|
V/v Ngô Bảo
Châu Nobel Toán!
Có
mấy chi tiết, hay ‘trùng hợp’ thật thú vị.
Ngày ông được giải thưởng Fields là 19/8/2010.
19/8 là ngày gì, khỏi cần giải thích
Ông vô quốc tịch Pháp năm 2010, năm ông lãnh Nobel Toán: Liệu
tình cờ hay
cố ý của.. ‘lịch sử’?
Cái vụ quốc tịch này, làm Gấu nhớ vụ của Gấu, khi được là công dân
Canada, tất
nhiên có quốc tịch Canada: Bà Trẻ của Gấu, ở Sài Gòn, nghe Gấu gọi điện
thoại
báo tin mừng quá, nói, bây giờ cháu lại được làm người rồi.
Còn v/v tình cờ hay cố ý của lịch sử, xin đọc Martel, khi ông phán về
Kafka vs
Hitler dưới đây.
Post bài viết của Đỗ Trung Quân, trên Tiền Vệ, sau đây, và có ý kiến
thêm, v/v
hai mặt của tấm huy chương:
Không thể viết như vậy về trường hợp đặc biệt của Ngô Bảo Châu được. Sự
khai
thác 'tối đa' đời tư của Ngô Bảo Châu, sợ rằng do nhà nước bật đèn
xanh,
để trả
đũa vụ ông vô quốc tịch Tây, và ký tên vô danh sách bô xịt, cũng nên?
*
19 tháng 8-2010 là một ngày
ngây ngất của người Việt Nam khi giáo
sư Ngô Bảo Châu nhận huy chương Fields — giải toán học danh giá bậc
nhất thế
giới.
Ông mang hai quốc tịch Việt và Pháp — ông vào quốc tịch Pháp đầu năm
2010.
Tổng thống Pháp đã chúc mừng và cảm ơn ông khi ông mang lại niềm vinh
dự cho
nước Pháp.
Nước Pháp biểu lộ vừa đủ thái độ trân trọng và văn hoá ứng xử. Nước ta
chưa kết
thúc ở đấy.
Tuổi nhỏ của giáo sư đã bị báo chí ta xới lên. Trang Blog của giáo sư
đã bị
trưng bày. Sắp tới sẽ là phòng ngủ và toilet...
Giáo sư khổ rồi. Với kiểu cách của báo chí Việt Nam, đời tư của ông sẽ
không
còn là đời tư nữa.
Hai mặt của tấm huy chương là thế.
Chia sẻ niềm vinh hạnh là người Việt Nam với ông và cũng chia sẻ nỗi
mệt mỏi
sắp có của ông qua [trước] báo chí nước nhà.
Căn bịnh thần thánh hoá, thái quá và thích bơi móc đời tư của xứ ta đã
quá
nặng, đã miễn kháng với mọi thứ thuốc.
Bó tay.
Chia vui và động viên ông cố mà chịu đựng.
*
Phòng ngủ và toilet!
Dám lắm!
Khám
phá lớn lao, là để dành cho thiên tài.
[Il n’y a pas de grandes découvertes sans un auteur de génie]
Gấu
cũng hay mò vô blog của ông, nhưng thú thực, thua. Già quá rồi. Mấy bài
toán
của Jennifer Tran, mà ông ngoại cũng bí!
Hôm nay nhân
loại nói chung một tiếng nói
Khi là một học
sinh trung học, tôi rất say mê môn toán. Mỗi lần sung sướng vì tìm ra
được lời
giải cho một bài toán khó, khi cảm thấy có những lúc gần gụi sự bí mật
của những
con số, tôi vẫn thấy mình bất lực vì không làm sao chia sẻ niềm vui với
tất cả,
ngoại trừ một thiểu số bè bạn cũng mê toán như tôi.
René Thom
cho rằng toán học gia là những người rất buồn vì họ không thể chia sẻ
niềm vui
với những người không phải là toán học gia, và ông tự hỏi, toán học có
phổ
thông không. Người da đỏ, người Trung Hoa có lý giải, raisonner, như
những người
Âu châu?
Ông là người
Pháp, giải thưởng Fields, 1958, tương đương với Nobel. Sở dĩ không có
giải thưởng
Nobel về toán, chỉ vì mối giao tình giữa bà vợ của Nobel với một toán
học gia
Thuỵ Điển khi đó, và giải thưởng này nếu có, sẽ về tay ông ta, một điều
không một
ông chồng nào muốn.
Toán là một
môn học phổ thông, chắc chắn như vậy, theo René Thom. Thoạt kỳ thuỷ,
toán học gốc
Hy Lạp, hoặc ít nhất có hình thức thông minh cổ Hy Lạp. Nhưng bằng
những con đường
khác biệt, cuối cùng các sắc dân cũng đi tới những kết luận mang tính
luận lý
như nhau. Người da đỏ, khi xây dựng những ngôi đền, người Trung Hoa,
khi hoàn
thiện âm lịch, họ cũng đã "bịa đặt" ra hình tam giác, và tìm ra những
tính chất của nó, cùng lúc với những người Hy Lạp. Sự trùng hợp này
không phải
vì có một tam giác như vậy ở ngoài đời, mà vì nó đáp ứng nhu cầu trí
tuệ của
nhân loại. Cũng theo ý nghĩa đó, nhân loại cần tới văn chương, triết
học, nghệ
thuật... Tới mức mà, giả sử không có một London, một St. Petersburg thì
Dickens, Dostoevsky cũng phải bịa đặt ra chúng. Và những thành phố
hoang tưởng
như Bouville của Sartre, như Macondo của Garcia Marquez, hoặc Đào
Nguyên, Thiên
Thai... của huyền thoại Đông Phương nhiều khi thật, sống động hơn những
thành
phố có thực trên thế giới.
Nhưng chúng
ta mang ơn những người Hy Lạp ở nghệ thuật chứng minh. Theo René Thom,
người
Trung Hoa, Người Nhật, người Da đỏ ghi nhận (constater) chứ không chứng
minh.
Ngược lại, lý luận Hy Lạp không hề có nhảy đoạn trong lý giải
(raisonnement).
Trong những
ngày trung tuần tháng Bẩy 1995, tại Đại Học York, Toronto, đã diễn ra
cuộc thi
Toán Quốc tế lần thứ 36, giữa những toán học gia tương lai của nhiều
quốc gia
trên thế giới, nhật báo địa phương, Toronto Star, viết: Hôm nay nhân
loại nói
chung một tiếng nói.
Phái đoàn Việt
Nam gồm 6 em, 2 huy chương vàng, 3 huy chương bạc, một đồng. Cuộc thi
thực sự
mang tính cách cá nhân, nhưng so số điểm, phái đoàn Việt Nam đứng hạng
Tư, sau
Trung Hoa, Romania, và Russia.
"Những
toán học gia đều buồn...", tôi bỗng nhớ những ngày còn học Trung học,
nhớ
tới câu nói của René Thom, buổi tối tại một nhà hàng ở Toronto. Nỗi
buồn càng
thấm thía hơn qua câu nói khi giã từ của một em trong đoàn: Giá Việt
Nam được xếp
hạng tư trên thế giới về văn minh, và nếp sống hiện đại thì sung sướng
biết chừng
nào!
Hoang tưởng
trong văn chương thì chẳng sao, nhưng hoang tưởng trong quản lý kinh
tế, trong
quan hệ đối xử giữa con người với con người - vốn quí nhất của xã hội -
chỉ những
người Cộng sản mới có riêng cho họ thứ ngôn ngữ đó.
Nhưng đã có
một thời, những triết gia như Henri Lefèbvre, Aron, Merleau-Ponty... đã
mơ tưởng
một thứ tiếng nói phổ thông, duy nhất, cho toàn thể nhân loại: Chủ
nghĩa Cộng sản.
Thứ tiếng nói phi chính trị, phi triết học, phi vong thân. Trước sự sụp
đổ của
chủ nghĩa Cộng Sản, Louis Althusser - trước thềm cái chết - đã ngậm
ngùi than
thở, chúng ta đã sản xuất ra một triết học "ảo" cho Marx, một thứ triết
học không có trong tác phẩm của ông.
Trong bài mở
đầu cuốn Signes (Ký hiệu,
1960), Merleau-Ponty viết: "Chủ nghĩa
Marxisme
tìm thấy trong lịch sử những thảm kịch trừu tượng về Hữu thể và Hư vô,
nó đặt
vào đó gánh nặng siêu hình lớn lao; điều này đúng, vì nó nghĩ tới bộ
khung, tới
kiến trúc tính của lịch sử, tới sự xen lẫn, bổ sung giữa vật chất và
tinh thần,
giữa con ngừơi và thiên nhiên, giữa hiện hữu và ý thức, trong khi triết
học chỉ
đưa ra được bài toán đại số và bản thiết kế. Thu tóm toàn bộ nguồn gốc
nhân loại,
chính trị cách mạng đi qua trung tâm siêu hình này. Nhưng trong thời kỳ
gần
đây, chính trị chỉ là thủ đoạn, một chuỗi đứt đoạn những hành động,
những giai
đoạn không có ngày mai, và người ta 'buộc' vào đó tất cả những hình
thức của
tinh thần và của cuộc sống. Thay vì nối kết những đức hạnh, triết học
và chính
trị chỉ trao đổi cho nhau những cái xấu: Người ta có một thực hành quỉ
quyệt và
một tư tưởng mê tín."
Bạn đọc thấy
ngay từ những năm 60, Merleau-Ponty đã nhìn thấy rõ kết cục bi thảm của
tương
lai Cộng sản Việt Nam hiện nay: Hành động dã man, tư tưởng tín điều.
Lý do là,
theo Merleau-Ponty, "nối kết mác-xít giữa triết học và chính trị đã đứt
rời".
Và người ta cứ coi như nó vẫn như thế, theo nguyên tắc, trong thế giới
tương
lai, nghĩa là thế giới ảo tưởng, điều Marx đã nói: "Triết học, cùng
lúc,
được thực hiện và tiêu huỷ bởi lịch sử, cái phủ định thì cứu vớt, cái
tiêu huỷ
thì hoàn tất." (La philosophie à la fois réalisée et détruite par
l'histoire, la négation qui sauve, la destruction qui accomplit.
Signes, p.13).
Và ngay từ năm 1960, Merleau-Ponty đã tỏ ra sáng suốt, khi kết luận:
"Cuộc
vận hành siêu hình đó đã không xảy ra." Thời đại đã chứng rõ ràng là,
trong khi qui luật mác-xít đòi hỏi, đừng tiêu huỷ triết học nếu không
thực hiện
nó, thực tế Stalinienne tiêu huỷ triết học, giản dị có vậy.
"Những
cuộc phiêu lưu của biện chứng pháp", của Merleau-Ponty, xuất bản năm
1955,
ghi lại những chặng đường phiêu lưu của chủ nghĩa Marxisme, kể từ những
người
Bônsêvích tới Sartre, qua G. Lukács, tác giả cuốn Lịch Sử và Ý Thức
Giai Cấp,
có thời được coi là Tân Thánh Kinh của những người Cộng Sản, dù sau này
tác giả
phải phủ nhận tác phẩm khi bị buộc tội theo chủ nghĩa xét lại. "Những
cuộc
phiêu lưu tới đó là hết."
Marx, chương
cuối trong 11 chương luận về Feuerbach, đã đưa ra một công thức nổi
tiếng bao gồm
hết tham vọng lớn lao của ông: "Các triết gia chỉ cắt nghĩa thế giới,
bằng
cách này cách nọ, nhưng vấn đề từ nay là phải thay đổi nó đi". Thay vì
trung thành với ông, chủ nghĩa Marxisme, ấn bản Bônsêvích đã đưa vào đó
ý niệm
Léniniste về tập trung dân chủ và quan niệm Trotskyste về cách mạng
thường trực.
Tư tưởng này đã làm đảo điên thế kỷ 20. Cuộc Cách mạng Nga 1917 càng
làm lời
tiên tri của Nietzsche là đúng: "Thời đại của những cuộc chiến tranh
lớn
lao, nhân danh những tư tưởng thù nghịch." Lịch sử của thế kỷ đã nhịp
nhàng diễn ra qua bốn tiến trình kể từ cách mạng Bônsêvích: Thắng thế
của chủ
nghĩa Léninisme trước chủ nghĩa xét lại của Bertein, và dân chủ xã hội
của
Kautsky; chủ nghĩa Stalinisme nở rộ và chiến thắng Nazi mở ra đế quốc
xô viết;
chiến tranh lạnh với những quốc gia dân chủ Tây phương, sự đối đầu giữa
hai khối
ý thức hệ, được củng cố bằng những liên minh quân sự, dưới lưỡi gươm
ghê rợn của
một cuộc chiến tranh nguyên tử; sự sụp đổ tàn khốc và cùng lúc của
Liên-bang
Xô-viết, đế quốc Cộng Sản, và của chủ nghĩa Mác-Lê như là Ý thức hệ
quốc gia.
Triết gia
Kostas Papaioannou lại giải thích tiến trình trên qua "hai mặt nạ lãng
mạn"
đã đi theo suốt cuộc đời Marx: Prométhée và Lucifer. Về phía Prométhée,
đó là sự
phân tích xã hội kỹ nghệ. Về phía Lucifer, lý luận về chủ nghĩa tập
trung, những
cuộc chiến toàn thể, ai thắng ai.
(Tài liệu
tham khảo: Tạp chí Văn học, Le
Magazine Littéraire, số đặc biệt về
Marxisme. Phần liên quan
tới René Thom, trích từ Les vrais
penseurs de notre temps, tác giả Guy
Sorman [nhà xb
Fayard, tủ sách Bỏ Túi])
Maurice
Merleau-Ponty (March 14, 1908 – May 4, 1961) was a French
phenomenologist
philosopher, strongly influenced by Edmund Husserl, and often somewhat
mistakenly classified as an existentialist thinker because of his close
association with Jean-Paul Sartre and Simone de Beauvoir, and his
distinctly
Heideggerian conception of Being
From
Wikipedia, the free encyclopedia
Maurice
Merleau-Ponty , triết gia hiện
tượng học Pháp, ảnh hưởng nhiều từ Edmund Husserl, thường bị hiểu lầm
là triết
gia hiện sinh, do cặp kè với đám Sartre và de Beauvoir, và do quan điểm
mang
tính Heidegger của ông về Hữu Thể.
Prigorine vs René
Thom
Có
một vài bác
không quen, bình thường cũng tỏ ra rất hiểu
biết, lần này cứ thắc mắc về chuyện NBC là lề trái hay lề phải.
Xin thưa,
bám theo lề là việc của con cừu, không phải việc của con người tự do.
NBC
Note: Con
người tự do chọn lề cho nó, con cừu không chọn lề được. NQT
Tôi có thêm quốc tịch Pháp từ đầu năm 2010, nhưng vẫn giữ
quốc tịch Việt Nam. Quốc tịch Pháp tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi
lại. Mặt
khác, tôi có nghĩ trong trường hợp có cái huy chương, bên cạnh toán học
VN,
toán học Pháp sẽ vì thế mà được vinh danh một cách xứng đáng.
NBC
Câu trả lời
làm nhớ đến Naipaul khi được Nobel, ông tặng nó cho Anh quốc, nếu Gấu
nhớ không
lầm? [để coi lại, sau]
Có một vài
bác không quen, bình thường cũng tỏ ra rất hiểu biết,
lần này cứ thắc mắc về chuyện NBC là lề trái
hay lề phải. Xin thưa, bám theo lề là việc của con cừu, không phải việc
của con
người tự do.
NBC
Note: Con
người tự do chọn lề cho nó, con cừu không chọn lề được. (1)
NQT
(1)
Hà Minh nói:
22/08/2010
lúc 11:36 sáng
Trương Thái
Du không biết rằng loài cừu tuy ngu nhưng rất kỷ luật theo lề của những
con chó
chăn cừu hung ác, loài chó ấy ở Úc có tên là Kelpie, họ Trương nên lên
wiki tra
xem Kelpie là gì
http://en.wikipedia.org/wiki/Kelpie_(dog)
những con
chó chăn cừu sẵn sàng cắn xé bầy cừu nếu không chịu đi theo lề, và cũng
chỉ có
loài cừu mới chịu phục tùng vô điều kiện, vì vậy Ngô giáo sư đã có một
ví von hết
sức chính xác.
Nguồn talawas
Bài viết của
TD xâu chuỗi 3 nhân vật PT, DTS, NBC. Mỗi trường hợp mỗi khác. Trường
hợp PT
không mắc mớ đến 2 trường hợp sau. Cũng khó kết nối DTS với NBC.
Ở NBC là khám phá
lớn lao của thiên tài, đúng như câu TV trích dẫn, từ cuốn của Guy
Sorman, “Những
tư tưởng gia thứ thiệt của thời đại chúng ta”, “Les vrais penseurs de
notre
temps”, [nhà xb Fayard, tủ sách Bỏ Túi]:
Khám phá lớn lao, là để dành
cho thiên tài.
Il n’y a pas de grandes découvertes sans un auteur de génie.
Nhân
loại đã phải đợi bao nhiêu năm trời, mới xuất hiện thiên tài toán học
NBC, giải
ra được bổ đề cơ bản Langlands.
Không ai có
thể phủ nhận thành tích cá nhân của họ Ngô, nhưng người Việt Nam nên
chừa chỗ
trăn trở với sự thụt lùi giá trị của mình ở tầm nhân loại, hơn là mù
quáng đeo
bám niềm hãnh tiến vô độ với huy chương Fields.
Me-xừ Thái
Dúi phải 'minh bạch hoá', ‘sự thụt lùi giá trị của Mít ở tầm nhân
loại’, là về
cái gì?
Thảo nào Naipaul tởm
cái xứ mà ông tới từ đó, mặc dù nước Ấn của cha ông của ông chưa hề
phạm tội đại ác, làm thịt thằng em ruột thịt của nó.
Gấu này cũng
rất tởm, một tên, hay nhiều tên, Thái Dúi, ở trong... Gấu!
*
Tôi có thêm
quốc tịch Pháp từ đầu năm 2010, nhưng vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Quốc
tịch
Pháp tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại. Mặt khác, tôi có nghĩ
trong trường
hợp có cái huy chương, bên cạnh toán học VN, toán học Pháp sẽ vì thế mà
được
vinh danh một cách xứng đáng.
NBC
Câu trả lời
làm nhớ đến Naipaul khi được Nobel, ông tặng nó cho Anh quốc, nếu Gấu
nhớ không
lầm? [để coi lại, sau] (1)
(1) He [Naipaul]
disdains the country he came from: “I was born there, yes. I thought it
was a
mistake.” When he won the Nobel Prize, in 2001, he said it was “a great
tribute
to both England, my home, and India,
the home of my ancestors.”. James Wood
Ông ta tởm xứ sở mà ông đến
từ đó: "Đúng rồi, tớ sinh ra ở đó. Nhưng đó là
một lỗi lầm".
Khi ông được Nobel, 2001, ông tặng nó cho Anh quốc, nhà
của
ông, và cho Ấn, nhà của tổ tiên của ông.
Ui chao, giá như mà Gấu có
thể phán như thế, về xứ Bắc Kỳ, quê hương của Gấu!
Giữa lòng đen Hà Lội
My
homeland was a feeling, and that feeling was mortally wounded…What we
swore to
uphold no longer exists… There was a world for which it was worth
living and
dying. That world is dead”.
Sándor Márai: The Candles Burn Down (1)
Quê Bắc của
tớ là một cảm nghĩ, và cảm nghĩ này bị thương tổn trầm trọng… Điều
mà tớ quyết tâm gìn giữ cho bằng được, thì đếch còn nữa… Có một cõi Bắc
Kít thật
đáng sống, đáng chết vì nó. Cái cõi đó ngủm củ tỏi mất rồi. NQT
The
nation either co-opts its greatest writers (Shakespeare, Goethe,
Camoens,
Tagore), or else seeks to destroy them (Ovid's exile, Soyinka's exile).
Both
fates are problematic. The hush of reverence is inappropriate for
literature;
great writing makes a great noise in the mind, the heart. There are
those who
believe that persecution is good for writers. This is false.
[Nhà
nước hoặc o bế những nhà văn lớn lao nhất của nó, hoặc, tìm cách huỷ
diệt họ.
Cả hai số phận đều khốn khổ khốn nạn. Đều vấn nạn. Im lặng cung kính
đếch có
hợp với văn chương; viết lớn gây ồn lớn, ở trong đầu, trong tim. Có
những người
tin rằng, bách hại, khu trục, làm thịt... là tốt cho nhà văn. Bố náo,
bố nếu!
Notes on
Writing and the Nation
*
Lạ cái là anh chàng Châu này,
vừa rồi (2010) đã nhập tịch Pháp,
trước khi chuyển qua Mỹ ở và làm việc hẳn.
Đặng Thái Sơn có thế không nhỉ?
Trương Thái Dúi
Đúng là Thái Dúi!
*
Quốc
tịch Pháp tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại.
NBC
Câu
này làm nhớ đến vị Tổng Giám Mục địa phận Hà Nội, cầm hộ chiếu VC đi
đâu cũng
thấy nhục.
Làm
nhớ đến… Gấu, được làm người trở lại nhờ có cái quốc tịch Canada.
Còn
DTS, thì sao nhỉ?
[Câu
này ‘được ăn cắp’ của TD!]
Gấu
cũng đã từng có cơ may có được quốc tịch Pháp, 'như' NBC, như đã từng
kể:
Sau khi đậu
thanh lọc, được coi là tị nạn chính
trị, tụi này được xe hơi Cao Uỷ rước ra khỏi trại cấm Sikiew, chuyển
lên trại
chuyển tiếp Panat Nikhom, chờ gặp phái đoàn các nước, theo lịch trình,
ghé trại,
phỏng vấn, nhận người.
Trong khi chờ đợi, vốn có chút tiếng Tây dằn bụng, Gấu mon men làm quen
mấy cô
giáo dậy tiếng Tây thuộc phái đoàn Pháp. Trưởng đoàn là một vị đại tá
về hưu.
Mấy cô xúi, sao không xin đi Tây.
Bèn viết đơn, nhờ mấy cô chuyển giùm.
Viên đại tá bèn cho Gấu được gặp riêng.
Ông phán:
-Tôi đã coi hồ sơ của anh. Anh dễ dàng được các nước khác chấp nhận.
Tôi đề nghị,
anh đã từng làm bồi Mẽo, thì tốt nhất, là, lại xin đi làm bồi Mẽo, ở
ngay nước
Mẽo. Nhưng nếu anh không thích Mẽo, mà có lẽ tôi đoán đúng như vậy, thì
nên đi
Canada. Ở đó có vùng Quebec, Montreal, nói tiếng Tây.
Thấy tôi tiu ngỉu, ông giải thích thêm:
-Không phải là tui chê anh. Nhưng như anh biết đấy, Pháp là nơi dành
cho những
người bị mọi nơi chê, không thèm. Bản thân tôi, tôi chỉ mong giúp đỡ
được một
phần nào, những con người không một nơi nào chấp nhận đó. Tui cũng
"khoái" anh đấy, nhưng nếu lấy anh, là mất một suất dành cho mấy người
kia.
Sau này, đọc Sự Bất Hạnh Của Những Người Khác, Le Malheur Des Autres, của một
ông Tây, Bernard Kouchner, hội trưởng hội Y Sĩ Không Biên Giới, ông cho
biết,
đây là chính sách, policy, của nước Pháp, khi làn sóng tị nạn Việt dâng
cao,
vào thập niên 1980: Chỉ nhận những người tị nạn bị mọi nơi chê, những
người tìm
nơi nương náu [... ceux dont personne ne voulait, les candidats à
l'asile en
France].
Có thể, theo Gấu tui, chính sách này đã được "gợi hứng" từ Nỗi Đau
Vàng, Le Mal Jaune, tên một
tác phẩm của một ông Tây, nói lên hội chứng Hậu-Điện
Biên, của mấy ông Tây sau khi bị Mẽo tống ra khỏi đất nước này. Hoặc là
một
cách biến câu nói của Malraux trở thành hiện thực: Người Pháp ra đi,
nhưng nước
Pháp ở lại [Việt Nam].
Một cách nào đó, Gấu tui đã được Canada nhận, là qua tinh thần nhân bản
trên,
không chỉ của người Tây, mà còn của người Canada.
Bởi vì sau khi thấm đòn của viên đại tá Tây, ngay khi phái đoàn Canada
vô trại,
Gấu tui bèn nạp đơn liền, xin được phỏng vấn.
Tay trưởng đoàn, lật lật mấy trang hồ sơ Cao Uỷ Tị Nạn, và khi nghe Gấu
tui
nói, đã từng viết văn, và bị tù, rồi phải bỏ chạy quê hương, "một phần
là
do nó đấy", bèn gấp ngay lại, gật gù phán:
-Thôi được. Nghe đây: Chương trình lấy người tị nạn vào nước Canada của
chúng
tao, có tên là Nhân Lực, Man Power. Nước chúng tao đang cần người làm
cu li,
làm thợ, làm nhân công, chứ không cần nhà văn, nhất là thứ nhà văn viết
tiếng
Vịt như mày. Tao ngó mày, thấy già quá rồi, hết xí oát,
không thuộc
diện Nhân Lực. Nhưng thôi, chỉ cần nghe mày nói, mày là nhà văn, và đã
từng đi
tì vì nó, là tao nhận. Dù rước về, chỉ để nuôi báo cô!
Ấy là Gấu tôi diễn theo ý nghĩ Việt Nam, của một thằng Bắc Kỳ đã từng
bỏ chạy đất
bắc năm 1954, và bỏ chạy đất nam, năm 1989, những lời nói thật đơn giản
của ông
Canada già thật nhân hậu này:
-Thôi, mày nói vậy, là tao hiểu rồi. Tuy đây là chương trình Nhân Lực,
nhưng
lâu lâu, nhận một người như mày, cũng không sao.
Sách Quí 3
Trong đời Gấu tôi được gặp ba
ông Tây. Ông nào cũng bảnh cả.
Ông Tây thứ nhì, là vị cha già trụ trì nhà thờ St. Francis ở thủ đô
Bangkok.
ÔngTây già này, khi nghe Gấu tui lí nhí nói lời cám ơn, [trong lần ông
dẫn tụi
này tới nạp cho cảnh sát Thái, vì cái vụ nhập cảnh bất hợp pháp, như đã
kể
trong bài Hồn Thiêng Thành Phố thức giấc ở trong tôi], đã phán:
-Tao phải cám ơn mày mới phải. Bởi vì Chúa cho tao sinh ra, và sống ở
trong cõi
đời này, là để làm những việc như thế. Giả sử không có những việc như
thế, làm
sao có tao?
Về già nghĩ lại, bao chuyện may
rủi trên đời, đều là do chuyện mê
toán của Gấu mà ra cả. Nhờ mê toán mà Gấu được Ông Tây, chồng Cô Dung,
để mắt tới.
Bà cô tuy thương Gấu, đem về nuôi, là chỉ để cho thằng cháu không quá
đói khổ,
nhưng người quyết định việc học, và từ đó, tương lai của Gấu, lại là
Ông Tây.
Như Gấu tôi đã có lần kể lại,
bà cô, tuy bề ngoài lạnh lùng, nhưng
lúc nào cũng để ý đến thằng cháu, qua... Ông Tây. Một lần bà nói, “Ông
Tây bảo,
mày còn ngu hơn thằng Hìu, em anh Mỹ”.
Anh Mỹ, là bồi của Ông Tây Trẻ, ở cùng villa với Ông Tây Già, chồng Cô
Dung, ở
đường Nguyễn Du, bên hồ Halais, Hà Nội.
Đó là một buổi chiều, Ông Tây
đi làm về. Có bà cô ngồi trên xe.
Khi xe làm hiệu rẽ vào cổng, thằng cháu nhanh nhẩu tập làm bồi, mở vội
hai cánh
cổng bằng sắt. Thằng Hìu đứng bên, dơ tay chặn lại. Không hiểu làm sao
nó biết,
hai người chỉ đậu xe, về nhà thay đồ, và còn đi shopping.
Lần thứ nhì đụng độ Ông Tây, là
bữa Gấu mê mải làm toán, ngay hành
lang trước villa. Không cần giấy, mà giấy ở đâu ra, Gấu dùng phấn vẽ
ngay trên
mặt gạch, cứ thế chúi đầu vào bài toán hình học. Đâu có thua gì Phạm
Ngũ Lão
ngày xưa, mê mải dàn quân bày trận - ở trong đầu - đến nỗi bị lính thọc
mũi
thương vào đùi mà vẫn tỉnh bơ! Gấu không nghe tiếng xe, tiếng cổng sắt
mở, tiếng
chân Ông Tây tới sát bên Gấu… Chỉ tới khi ông hừ một tiếng, rất ư là
hài lòng,
thấy Gấu giải ra được bài toán hình học.
Và sau đó, lầm lầm lì lì bỏ vào trong nhà.
Ông là kỹ sư, và hình ảnh thằng nhỏ đang say sưa với bài toán đến nỗi
quên phận
sự làm bồi, không mở cổng cho ông, có thể làm ông nhớ lại thằng nhỏ-là
ông ngày
nào.
Bữa sau, bà cô mặt mày tươi
rói, cải chính câu nói bữa trước,
“Không, Ông Tây nói, mày thông minh hơn thằng Hìu!”
Ông Tây già,
chồng Cô Dung, không chỉ khám phá
ra "thiên tài toán" của Gấu: Ông khám phá ra Gấu.
Không có ông, là không có Gấu.
Lẽ dĩ nhiên, vẫn có một thằng Bắc Kỳ, với số phận hẩm hiu của nó, quanh
quẩn
sau luỹ tre làng, lâu lâu đói ăn, bèn bò xuống làng ông Ngoại, cách vài
khúc
đê.
[Lần trở lại đất bắc, điều làm Gấu ngẩn ngơ, là không còn luỹ tre/ Gần
như
không làng nào còn luỹ tre. Làng của Gấu như trơ ra, gồng mình chịu
đựng mặt trời
đỏ như máu, và nóng như lửa.]
Nhờ ông Tây, Gấu có giấc mơ "vượt biển" đầu tiên. Đó là giấc mơ, cố học
cho giỏi tiếng Tây, để viết một cái thư bằng tiếng Tây, cám ơn một ông
Tây thuộc
địa.
Giấc mơ đó có gì tương tự với trường hợp cô bé câm. Một khi biết đọc
biết viết
tiếng Tây, thì những dòng tiếng ngoại đầu tiên đó, sẽ là, " C'est à
vous
que je dois tout": Cám ơn ông, nhờ có ông mà tôi được như vầy: được tất
cả.
Ngô
Bảo
Châu, Nobel Toán
Sự khác biệt giữa ‘thiên tài’
DTS và NBC là điều gây nên 'nỗi
buồn' của những nhà toán học, như René Thom than thở, và là sự khác
biệt, của
từ ‘đẹp’, ‘beautiful’, giữa nghệ sĩ và nhà khoa học, như Steiner nhận
xét:
Vào năm 1993, khi nhà toán học Andrew Wiles giải được bài toán hắc búa,
là định
lý Fermat, những đồng nghiệp của tôi sướng điên lên, họ nói với tôi:
"Điều
này thật là đẹp! Ông ta đã chọn được một cách giải tuyệt đẹp. (It’s so
beautiful! Il a choisi la plus belle approche.) Với những nhà toán học,
từ
"đẹp" có một ý nghĩa cụ thể mà tôi chẳng thể nào hiểu được.
Phỏng
Vấn Steiner II
Còn điều này thật quan trọng:
Khi NBC giải ra được bài toán hắc búa
Langlands, là cùng một lúc, ông mở toang cánh cửa khoa học, tới những
chân trời mới mẻ. Cả nhân loại đều mừng, vì vậy.
Còn một ông được giải Chopin
năm.. 1900, thí dụ, khi biểu diễn nhạc Chopin,
chắc gì đã ‘thua’ DTS?
Bởi thế, không thể nào xâu một chuỗi, ba ông PT, DTS, và
NBC như anh Thái Dúi ngớ ngẩn làm.
Anh ta còn có vẻ như rất bực về 'cái anh chàng
Châu', mới bực chứ!
Nói đến
toán, là đúng gu của Gấu! Hồi nhỏ đi học, Gấu ‘cực’ giỏi toán. Ngay từ
khi ông
bố còn sống, đã nhận ra thằng con mê toán, thế là tới giờ dậy toán, ở
lớp trên,
ông lôi thằng con đang học lớp dưới lên, cho dự theo kiểu bàng thính!
Trong những
kỷ niệm mơ hồ về toán, Gấu nhớ là đã từng lấy ‘căn số’ [racine, root],
khi còn
nhỏ xíu, học lớp 1, lớp 2 gì đó, là do ông bố lôi lên học lớp nhất bậc
tiểu học!
Khủng nhất,
là lần áp dụng lôgíc toán học vào đời thường: Thấy mấy đứa nhỏ khác bơi
ì xèo
trên mặt ao, Gấu bèn suy nghĩ, nó bơi được thì mình cũng bơi được, thế
là bèn
vô tư nhẩy xuống, may được một anh khá lớn đứng bên, nhảy theo, kéo từ…
đáy ao
lên!
Đây cũng là
kinh nghiệm của một 'nửa nhân loại', mà người đại diện là Ông Trùm Số
Hai CS,
Rubashov, trong Bóng
Đêm Giữa Ban Ngày, trước khi thú tội trước nhân dân, ngộ ra được:
Nhưng đây mới
là mấu chốt của câu chuyện, điều mà bao lần đọc Darkness
at Noon, vì thành kiến, tôi đã
không nhận ra, may nhờ H. Strauss mới thấy được: Trong khi bề ngoài,
Gletkin thắng trận đấu sinh tử tay đôi (duel), một sự thay đổi lớn lao
đã xẩy
ra bên trong Rubashov. Ông lần hồi trở lại "làm người", một con người
của suy tư, cảm nghĩ, của những cảm xúc mang tính chủ quan. Trong khi
cái đầu của
ông tỏ ra hài lòng với Gletkin, trái tim của ông thừa nhận, có lẽ con
người
không nên theo những hiệu quả logic của tư tưởng đến tận cùng. Có lẽ,
lý lẽ
không thôi, là một cái la bàn không hoàn hảo, nó sẽ đưa con người vào
một chuyến
đi đầy dông bão, cuối cùng bến tới biến mất trong đám sương mù.
Đêm
giữa Ngọ
Gấu có nhiều
kỷ niệm về toán, khi đi học. Nhờ giỏi toán, khi học thầy Đoàn Viết Lưu
mà Gấu
được thầy không lấy học phí. Kỷ niệm này thật tuyệt, và cùng với nó, là
những
ngày làm bồi bàn tại tiệm chả cá Thăng Long của gia đình Hoàng Đạo, có
cô con
gái sau lấy tay nhạc sĩ ‘Bây giờ mấy tháng rồi hỡi em?’
Hà, hà!
Mấy đứa cháu Gấu, mà cháu gái,
đều giỏi toán. Jennifer chẳng hạn,
đã lọt vô bán kết, cuộc thi toàn bang Ontario!
Con bé cháu nội Xì Núc
Cơ cũng cực giỏi toán, ngoài toán ra, chẳng biết
gì hết!
Note: Thảo nào anh VC Thái
Dúi phát điên lên!
Chỉ cần một viên phấn
trắng, và một cái bảng đen, nhà toán học phịa ra hơn một thế giới. Ông
thầy Toán Đại Cương của Gấu, Mr. Monavon, đã có lần nhắc tới câu trên,
và giải thích, không hẳn như vậy, và ông cho biết, sự phát triển của
vạn vật, thường là theo những đường biểu diễn, của một số đường cong
trong hình học, thí dụ parabole, hyperbole, cycloid…
Ai có chút
hiểu biết về toán và khoa học, thì cũng biết, những hiện tượng vật lý
thường là có hai cách giải thích, một, bằng phương trình toán học, một,
theo luận lý thông thường. Một học sinh lớp nhất bậc tiểu học, khi giải
toán, sử dụng phép ‘giả thử’ để giải một bài toán đại số dùng phương
trình, thí dụ bài toán ‘gà chó 36 con, bó lại cho tròn đếm đủ 100 chân,
thì mấy gà, mấy chó’.
Gấu đã từng có một kỷ niệm thật là tuyệt vời, liên quan tới ‘vấn nạn’
trên, với ông thầy Trần Văn Viễn, kỹ sư viễn thông, hiệu trưởng trường
Quốc Gia Bưu Điện. Ông thật thương Gấu, và có thể, không có ông, số
mệnh của Gấu thay đổi hẳn đi.
Số là, sau khi đậu Tú Tài 2 ban Toán, mê làm thầy giáo, để tiếp tục sự
nghiệp của ông bố đã được cách mạng cho đi mò tôm ngay những ngày đầu
khởi nghĩa Tháng Tám, Gấu thi vô Sư Phạm, học 3 năm, ban toán. Rớt. Thi
khoá cấp tốc, học 1 năm, rớt luôn. Bèn ghi danh học Toán Đại Cương, mất
1 năm. Năm sau, chuyển qua Toán Lý Hoá, Đại Học Khoa Học, cùng lúc nạp
đơn thi vô Bưu Điện. Đậu, nhưng không đi học, mà lo học Toán Lý
Hoá. Tới đầu năm sau, đến Bưu Điện, lấy lại hồ sơ, tính thi vô Sư Phạm,
nữa. Cái tay thư ký trường khuyên Gấu, mi ngu quá đi, nghèo, lo kiếm
tiền, có tiền, vừa lo cho gia đình, vừa tiếp tục học, để ta trình
trường hợp của mi cho thầy hiệu trưởng, nếu thầy OK, thì đặc cách cho
lên năm thứ hai, không cần học năm thứ nhất, hai năm sau là ra trường,
đi làm, túi rủng rỉnh xu, tha hồ mà học!
Gấu nghe bùi tai, bèn OK. Thế là thầy Viễn kêu vô, hỏi, năm ngoái mi
học MPC, chương trình cũng giống như bên Bưu Điện, nhưng để ta kiểm tra
coi…
Thầy kéo tới
cái bảng đen, đưa cho một viên phấn, và ra đề, một bài toán vật lý, về
điện xoay chiều, Gấu vẫn còn nhớ như vậy.
Giải theo phương pháp luận lý, như ở tiểu học, với phương pháp ‘giả
thử’, thì… yếu quá! Thế là Gấu trổ tài, viết lia lịa những phương trình
toán, thầy cứ ngồi yên theo dõi, tới một lúc, ngăn lại hỏi, đâu có liên
quan tới bài toán, Gấu nói, có, đây này…
Và kết quả đúng như ý thầy muốn!
Ui chao, thầy Viễn mừng quá, OK con gà đen liên tiếp và thế là Gấu
chẳng phải học năm đầu, mà vô liền năm thứ hai, chương trình học 3 năm.
Có thể là do quyết định
của ông Trời, bởi vì nếu Gấu không là một anh chuyên viên Bưu Điện, làm
gì có cơ hội làm thêm cho UPI, lãnh đô Mẽo, tha hồ mà mua sách ngoại.
Nhưng thầy Viễn quả là thương Gấu, vì chính ông quyết định cho Gấu thi
đậu ra trường, trong khi một ông thầy khác, cũng kỹ sư viễn thông, cũng
mới ở Tây về như thầy Viễn, quyết định đánh rớt Gấu!
Cái sự ghét Gấu của thầy Nguyễn Quảng Tuân cũng thật là ly kỳ, và cũng
nên viết ra đây, vì nó, một cách nào đó, thay đổi cái nhìn của Gấu, về
yêu và ghét ở trên đời!
Trong khi, học Bưu Điện, lớp học chỉ có 4 mạng, mỗi đứa một cái ghế, có
mặt bàn luôn, như ở giảng đường đại học, Gấu có thói quen, ngồi ghếch
chân lên ghế trống ở phía trước, thầy Tuân ghét lắm, coi là vô lễ,
nhưng ông không nói ra, chẳng thà nói ra, Gấu biết, thì đâu có dám
ghếch chân nữa. Nhưng thái độ của ông khiến Gấu biết, ông không ưa, thế
là tới kỳ thi ra trường, lo học thật kỹ cours của thầy, cho chắc ăn!
Không ngờ, đề thi của thầy
Tuân thật quá dễ, nhưng bởi vì Gấu chỉ chú tâm cái phần khó nhai, mà bỏ
qua cái phần thật dễ của môn học. Đành bỏ giấy trắng!
Thế là thầy Tuân cho số 0, và như vậy, là rớt. Thầy Viễn hỏi, thầy Tuân
trả lời, thằng đó dốt quá. Ông cười nói, nó số 1 trong 4 đứa, chỉ vì
ông hỏi cái dễ quá, nên nó không trả lời được!
Ôi, quả là đúng thầy của
Gấu!
Thú vị nữa, là những khóa thi Bưu Điện sau này, ông cắt Gấu làm giám
thị, lần nào cũng phạm lỗi, gà bài cho thí sinh. Chửi hoài, thấy không
bỏ được, ông quyết định, chỉ cho những người công chức Bưu Điện dốt nát
đi coi thi.
Cho hết gà!
Đường may mắn.
Hình trên, là một bài toán lớp Đệ Ngũ.
Trên hai cạnh một góc nhọn, lấy hai đoạn bằng nhau AB và CD. Chứng minh:
MN - đường nối trung điểm AC và BD - song song với đường phân giác của
góc.
Gấu đã giải được, nhờ phịa ra thêm một đường.
Thiếu đường vẽ thêm đó, là vô phương!
Có những con đường may mắn như
thế, phải đợi tri âm của nó, hàng bao nhiêu thế kỷ!
Koestler, trong Hành động sáng tạo, The Act of Creation,
viết về trường hợp Kepler: Hình học "cô níc" đã từng được Apollonius of
Perga nghiên cứu từ thế kỷ thứ tư, trước BC, chỉ để vui đùa, giải trí,
và phải đợi Kepler, hai ngàn năm sau, mới biết cách sử dụng nó, vào
việc nghiên cứu quĩ đạo các hành tinh. Mấy định luật về cô-níc, [hình
e-líp, ở đây], Kepler khám phá ra, là nhờ đo đạc đường bay của mặt
trời, và khi biết, nó là hình e-líp, ông đã hoảng hồn, ghi vào nhật ký,
tôi phải là một tên khùng, một kẻ sát nhân, bởi vì điều tôi khám phá ra
đó, từ thời Pythagore người ta đã biết rồi!
Gấu viết đến đây, bỗng nhớ lại kỷ niệm tự mình kiếm ra phương trình
đường thẳng, vội vàng đi khoe với bạn học, và bị ông bạn nhìn với cặp
mắt thương hại, ôi chao, sao lại có thằng ngu như mày, hả Gấu, điều sơ
đẳng đó, người ta đã kiếm ra từ đời nảo đời nào rồi.
Đây cũng là kinh nghiệm để đời cho mấy ông nghệ sĩ: một thằng cha sáng
tạo ra cái mới phải là một thằng thuộc lòng quá khứ, và chán quá khứ
quá, nên mới phịa ra cái mới, chỉ để vui chơi mà thôi!
Vì quá mê chơi đổ hột xí ngầu mà Chevalier de Méré tìm gặp Pascal để
nhờ ông này cố vấn, làm sao đổ xí ngầu cho ngon lành, và thế là môn học
xác xuất ra đời.
Có khi, tưởng là may mắn, nhưng thực sự, chỉ lập lại, một hành động
trong đời xưa, kiếp trước.
Hành động sáng tạo của cô khỉ đột Nueva, a young female chimpanzee,
Koestler kể ra, trong Hành động sáng tạo, ông cho rằng, đã được
lập lại, từ đời trước, earlier life.
Gấu đã từng gặp "một vài lần", như vậy.
*
Nhân chuyện học, ở trong nước, mới có một em được điểm 10 cao quí nhất
của môn văn, là nhờ nhớ như in, một bài văn mẫu!
Đây là một trường hợp quá tuyệt vời của kiểu giáo dục 100 năm trồng
người. Thành công một trăm phần trăm! Trồng sao, thì quả vậy.
Gấu bỗng nhớ, một trường hợp y chang, nhưng hơi bị ngược lại, của học
sinh Miền Nam. Chuyện này hoàn toàn "non-fiction", không phải giả
tưởng, vì xẩy ra với một người học trò của Gấu: Cô con gái của ông Chú
của Gấu, mà Gấu khi đó làm nghề kèm trẻ tại gia. Ông chú này Gấu đã
nhắc tới nhiều lần, thí dụ như trong Tên của cuộc chiến.
Năm đó, cô học thi lấy bằng tiểu học. Bài luận văn trong kỳ thi y hệt
một bài cô đã từng được Gấu dậy. Nghĩa là trúng tủ. Và thế là đậu.
Lạ một điều, là thi vô Đệ Thất trường công, cũng một bài luận văn tương
tự. Cô gái về nhà mếu máo, bài thi y hệt bài cũ, đã ra thi kỳ thi tiểu
học vừa rồi, em không dám lập lại bài thầy đã dậy, vì nghĩ, như vậy là
không được đàng hoàng!
Một cách nào đó, cô gái mơ hồ hiểu ra cái gọi là học. Học, cũng chẳng
khác gì sáng tạo, nghĩa là không hề lập lại, ngay chính mình.
Gấu nhớ đến câu chuyện một ông thợ làm đồ sành đồ gốm, xong, trang trí
bằng những hoa văn. Khách thấy đẹp quá, bèn order, cho thêm vài cái
nữa. Mấy cái sau, ông thợ tính giá gấp đôi, gấp ba. Khách ngạc nhiên.
Ông thợ phán: Lập lại chán chết!
Ôi chao, tại sao lại có một cách dậy học sinh tuyệt vời đến như thế,
tại sao lại có những người học sinh tuyệt vời đến như thế!
Vậy mà tụi khốn nạn làm hư hỏng hết, thê thảm chưa!
Không chỉ một, mà, chẳng biết, bao nhiêu thế hệ.
Như vậy mà không đau, không xót, không chửi?
René Thom
cho rằng dân Ai Cập giỏi toán, là do sông Nil hàng năm lũ lụt xoá sạch
bờ ruộng
bờ đất, và cứ sau một trận lụt là lại phải đo đạc, phân chia lại. Nếu
như
thế Bắc Kít giỏi toán là nhờ con sông Hồng. Và cũng nếu như thế, có thể
nói, nền
văn minh Bắc Kít chấm dứt cùng với sự xuất hiện của con đê sông Hồng.
Gấu thực
sự không thể làm sao tưởng tượng ra được tại làm sao, khi viết về ‘Trầm
tư của
một tên tội tử hình’, TTT lại nghĩ đến đất Bắc mà ông đã rời bỏ, và
ngao ngán,
khi viết, giấc mơ một Đức Phật trở lại với dân Mít của Hồ Hữu Tường thì
cũng rã
rời, nát tan như mảnh đất sông Hồng chằng chịt bờ, bờ thì nhiều hơn
ruộng. Làm
sao ông nhìn ra, một khi mảnh đất đó liền thành một dải cùng với giấc
mơ tập
thể hóa của VC, thì liền lập tức Cái Đại Ác Bắc Kít xuất hiện?
Khủng thật!
Và, vẫn là từ
một đầu óc của một đứa con của mảnh đất Bắc Kít, như… NBC?
Như... GNV, nữa,
chứ?
Hà, hà!
V/v Trường
Quốc Gia Bưu Điện, Gấu nhớ lộn một chi tiết quan trọng, nó giải thích
tại làm
sao mà Gấu thi đậu, mà lại không học, đến năm sau, đến văn phòng rút hồ
sơ, có
bản sao văn bằng, giấy khai sinh… để nạp thi vô trường Sư Phạm lần nữa:
Khóa học
đó là khoá đầu tiên của trường vừa mới được thành lập, ban giáo sư đa
số là những
kỹ sư viễn thông vừa mới ở Pháp về, và do Bưu Điện rất cần Cán Sự Kỹ
Thuật, đàn
em của Kỹ Sư, nên mở khóa cấp tốc đó, chương trình học 2 năm, so với
khóa thường,
3 năm, và điều kiện thi vô là phải có Tú Tài 2, trong khi khóa thường
chỉ cần bằng
Trung Học. Ra trường đi làm công chức, chỉ số lương chỉ có 350, trong
khi nếu học
Sư Phạm 3 năm, ra trường chỉ số lương ngang kỹ sư. Chính vì thế mà ai
cũng chê,
Gấu tuy đậu, cũng chê, vì nghĩ uổng cái bằng Tú Tài 2 quá! Ông bạn cùng
trọ học
bên Thủ Thiêm của Gấu, thời học Tú Tài 1 với Thầy Đoàn Viết Lưu, sau
này gặp lại
tại Tiểu Sài Gòn, là PVH, biểu Gấu, hồi đó, nghe mày học Bưu Điện, tao
nghĩ uổng
quá, ‘thiên tài toán’ như mày… Hà, hà!
Chính vì vậy mà
cái tay thư ký văn phòng mới biểu Gấu, mày học Bưu Điện đi, chỉ mất mấy
tháng học,
ra trường rồi tha hồ mà đi học, đại học nào mà chẳng được.
Hồi đó, có bằng Tú Tài,
tha hồ ghi tên học bất cứ Đại Học, chẳng mất đồng xu teng!
Gấu ra trường,
bỏ Khoa Học, vì không có giờ đi thực tập, ghi tên học Văn Khoa, lấy
được cái dự bị triết
học. Học tiếp chứng chỉ triết học Tây Phương, gặp ông thầy hắc ám quá,
bèn bye
bye, sau này Đào quân chê là thằng thợ Bưu Điện, không phải dân khoa
bảng, là vậy!
*
Trận đánh mở ra lịch sử văn học
Tây Phương có thể coi là trận đánh
thành Troie, mà nguyên nhân của nó, là một mỹ nhân. Nhưng như Simone
Weil chỉ
ra, đó chỉ là cái cớ để ăn cướp.
Cũng thế, những lý do đẹp đẽ của cuộc chiến Việt Nam, cũng chẳng khác:
giải
phóng Miền Nam, cho lũ Ngụy có một cơ may trở lại, không chỉ làm người,
mà còn
là con người mới xã hội chủ nghĩa, thống nhất đất nước, [đó là] bước
đầu xây
dựng cái nhà Việt Nam to lớn nhất Đông Nam Á... Tất cả chỉ để che giấu
giấc mơ
tiềm ẩn, nằm trong đáy sâu bất cứ một anh Yankee mũi tẹt, là, làm sao
chiếm
được miền đất được thiên nhiên ưu đãi, không có những cái khổ, cái đói,
cái rét
và sự thù hận, như mảnh đất Bắc Kỳ tàn tạ.
Thảm như thế đấy.
Bài viết L'Iliade hay là Bài thơ của Sức Mạnh, L'Iliade ou le poème
de la
force, của Simone Weil, viết trong thời gian 1940-41, lần đầu tiên
đăng
trên Cahiers du Sud, số 230 và 231, Tháng Chạp 1940 và Tháng
Giêng 1941,
sau đăng trong Toàn Tập Simone Weil, Những bản viết lịch sử và
chính
trị, Tập 3, Gallimard, 1989.
Thoạt đầu, tính viết cho tờ La Nouvelle Revue Francaise. Tay
chủ báo,
Jean Paulhan có vẻ như chấp thuận, nhưng đòi sửa chữa, rút ngắn bài
viết, trong
những phần trích dẫn [gồm 1/3 số trang], cũng như bỏ hẳn những trang
chót của
bài viết, là phần Simone Weil đưa ra những cái nhìn hoàn toàn mới mẻ,
những đột
sáng, trong tư tưởng của chính Bà, khi nhìn lại bản hùng ca, và thời
đại huy
hoàng từ đó nó phát sinh.
Và liền sau khi bài viết ra đời, là cuộc xâm lăng của Đức và thất thủ
Paris.
Nhân vật thực sự, chủ đề thực sự, trung tâm của Iliade, là sức
mạnh, la
force....
Sức mạnh, là cái biến con người, thành một vật, une chose. Khi nó phát
triển
đến tột bực, nó biến con người thành một vật, theo đúng nghĩa đen của
từ này.
Bởi vì, nó biến con người thành một cái xác chết.
Trước đó, là một người nào đó, quelqu'un, chỉ một giây phút sau, chẳng
còn ai,
[il n'y a personne].
*
Cái sức mạnh Bắc Kỳ, lạ lùng thay, như Simone Weil chỉ ra, cũng y
chang, của
người Hy lạp, là từ đất mà ra: Chúng ta chỉ là những nhà đo đất, chia
ruộng,
tạo bờ. Người Hy lạp đã học đức hạnh nhờ đo đất. [Les Grecs furent
d'abord
géomètres dans l'apprentissage de la vertu].
Cái giây phút mà sức mạnh biến con người thành một vật, đúng là lúc ở
ngưỡng
cửa thành Troie, y chang Sài Gòn trước biển máu. Trong Troie, không có
người
đẹp Hélène, như những vị thầy tu sau đó cho biết. Hélène khi đó ở Ai
Cập.
Nhưng cần gì chuyện đó. Vào lúc đó, đoàn quân Hy Lạp biết rất rõ một
điều, Sài
Gòn - Troie đang quì trước họ:
De toutes manières, ce coir-là, les Grecs n'en veulent plus:
"Qu'on n'accepte à présent ni les biens de Pâris,
Ni Hèlène; chacun voit, même le plus ignorant,
Que Troie est à présent sur le bord de la perte."
Il dit; tous acclamèrent parmis les Achéens.
Thế là chúng muốn tất cả. Tất cả sự giầu có của Sài
Gòn, [Miền Bắc nhận
hàng, như là chiến lợi phẩm, comme un butin], tất cả những tòa lâu đài,
tất cả
những đền đài, tất cả những căn nhà, như là tro bụi, tất cả những phụ
nữ trẻ
con như là nô lệ, tất cả những người đàn ông như là những xác chết...
Mô phỏng Simone Weil
*
Theo René Thom, giải thưởng Toán Fields, [tương đương Nobel], sở dĩ dân
Hy Lạp
giỏi đo đạc, là nhờ con sông Nil, mỗi mùa nước dâng, xóa hết bờ ruộng,
và khi
nước rút, phải đo đạc, chia chác lại, nhân đó mà giỏi môn hình học.
Như thế, sức mạnh Bắc Kỳ, là cũng nhờ sông Hồng mà có.
Sự thành lập con đê chống lũ, tạo thành nền văn minh sông Hồng, cũng là
dấu
hiệu báo tử đầu tiên của nó.
Hôm nay, nhân loại
nói chung một tiếng nói
Trên tờ Thế giới ngoại giao, số có bài tẩy não tự do, vô tư, mà mấy bạn
hiền
Diễn Đàn khoái quá chôm liền, còn một trích đoạn cuộc song đấu giữa hai
tay
Chomsky và Foucault. Bữa trước Gấu đã chôm một câu của Foucault, người
ta gây
chiến để thắng, chứ đếch cần có lý hay không có lý, và đi một đường Mao
Tôn
Cương, về cuộc chiến vừa ăn cướp vừa la làng của VC.
Bữa nay, đọc lại, thấy một câu
nữa của tay này, cũng thú lắm:
Foucault: Khi mấy anh vô sản cướp được chính quyển, mấy anh đó sẽ chơi
mấy giai
cấp khác những đòn dã man, tàn nhẫn.... cái này thì dễ hiểu rồi, nhưng
giả sử,
mấy anh đó lại chơi chính giai cấp vô sản những đòn thù, thế là thế lào?
Theo tôi, [Foucault], chỉ có thể cắt nghĩa: Chuyện đó chỉ có thể xẩy ra
khi,
cái đám thắng thế đó, đếch phải là giai cấp vô sản, mà là một giai cấp
ở ngoài
nó, ở trên đầu nó, hoặc một nhóm ở bên trong nó, hay một chế độ thư lại
Bắc Bộ
Phủ thí dụ vậy, hay là đám còn lại của giai cấp tiểu tư sản, tiểu
trưởng giả.
Blog Tin Văn
Ngô
Bảo
Châu, Nobel Toán
"Diễn
văn Nobel Toán' của NBC!
Note: No
Còm! NQT (1)
(1). May quá, vô trang net
Vẹt Xì Tốp Đi Thôi,
vớ được câu 'còm', cho bài diễn văn của
nhà Nobel toán học trước nhà nước VC.
Cô vừa giành
được học bổng Cioran cho một dự án sách về những người vô tổ quốc…
Linda Lê: Tôi
chỉ vừa mới bắt đầu viết. Đây sẽ là một sự suy nghĩ về tính khác biệt,
về những
gì còn lại của chủ nghĩa nhân văn. Tôi muốn nhắc lại vài nhân vật mà
tôi yêu
quý, như Marina Tsvetaïeva, và nói về những nhà văn ít được biết đến
hơn, như
nhà thơ Rumani – Benjamin Fondane, đã viết rất nhiều bằng tiếng Pháp.
Cả hai đã
là nạn nhân của chế độ cực quyền. Sau khi lưu vong, cả hai đã chết bi
thảm.
Tsvetaïeva đã tự tử sau khi về lại Liên Xô, sau mười bốn năm lưu vong ở
Pháp,
còn Benjamin Fondane thì chết ở trại Auschwitz… Trong quyển sách này,
tôi sẽ
còn nói đến một số nhà văn đã di cư từ bên trong. Các tiểu thuyết gia
như
Thomas Bernhard đã tố cáo các khuyết điểm của chính nước mình, đã không
tìm được
tiếng nói chung với chính đồng bào mình. Trong quyển sách này, tôi tỏ
lòng kính
trọng những ai lấy lời của Armand Robin, nhà thơ của vùng Bretagne, làm
của
mình: “Trên mỗi vùng đất, tôi sẽ là một người lạ thường”. Đây là những
lời lẽ đầy
nghị lực đã luôn đi theo tôi
“Trên mỗi vùng đất tôi sẽ
là một người lạ thường”!
Nguyên
văn bài phỏng vấn
Bài
lược dịch trên SGTT
TV
sẽ cố gắng dịch, sau.
Đọc bài trả
lời phỏng vấn của Linda Lê, thì Gấu mới ngộ ra là bài diễn văn Nobel
Toán của
NBC, là, chỉ dành cho một nửa đất nước, cho những người có tổ quốc mà
thôi!
Trong
bài ‘diễn văn Nobel’ của NBC, có cái ý
‘cái nghèo đói
Bắc Kít’ sẽ ‘cứu chuộc thế giới’ của GNV, theo cái nghĩa, theo đường
hướng “Đây sẽ là một sự suy nghĩ về tính
khác biệt, về những gì
còn lại của chủ nghĩa nhân văn"!
*
Trong bối cảnh
nhà nước VC hiện đang thẳng tay tàn sát những trang mạng, blog…
của những người không chịu làm con cừu, bài
'diễn văn Nobel' của NBC, một cách nào đó, ở về phía lề phải, ‘tôi chọn
mẹ tôi',
theo cái kiểu của Camus, nhưng thảm hại hơn nhiều! NQT
Cũng
là một cách áo gấm về làng!
Chỉ
còn chờ giải thưởng HCM, là ô hô ai tai!
Nhưng
cú ‘bức tử’ Camus, chính là Cuộc Chiến Algérie. Là một anh Tây mũi lõ ở
thuộc địa,
[an Algerian Frenchman], ông bị sức ép của tình yêu của ông dành cho
thế giới Địa
Trung Hải này, và sự dâng hiến mình cho nước Pháp. Một khi ông nhìn ra
sự giận
dữ, Tây mũi lõ hãy cút về nước, và cuộc nổi dậy hung bạo từ đó mà ra,
ông không
thể chọn thái độ chống đối nhà nước của Sartre, bởi vì những bè bạn của
ông bị
giết bởi những người Ả rập - những tên "khủng bố", như báo chí Pháp gọi
– trong cuộc chiến giành độc lập. Ông đành chọn thái độ im lặng. Trong
bài ai
điếu thật cảm động về người bạn cũ của mình, khi Camus mất, Sartre đã
khai triển
những chiều sâu nhức nhối mà Camus giấu kín chúng bằng sự im lặng đầy
cao ngạo,
đầy phẩm giá của mình.
Bị ép buộc phải chọn bên, Camus thay vì chọn, thì khai triển ‘địa ngục
tâm lý’,
trong Người Khách, The Guest. Truyện ngắn tuyệt hảo mang tính
chính trị
này diễn tả chính trị, không như là một điều mà chúng ta hăm hở vồ lấy
nó, theo
cái kiểu đường ra trận mùa này đẹp lắm, nhưng mà là một tai nạn chẳng
sung sướng
tí chó nào, mà chúng ta bắt buộc phải chấp nhận.
Thật khó mà 'phản biện' ông, về điều này, nhất là Mít chúng ta!
Pamuk: Albert Camus
Ba cái trò
quỹ kiếc, học bổng học biếc, toàn chuyện tầm phào. Chứng cớ: Đại học
Phan Chu
Trinh gì đó. Văn võ toàn tài như NN, cha đẻ anh hùng Núp kia mà còn dám
bị chúng
làm cho thân bại danh liệt nữa là một chú cừu non nho nhỏ như NBC!
Chuyện NBC áo
gấm về làng làm Gấu nhớ đến HC, và thời gian ông vừa mất. Đọc một số
bài
viết, rồi
tự thuật, tự kiểm của chính ông, Gấu bỗng liên tưởng tới trường hợp
Brodsky, cái
vụ ra tòa của ông, và khi ‘được’ tòa hỏi, ai cho phép mi là thi sĩ, ông
trả lời, chẳng ai
cả. Ai cho tôi vào hàng ngũ nhân loại?
Và bèn liên
tưởng
tiếp, giả như có một ông HC như thế, có thể số mệnh dân Mít đã thay đổi.
Cầm cái
bửu bối Nobel trong tay, mà về hùa với kẻ mạnh, thì cũng kể như xong
một
đời.
Trong diễn
văn Nobel của ông, ông chả nhắc gì tới
những người vô tổ quốc như… Gấu.
Chán mớ đời!
*
Trường hợp
NBC áo gấm về làng, quái làm sao còn làm Gấu nhớ tới bài viết của Yann
Martel, đúng
ra, thư gửi thủ trưởng Canada, kèm cuốn Fictions của Borges.
Có một cái gì
tương tự, hay mắc mớ, liên hệ giữa ‘những nhà toán học đều buồn’ và tác
phẩm của
Borges.
TV sẽ post bài viết của Martel, và lèm bèm tiếp về niềm vui Nobel Toán
của những kẻ có tổ quốc!
BOOK 45:
FICTIONS
BY JORGE
LUIS BORGES
December 22,
2008
To Stephen
Harper,
Prime
Minister of Canada,
A book you
may or may not like,
From a
Canadian writer,
With best
wishes,
Yann Martel
Dear Mr.
Harper,
I first read
the short story collection Fictions,
by the Argentina writer Jorge Luis Borges
(1899-1986), twenty years ago and I remember not liking it much. But
Borges is
a very famous writer from a continent with a rich literary tradition.
No doubt
my lack of appreciation indicated a lack in me, due to immaturity.
Twenty years
on, I would surely recognize its genius and I would join the legions of
readers
who hold Borges to be one of the great pens of the twentieth century.
Well,
that change of opinion didn't take place. Upon rereading Fictions I was as
unimpressed this time around as I remember being two decades ago.
These stories
are intellectual games, literary forms of chess. They start simply
enough, one
pawn moving forward, so to speak, from fanciful premises-often about
alternate
worlds or fictitious books-that are then rigorously and organically
developed
by Borges till they reach a pitch of complexity that would please Bobby
Fischer. Actually, the comparison to chess is not entirely right. Chess
pieces,
while moving around with great freedom, have fixed roles, established
by a
custom that is centuries old. Pawns move just so, as do rooks and
knights and
queens. With Borges, the chess pieces are played any which way, the
rooks
moving diagonally, the pawns laterally and so on. The result is stories
that
are surprising and inventive, but whose ideas can't be taken seriously
because
they aren't taken seriously by the author himself, who plays around
with them
as if ideas didn't really matter. And so the flashy but
fraudulent erudition of Fictions. Let me give you one
small
example, taken at random. On page CS of the story "The Library of
Babel," which is about a universe shaped like an immense, infinite
library, appears the following line concerning a particular book in
that
library:
He showed his find to a
traveling decipherer, who told him that the
lines were written in Portuguese; others said it was Yiddish. Within
the
century experts had determined what the language actually was: a
Samoyed-Lithuanian dialect of Guarani, with inflections from classical
Arabic.
A
Samoyed-Lithuanian dialect of Guarani, with inflections from classical
Arabic?
That's intellectually droll, in a nerdy way. There's a pleasure of the
mind in
seeing those languages unexpectedly juxtaposed. One mentally jumps
around the
map of the world. It's also, of course, linguistic nonsense. Samoyed
and
Lithuanian are from different language families the first Uralic, the
second
Baltic-and so are unlikely ever to merge into a dialect, and even less
so of
Guarani, which is an indigenous language of South America. As for the
inflections from classical Arabic, they involve yet another impossible
leap
over cultural and historical barriers. Do you see how this approach if
pursued
relentlessly, makes a mockery of ideas? If idea mixed around like this
for show
and amusement, then they ultimately reduced to show and amusement. And
pursue
approach Borges does, line after line, page after page. His book is
full of
scholarly mumbo-jumbo that is ironic, magical, non-sensical. One of the
games
involved in Fictions is: do you get the references? If you do, you feel
intelligent; if you don't, no worries, it's probably an invention,
because much
of the erudition in the book is invented. The only story that I found
genuinely
intellectually engaging, that is, making a serf thought-provoking
point, was
"Three Versions of Judas,” in which the character and theological
implications of Judas are discussed. That story made me pause and
think. Beyond
the flash, there I found depth.
Borges is often described as a writer's writer.
What this is supposed to mean is that writers will find in him all the
finest qualities
of the craft. I'm not sure I agree. By my reckoning a great book
increases
one's involvement with the world. One seemingly turns away from the
world when
one reads a book but only to see the world all the better once one has
finished
the book. Books, then, increase one's visual acuity of the world. With
Borges,
the more I read, the more the world was increasingly small and distant.
There's
one characteristic that I noticed this time around that I hadn't the
first
time, and that is the extraordinary number of male names dropped into
the
narratives, most of them writers. The
fictional world of Borges is nearly exclusively male unisexual. Women
barely
exist. The only female writer mentioned in Fictions are Dorothy Sayers,
Agatha
Christie and Gertrude Stein, the last two mentioned in "A Survey of
Works
of Herbert Quain" to make a negative point. In “Menard, Author of the
Quixote," there is a Baroness de Bacourt and a Mme Henri Bachelier
(note
how Mme Bachelier's name is entirely concealed by her husband's). There
may be
a few others that I missed. Otherwise, the reader gets male friends and
male
writers and male characters into the multiple dozens. This is not
merely a
statistical feminist point. It hints rather at Borges's relationship to
the
world. The absence of women in his stories is matched by the absence of
any
intimate relations in them. Only in the last story, "The South," is
there some warmth, some genuine pain to be felt between the characters.
There
is a failure in Borges to engage with the complexities of life, the
complexities of conjugal or parental life, or, indeed, of any other
emotional
engagement. We have here a solitary male living entirely in his head,
someone
who refused to join the fray but instead hid in his books and spun one
fantasy
after another. And so my same, puzzled conclusion this time round after
reading
Borges: this is juvenile stuff.
Now why am I sending you a book that I don't
like? For a good reason: because one should read widely, including
books that
one does not like. By so doing one avoids the possible pitfall of
autodidacts,
who risk shaping their reading to suit their limitations, thereby
increasing
those limitations. The advantage of structured learning, at the various
schools
available at all ages of one's life, is that one must measure one's
intellect
against systems of ideas that have been developed over centuries. One's
mind is
thus confronted with unsuspected new ideas.
Which is to say that one learns,
one is shaped, as much by the books that one has liked as by those that
one has
disliked.
And there is also, of course, the possibility that
you may love Borges.
You may find his stories rich, deep, original and entertaining. You may
think
that I should try him again in another twenty years. Maybe then I'll be
ready
for Borges.
In the meantime, I wish you and your family a merry
Christmas.
Yours
truly,
Yann Martel
Jorge Luis
Borges (1899-1986) was an Argentinean poet, short story writer,
anthologist,
critic, essayist and librarian. In his writings, he often explored the
ideas of
reality, philosophy, identity and time, frequently using the images of
labyrinths and mirrors. Borges shared the 1961 Prix Formentor with
Samuel
Beckett, gaining international fame. In addition to writing and giving
speaking
engagements in the United States, Borges was the director of the
National
Library in Argentina, ironically gaining this position as he was losing
his
eyesight.
|
|