diệt nó!
*
Gấu nhớ là đã
từng đọc một câu phán thật tuyệt vời của Bertrand Russell, liên quan
trí
tưởng tượng
của nhà toán học, đại khái còn nhớ là, hỡi những toán gia, hãy ở
mãi trong
thế giới tưởng tượng của mi…
Gõ Google không ra, nhưng lòi ra câu này:
Mathematics,
rightly viewed, possesses not only truth, but supreme beauty - a beauty
cold
and austere, like that of sculpture.
Toán học nhìn thật
đúng, sở hữu không chỉ sự thực mà còn cái đẹp siêu phàm - một cái đẹp
lạnh giá,
và khắc khổ, như của bức tượng điêu khắc.
Bertrand
Russell
Vẻ đẹp lạnh
giá, khắc khổ, như của một bức tượng điêu khắc.
Nếu như thế,
NBC chẳng hề biết đến lũ Ngụy, thì cũng đúng thôi.
*
Hồi mới quen
bạn C, và được bạn đưa về nhà bạn, rồi sau đó, coi là nhà của Gấu, ông
anh nhà
thơ rất thương Gấu, một phần vì cái sự giỏi toán của Gấu.
Gấu nhớ có lần Cụ C nói
với thằng bạn của con mình:
Thằng T nó bảo
tao, bạn của thằng C toàn thứ quái quỉ, thông minh quá mức thường. Mẹ
không thể
so thằng C với chúng được. Nhất là thằng… Trụ. Nhưng so với những đứa
trẻ khác,
thì thằng C lại ở trên mức bình thường!
Thời gian đó,
Cụ còn nghèo lắm. Thế rồi Gấu học Bưu Điện, rồi ra trường, rồi đi làm,
rồi làm bồi
Mẽo, túi rủng rỉnh xu, chiều nào cũng lên xóm rồi mới về nhà, có khi
ngủ luôn trên đó, và thường là như vậy, nhất là những ngày còn ở Phú
Nhuận. Ngã Năm, Ngã Sáu, Khu Xóm kế nhà thương Cộng Hòa... cũng kể như
là nhà của Gấu, và thế là
Gấu gần như chẳng hề trở lại cái ngõ ngày nào, ở sau nhà hội tỉnh Gia
Định. Xóm
Gà.
Lần trở lại, khi trở lại Sài Gòn, sau khi đã 'lại được làm người', Gấu
quên
luôn căn nhà cũ. Ghé một căn nhà ở cuối cái sân nằm trong khu, mà Gấu
đinh ninh
là căn nhà ngày nào, hỏi, hóa ra là nhà một cán bộ VC.
Thế là đành đi
ra, nhưng không được, nhất định không được, căn nhà đó, đích thị căn
nhà đó.
Quay trở lại, tìm cho ra... chân lý… một bà trong xóm, từ trong nhà nói
lớn ra,
nhà của hai ông sĩ quan Ngụy ở đằng kia kìa.
Hóa ra là, ở cuối sân,
còn một con hẻm nhỏ nữa, nhà Cụ ở cuối con hẻm.
Ngô
Bảo
Châu, Nobel Toán
Cũng như
trong âm nhạc và nghệ thuật, tiêu chí quyết định trong toán học là Cái
Đẹp.
Nhưng quan niệm về cái Đẹp lại thay đổi. Trong triết học Platon, toán
học là một
thế giới tồn tại tự thân, chúng ta chỉ việc tìm hiểu nó. Nhưng nói như
sau thì
có lẽ đúng hơn: toán học không thực sự tồn tại. Đây không phải là việc
mở một
cái cửa để bước vào quan sát một căn phòng. Chẳng có cái cửa nào và
chẳng có
căn phòng nào cả. Chúng ta tự làm ra cái cửa rồi mở nó ra. Chúng ta
cũng tự làm
ra cái phòng rồi quan sát nó.
Anatoly
Vershik
Câu trên, thấy
talawas trích, làm châm ngôn trong vài ngày. ‘Có thể’, do cái vụ 'Cái
Đẹp NBC', và bài viết trên TV, cũng nên?
Bài viết trên
TV nhân vụ NBC, thực sự nằm trong một 'viễn ảnh' về bài viết về Cái
Đẹp, Cái Đói BK vs Cái Ác
BK, và hậu quả của nó là cuộc chiến Mít, chủ yếu dựa trên tư tưởng của…
Simone
Weil, về Cái Đẹp!
Do cái kiểu
viết lai rai, bạ đâu viết đó, thành ra chẳng bao giờ hoàn tất!
Chán thật!
Nôm na mà nói,
thì nó như vầy, theo… Gấu Cái:
Tại làm sao,
bao nhiêu 'thánh nữ' của mi, mi không chọn, mà mi lại chọn cái nỗi khổ
đau của
mi, là… ta?
*
Thời gian Gấu
bị cái ‘dìu phá băng’ Simone Weil bổ trúng đầu xẩy ra, quái làm sao,
đúng những
ngày Trần Trường, khi theo ông bạn Nghiêm lên trường đua ngựa, một thú
vui mà
anh có từ những ngày ở Sài Gòn, với trường đua Phú Thọ, tới Car Wash
tái ngộ Thảo
Trường, hay ngồi đánh cờ tướng tại một tiệm cà phê gần ngay tiệm Hi
Tech của Trần
Trường, được coi là tổng hành dinh của đám phản động chống lại vụ treo
cờ đỏ hình
Bác Hồ ngay giữa trái tim thủ đô của người tị nạn Mít tại nước Mẽo!
*
Cái câu phán, Sến Cô Nương
lôi ra làm ‘châm ngôn’ vài ngày cho Chợ Cá, [ui chao lại nhớ tới ‘trâm
ngôn’, của SCN, ‘ngửi khói bếp hàng xóm cũng đủ no cả đời’, được Thầy
Cuốc treo
cả mấy tháng trời trên cửa hàng Hậu Vệ] sai,
đối với những nhà toán học, và bất cứ ai thực sự mê toán, vật lý, những
môn
khoa học.
Bởi vì toán
học, tuy hoàn toàn bịa đặt nhưng lại rất ư là cần thiết cho đời sống.
Nhờ thiên
tài toán NBC, khi giải ra bổ đề Langlands, mà hai ngành khoa học, tưởng
chẳng
bao giờ nối kết, đã được nối kết, đâu có thua gì khám phá của Einstein,
vật chất
là một dạng của năng lượng, với công thức nổi tiếng E=mc2, và từ đó, ra
bom
nguyên tử.
Những con số thực, [đã không thực, vì toàn là bịa đặt], nếu không có
nó, làm sao đếm tiền trả lương cho nhân viên, hối lộ hải quan VC?
Những con số ảo,
nếu không có nó, làm sao giải được những bài toán vật lý, thí dụ như
trong điện
xoay chiều?
Toán học theo Gấu không phải là bịa đặt, mà là cả thế giới được nhét
vào trong một cái lỗ đen của những con số!
Ông thầy Toán
Đại Cương, giáo sư Monavon đã từng cho sinh viên biết, sự phát triển
của một số
cây cối, thực vật trong thiên nhiên, đúng y chang đường biểu diễn của
một số đường
cong trong hình học!
Tuy nhiên,
phải đợi Simonne Weil, và phát hiện của Bà về Cái Đẹp, chúng ta mới ngộ
ra được
câu nói đơn giản của Dos: Cái Đẹp Sẽ Cứu Chuộc Thế Giới!
*
Tình
Toán
Nguồn
Cái cuốn Brachet, toán bài
tập năm thi Tú Tài hai, ban toán,
mà giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, tức Toàn Phong, tác giả cuốn Đời Phi Công,
nói
tới, cũng là sách gối đầu giường của Gấu và đồng bọn, những ngày mê
toán, những
năm học trung học.
Thời của Gấu, còn một cuốn nữa, nổi hơn Brachet, là cuốn của Le Bossé
[?].
Nhiều bài hơn, dễ hơn, nhưng cũng có những bài khó hơn, là những bài
thi
concours toán. Brachet hay ở chỗ, toàn những bài chọn lọc, và, lẽ dĩ
nhiên,
khó.
Vào thời đó, Gấu chẳng tha một bài nào của Brachet.
Kể cả của Le Bossé. Gấu nhớ bài toán khó, của từng chương, từng món
[nghịch
đảo, cô-níc, hàng điểm điều hòa, chùm vòng tròn, vòng tròn trực giao,
bao hình,
quĩ tích, đạo hàm, nguyên hàm...]. Đến nỗi, sau đó, đi làm rồi, tới khi
em Bông
Hồng Đen lên lớp 12, cũng ban toán, một bữa gặp bạn, có Gấu đi ecscort,
hai
người nói về một bài toán khó đang làm cả hai nhức đầu, Gấu bèn đi một
đường
trổ tài, không những chỉ cách giải mà còn nói đúng bài toán nằm ở đâu,
trong
trận đồ toán học có tên là Le Bossé đó!
Về già, Gấu tự hỏi, ở đâu ra mấy cuốn sách toán đó, năm học thi tú tài
hai đó?
Bởi vì, chỉ đến khi Gấu ra trường Bưu Điện, đi làm, có tiền, thì mới có
chuyện
mua sách.
Gấu nhớ là, hồi đó, đi làm rồi, Gấu cứ làm như mình đang học...
Sorbonne,
Paris, với những cuốn cours của nó, bầy bán tại nhà sách Lê Phan, tại
đường
Phạm Ngũ Lão, gần chợ Bến Thành. Tiệm này có một cái nét rất đặc
biệt, là
chơi tên tiệm trên mái ngói, chắc là từ thuở Đồng Minh đánh Nhật. Ở Sài
Gòn có
hai nơi quảng cáo theo kiểu này, nhà sách Lê Phan và nhà thương Grall,
theo như
Gấu còn nhớ được.
Với Lê Phan, thì ngoài Brachet, Le Bossé, còn có Bouligand [?], Rivaud
[tay này
trùm về tân toán]. Hai ông này thuộc năm thứ nhất Đại Học Khoa Học.
Gấu, túi có tiền, tiện
tay, quơ thêm vài cours... triết. Hiện tượng học,
Husserl, chẳng hạn!
Thời gian bỏ Khoa Học qua Văn Khoa.
Cái chuyện đậu xong chứng chỉ Dự Bị Triết, lên chứng chỉ Triết Tây,
đụng đầu
ông giáo sư hắc ám, bèn tức khắc trở lui, sau ghé Văn Khoa, chỉ lảng
vảng khu
chứng chỉ Việt Hán, ngóng cô bạn, là chuyện hoàn toàn có thực.
Gấu vẫn quan niệm, thầy, nhất là môn văn khoa, là phải ra thầy. Nhất tự
vi sư
bán tự vi sư, là đúng y chang cho những ông này. Bạn không thể học, chỉ
một nửa
chữ văn, thơ... , rồi biểu rằng thì là, tớ chưa học ông đó!
*
Cuốn "Độ
không của cách viết" (Le Degré Zéro de l'Écriture) của R. Barthes và
những
bài viết Essais Critiques của ông đã cho tôi thấy rõ lằn ranh phân biệt
văn
chương và cuộc đời, giữa thực tại văn chương (réalité littéraire), hay
thực tại
giả tưởng (fictional reality) và thực tại đời sống (réalité vécue). Nó
là một
nhưng không phải là một. Ai đã học qua Toán
Đại Cương, hoặc
có nghiên cứu về ngành Tân Toán
Học, chắc biết ý niệm isomorphisme.
Tôi xin trình bày sơ qua
đây, để bạn đọc có thể nhân đó phân biệt hai thực tại trên.
Chúng ta đều biết con số vô tỷ, hay căn số (root). Thời Pythagore, con
người chỉ
có thể giải thích nổi sự hiện hữu của các số chẵn, lẻ, thập phân. Theo
truyền
thuyết, khi có người cắc cớ hỏi, làm sao giải thích nổi chiều dài đường
huyền một
tam giác vuông cân có cạnh bằng 1, các đệ tử của Pythagore đêm đến được
lệnh thầy
cho người đó đi mò tôm, bởi vì nếu bí mật về một con số vừa chẵn lại
vừa lẻ, tức
căn số (Muốn chứng minh, đặt a/b= căn của 2), lọt ra ngoài thì tan tành
học
thuyết Pythagore, theo đó, thế giới được tạo dựng từ những con số.
Mãi đến cuối thế kỷ 19, Toán Cổ điển mới giải
thích nổi
bài toán nhức đầu này khi đưa ra ý niệm về sự
chia cắt
(notion de coupure), chia đoạn thẳng ra từng lớp (classe) những con số.
Tân Toán
học lại giải thích bằng ý niệm về
sự trương nở (extension) của các thể (corps).
Thành thử
có ba con số căn: Một có thực, ở ngoài đời, một, trong Toán
Cổ điển, và một trong Tân Toán.
Chúng là những isomorphismes. Trong thế giới của ngôn ngữ, một sự thực
ngoài đời,
khi đem vào trong văn chương, phải được hiểu như là một giả tưởng. Căn
số theo Toán Cổ điển, được "bịa đặt" ra nhằm
giải thích sự hiện
hữu của một con số, "giống hệt như nó", ở ngoài đời, nhưng quan trọng
hơn, nhờ ý niệm về sự chia cắt, toán học nhận
ra sự uyển
chuyển của những con số, mở đường cho toán vi
tích phân.
Như vậy nó đáp ứng một nhu cầu trí tuệ, vừa cấp thiết, vừa lâu dài, của
con người.
Cũng vậy văn chương chỉ là dối trá, bịa đặt, nhưng qua đó, nó biểu lộ
một sự thực,
"thực" hơn cả đời sống.
Sở dĩ mượn toán học như một cái cớ, để đưa ra
một giải
đáp cho một câu hỏi mang tính nhị nguyên, văn chương là thực hay là ảo,
chỉ vì
nỗi đam mê từ hồi còn cắp sách đến trường, và cũng để tạ lỗi cùng nàng
tiên toán học, cõi
tưởng tượng của mọi cõi tưởng
tượng, nỗi đam mê ngoài đam mê.
Sau này, khi đọc Michel Foucault, tôi cũng thấy ông nói tới
"déchirememt
entre la vie et l'oeuvre", "la grande coupure épistémologique"
(1) và nhận ra isomorphismes giữa những cơn điên khùng và những dòng
thơ của
Holderlin.
NKTV
Ngô
Bảo
Châu, Nobel Toán
Một anh bạn
của Gấu, trải qua 13 năm ở Lò Cải Tạo, biểu Gấu, có sự khác biệt giữa
hai cái
ác, Bắc Kít, và Na Zít, theo tao. Tao ở trong Lò Cải Tạo, lâu như thế,
về,
không tuyệt vọng về con người đến phải tự tử như Primo Levi, thí dụ
vậy. Tâm hồn
tao, sau khi ra tù, sợ còn thoải mái hơn trước. Trước, cứ nghĩ mình
bậy. Mình
là thằng Nguỵ, thằng Việt Gian, thằng Bán Nước. Vô tù, mới ngộ, không
phải vậy.
Chính cái thằng bắt mình vô tù mới là Đại Việt Gian!
Anh bạn làm
Gấu nhớ đến một 'thèse", đề tài, của Cioran: Nhân loại biến mất vào cái
ngày người ta kiếm ra được tất cả những thứ thuốc chữa mọi thứ bịnh,
thứ ác, thứ
độc của con người!
Cái Nobel
Toán, biết đâu, với dân Mít, đúng là thứ thần dược đó!
Cái Đẹp lạnh
lẽo, khắc khổ của nó làm bay biến vào Hư Vô mọi nỗi đau của Mít!
Đó, biết
đâu, còn là niềm vui ngầm, của NBC, khi ông, nghe tin được Nobel Toán,
bèn vội
vàng đăng ký xin vô quốc tịch Tây, như ông cho biết, qua một bài bài
báo trên mạng? (1)
(1)
Ông nói với
hãng thông tấn Pháp rằng ông nhận lãnh vinh dự này trong tư cách một
người Pháp
gốc Việt. Ông cho biết ông “đã vội vã trở thành người Pháp” và đã lấy
quốc tịch
Pháp hồi tháng hai khi ông cảm thấy là sẽ đoạt giải Fields.
Ông giải
thích rằng “sẽ là một điều không công bằng nếu thành tựu của ông không
mang lại
sự tuyên dương cho các nhà toán học Pháp”.
GNV nghĩ ‘khác’.
Trong cái sự vội vã, chứa Cái Đẹp Lạnh Lẽo và Khắc Khổ của Cái Ác Bắc
Kít!
Đừng có nghĩ
là thằng cu Gấu Bắc Kít này đểu quá, xỏ lá quá.
Đây là một vấn nạn, làm
điên đầu
Gấu, những ngày Trần Trường, qua câu phán của Simone Weil, khi bà chửi
dân Tây
của bà, vào cái lúc bà đứng nhìn những đoàn quân Nazi tiến vào thủ đô
Paris, đây là ngày
hội lớn của xứ Đông Dương (2)
(2)
Sở
thích văn chương và thần học của bà thì phù hợp với nhau. Chính ở nơi
T.E.
Lawrence of Arabia mà bà nhìn ra
kiểu mẫu thực
nhất của chủ nghĩa anh hùng hiện đại. Và chính ở một Ky Tô giáo khổ
hạnh, khất
thực – nó lên án một cách tàn bạo nhất chủ nghĩa duy vật và tính bướng
bỉnh của
người Do Thái – là lối sống bà cảm nhận khi còn ở trong gia đình. Từ
Thánh Phao
Lồ cho đến ngày hôm nay, lịch sử hận thù chính mình của người Do Thái
là một lịch
sử dài và phức tạp. Hoàn toàn
là chuyện có thể, nếu đọc cả hai Ky tô và
Mác xít
như là những dị giáo Do Thái lớn, thoát thai từ những bệnh lý
học mù mờ
của sự
tự huỷ. Người mưu trí nhất, và, ở một chừng mức nào đó, loạn
trí, Otto
Weininger, vị luật sư chuyên về sự thấp kém của người Do Thái, và về sự
cùi hủi
truyền kiếp của sắc dân này, qua những cuộc bút chiến hiện đại, là
người Do
Thái.
Hoặc là, sự đóng góp của Simone Weil vào đống rác rưởi này là
triệu chứng
cho thấy ở tầng sâu hơn của nó, là sự từ chối dục tính, hay sự phủ nhận
giới
tính của riêng bà, hoặc là, nó chỉ ra những yếu tố về sự tự làm nhục
mình một
cách ý thức, có sự cân nhắc ở trong đó, khi đứng trước điều mà bà đánh
giá là một
cuộc sống chấp vá, tạm bợ, hoặc là, nó vẽ ra con đường đi tới một cuộc
tự tử chậm:
Không có một phân tâm bệnh nào có thể giải thích rõ ràng, đầy đủ. Một
giải thích
như thế, hơn nữa, qua những mệnh lệnh của riêng Simone Weil về sự toàn
vẹn triết
học, sẽ chẳng là gì cả.
*
Why bother then? Simply because Simone Weil has left us a fragmented
but
substantial corpus of theological, philosophical, end political
insights of
rare pressure and illumination. Response is so perplexing because an
unsparing
honesty meshes the inspired with the pathological. Who else save
Kierkegaard
would at the moment of France's
surrender to Hitler have found the sentence "This is a great day for
Indo-China," in which a hideous insensibility is perfectly balanced by
a
political and humane clairvoyance of genius? The fall of metropolitan France
was indeed glorious news for le subject peoples it had long lorded over
in its
far-flung colonies. For Weil, the "crimes" of colonialism related
immediately, in both religious and political symmetry, to the
degradation of
the homeland.
Tại sao phải
khổ công như vậy? Đơn giản chỉ vì Simone Weil đã để lại cho chúng
ta một khối luợng, tuy chỉ là những mẩu đoạn, nhưng thật đáng kể, những
phát
giác về thần học, triết học, và chính trị; chúng thuộc loại hiếm quí,
nếu nói về
sức ép, và về sự đốn ngộ. Sự đáp ứng [của chúng ta trước di sản này]
thì cũng
thật là bối rối, ngỡ ngàng, bởi vì đáp ứng trung thực đến cỡ nào, thì
cũng bị mắc
bẫy ở giữa đốn ngộ và bệnh lý. Bất cứ ai muốn cứu vớt Kierkegaard, đúng
vào lúc
mà nước Pháp qui hàng Hitler, đều tìm thấy ngay câu sau đây của Weil,
‘đây là một
ngày hội lớn đối với xứ Đông Dương’; trong câu nói đó, có một sự lạnh
lùng tàn
nhẫn, đến sởn tóc gáy lên được, và phải như thế mới xứng đáng, mới
ngang tầm với
cái nhìn tiên tri về chính trị, và về tình người, của một thiên tài. Sự
gục ngã
của nước Đại Pháp quả là một cái tin chiến thắng đối với bao nhiêu con
người, tại
những xứ sở thuộc địa bao la bấy lâu sống dưới sự cai trị của nó.
Đối với
Simone Weil, những “tội ác” của chủ nghĩa thực dân thì liền lập
tức mắc
míu, ảnh hưởng tới sự băng hoại, mất chất, cả về mặt tôn giáo lẫn chính
trị ở
nơi quê nhà.
Tribute
to Weil
Phải
có một mắc mứu ‘cốt tuỷ, chết chóc, thánh thiện, ma quỉ…’, giữa Cái Ác Bắc Kít, từ đó, đẻ ra Cái Đẹp NBC!
*
«La pureté est le pouvoir de
contempler la souillure»:
Làm sao ai có đủ trong trắng để ngắm cho được tham nhũng soi mòn, chỉ
có trẻ
con mới làm được mà trẻ con thì có tiếng nói gì đâu!
"Thiên Sứ" của Sến Cô Nương, là từ nguồn này.
« Il y a alliance naturelle
entre la vérité et le malheur, parce
que l'une et l'autre sont des suppliants muets, éternellement condamnés
à
demeurer sans voix devant nous."
Siomone Weil
“Có một sự đồng thuận tự nhiên giữa chân lý và bất hạnh, bởi vì cái này
cái kia
đều là những van xin câm nín, ngàn đời bị kết án phải lặng thinh trước
chúng
ta.”
Để chứng minh, bà trình bầy câu chuyện cổ của Grimm, dưới đây.
Bằng
chứng được Nevin kiên nhẫn nêu ra trong cuốn sách đáng ngại của ông [Simone
Weil: Portrait of a Self Exiled Jew (North
Carolina)], khiến chúng
ta lập
tức như bị co thắt lại, bởi một thứ tình cảm sắc bén, sâu thẳm. Một
cách nào
đó, ‘kẻ đứng ở bên lề được chọn lựa’ này, thì ghen với Chúa, ghen với
tình yêu
vô vàn của Người. Bà cảm nhận ra được tình yêu vô vàn của Người, hình
ảnh của
Người, ở trong tâm khảm của mình, nhưng không thể đem ra ngoài, dựa vào
hình ảnh
đó để mà xây dựng nên bản sắc riêng cho bà. Ghen – có thể như là Thánh
Têrêxa
Đavila và Thánh Gioan Thánh Giá - với những cơn quằn quại của Người,
trong thân
xác Đứa Con bị khổ nạn. Từ đó, ít ra, chúng ta có thể có câu trả lời,
tuy không
đầy đủ, đến từ thứ ngôn ngữ sầu não và nhạo báng - tiếng Do Thái
Yiddish, thứ
tiếng mà bà không biết hoặc có thể, coi thường. Simone Weil, chắc chắn,
là người
đàn bà đầu tiên giữa các triết gia. Và bà cũng là người bất hạnh siêu
việt.
G. Steiner
*
Co ai "noi nang" chi may bai cua Weil khg vay?
Khg biet co ai kien nhan doc?
Phúc đáp:
Cần gì ai đọc!
Tks. Take care. NQT
*
Date: Tuesday, March 31, 2009, 5:05 PM
Bac viet phach loi nhu the nay - ky qua...
*
Thi phai phach loi nhu vay, gia roi
*
Gia roi phai hien ma chet!
Đa tạ.
Nhưng, phách lối, còn thua xa thầy S: Ta là bọ chét!
Ngô
Bảo
Châu, Nobel Toán
Đi
‘giang hồ’, về, lục lọi mớ
sách ngổn ngang vì những lần dọn nhà, chỉ để kiểm chứng giai thoại giải
thích tại
sao không có Nobel Toán: Bà vợ của ông Nobel quả có lén lút quan hệ
‘ngoài luồng’,
‘lề trái’, với Mittag Leffler, một cây toán
người Thuỵ Điển vào lúc đó, và giả như có Nobel
Toán, ngoài ông này ra, còn ai xứng đáng hơn?
Giai thoại này còn cho thấy, toán
gia thì toán gia, có ai thoát ra ngoài thường tình?
Chứng cớ hiển nhiên, nóng hổi:
Nghe tin hành lang, ngoài ta ra thì còn ai nữa xứng đáng hơn, để lãnh
Fields, thế
là họ Ngô ta bèn vội vàng xin cái quốc tịch Tây.
Cái sự
xin vô quốc tịch Tây
này của NBC xem ra hơi giống GNV, khi hăm hở học tiếng Tây, từ những
ngày còn học
trường Nguyễn Trãi, Hà Nội, chỉ để làm sao viết được cái thư cám ơn Ông
Tây,
chồng Cô Dung của GNV: Không có ông, là không có GNV.
C'est à vous que je dois tout!
Có thể,
chính là do hăm hở
học tiếng Tây, mà GNV được hạnh phúc hạnh ngộ BHD, những ngày ở Sài
Gòn, vì ông
bô của em là một cây tiếng Tây, chủ nhân cả lố sách dậy tiếng Tây,
trong có bộ
Classes Francaises (?).
Ui chao, Gấu đã từng được em cho phép làm vệ sĩ, những lần theo
em đi đòi
tiền bán sách học tiếng tây của ông bố, tại một số tiệm sách ở
Sài Gòn!
Những
nhà toán học thù ghét
nhau, tất nhiên, nhưng họ thù ghét nhất, là những nhà vật lý học, theo
René Thom,
người Pháp, giải thưởng Fields 1958, khi 35 tuổi.
Thom,
tác giả câu GNV đã từng
thuổng, những nhà toán học thì buồn vì không thể chia sẻ niềm vui khám
phá với
những kẻ vô thần về toán [les mathématiciens sont tristes de ne pouvoir
faire
partager la joie de leurs découvertes aux non-mathématiciens], còn
là tác giả của Thuyết tai ương, thảm họa [Théorie des
catastrophes].
*
Il vient de recevoir la
médaille Fields, le « Prix Nobel » des mathématiciens.
Rencontre avec un
extraterrestre.
"On m’appelait “vit la nuit”
», se souvient Cédric [Villani]
Gặp gỡ người ngoài hành tinh có nick là 'vit
la nuit'.
Hình như cái tay Thái Dúi gọi
NBC là ‘viên ngọc của người nước Ngô’?
Đúng là những cái tên tiền định,
Của… Gấu: Khẩu súng của cả nước!
Gấu
được bạn PNC, trong Thất
Hiền, ban cho cái nick là Trâu Nước: Làm hùng hục như trâu!
*
Steiner, trong A Death of Kings,
cho rằng,
trước cái tuổi dậy thì, thì ba món ăn chơi ngỡ ngàng hứng thú, thứ ưu
việt, của
giống người là âm nhạc, toán học và cờ tướng. Liền đó, ông vinh danh
Lévi-Strauss và cơ cấu luận: Levi-Strauss nhìn thấy ở trong sự phát
minh ra
giai điệu “chiếc chìa khoá mở ra niềm bí ẩn tối thượng’ của con người –
nó là
cái manh mối mà nếu chúng ta mò theo thì có thể sờ vô được cái máy trời
đặc dị,
cái thiên tài chủng loại.
[Music and mathematics are among the
preeminent wonders
of the race. Levi-Strauss sees in the
invention of melody "a key to
the supreme
mystery"
of man - a clue, could we but follow it up, to
the singular structure and genius
of the
species].
Trước tuổi dậy thì?
Nhan sắc đó chớ nên tàn nhẫn
vội! Đinh Hùng
Vẫn
trong bài viết, Steiner
cho biết Mozart viết những dòng ‘thần nhạc’ - thứ âm nhạc đầy thẩm
quyền, không
thể nào nghi ngờ được, và quyến rũ, khả ái - trước khi lên tám [Mozart
wrote
music of undoubted competence and charm before he was eight]. Mới lên
ba, như
người ta kể lại, Gauss đã biểu diễn những cuộc chơi toán học rất ư là
rắc rối,
phức tạp, và khi chưa được 10 tuổi, cậu đã chứng tỏ mình là 1 nhà toán
học lanh lẹ thần kỳ và cũng khá sâu xa [At the age of three, Karl
Friedrick Gauss
reportedly
performed numerical computations of some intricacy; he proved himself a
prodigiously rapid but also a fairly deep mathematician before he was
ten]…
|