|
Hemingway's
last words
Joan Didion
on the books he never wanted us to read
The New
Yorker, Nov 9, 1998
Lời nào Papa
không nói?
Nhân chuyện
con cháu sửa văn Papa
Và
nhân Nhã Nam cho ra lò Hội Hè Miền Nam. Tên
tiếng Anh của nó là
Cái tít tiếng
Việt này, không hiểu ở đâu ra, và không hay bằng cái tít tiếng Tây,
Paris est
une fête, Paris là ngày hội, nhưng cả hai Tây, và Ta, đều có ý nghĩa
đối với
đám Mít miệt vườn!
Bài trên The
New Yorker là về chuyện sửa văn Hemingway.
(1) 'If you
are lucky enough to have lived in Paris as a young man, then wherever
you go
for the rest of your life, it stays with you, for Paris is a moveable
feast.'
ERNEST
HEMINGWAY to a friend, 1950.
Nếu bạn đủ
may mắn để mà sống ở Paris khi là một anh chàng trai trẻ, thì nó sẽ ở
với bạn,
cho dù bạn lang thang chân trời góc bể nào, trong suốt cuộc đời còn lại
của
mình, bởi vì Paris là một ngày hội di động.
Hemingway,
thư gửi bạn, 1950.
Thành thử thật
khó hiểu, khi dịch là Hội Hè Miền Nam, nhưng nếu người dịch là một gã
Bắc Kít,
thì lại khác! (1)
(1) Đề nghị
bác nhìn lại cho kỹ: "Hội hè miên man" chứ không phải "Hội hè miền
Nam".
Thông tin
thêm: người dịch không phải Bắc, Kít or not.
Regards,
Nhị Linh
*
Mắt già [gà]
mờ.
Sorry to
three of U: PTH, CM, and NL.
Best
regards. NQT
*
Ui chao, khủng
khiếp thật. Nhìn đâu cũng thấy Miền Nam!
Cũng thấy
CM!

*
Gấu lại nhớ
đến Bếp Lửa của TTT.
Khi nó mới
ra lò, bị nhật báo Tự Do phạng, và người phạng, là HTN. Ông chê cái
đoạn tả Thịnh,
cô con gái riêng của ông Chính, ngày hạ huyệt ông bố, đã lăn lộn như
một chó
điên.
HTN phán: Tả
như thế là làm nhục con người.
Một bạn văn
khi đọc, đã mail cho biết, câu văn đó chỉ có trong bản văn đầu tiên, ấn
bản nhà
xb Nguyễn Đình Vượng, những lần tái bản, không còn.
*
Lang bang, lại
nhớ đến nhà văn Nam Phi Chinua Achebe phạng Conrad.
INTERVIEWER
You made Mr.
Johnson famous! But your most trenchant essay on the colonial novel is
your
subsequent essay on Conrad's Heart of Darkness. I wonder what you think
is the
image of Africa today in the Western mind.
ACHEBE
I think it's
changed a bit. But not very much in its essentials. When I think of the
standing, the importance, and the erudition of all these people who see
nothing
about racism in Heart of Darkness, I'm convinced that we must really be
living
in different worlds. Anyway, if you don't like someone's story, you
write your
own. If you don't like what somebody says, you say what it is you don't
like.
Some people imagine that what I mean is, Don't read Conrad. Good
heavens, no! I
teach Conrad. I teach Heart of Darkness. I have a course on Heart of
Darkness
in which what I'm saying is. Look at the way this man handles Africans.
Do you
recognize humanity there? People will tell you he was opposed to
imperialism.
But it's not enough to say, I'm opposed to imperialism. Or, I'm opposed
to
these people-these poor people-being treated like this. Especially
since he goes
on straight away to call them "dogs standing on their hind legs."
That kind of thing. Animal imagery throughout. He didn't see anything
wrong
with it. So we must live in different worlds. Until these two worlds
come
together we will have a lot of trouble.
The Paris
Review Interviews, III
Đây cũng là
cung cách mấy ông nhà văn Yankee mũi tẹt tả đám Ngụy.
Đành phải
phán:
Lũ chúng ông
và đám chúng ta sống trong hai thế giới khác biệt!
So we must
live in different worlds.
Giữa
lòng đen
Xa Miền Bắc hơn nửa thế kỷ, khi trở về, Gấu
canh cánh
trong lòng một điều, giả như Gấu này không bỏ chạy vào Nam năm 1954,
thì cái
thằng Gấu ở lại, nó sẽ như thế nào.
*
Cuốn Bếp Lửa, khi vừa mới ra lò, Gấu không được đọc, nhưng lại được đọc
bài điểm
sách trên tờ Tự Do, báo nhà, ấy là vì ông anh Hiếu Chân là một trong
những sáng
lập viên của tờ báo. Tác giả bài điểm sách là HTN, sau là Sếp của TTT,
khi ông
bị gọi nhập ngũ, và phục vụ tại tờ Tiền Tuyến.
HTN và báo Tự Do cũng mạt sát thơ tự do hết lời khi nó vừa xuất hiện.
Bài điểm sách lôi đoạn tả ông Chính mất, và vào lúc sắp hạ huyệt, cô
con gái của
ông lăn lộn khóc, ‘như một con chó điên’. HTN phán, tả như thế là làm
nhục con
người.
Nhưng, khi đọc cọp Bếp Lửa trên vỉa hè Sài
Gòn, Gấu bị
nó hớp mất hồn viá, và không hề nhìn thấy những dòng chữ trên.
Nhà văn Phi Châu Chinua Achebe coi Trái Tim của Bóng Đen của Conrad là
một bản văn
'racist', và để chứng minh, ông lôi đoạn Marlow tả một đám đông Phi
Châu, ‘a
mass of naked, breathing, quivering, bronze bodies’. Phía trước là ba
người đàn
ông, ‘plastered with bright red earth from head to foot’.
Bởi vậy, cùng một bản văn, mà mỗi người đọc
một khác.
Cách đọc Bếp Lửa của HTN, theo tôi, là nhìn thấy cây mà không thấy
rừng, hay dùng
chữ của Alberto Manguel, khi biện minh cho Trái Tim của Bóng Đen, một
cách đọc,
tuy có thể, nhưng không có ích. Manguel viết: Cơ bản mà nói, ở trái tim
của
bóng đen không phải Phi Châu, cũng không phải cái nhìn của người da
trắng về
Phi Châu, hay là những đoạn tả cảnh man rợ của người da đen. Ở trái tim
của bóng
đen, là Kurtz. “His soul is mad”, says Marlow. "Tâm hồn của nó thì điên
khùng, hoá dại rồi", Marlow nói.
*
Di dân là "số" phần, (a matter of arithmetic), theo Kundera. Joseph
Conrad, sống 17 năm tại Ba-lan, và tại Russia, lưu vong cùng với gia
đình. 50
năm còn lại, ở Anh, hay trên những con tầu Anh. Đương nhiên, ông viết
văn bằng tiếng
Anh, về đề tài Anh. Ông bị dị ứng, khi đụng phải những gì có "mùi Nga":
dấu vết Ba-lan độc nhất ở nơi ông. Tội nghiệp Gide, không thể hiểu tại
sao
Conrad "không thiện cảm" với Dostoevsky.
Mùa
Thu, những di dân
Cái sự không thiện cảm với Dos của Conrad,
nguồn gốc
của nó sâu xa hơn nhiều, theo như Martin Seymour-Smith, biên tập và
giới thiệu
cuốn Điệp viên bí ẩn của Conrad [Penguin Books]: Điệp viên bí ẩn sẽ
đếch thể có
nếu không có Dos. Nhưng bởi vì Conrad ghét người Nga, và tất nhiên,
ghét Dos,
cũng vì vậy. Chính vì thế mà Conrad giấu biệt những dấu vết, ảnh hưởng
Dos ở
nơi ông, và những nguồn gốc [chất liệu] ở nền của The Secret Agent. Cả
hai,
Conrad và Dos đều là những nhà tự do lý tưởng và chấm dứt bằng ‘phản
động’
[reactionaries]. Conrad thì liên can đến chuyện buôn bán súng, còn Dos,
nhà
khuấy động cách mạng, revolutionary activism.
Cái chuyện Conrad thu gom tài liệu, sự kiện từ báo chí, lịch sử cận
đại, khi viết The Secret Agent, là cũng để che giấu, đánh lạc
hướng ảnh hưởng Dos, bởi
vì The Secret Agent là từ Những Con Quỉ của Dos mà ra.
Khi
Coetzee tìm ra mối liên hệ thầy trò giữa Conrad và Greene, (1) và bây
giờ chúng
ta tìm ra thầy của Conrad là Dos, thì chúng ta mới vỡ ra, Dos, đúng
hơn, Những
Con Quỉ của ông, là nguồn cơn của tất cả mọi chuyện.
(1) Graham Greene, Brighton Rock, trong Inner Workings.
*
Những con đường đưa cá nhân đến tội ác / đưa xã hội đến cách mạng, là
như nhau.
(Camus, Thèse sur Dostoevsky: Les mêmes chemins qui mènent l’individu
au crime
mènent la société à la révolution)
Nói về Possédés, vào năm 1955, nhân dịp đài Radio-Europe tưởng niệm
Dostoevsky,
Camus tuyên bố: Tôi gặp tác phẩm này năm 20 tuổi, và cơn bàng hoàng cứ
thế kéo dài,
hai mươi năm tiếp theo sau đó.
Cơn choáng váng mà Camus đụng phải khi đọc Lũ Người Quỉ Ám không chỉ
kéo dài ở ông,
mà còn lây sang nhiều người, khi đụng Kẻ Lạ. Một cách nào đó, Bếp Lửa,
Kẻ Lạ, là
những phiên bản của Tội Ác, Possédés... Những Người Quỉ Ám mới là con
chim báo
bão về một chủ nghĩa toàn trị sắp tới (Lời giới thiệu trang bìa ấn bản
tủ sách
bỏ túi).
Võ
Phiến, nhà văn Bình
Định
*
In the late summer of that year we lived in a house in a
village that looked
across the river and the plain to the mountains. In the bed of the
river there
were pebbles and boulders, dry and white in the sun, and the water was
clear
and swiftly moving and blue in the channels. Troops went by the house
and down
the road and the dust they raised powdered the leaves of the trees. The
trunks
of the trees too were dusty and the leaves fell early that year and we
saw the
troops marching along the road and the dust rising and leaves, stirred
by the
breeze, falling and the soldiers marching and afterward the road bare
and white
except for the leaves.
So goes the famous first paragraph of Ernest Hemingway's ''A Farewell
to
Arms," which I was moved to reread by the recent announcement that what
was said to be Hemingway's last novel would be published posthumously
next year.
That paragraph, which was published in 1929, bears examination: four
deceptively simple sentences, one hundred and twenty-six words, the
arrangement
of which remains as mysterious and thrilling to me now as it did when I
first
read them, at twelve or thirteen, and imagined that if I studied them
closely
enough and practiced hard enough I might one day arrange one hundred
and
twenty-six such words myself.
Joan Didion
Vào cuối mùa hè năm đó, chúng tôi sống trong một căn nhà
trong một cái làng
nhìn ra sông ra đồng tới tận vùng núi. Ở lòng con sông là đá cuội và đá
mòn,
khô và trắng trong ánh nắng, và nước sông, trong và chảy nhẹ nhàng,
xanh ở
trong những dòng rẽ. Những toán quân đi kế bên nhà xuống con lộ và bụi
dấy lên
phủ lên lá. Thân cây cũng bụi bặm, lá rụng sớm năm đó và chúng tôi nhìn
thấy
những toán quân đi bộ dọc theo con lộ, bụi dấy lên, và những lá cây,
theo làn
gió thổi rớt xuống, và những người lính đi bộ, và sau đó con lộ trần
trụi, vắng
hoe, và trắng toát, ngoại trừ những chiếc lá cây.
Đó là đọan văn trứ danh, hách xì xằng mở ra Giã từ
vũ khí, mà tôi,
thật xúc động, khi đọc lại, nhân có tin cuốn tiểu thuyết chót của
Hemingway sẽ
được xb, sau khi ông mất, vào năm tới.
Đoạn văn trên, ấn bản 1929, nếu nhìn thật gần, thì nó như thế này: bốn
câu đơn,
126 từ, sự sắp xếp thì là một niềm bí ẩn mà ngay cả bây giờ, đọc lại
tôi vẫn
cảm thấy như lần đầu đọc nó, vào lúc 12, 13 tuổi, và tưởng tượng, nếu
nhìn thật
gần, gẩn nữa, gần nữa, thì tôi có thể, nếu trần lực ra mà đánh vật với
chúng,
thì có một ngày, tôi sẽ sắp xếp được những từ đó, chính tôi!
*
Ui chao, đó là văn chương! Đó là cái thú vui khủng khiếp tuyệt vời và
tuyệt vời
khủng khiếp mà mấy tên ngu đần, giáo sư, triết gia... đếch làm
sao hiểu
được!
Chúng viết, chỉ một câu thôi, là đủ làm Gấu phát điên, chịu không nổi!
*
Gấu cũng đã có kinh nghiệm đọc và dịch Hemingway, và cũng thật là tuyệt
vời.
*
"C'est l'âge où tout le monde avait vingt-six ans," ["Đó là thời
mà đứa nào cũng 26 tuổi"], Gertrude Stein diễn tả những năm tháng tuyệt
vời băng đảng Mẽo của bà, những Fitzgerald, Hemingway, Pound... ở Paris.
Gấu cũng thể nói như vậy, về thưở mới lớn của mình, thập niên 1960, và
của băng
đảng 'tiểu thuyết mới' ở Sài Gòn.
Thời của Stein là 'thế hệ bỏ đi', bị cuộc chiến chê, còn của Gấu, sắp
bị cuộc chiến
làm thịt.
Thế hệ bỏ đi, cuộc tình bỏ đi.
Thế hệ bỏ đi, như Hemingway kể lại, trong Paris là một ngày hội, [Hội hè
miên
man], gốc gác của nó, là của một tay chủ gara, nơi Stein thường sửa xe.
Một
lần, "em" mang xế tới, thằng thợ trẻ tỏ ra không sốt sắng lắm trong
vụ phục vụ người đẹp. Thế là em méc tay chủ. Tay
này mắng thằng nhóc.
Stein sử dụng đúng từ này để đập Hemingway, đám viết lách cà chớn như
mấy ông là
một thế hệ vứt đi, vì đã được thải ra từ cuộc chiến, theo nghĩa:
-Tụi mày cứt quá, nên cuộc chiến đếch thèm giết.
-Tụi mày tuy sống sót cuộc chiến, nhưng thế nào cũng có bộ phận bị
thương tổn, không
còn hoạt động được nữa.
Ui chao, xém một tí, là súng của Gấu cũng bay vào hư vô, trong vụ ăn
hai trái mìn
claymore ở bờ sông Sài Gòn!
*
Hình như là Fitzgerald, nói về mình và về Hemingway: Ông nổi tiếng vì
thành công,
còn tôi, vì thất bại.
Hề Charlot cũng đã từng nói tương tự, về ông và Einstein: Ông nổi tiếng
vì chẳng
ai hiểu ông, còn tôi, ai cũng hiểu.
*
Happy Birthday. Chúc đại ca viết càng ngày càng bảnh. NLV
Tks. Tiện đây, xin thông báo: Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ
những bài có
tính giới thiệu, đều chỉ để sử dụng với tính cách cá nhân, [for
personal use]
và đều "free", xài vô tư, thoải mái.
Vì Gấu cũng trên bẩy bó rồi, nếu tính tuổi ta, thành thử cứ coi đây như
là, "cho
chắc ăn", sau những cú báo động hoảng như vừa rồi. NQT
[Lại sắp sinh nhật Gấu]
*
Gấu dùng chữ "những", là vì bạn bè Gấu bị "hơn một cú" như
cú vừa rồi. Cú trước khủng khiếp hơn nhiều, xẩy ra ngay sau khi Bông
Hồng Đen
ra đi. Một ông bạn, trong nhóm bạn ở Cali, thương tình, bèn mail cho
Gấu biết
tin. Tin Văn bèn đi một đường ai tín, khiến Gấu Cái càng thêm bực mình.
Và bèn
mail trả lời ông bạn, cho biết, ngay sau khi Gấu được ai tín, bèn xỉu,
sẵn bịnh
tim chơi bồi thêm, bèn phải chở đi nhà thương cấp cứu!
Anh bạn hoảng quá, và cũng ân hận, lỗi ở mình, nhưng bán tin bán nghi,
bèn phôn
cho một anh khác nữa, rất rành về mối tình của Bông Hồng Đen và Gấu.
Anh này gật gù, chắc đúng như thế đấy. Tao biết, thằng cha Gấu hồi đó
mê BHĐ khủng
khiếp lắm.
[Chính em LH cũng xác nhận chuyện này, bởi vì có lần Gấu hỏi, tại sao
"iêu" Gấu, em trả lời, tại vì anh thương em nhiều quá, thành thử...
tội nghiệp!]
Để tăng thêm trọng lượng cho lời tiên đoán của mình, anh kể chuyện, một
lần Gấu
nhờ anh trao giùm thư cho BHĐ, thời gian Gấu bị ông bô của em cấm cửa.
Gấu dặn,
vô, trao thư xong xuôi, rồi ra liền, báo cho tao biết, rồi có muốn ở
lại tới giờ
nào thì ở.
Anh ta vô, trao thư xong, gặp ông anh của LH, mải trò chuyện, rồi quên
luôn thằng
cha Gấu ở bên ngoài, khủng khiếp chờ đợi, cứ như chờ án tử hình!
Anh ta, lúc nhớ ra, thì đã ba, bốn giờ chiều, tức là lúc sửa soạn ra về.
Anh kể lại, tao ra ngoài đường, thấy mày ngồi trên chiếc xe đạp, tóc
tai dựng đứng,
trông thê lương không thể nào tưởng tượng được.
Nghe anh kể, Gấu nhớ ra liền. Hai thằng ăn sáng xong, là đi. Tới ngã tư
gần nhà
em, phía vườn Tao Đàn đi xuống gặp Gia Long, Gấu ngồi trên xe đạp chờ
tới...
chiều.
Bữa đó, không chỉ mình Gấu lo, mà luôn cả anh bạn. Anh nói, tao đưa thư
cho nó,
nó không thèm cất đi, mà lại để ngay trên bàn, rồi ra lệnh, đó là lúc
đang dọn nhà,
từ Phan Đình Phùng lên, anh V. phụ em một tay, khiêng cái giường. Tao
vừa sợ,
vừa bực. Sợ ông via của nó bất chợt vô, vồ liền cái thư. Bực, vì em của
mày coi
tao như thằng hầu. Phụ một tay, khiêng cái giường cho em! Láo thế!
Sao không trao cái bực đó cho tao? Gấu thèm thuồng, hỏi lại!
*
Tao thèm được như mày! Anh kết luận.
Thèm cái cảnh, râu tóc rựng ngược, mặt mày méo xệch?
Sướng chưa!
Gấu nhà
văn
*
Thế hệ bỏ đi, như Hemingway kể lại, trong Paris là một ngày hội, gốc
gác
của nó, là của một tay chủ gara, nơi Stein thường sửa xe. Một lần,
"em" mang xế tới, thằng thợ trẻ tỏ ra không sốt sắng lắm trong vụ
phục vụ người đẹp. Thế là em méc tay chủ. Tay này mắng thằng nhóc.
Stein sử dụng
đúng từ này để đập Hemingway, đám viết lách cà chớn như mấy ông là một
thế hệ
vứt đi, vì đã được thải ra từ cuộc chiến, theo nghĩa:
-Tụi mày cứt quá, nên cuộc chiến đếch thèm giết.
-Tụi mày tuy sống sót cuộc chiến, nhưng thế nào cũng có bộ phận bị
thương tổn
đến không còn hoạt động được nữa.
Ấy là Hai Lúa phịa ra, sự thực bà nói:
-Các người là như vậy. Cả đám các người. Một đám trẻ, tham dự cuộc
chiến, và là
một thế hệ vứt đi.
-Thật thế sao? Tôi [Hemingway] nói.
-Thật chứ sao, bà nhấn mạnh. Mấy ông có kính trọng cái chi đâu, mấy ông
uống
như hũ chìm.
-Tay thợ trẻ có uống không?
-Đâu có.
-Bà có thấy tôi xỉn lần nào không?
-Ông thì không, nhưng bạn ông cả đống.
-Tôi cũng xỉn dài dài, nhưng không hề bao giờ tới đây khi đã uống đã
đời.
-Thì chắc chắn như vậy. Tôi đâu có nói thế.
-Cái tay chủ gara chắc là xỉn từ lúc vừa mở mắt, chậm lắm thì cũng cỡ
11 giờ
sáng. Nếu không, làm sao phán một câu hay như thế.
*
Truớc 1975, do sự hiện diện của người Mẽo ở Miền Nam, cho nên, giới trí
thức
đếch thèm học tiếng Mẽo, kẹt lắm, như Gấu chẳng hạn, bị làm bồi Mẽo,
cho nên
đành phải biết võ vẽ dăm ba tiếng Dét Dét, Nô Nô, đủ để hoàn tất
nhiệm vụ
của một gã Radiophoto Operator, chuyên gửi hình ảnh vô tuyến cho cơ
quan thống
tấn xã UPI.
Những ngày đầu, đa số nhân viên chóp bu của họ, đều rành tiếng Tây,
thành ra,
khi Gấu bập bẹ vài tiếng Mẽo bồi, là họ xua tay, thôi nói tiếng Tây đi,
tiện cả
cho tao lẫn mày, cả chủ lẫn tớ đều hài lòng!
Gấu đọc Faulkner, Hemingway là đều qua bản tiếng Tây, của chuyên gia
chuyên
dịch hai ông này, là Maurice Edgar Coindreau. Khi ra được hải ngoại, tự
nhủ
thầm, ai mà thèm đọc tiếng Mít nữa, bèn quyết định bye bye văn chương,
đi thi
lấy cái licence bán bảo hiểm, những lúc không có khách, thì lôi
Faulkner bản
tiếng Anh ra đọc, coi có khác bản tiếng Tây ngày nào.
Riêng Hemingway thì đã có kinh nghiệm khi dịch Mặt Trời Vẫn Mọc.

Dịch giả Hội
hè miên man, A Moveable Feast, của Hemingway
Hình trích tờ
Match du Monde, [không phải Paris Match]. Câu tiếng Tây, đại khái,
cũng tính nói
về cái thứ văn chương 'vô hại' ở trong nước hiện nay.
Tờ báo Tây gọi
PTH, thương gia, và cô bạn đồng nghiệp e lệ, đám Sài Gòn, là "les
enfants
gâtés".
Đám Hà Nội:
"Les enragés désabusés"
Những bức
hình dưới đây, là cùng trong số báo.
 

Phan Thị
Vàng Anh
"Miên
man", theo Gấu, không đúng ý của từ 'moveable', di động.
'If you are lucky enough to
have lived in
Paris as a young man, then wherever you go for the rest of your life,
it stays
with you, for Paris is a moveable feast.'
ERNEST HEMINGWAY
to a friend, 1950.
Nếu bạn đủ
may mắn để mà sống ở Paris khi là một anh chàng trai trẻ, thì nó sẽ ở
với bạn,
cho dù bạn lang thang chân trời góc bể nào, trong suốt cuộc đời còn lại
của
mình, bởi vì Paris là một ngày hội di động.
Hemingway,
thư gửi bạn, 1950.
*
Có lần, ngồi
lèm bèm với Lê Huy Oanh, nhân dịch Mặt Trời Vẫn Mọc, anh đưa ra nhận
xét,
Hemingway viết văn giống như ông ta cầm một nắm chữ và dùng nội lực bắn
chúng
lên trang giấy, và chúng dính cứng vào đúng cái chỗ mà ông muốn chúng
dính cứng,
không thể nào 'di động' đi chỗ khác!
Đúng! Tuyệt!
Gấu, khi dịch
Mặt Trời Vẫn Mọc, đã phải sử dụng cả hai ấn bản, một nguyên tác tiếng
Anh, và bản
dịch tiếng Tây, ấy là vì bản tiếng Tây, tuy không sai, nhưng quên mẹ nó
mất một
điều, chữ của Hemingway, khi dịch, là cũng phải để đúng cái chỗ của
chúng.
Bản tiếng
Pháp, ông dịch giả, đọc, và hiểu một câu văn của Hemingway, và sau đó,
chuyển
thành 'vài' câu tiếng Tây, trong khi đúng ra là phải bệ câu tiếng Anh
qua câu
tiếng Tây, không được phá vỡ cái thế 'bát quái' của nó!
Hình như ở
Việt Nam có một ông làm cái nghề di chuyển nhà, theo kiểu trên?
*
Gấu đọc
Faulkner bằng tiếng Tây, dịch giả Maurice Edgar Coindreau, được Tây
khen nhắng
lên, chuyên gia chuyên trị Faulkner! Ông này còn là chuyên gia số một
chuyên trị
Hemingway!
Chỉ đến khi
Gấu được ông Nhàn, chủ nhà xuất bản Vàng Son, một chi nhánh của nhà
xuất bản Sống
Mới, order dịch cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc, thì Gấu mới té ngửa ra, rằng thì
là, me
xừ này dịch Hemingway bằng cách đọc một câu, một đoạn văn, rồi tìm cách
chuyển
qua tiếng Tây, trong khi cái tối quan trọng của văn Hemingway, là: Từng
câu
văn. Từng câu văn. Từng câu văn. Cánh buồm nâu. Cánh buồm nâu. Cánh
buồm… nâu].
Gấu nhắc lại,
từng câu văn một.
Theo nghĩa
đó, khi chuyển qua tiếng Tây thì cũng bắt buộc, bệ từng câu qua, chứ
không phải,
hiểu, rồi tán phó mát thành hai hoặc ba câu!
Đây là điều
Jean-Paul Sartre cũng nhận ra, khi đọc Kẻ Xa Lạ của Camus, và nhớ tới
Hemingway, phán, mỗi câu là một hòn đảo, trơ cu lơ, độc lập. Mỗi câu là
một cú,
bật ra từ hư vô. Mỗi câu là một khởi đầu, viết. (1)
Chính vì thế
mà Sartre chơi một cái tít thật hách: Giải thích Kẻ Xa Lạ! [Explication
de
L'Étranger]; đâu có khác chi đàn anh Trung Quốc, dậy cho Việt Nam một
bài học.
Bản dịch qua
tiếng Anh bỏ đi từ “Explication”, là quá nhảm!
(1): Quelle
est cette technique? On m'avait dit: "C'est du Kafka écrit par
Hemingway". J'avoue que je n'ai pas retrouvé Kafka
Còn kỹ thuật
viết đó thì sao? Người ta bảo tôi, đây là Kafka, được viết bởi
Hemingway. Thú
thực, tôi không kiếm ra Kafka.
Có thể chính
vì, như trên, Camus đã đáp lại Sartre, bằng những câu sau đây, trong
thư trả lời
một tay người Đức muốn dựng Kẻ Xa Lạ thành kịch: ... Nói ngắn gọn, tôi
muốn làm
sao tránh xa khỏi kiểu đua đòi Kafka, và chủ nghĩa biểu hiện
(expressionnisme).
"Kẻ Xa Lạ" không hiện thực mà cũng không kỳ quái (fantastique). Với
tôi, đây là một thứ huyền thoại nhập thể (incarné: nhập xác phàm),
không lơ mơ
mà bám cứng lấy cõi người ta, tới tận da, tận xương, tận tủy. Và tới
tận cùng của
hơi nóng ngày ngày. Người ta muốn coi đấy là một kiểu cọ mới của vô đạo
đức
(immoraliste). Vậy là lầm to. Cái đập vào mặt chúng ta ở đây, không
phải là đạo
đức, mà là thế giới của vụ án, nó trưởng giả, nó quốc xã, nó cộng sản,
nói tóm
gọn, đây chính là vết lở lói đương thời.
Bữa nay mẹ tôi
mất
Nhật
Ký Tin Văn
Ông già bạn tôi
có lần nói, viết sao cho càng giản dị thì văn chương càng đẹp. Tôi cười
nói,
câu này của chú mười một chữ, mà hai mươi hai năm nữa chưa chắc cháu
làm được.
Ông cười cười, sai bét, cháu đã làm được rồi, mấy cái truyện đầu tay
đó. Nhưng
những trang viết giản dị, ngây ngô có phần khờ khạo xưa tôi càng sống
càng trải
đời càng rời xa chúng. Giờ mà viết được vậy, coi bộ khó hơn lên trời.
NNT
Chỉ một câu văn trên, là phải vận đến cả một đoạn, trong một bài viết
về Cioran, kẻ mơ tưởng một
thế giới mà ở đó, người ta có thể chết chỉ vì một cái dấu phẩy, nhìn ở
văn phong như là một cách để hoà giải hồ nghi và cao cả, sau
đây, (1) để "thuyết minh".
(1) Cioran
Le style, remède au
désespoir?
[Văn phong, thuốc chữa tuyệt
vọng?]
par Patrice Bollon [Ký giả,
tiểu luận gia]
Trích đoạn bài viết đăng
trong Le Magazine Littéraire,
số đặc biệt về chủ nghĩa hư vô, Oct-Nov 2006.
Mourir pour une
virgule. A la vérité
pourtant, il y a bien chez Cioran une
voie de surmonter cette contradiction entre la nécessité du scepticisme
et
celle, parallèle, de la foi; mais peut-être cette « solution"
n'est-elle
que nostalgique: en revenir à une espèce de monde cynique, et surrtout
qui
aurait fait du cynisme sa grandeur, comme le XVIIIe siècle français, a
pu en
donner l'image. Bref, c'est à une sorte de décadence somptueuse qu'en
appelle
Cioran, et c'est très exactement ce qu'il exprime dans le chapitre
central d'Ecartèlement,
« L'Amateur de mémoires ,: l'homme qui, dans les
Syllogismes de l'amertume, « rêve d'un monde où l'on mourrait pour
une virgule ", voit dans le style une façon de concilier le doute avec
la
grandeur. « Restent cependant les apparences, écrivait-il déjà en
1949 dans
le Précis de décomposition: pourquoi ne pas les hausser au niveau d'un
style?
C'est là définir toute époque intelligente. " La futilité serait ici la
vraie profondeur. Le nihilisme se convertit en fin de compte en un rêve
d'esthétisme.
Du romantisme adolescent de la négation à une sorte de politique
détachée et
désabusée de l'Artifice, en passant par la lucidité et le cynisme: tel
est
l'itinéraire que nous convie à emprunter Cioran, et lui confère son
extraordinaire actualité. Quand le « désert» croît, comme le disait
Nietzsche,
peut-être peut-on en arrêter l'expansion par les fêtes ininterrompues
d'une
Futilité vraie, érigée en mode de vie de philosophie. Ce nihilisme
raisonné,
doux, subtil, intelligent, porte de fait le beau nom de « Libertinage »•
*
Cái đám ngu đần, bằng cấp bằng
kiếc, cái đám viết ào ào, hết tác phẩm này tới tác phẩm khác bằng giọng
huênh hoang khoác lác, chúng có bao giờ viết nổi, chỉ một câu văn?
Như câu trên.
Hay như câu này:
Que serais-je, si je pouvais être.
Que dirais-je, si j’avais une voix, qui parle ainsi, se disant moi?
Tôi là gì nếu tôi có thể là gì.
Tôi nói gì nếu tôi có một tiếng nói. Ai nói thế, nhận là tôi?
Beckett: Textes pour rien.
*
Lúc Bé Tư mới ra cuốn Cánh đồng bất tận, một
ông lão nghe chuyện hỏi tôi NQS ủng hộ lắm hả, cháu có không? Tui nghe
chú Sơn Nam
có bản
photo. Mà lúc này ổng về ở dưới Lăng Ông rồi. Chở chú lại thăm giả
chút. Hai
người lớn nói chuyện văn chương, tôi mải mê đọc báo. Chỉ nghe thoáng
khúc cuối
chú Sơn Nam nói “nó muốn đặt
tên cho đứa nhỏ là Hiền, Lành gì đó chứ không Thù,
Hận,… nghĩ lại không biết tụi mình là con hoang của vụ hiếp dâm nào?”
Tôi xin
phép hai ông chú ra về trước.
Nhớ Sơn Nam
Anh già [Sơn Nam], anh trẻ [tác giả bài viết] đều cay đắng Cô Tư!
Bài này, viết nhân giỗ đầu Sơn Nam, được ông Việt Xì Tốp Đi Thôi cho
'hai sao', chứng tỏ trình độ thưởng ngoạn và luôn cả "cái tâm" của
người viết lẫn người đọc.
Trong một bài tưởng niệm, không ai đem chuyện cũ ra để mà sát muối vào
kẻ đã chết!
Nên nhớ Sơn Nam đã từng mắng mỏ Cô Tư là Hỗn, và đề nghị "Đảng" [?]
giáo hóa Cô, bắt Cô viết tự kiểm!
Tôi xin phép hai ông chú về trước.
Sao không ở lại nghe tiếp, kể tiếp?
Hỗn
Có một dạo,
“Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư gây xôn xao dư luận. Nhà văn
nhận xét thế
nào về quyển sách này và về tác giả?
-Cô Tư viết
hay nhưng hỗn. Văn phong của cổ hơi cà rỡn. Cái nhìn trong “Cánh đồng
bất tận”
không rộng, nông dân ở đó không nhìn hẹp như thế mà mỗi cái họ đều có
lý của họ.
Ngọc Tư thông minh, sẽ còn phát triển nữa nhưng cần người chỉ dẫn sau
vụ lùm
xùm về “Cánh đồng bất tận”.
Nguồn
*
Ông già
bạn tôi
có lần nói, viết sao cho càng giản dị thì văn chương càng đẹp. Tôi cười
nói,
câu này của chú mười một chữ, mà hai mươi hai năm nữa chưa chắc cháu
làm được.
Ông cười cười, sai bét, cháu đã làm được rồi, mấy cái truyện đầu tay
đó. Nhưng
những trang viết giản dị, ngây ngô có phần khờ khạo xưa tôi càng sống
càng trải
đời càng rời xa chúng. Giờ mà viết được vậy, coi bộ khó hơn lên trời.
*
Chúng ta tự hỏi,
trong câu văn trên, cái dấu phẩy mà Cioran mơ tưởng, ở đâu?
Gấu nghĩ, ở sau
từ “xưa”:
Ông già bạn tôi
có lần nói, viết sao cho càng giản dị thì văn chương càng đẹp. Tôi cười
nói,
câu này của chú mười một chữ, mà hai mươi hai năm nữa chưa chắc cháu
làm được.
Ông cười cười, sai bét, cháu đã làm được rồi, mấy cái truyện đầu tay
đó. Nhưng
những trang viết giản dị, ngây ngô có phần khờ khạo xưa, tôi
càng sống
càng trải đời càng rời xa chúng. Giờ mà viết được vậy, coi bộ khó hơn
lên trời.
Từ xưa này, còn ‘ăn’ với
từ xa sau đó.
Bảnh còn hơn cả đoạn văn mở ra Giã Từ Vũ Khí của Hemingway!
Cũng có chuyện đếm chữ ở trong cả hai.
In the late
summer of that year we lived in a house in a village that looked across
the
river and the plain to the mountains. In the bed of the river there
were
pebbles and boulders, dry and white in the sun, and the water was clear
and swiftly
moving and blue in the channels. Troops went by the house and down the
road and
the dust they raised powdered the leaves of the trees. The trunks of
the trees
too were dusty and the leaves fell early that year and we saw the
troops
marching along the road and the dust rising and leaves, stirred by the
breeze,
falling and the soldiers marching and afterward the road bare and white
except
for the leaves.
So goes the famous first paragraph of Ernest Hemingway's ''A Farewell
to
Arms," which I was moved to reread by the recent announcement that what
was said to be Hemingway's last novel would be published posthumously
next
year. That paragraph, which was published in 1929, bears examination:
four
deceptively simple sentences, one hundred and twenty-six words, the
arrangement
of which remains as mysterious and thrilling to me now as it did when I
first
read them, at twelve or thirteen, and imagined that if I studied them
closely
enough and practiced hard enough I might one day arrange one hundred
and twenty-six
such words myself.
Joan Didion
Vào cuối mùa hè năm đó, chúng tôi sống trong một căn nhà
trong một cái làng
nhìn ra sông ra đồng tới tận vùng núi. Ở lòng con sông là đá cuội và đá
mòn,
khô và trắng trong ánh nắng, và nước sông, trong và chảy nhẹ nhàng,
xanh ở
trong những dòng rẽ. Những toán quân đi kế bên nhà xuống con lộ và bụi
dấy lên
phủ lên lá. Thân cây cũng bụi bặm, lá rụng sớm năm đó và chúng tôi nhìn
thấy
những toán quân đi bộ dọc theo con lộ, bụi dấy lên, và những lá cây,
theo làn
gió thổi rớt xuống, và những người lính đi bộ, và sau đó con lộ trần
trụi, vắng
hoe, và trắng toát, ngoại trừ những chiếc lá cây.
Đó là đọan văn trứ danh, hách xì xằng mở ra Giã từ
vũ khí, mà tôi,
thật xúc động, khi đọc lại, nhân có tin cuốn tiểu thuyết chót của
Hemingway sẽ
được xb, sau khi ông mất, vào năm tới.
Đoạn văn trên, ấn bản 1929, nếu nhìn thật gần, thì nó như thế này: bốn
câu đơn,
126 từ, sự sắp xếp thì là một niềm bí ẩn mà ngay cả bây giờ, đọc lại
tôi vẫn
cảm thấy như lần đầu đọc nó, vào lúc 12, 13 tuổi, và tưởng tượng, nếu
nhìn thật
gần, gẩn nữa, gần nữa, thì tôi có thể, nếu trần lực ra mà đánh vật với
chúng,
thì có một ngày, tôi sẽ sắp xếp được những từ đó, chính tôi!
Ông già bạn tôi
có lần nói, viết sao cho càng giản dị thì văn chương càng đẹp. Tôi cười
nói,
câu này của chú mười một chữ, mà hai mươi hai năm nữa chưa chắc cháu
làm được.
Ông cười cười, sai bét, cháu đã làm được rồi, mấy cái truyện đầu tay
đó. Nhưng
những trang viết giản dị, ngây ngô có phần khờ khạo xưa tôi càng sống
càng trải
đời càng rời xa chúng. Giờ mà viết được vậy, coi bộ khó hơn lên trời.
NNT
Chỉ một câu văn trên, là phải vận đến cả một đoạn, trong một bài viết
về Cioran, kẻ mơ tưởng một
thế giới mà ở đó, người ta có thể chết chỉ vì một cái dấu phẩy, nhìn ở
văn phong như là một cách để hoà giải hồ nghi và cao cả, sau
đây, (1) để "thuyết minh".
(1) Cioran
Le style, remède au
désespoir?
[Văn phong, thuốc chữa tuyệt
vọng?]
par Patrice Bollon [Ký giả,
tiểu luận gia]
Trích đoạn bài viết đăng
trong Le Magazine Littéraire,
số đặc biệt về chủ nghĩa hư vô, Oct-Nov 2006.
Mourir pour une
virgule. A la vérité
pourtant, il y a bien chez Cioran une
voie de surmonter cette contradiction entre la nécessité du scepticisme
et
celle, parallèle, de la foi; mais peut-être cette « solution"
n'est-elle
que nostalgique: en revenir à une espèce de monde cynique, et surrtout
qui
aurait fait du cynisme sa grandeur, comme le XVIIIe siècle français, a
pu en
donner l'image. Bref, c'est à une sorte de décadence somptueuse qu'en
appelle
Cioran, et c'est très exactement ce qu'il exprime dans le chapitre
central d'Ecartèlement,
« L'Amateur de mémoires", l'homme qui, dans les
Syllogismes de l'amertume, « rêve d'un monde où l'on mourrait pour
une virgule ", voit dans le style une façon de concilier le doute avec
la
grandeur. « Restent cependant les apparences, écrivait-il déjà en
1949 dans
le Précis de décomposition: pourquoi ne pas les hausser au niveau d'un
style?
C'est là définir toute époque intelligente. " La futilité serait ici la
vraie profondeur. Le nihilisme se convertit en fin de compte en un rêve
d'esthétisme.
Du romantisme adolescent de la négation à une sorte de politique
détachée et
désabusée de l'Artifice, en passant par la lucidité et le cynisme: tel
est
l'itinéraire que nous convie à emprunter Cioran, et lui confère son
extraordinaire actualité. Quand le « désert» croît, comme le disait
Nietzsche,
peut-être peut-on en arrêter l'expansion par les fêtes ininterrompues
d'une
Futilité vraie, érigée en mode de vie de philosophie. Ce nihilisme
raisonné,
doux, subtil, intelligent, porte de fait le beau nom de « Libertinage »•
*
Cái đám ngu đần, bằng cấp bằng
kiếc, cái đám viết ào ào, hết tác phẩm này tới tác phẩm khác bằng giọng
huênh hoang khoác lác, chúng có bao giờ viết nổi, chỉ một câu văn?
Như câu trên.
Hay như câu này:
Que serais-je, si je pouvais être.
Que dirais-je, si j’avais une voix, qui parle ainsi, se disant moi?
Tôi là gì nếu tôi có thể là gì.
Tôi nói gì nếu tôi có một tiếng nói. Ai nói thế, nhận là tôi?
Beckett: Textes pour rien.
*
Lúc Bé Tư mới ra cuốn Cánh đồng bất tận, một
ông lão nghe chuyện hỏi tôi NQS ủng hộ lắm hả, cháu có không? Tui nghe
chú Sơn Nam
có bản
photo. Mà lúc này ổng về ở dưới Lăng Ông rồi. Chở chú lại thăm giả
chút. Hai
người lớn nói chuyện văn chương, tôi mải mê đọc báo. Chỉ nghe thoáng
khúc cuối
chú Sơn Nam nói “nó muốn đặt
tên cho đứa nhỏ là Hiền, Lành gì đó chứ không Thù,
Hận,… nghĩ lại không biết tụi mình là con hoang của vụ hiếp dâm nào?”
Tôi xin
phép hai ông chú ra về trước.
Nhớ Sơn Nam
Anh già [Sơn Nam], anh trẻ [tác giả bài viết] đều cay đắng Cô Tư!
Bài này, viết nhân giỗ đầu Sơn Nam, được ông Việt Xì Tốp Đi Thôi cho
'hai sao', chứng tỏ trình độ thưởng ngoạn và luôn cả "cái tâm" của
người viết lẫn người đọc.
Trong một bài tưởng niệm, không ai đem chuyện cũ ra để mà sát muối vào
kẻ đã chết!
Nên nhớ Sơn Nam đã từng mắng mỏ Cô Tư là "hỗn", và đề nghị "Đảng" [?]
giáo hóa Cô, bắt Cô viết tự kiểm!
Tôi xin phép hai ông chú về trước.
Sao không ở lại nghe tiếp, kể tiếp?
Hỗn
Có
một dạo,
“Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư gây xôn xao dư luận. Nhà văn
nhận xét thế nào về quyển sách này và về tác giả?
-Cô Tư viết hay nhưng hỗn. Văn phong của cổ hơi cà rỡn. Cái nhìn trong
“Cánh đồng bất tận” không rộng, nông dân ở đó không nhìn hẹp như thế mà
mỗi cái họ đều có lý của họ. Ngọc Tư thông minh, sẽ còn phát triển nữa
nhưng cần người chỉ dẫn sau vụ lùm xùm về “Cánh đồng bất tận”.
Sơn Nam
Nguồn
*
Ông già
bạn tôi
có lần nói, viết sao cho càng giản dị thì văn chương càng đẹp. Tôi cười
nói,
câu này của chú mười một chữ, mà hai mươi hai năm nữa chưa chắc cháu
làm được.
Ông cười cười, sai bét, cháu đã làm được rồi, mấy cái truyện đầu tay
đó. Nhưng
những trang viết giản dị, ngây ngô có phần khờ khạo xưa tôi càng sống
càng trải
đời càng rời xa chúng. Giờ mà
viết được vậy, coi bộ khó hơn lên trời.
*
Chúng ta tự hỏi,
trong câu văn trên, cái dấu phẩy mà Cioran mơ tưởng, ở đâu?
Gấu nghĩ, ở sau
từ “xưa”:
Ông già bạn tôi
có lần nói, viết sao cho càng giản dị thì văn chương càng đẹp. Tôi cười
nói,
câu này của chú mười một chữ, mà hai mươi hai năm nữa chưa chắc cháu
làm được.
Ông cười cười, sai bét, cháu đã làm được rồi, mấy cái truyện đầu tay
đó. Nhưng
những trang viết giản dị, ngây ngô có phần khờ khạo xưa, tôi
càng sống
càng trải đời càng rời xa chúng. Giờ mà viết được vậy, coi bộ khó hơn
lên trời.
Từ xưa này, còn ‘ăn’ với
từ xa sau đó.
Bảnh còn hơn cả đoạn văn mở ra Giã Từ Vũ Khí của Hemingway!
Cũng có chuyện đếm chữ ở trong cả hai.
In the late
summer of that year we lived in a house in a village that looked across
the
river and the plain to the mountains. In the bed of the river there
were
pebbles and boulders, dry and white in the sun, and the water was clear
and swiftly
moving and blue in the channels. Troops went by the house and down the
road and
the dust they raised powdered the leaves of the trees. The trunks of
the trees
too were dusty and the leaves fell early that year and we saw the
troops
marching along the road and the dust rising and leaves, stirred by the
breeze,
falling and the soldiers marching and afterward the road bare and white
except
for the leaves.
So goes the famous first paragraph of Ernest Hemingway's ''A Farewell
to
Arms," which I was moved to reread by the recent announcement that what
was said to be Hemingway's last novel would be published posthumously
next
year. That paragraph, which was published in 1929, bears examination:
four
deceptively simple sentences, one hundred and twenty-six words, the
arrangement
of which remains as mysterious and thrilling to me now as it did when I
first
read them, at twelve or thirteen, and imagined that if I studied them
closely
enough and practiced hard enough I might one day arrange one hundred
and twenty-six
such words myself.
Joan Didion
Vào cuối mùa hè năm đó, chúng tôi sống trong một căn nhà
trong một cái làng
nhìn ra sông ra đồng tới tận vùng núi. Ở lòng con sông là đá cuội và đá
mòn,
khô và trắng trong ánh nắng, và nước sông, trong và chảy nhẹ nhàng,
xanh ở
trong những dòng rẽ. Những toán quân đi kế bên nhà xuống con lộ và bụi
dấy lên
phủ lên lá. Thân cây cũng bụi bặm, lá rụng sớm năm đó và chúng tôi nhìn
thấy
những toán quân đi bộ dọc theo con lộ, bụi dấy lên, và những lá cây,
theo làn
gió thổi rớt xuống, và những người lính đi bộ, và sau đó con lộ trần
trụi, vắng
hoe, và trắng toát, ngoại trừ những chiếc lá cây.
Đó là đọan văn trứ danh, hách xì xằng mở ra Giã từ
vũ khí, mà tôi,
thật xúc động, khi đọc lại, nhân có tin cuốn tiểu thuyết chót của
Hemingway sẽ
được xb, sau khi ông mất, vào năm tới.
Đoạn văn trên, ấn bản 1929, nếu nhìn thật gần, thì nó như thế này: bốn
câu đơn,
126 từ, sự sắp xếp thì là một niềm bí ẩn mà ngay cả bây giờ, đọc lại
tôi vẫn
cảm thấy như lần đầu đọc nó, vào lúc 12, 13 tuổi, và tưởng tượng, nếu
nhìn thật
gần, gẩn nữa, gần nữa, thì tôi có thể, nếu trần lực ra mà đánh vật với
chúng,
thì có một ngày, tôi sẽ sắp xếp được những từ đó, chính tôi!
*
Gỡ bỏ
cho nhẹ bớt
Bài viết mới của Cô Tư, thường
ra, là có ngay trên Viết Xì Tốp Đi Thôi, và phải là bản "Tư" gửi,
kỳ này, bài này, không, có lẽ vị giáo sư kinh tế mê văn miệt vườn bận
chuyện tưởng nhớ nhà văn Sơn Nam, đăng hai bài kế nhau, sợ chỏi!
Suy ra, có thể
cuộc tình văn chương & kinh tế chắc là đã đến hồi hạ màn, hay nói
theo Cô Tư,
gỡ ra cho khoẻ, cho nhẹ bớt!
Có lần hỏi
thằng nhỏ mấy cái
đĩa nhạc cổ lổ sĩ này bán chạy không, nó nói người ta mua nhiều lắm,
nhưng chị
là trẻ nhất. Lại hỏi tiếp, bộ thấy tôi mệt mỏi già nua lắm sao mà nghĩ
nhạc này
hợp với tôi. Thằng nhỏ cười, tại em thấy chị ăn mặc rất bình thường,
còn không
đeo nữ trang. Câu trả lời này làm tôi nhớ mấy giai thoại Thiền kiểu như
hai ông
đi bên bờ sông, một ông hỏi Đại Niết bàn là gì, sư trả lời, mau. Hỏi,
mau gì,
ông sư trả lời, xem nước. Hiểu chết liền.
Bữa qua ngồi quán chiều vắng
ngắt,
ông đồ cổ lại mở cái đĩa hát cổ, cô Ly đổ giọng ca mát rượi ra hè phố,
“Cúi
xuống/ Vùng non xanh mát/ Và cao tiếng hát cho cơn ưu phiền tan…” bỗng
thấy tâm
hồn mỏi mệt của mình đang được sự giản dị nào cứu chuộc. Cảm giác gan
bàn chân
tôi vừa chạm vào mặt đất, hình như tôi vừa tháo giày ra bỏ phứt bên
đường.
Nhưng
tuổi hai mươi gặp gì cũng thấy ham, cũng đeo mang, cũng hớn hở vơ lấy
vào mình,
tuổi lỉnh kỉnh những phấn son, tô vẽ và xiêm áo, tuổi hai mươi ấy giờ
đâu mà
tuổi ba mươi phải gỡ ra gần chết…
*
Hiểu chết liền!
Note: "Viết Xì tốp đi thôi" mới post bài trên, câu văn trên, được sửa
lại, là:
Nhưng những trang
viết giản dị, ngây ngô có phần khờ khạo đó tôi càng sống càng trải đời
càng rời xa chúng. Giờ mà viết được vậy, coi bộ khó hơn lên trời.
Câu sửa lại, dễ đọc hơn, nhưng "thua" câu chưa sửa,
theo Gấu!
Thua, cái gọi là hào quang thơ,
như Simenon nói. (1)
(1)
Why do you think Gogol
interested you?
SIMENON:
Maybe because he
makes
characters who are just like everyday people but at the same time have
what I
called a few minutes ago the third dimension I am looking for. All of
them have this poetic aura.
But not the Oscar Wilde kind-a poetry which comes
naturally,
which is there, the kind Conrad has.
Theo ông, tại
sao Gogol lại làm ông quan tâm?
Có thể,
bởi vì ông
ta tạo ra những nhân vật giống y hệt những con người hàng ngày, nhưng
cùng một
lúc, họ có cái, lúc nẫy tôi có nói, cái chiều thứ ba mà tôi tìm kiếm.
Tất cả
họ đều có cái mà tôi gọi là hào quang thơ. Không phải kiểu của Oscar
Wilde - một thứ
thơ đến một cách tự nhiên, cái thứ mà Conrad có.
The Paris Review Interviews, vol 3
The
wild young years of the
Lost Generation in Paris
"Hemingway
at his best
... savagely written, full of love and bitterness."
The
New York Times
Những
năm tháng trẻ trung hoang dại của Thế hệ Bỏ đi ở Paris.
"Hemingway
ở vào lúc bảnh nhất của chàng... [Paris
là một ngày hội] được
viết một cách tàn bạo, đầy tình yêu và cay đắng". Gấu dịch.
“Hemingway
ở đỉnh cao nhất…
lối viết hoang dại tràn ngập tình yêu và sự cay đắng […]. Nhã Nam dịch.
*
Những
từ như savagely, love, bitterness... là để nói về tình bạn thắm
thiết của Hemingway với các đấng bạn quí của ông.
Ui
chao, lại thèm viết về những ngày ở Sài Gòn, và cuộc hành trình "đi
tìm một cái mũ đã mất" của cả một trào lưu tiểu thuyết mới ở Việt Nam!
*
Scott
Fitzgerald
His
talent was as natural as
the pattern that was made by the dust on a butterfly's wings. At one
time he
understood it no more than the butterfly did and he did not know when
it was
brushed or marred. Later he became conscious of his damaged wings and
of their
construction and he learned to think and could not fly any more because
the
love of flight was gone and he could only remember when it had been
effortless.
Tài
năng của bạn quí của ta thì cũng vô
tư hồn nhiên, và tự nhiên, như những nét hoa văn được làm bằng bụi ở
trên cánh
bướm. Có một thời, chàng hiểu điều này, cũng vô tư hồn nhiên, và tự
nhiên, như bướm
hiểu, và chàng đếch thèm phân biệt, khi nào thì tài năng của chàng là
vàng, khi
nào thì là cứt. Sau đó, khi chàng bắt đầu băn khoăn đến những cánh bướm
bị đời
gọi không biết bao nhiêu lần của mình, và muốn tìm hiểu cấu trúc của
bướm, và
chàng học suy tư, và thế là chàng đếch làm sao bay bổng lên được nữa,
ấy là vì
tình yêu mong được bay bổng mãi lên trên cao thì đã bỏ chàng, và chàng
chỉ
có thể nhớ
lại, khi nào bướm hết còn là bướm.
[Note:
Cái này là Gấu dịch phóng,
dịch ẩu, cho dzui. Muốn có bản dịch chính xác, xin liên lạc Nhã Nam.
Ui
chao, quảng cáo free cho bạn văn-nhà thương gia đấy nhá! NQT]
Hemingway
viết về Fitzgerald mà
không... đểu ư?
Đâu
thua gì Gấu viết về các đấng bạn quí của Gấu?
*
Ui
chao, lại nói chuyện bạn quí, những cái xác trôi lều bều trên con
sông thời gian, lịch sử những ngày ở Sài Gòn.
Gấu
có cả một lô kỷ niệm, nhớ đến đâu đau đến đó, về những đấng bạn
quí. Sau lần đi gặp Con K nhân sinh nhật vừa qua, nó biểu Gấu, tao
chẳng có gì mà cho mày hết, chỉ có vài lời nhắn nhủ như thế này này:
Quãng
đời còn lại của mày bây giờ là 'bonus' rồi. Suy Nghĩ Lớn, về Cái
Đại Ác Bắc Kít, thì cũng viết ra rồi. Hoang Vu Lớn thì cũng tàn lụi
theo BHD từ giã mày mà đi trước mày rồi, bi giờ ta cho phép mi tha hồ
mà viết, muốn viết cái đéo gì thì viết!
Hà,
hà!
*
LIFE
AND LETTER
LAST WORDS
Those Hemingway wrote, and
those he didn't.
By Joan Didion
THE NEW YORKER NOVEMBEI 9,
1998
In the late
summer of that year we lived in a house in a village that
looked across the river and the plain to the mountains. In the bed of
the river
there were pebbles and boulders, dry and white in the sun, and the
water was
clear and swiftly moving and blue in the channels. Troops went by the
house and
down the road and the dust they raised powdered the leaves of the
trees. The
trunks of the trees too were dusty and the leaves fell early that year
and we
saw the troops marching along the road and the dust rising and leaves,
stirred
by the breeze, falling and the soldiers marching and afterward the road
bare
and white except for the leaves.
So goes the famous first paragraph of Ernest Hemingway's ''A Farewell
to
Arms," which I was moved to reread by the recent announcement that what
was said to be Hemingway's last novel would be published posthumously
next
year. That paragraph, which was published in 1929, bears examination:
four
deceptively simple sentences, one hundred and twenty-six words, the
arrangement
of which remains as mysterious and thrilling to me now as it did when I
first
read them, at twelve or thirteen, and imagined that if I studied them
closely
enough and practiced hard enough I might one day arrange one hundred
and
twenty-six such words myself. Only
one of
the words has three syllables. Twenty-two have two. The other hundred
and three
have one. Twenty-four of the words are "the," fifteen are
"and." There are four commas. The liturgical cadence of the paragraph
derives in part from the placement of the commas (their presence in the
second
and fourth sentences, their absence in the first and third), but also
from that
repetition of "the" and of "and," creating
a rhythm so pronounced that the
omission of
"the" before the word "leaves" in the fourth sentence
("and we saw the troops marching along the road and the dust rising and
leaves, stirred by the breeze, falling") casts exactly what it was
meant
to cast, a chill, a premonition, a foreshadowing of the story to come,
the
awareness that the author has already shifted his attention from late
summer to
a darker season. The power of the paragraph, offering as it does the
illusion
but not the fact of specificity, derives precisely from this kind of
deliberate
omission, from the tension of withheld information. In the late summer
of what
year? What river, what mountains, what troops?
We all know the
"life" of the man who wrote that paragraph. The rather reckless
attractions of the domestic details became fixed in the national memory
stream: Ernest and Hadley have no money, so they
ski at Cortina all winter. Pauline comes to stay. Ernest and Hadley are
at odds
with each other over Pauline, so they all take refuge at Juan-les-Pins.
Pauline
catches cold, and recuperates at the Waldorf-Astoria. We have seen
the
snapshots: the celebrated author fencing with the bulls at Pamplona,
fishing for marlin off Havana, boxing
at Bimini,
crossing the Ebro with the Spanish loyalists, kneeling beside "his"
lion or "his" buffalo or "his" oryx on the Serengeti
Plain. We have observed the celebrated author's
survivors, read his letters, deplored or found lessons in his excesses,
in his
striking of attitudes, in the humiliations of his claim to personal
machismo,
in the degradations both derived from and revealed by his apparent f
tolerance
for his own celebrity.
"This is to tell you
about a young man named Ernest Hemingway, who lives in Paris (an
American),
writes for the trans-atlantic review
and has a brilliant future," F. Scott Fitzgerald wrote to Maxwell
Perkins
in 1924. "I'd look him up right away. He's the real thing." By the
time "the real thing" had seen his brilliant future both realized and
ruined, he had entered the valley of extreme emotional fragility, of
depressions so grave that by February of 1961, after the first of what
would be
two courses of shock treatment, he found himself unable to complete
even the single
sentence he had agreed to contribute to a ceremonial volume for
President John
F. Kennedy. Early on the Sunday morning of July 2, 1961, the celebrated
author
got out of his bed in Ketchum,
Idaho, went
downstairs, took a double-barreled
Boss shotgun from a storage room in the cellar, and emptied both
barrels into
the center of his forehead. "I went downstairs," his fourth wife,
Mary Welsh Hemingway, reported in her 1976 memoir, "How It Was,"
"saw a crumpled heap of bathrobe and blood, the shotgun lying in the
disintegrated flesh, in the front vestibule of the sitting room."
THE didactic momentum of the biography
was such that we sometimes forgot that this was a writer who had in his
time
made the English language new, changed the rhythms of the way both his
own and
the next few generations would speak and write and think. The very
grammar of a
Hemingway sentence dictated, or was dictated by, a certain way of
looking at
the world, a way of looking but not joining, a way of moving through
but not
attaching, a kind of romantic individualism distinctly adapted to its
time and
source. If we bought into those sentences, we would see the troops
marching
along the road, but we would not necessarily march with them. We would
report,
but not join. We would make, as Nick Adams made in the Nick Adams
stories and
as Frederic Henry made in "A Farewell to Arms," a separate peace:
"In the fall the war was
always there, but we did not go to it any more." So pervasive was the
effect of this Hemingway diction that it became the voice not only of
his admirers
but even of those whose approach to the world was in no way grounded in
romantic individualism. I recall being surprised, when I was teaching
George
Orwell in a class at Berkeley
in 1975, by how much of Hemmingway could be heard in his sentences.
"The
hills opposite us were grey and wrinkled like the skins of elephants,"
Orwell
had written in "Homage to Catalonia"
in 1938. "The hills across the valley of the Ebro
were long and white," Hemmingway had written in "Hills Like White
Elephants" in 1927.
"A mass of Latin words falls upon the facts like soft snow, blurring
the
outlines and covering up all the details," Orwell had written in
"Politics and the English Language" in 1946. "I was always
embarrassed by the words sacred, glorious, and sacrifice and the
expression in
vain," Hemingway had written in "A Farewell to Arms" in 1929.
"There were many words that you could not stand to hear and finally
only
the names of places had dignity."
This was a man to whom words mattered.
He worked at them, he understood them, he got inside them. When he was
twenty-four years old and reading submissions to Ford Madox Ford's trans-atlantic review he would sometimes
try rewriting them, just for practice.
His wish to be survived by only the words he determined fit for
publication
would have seemed clear enough. "I remember Ford telling me that a man
should always write a letter thinking of how it would read to
posterity,"
he wrote to Arthur Mizener in 1950. "This made such a bad impression on
me
that I burned every letter in the flat including Ford's." In a letter
dated May 20, 1958, addressed "To my Executors" and placed in his
library safe at La Finca Vigia, he wrote, "It is my wish that none of
the
letters written by me during my lifetime shall be published.
Accordingly, I
hereby request and direct you not to publish or consent to the
publication by
others of any such letters."
His widow and executor, Mary
Welsh Hemingway, describing the burden of this restriction as one that
"caused me continuous trouble, and disappointment to others,"
eventually chose to violate it, publishing excerpts from certain
letters in
"How It Was" and granting permission to Carlos Baker to publish some
six hundred others in his "Ernest Hemingway:
Selected Letters,
1917-1961." "There can be no question about the wisdom and rightness
of the decision," Baker wrote, for the letters "will not only
instruct and entertain the general reader but also provide serious
students of
literature with the documents necessary to the continuing investigation
of the
life and achievements of one of the giants of twentieth century
American
fiction."
THE peculiarity of being a
writer is that the entire enterprise involves the mortal humiliation of
seeing
one's own words in print. The risk of publication is the grave fact of
the
life, and, even among writers less inclined than Hemingway to construe
words as
the manifest expression of personal honor, the notion that words one
has not
risked publishing should be open to "continuing investigation" by
"serious students of literature" could not be calculated to kindle
enthusiasm. "Nobody likes to be tailed," Hemingway himself had in
1952 advised one such investigator, Charles A. Fenton of Yale, who on
the
evidence of the letters was tormenting Hemmingway by sending him
successive
drafts of what would be "The Apprenticeship of
Ernest Hemingway: The Early Years."
"You do not like to be
tailed, investigated, queried about, by any amateur detective no matter
how
scholarly or how straight. You ought to be able to see that, Fenton." A
month later Hemingway tried again. "I think you light to drop the
entire
project," he wrote to Fenton, adding, "It is impossible to arrive at
any truth without the co-operation of the person involved. That
co-operation involves
very nearly as much effort as for man to write his autobiography." A
few
months later, he was still trying:
In the first page or pages of
your Mss. I found so many errors of fact that I could spend the rest of
this
winter re-writing and giving you the true gen and I would not be able
to write
anything of my own at all .... Another thing: You have located unsigned
pieces
by me through pay vouchers. But you do not know which pieces were
change or
re-written by the copy desk and which were not. I know nothing worse
for a
writer than for his early writing which has been re-written and altered
to be
published without permission as his own.
Actually I know few things
worse than for another writer to collect a fellow writer’s journalism
which his
fellow writer has elected not to preserve because it is worthless and
publish
it. Mr. Fenton I feel very
strongly about this.
I have written you so before
and I write you now again. Writing that I do not wish to publish, you
have no
right to publish. I would no more do a thing like that to you than I
would
cheat a man at cards or rifle his desk or wastebasket or read his
personal
letters.
It might seem safe to assume
that a writer who commits suicide has been less than entirely engaged
by the
work he leaves unfinished, yet there appears to have been not much
question
about what would happen to the unfinished Hemingway manuscripts. These
included
not only "the Paris stuff" (as he called it), or "A Moveable
Feast" (at Scribner's called it), which Hemingway had in fact shown to
Scribner's in 1959 and then withdrawn for revision, but also the novels
later
published under the titles "Islands in the Stream" and "The
Garden of Eden," several Nick Adams stories, what Mrs. Hemingway called
the "original treatment" of the bullfighting pieces published by Life
before Hemingway's death (this became "The Dangerous Summer"), and
what she described as "his semi fictional account of our African
safari," three selections from which she had published in Sports
Illustrated in 1971 and 1972.
What followed was the
systematic creation of a marketable product, a discrete body of work
different
in kind from, and in fact tending to obscure, the body of work
published by
Hemingway in his lifetime. So successful was the process of branding
this
product that in October, according to the House & Home section of
the New
York Times, Thomasville Furniture Industries introduced an "Ernest
Hemingway Collection" at the International Home Furnishings Market in
High
Point, North Carolina, offering "96 pieces of living, dining and
bedroom
furniture and accessories" in four themes, "Kenya," "Key
West," "Havana," and "Ketchum." "We don't have
many heroes today," Marla A. Metzner, the president of Fashion
Licensing
of America, told the Times. "We're going back to the great icons of the
century, as heroic brands." Ms. Metzner, according to the Times, not
only
"created the Ernest Hemingway brand with Hemingway's three sons, Jack,
Gregory and Patrick," but "also represents F. Scott Fitzgerald's
grandchildren, who have asked for a Fitzgerald brand."
That
this would be the
logical outcome of posthumous marketing cannot have been entirely clear
to Mary
Welsh Hemingway. During Hemingway’s lifetime, she appears to have
remained cool
to the marketing impulses of A. E. Hotchner, whose thirteen-year
correspondence
with Hemingway gives the sense that he regarded the failing author not
as the
overextended and desperate figure the letters suggest but is an
infinite
resource, a mine to be worked, an element to be packaged into his
various
entertainment and publishing "projects." The widow tried to stop the
publication of Hotchner's "Papa Hemingway," and, although the
correspondence
makes clear that Hemmingway himself had both trusted and relied heavily
on its
author, presented him in her own memoir mainly as a kind of personal
assistant,
a fetcher of manuscripts, an arranger of apartments, a Zelig apparition
in
crowd scenes: "When the Ile de
France docked in the Hudson River at noon, March 27, we were elated
to find
Charlie Sweeny, my favorite general, awaiting us, together with Lillian
Ross,
Al Horowitz, Hotchner and some others."
In this
memoir, which is
memorable mainly for the revelation of its author's rather trying
mixture of
quite striking competence and strategic incompetence (she arrives in
Paris on
the day it is liberated and scores a room at the Ritz, but seems
bewildered by
the domestic problem of how to improve the lighting of the dining room
at La
Finca Vigia), Mary Welsh Hemingway shared her conviction, at which she
appears
to have arrived in the face of considerable contrary evidence, that her
husband
had "clearly" expected her to publish "some, if not all, of his
work." The guidelines she set for herself in this task were
instructive:
"Except for punctuation and the obviously overlooked lands' and 'buts'
we
would present his prose and poetry to readers as he wrote it, letting
the gaps
lie where they were."
WELL,
there you are. You care
about the punctuation or you don't, and Hemingway did. You care about
the
"ands" and the "buts" or you don't, and Hemingway did. You
think something is in shape to be published or you don't, and Hemingway
didn't.
"This is it; there are no more books," Charles Scribner III told the
New York Times by way of announcing the "Hemmingway novel" to be
published in July of 1999, to celebrate the centennial year of his
birth. This
piece of work, for which the title "True at First Light" was chosen
from the text ("In Africa a thing is true at first light and a lie by
noon
and you have no more respect for it than for the lovely, perfect
weed-fringed
lake you see across the sun-baked salt plain"), is said to be the novel
on
which Hemingway was trying intermittently to work between 1954, when he
and
Mary Welsh Hemingway returned from the safari in Kenya which provides
its narrative,
and his suicide in 1961.
This
"African
novel" seems to have presented at first only the resistance that
characterizes the early stage of any novel. In September of 1954,
Hemingway
wrote to Bernard Berenson from Cuba
about the adverse effect of air-conditioning on this thing he was
doing:
"You get the writing done but it's as false as though it were done in
the
reverse of a greenhouse. Probably I will throw it all away, but maybe
when the
mornings are alive again I can use the skeleton of what I have written
and fill
it in with the smells and the early noises of the birds and all the
lovely
things of this finca which are in the cold months very much like Africa." In September of
1955, he wrote again to
Berenson, this time on a new typewriter, explaining that he could not
use his
old one "because it has page 594 of the [African] book in it, covered
over
with the dust cover, and it is unlucky to take the pages out." In
November
of 1955, he reported to Harvey Breit, of the New York Times, "Am on
page 689
and wish me luck kid." In January of 1956, he wrote to his attorney,
Alfred Rice, that he had reached page 810.
There
then falls, in the
"Selected Letters," a certain silence on the matter of this African
novel. Eight-hundred and ten pages or no, there comes a point at which
every
writer knows when a book is not working, and every writer also knows
when the
reserves of will and energy and memory and concentration required to
make the
thing work simply may not be available. "You just have to go on when it
is
worst and most helpless-there is only one thing to do with a novel and
that is
go straight on through to the end of the damn thing," Hemingway had
written to F. Scott Fitzgerald in 1929, when Fitzgerald was blocked on
the
novel that would be published in 1934 as "Tender Is the Night."
In
1929, Hemingway was
thirty. His concentration, or his ability to ''go on when it is worst
and most
helpless," was still such that he had continued rewriting "A Farewell
to Arms" while trying to deal, in the aftermath of his father's suicide
in
December of 1928, with the concerns of his mother, his sixteen-year-old
sister,
and his thirteen-year-old brother. "Realize of course that thing for me
to
do is not worry but get to work-finish my book properly so I can help
them out
with the proceeds," he had written to Maxwell Perkins within days of
his father’s
funeral, and six weeks later he delivered the finished manuscript. He
had seen
one marriage destroyed, but not yet three. He was not yet living with
the
residue of the two 1954 plane crashes that had ruptured his liver, his
spleen,
and one of his kidneys, collapsed his lower intestine, crushed a
vertebra, left
first-degree burns on his face and head, and caused concussion and
losses of
vision and hearing. "Alfred this was a very rough year even before we
smashed up in the air-craft," he wrote to Alfred Rice, who had
apparently
questioned his tax deductions for the African safari:
But
I have a diamond mine if
people will let me alone and let me dig the stones out of the blue mud
and then
cut and polish them. If I can do it I will make more money for the
Government
than any Texas
oilman that gets his depreciation. But I have been beat-up worse than
you can
be and still be around and I should be working steadily on getting
better and
then write and not think nor worry about anything else.
"The
literal details of
writing," Norman Mailer once told an interviewer, "involve one's own
physiology or metabolism. You begin from a standing start and have to
accelerate yourself to the point of cerebration where the words are
coming--well, and in order. All writing is generated by a certain
minimum of
ego: you must assume a position of authority in saying that the way I'm
writing
it is the only way it happened. Writer's block, for example, is simply
a
failure of ego." In August of 1956, Hemingway advised Charles
Scribner,]r., that he had "found it impossible to resume work on the Africa book without some
disciplinary writing,"
and
so was writing short stories.
In
November of 1958, he mentioned
to one of his children that he wanted to "finish book" during a
winter stay in Ketchum, but the "book" at issue was now "the
Paris stuff" In April of 1960, he told Scribner to scratch this still
untitled Paris book from the fall list: "Plenty of people will probably
think that we have no book and that it is like all the outlines that
Scott had
and borrowed money on that he never could have finished but you know
that if I
did not want the chance to make it even better it could be published
exactly as
you saw it with a few corrections of Mary's typing." Ten months later,
and
five months before his death, in a letter written to his editor at
Scribner’s
between the two courses of shock treatment administered to him at the
Mayo
Clinic in Rochester,
Minnesota, the
writer tried, alarmingly, to
explain what he was doing:
Have
material arranged as chapters
they come to 18-and am working on the last one-No 19-also working on
title.
This is very difficult. (Have my usual long list-something wrong with
all of them
but am working toward it-Paris
has been used so often it blights anything.) In pages typed they run 7,
14, 5,
6, 9 1/2, 6, 11, 9, 8, 9, 4 1/2, 3 1/2, 8, 10 1/2, 14 1/2, 38 1/2, 10,
3,3: 177
pages + 5112 pages + 11/4 pages.
I
RECALL listening, some years
ago at a dinner party in Berkeley,
to a professor of English present "The Last Tycoon" as irrefutable
proof that F. Scott Fitzgerald was a bad writer. The assurance with
which this
judgment was offered so stunned me that I had let it slip into the don
nee of
the evening before I managed to object. "The Last Tycoon," I said,
was an unfinished book, one we had no way of judging because we had no
way of
knowing how Fitzgerald might have finished it. But of course we did,
annother
guest said, and others joined in: We had Fitzgerald's "notes," we had
Fitzgerald's "outline," the thing was "entirely laid out."
Only one of us at the table that evening, in other words, saw a
substantive
difference between writing a book and making notes for it, or
"outlining
it," or "laying it out."
The
most chilling scene ever
filmed must be, for a writer, that moment in "The Shining" when
Shelley Duvall looks at the manuscript on which her husband has been
working
and sees, typed over and over again on each of the hundreds of pages,
only the
single line: "All work and no play makes Jack a dull boy." The
manuscript for what became "True at First Light" was, as Hemingway
left it, some eight hundred and fifty pages long. The manuscript as
edited for publication
is half that. This editing was done by Hemingway's son Patrick, who has
said
that he limited his editing to condensing (which inevitably works to
alter what
the author may have intended, as anyone who has been condensed knows),
changing
only some of the place names, which mayor may not have seemed a logical
response to the work of the man who wrote "There were many words that
you
could not stand to hear and finally only the names of places had
dignity."
This
question of what should
be done with what a writer leaves unfinished goes back, and is
conventionally
answered by citing works we might have lost had the dying wishes of
their
authors been honored. Virgil's Aeneid is mentioned. Franz Kafka's "The
Trial" and "The Castle" are mentioned. In 1951, clearly shadowed
by mortality, Hemingway judged that certain
parts of a long four-part novel on which he had been working for a
number of
years were sufficiently "finished" to be published after his death,
and specified his terms, which did not include the intrusion of any
editorial hand
and specifically excluded the publication of the unfinished first
section.
"The last two parts need no cutting at all," he wrote to Charles
Scribner in 1951. "The third part needs quite a lot but it is very
careful
scalpel work and would need no cutting if I were dead .... The reason
that I
wrote you that you could always publish the last three parts separately
is
because I know you can in case through accidental death or any sort of
death I
should not be able to get the first part in proper shape to publish."
Hemingway
himself, the
following year, published the fourth part of this manuscript
separately, as
"The Old Man and the Sea." The "first part" of the
manuscript, the part not yet "in proper shape to publish," was, after
his death, nonetheless published, as part of "Islands
in the Stream." In the case of the "African novel," or
"True at First Light," eight hundred and fifty pages reduced by half
by someone other than their author can go nowhere the author intended
them to
go, but they can provide the occasion for a chat-show hook, a faux
controversy
over whether the part of the manuscript in which the writer on safari
takes a
Wakamba bride does or does not reflect a "real" event. The increasing
inability of many readers to construe fiction as anything other than
roman a
clef, or the raw material of biography, is both indulged and
encouraged. The
New York Times, in its announcement of the publication of the
manuscript, quoted
Patrick Hemingway to this spurious point: " 'Did Ernest Hemingway have
such an experience?' he said from his home in Bozeman, Mont.
'I can tell you from all I know-and I don't know everything he did
not.'''
This
is a denial of the idea
of fiction, just as the publication of unfinished work is a denial of
the idea
that the role of the writer in his or her work is to make it. Those
excerpts
from "True at First Light" already published can be read only as
something not yet made, notes, scenes in the process of being set down,
words
set down but not yet written. There are arresting glimpses here and
there,
fragments shored against what the writer must have seen as his ruin,
and a
sympathetic reader might well believe it possible that had the writer
lived
(which is to say had the writer found the will and energy and memory
and
concentration) he might have shaped the material, written it into
being, made
it work as the story the glimpses suggest, that of a man returning to a
place
he loved and finding himself at three in the morning confronting the
knowledge
that he is no longer the person who loved it and will never now be the
person
he had meant to be. But of course such a possibility would have been in
the end
closed to this particular writer, for he had already written that
story, in
1936, and called it "The Snows of Kilimanjaro." "Now he would
never write the things that he had saved to write until he knew enough
to write
them well," the writer in "The Snows of Kilimanjaro" thought as
he lay dying of gangrene in Africa.
And then,
this afterthought, the saddest story: "Well, he would not have to fail
at
trying to write them either." •
This
is to tell
you about a young man named Ernest Hemingway, who lives in Paris (an
American),
writes for the trans-atlantic review and has a brilliant
future,"
F. Scott Fitzgerald wrote to Maxwell Perkins in 1924. "I'd look him up
right
away. He's the real thing." By the time "the real thing" had
seen his brilliant future both realized and ruined, he had entered the
valley
of extreme emotional fragility, of depressions so grave that by
February of
1961, after the first of what would be two courses of shock treatment,
he found
himself unable to complete even the single sentence he had agreed to
contribute
to a ceremonial volume for President John F. Kennedy. Early on the
Sunday
morning of July 2, 1961, the celebrated author got out of his bed in Ketchum,
Idaho,
went downstairs, took a double-barreled Boss shotgun from a storage
room in the
cellar, and emptied both barrels into the center of his forehead. "I
went
downstairs," his fourth wife, Mary Welsh Hemingway, reported in her
1976 memoir,
"How It Was," "saw a crumpled heap of bathrobe and blood, the
shotgun lying in the disintegrated flesh, in the front vestibule of the
sitting
room."
"Thư này là để nói cho bạn biết về một tay còn trẻ tên là Hemingway,
sống
ở Paris (một anh Mẽo), viết cho tờ điểm
sách xuyên
Đại Tây Dương, và có một tương
lai sáng ngời",
Fitzgerald viết cho Perkins vào năm 1924. "Tôi bèn vồ lấy chàng. Đúng
là
thứ
bảnh, thứ thiệt".
Vào thời kỳ "thứ bảnh, thứ thiệt", thì, chính đương sự nhận ra rằng,
tương lai sáng ngời của mình, vừa, "đã được thực hiện", vừa,"đã
tiêu táng thòng", và chàng đang lần xuống vực thẳm, sau những cú chạy
điện
vô hiệu, thần kinh chàng hư hỏng đến độ, không làm sao hoàn tất, chỉ
một câu
văn, mà chàng hứa viết, góp phần trong vụ tưởng niệm me-xừ tổng thống
Mẽo bị
làm thịt.
Chúng ta sẽ đọc, Hemingway viết, về Scott Fitzgerald, trong Paris là ngày hội: Đểu không thua
gì thằng cha Gấu, khi viết về những đấng bạn quí
của nó!
*
Sainte-Beuve
[1804-
1869] nhà
đại phê bình của Pháp, [Proust đổi thành Sainte Bave, bave: nước miếng,
lời độc ác], gần như không
tha
một nhà
văn nào cùng thời. Nhưng người ông thù nhất, là Hugo.
Sainte-Beuve có cả một cuốn sách
được ông đặt tên là “Những thuốc độc của tôi”.
Trong những lời độc dành cho
Hugo, có câu:
Hugo, ông lớn lao thật, nhưng
thế giới còn lớn lao hơn nhiều. Nó lớn lao, đủ để cho thiên hạ sống, và
đếch phải
gặp ông. Nó lớn lao đến nỗi ông, dù tưởng tượng lấp đầy cỡ nào, thì
cũng vô ích,
và nó lớn lao đến nỗi, thiên hạ vờ ông luôn.
Nhưng, tại sao tụi viết lách ưa đổ thuốc độc vào miệng nhau?
Câu
hỏi thú vị này, Linda Lê đã từng trả lời, trong bài viết "Détruire,
disent-elles", trong số báo đặc biệt về sự độc ác, của tờ Le Magazine
Littéraire, Tháng Bẩy & Tám, 2009, khi trích dẫn Barbey: "Bởi
là vì quỉ ma hay thánh thiện, thì đều như nhau, vào cái lúc mà bạn đang
sướng điên lên được, vì vừa ỉa vào miệng một thằng bạn!" [« Le mot
diabolique ou divin, appliqué à l'intensité des jouissances,
exprime la même chose, c'est-à-dire des sensations qui vont jusqu'au
surnaturel. ».]
Mít mình có câu "vô độc bất trượng phu" [?], không độc thì đâu phải
đấng trượng phu, là cũng theo nghĩa đó!
Khi nghe Nguyễn Xuân Hoàng đề nghị “viết
một cái gì đó” cho blog NXH và
Bè Bạn lúc đầu tôi không mấy mặn mà…
DTD: Blog NXH và bè bạn, VOA.
Cái sự không mấy mặn mà này,
Gấu biết lý do tại sao: Ông bạn quí của
Gấu
vốn rất nhiều bạn bè, nhưng có vẻ như ông chẳng ưa thằng bạn nào, [trừ
Khô Khốc
đại sư, có thể], hễ có dịp, là không thể bỏ qua, đi một đường không
được đẹp về
bạn bè của chàng!
Bây giờ thì Gấu lờ mờ nhận ra,
tại làm sao mà DTD không mặn với Gấu!
Trước khi Gấu ra được ngoài
này, và, kể từ khi Gấu cầy hai job, một,
được trả
tiền, phụ trách mục Tạp Ghi cho tờ Văn Học của NMG, và một, chùa, đóng
góp bài
vở đều đặn cho mục Tin Văn, với cái tên Jennifer Tran, cho tờ Văn, thì
DTD là người
thường xuyên lo cái vụ giới thiệu văn học thế giới cho cả một trường
văn học hải ngoại, qua hai tờ báo trên. Và, có vẻ như cả hai ông chủ
báo đều không mặn với đóng góp của chàng.
Gấu được biết,
qua một nhân vật rất thân cận với tờ Văn Học, là NMG có lần than, ông
DTD này có vẻ như
không rành cả tiếng Anh, lẫn tiếng Việt. Những bài dịch Bản đồ tiểu thuyết của ông
cho VH, ngay tôi đây, cũng không làm sao đọc được, và hiểu được!
Cái này, là Gấu nghe qua một nhân vật thứ ba, thành thử độ chính xác
không
bảo đảm, nhưng "nói tóm lại", là, NMG không mặn những bài viết của DTD,
và một
khi Gấu xuất hiện, ông chủ báo vờ luôn họ Đào!
Cũng thế, là thái độ của ông chủ báo Văn.
Chính vì vậy mà ông không mặn Gấu, chăng?
*
Notre-Seigneur exige
que nous
aimions nos ennemis; c'est plus facile
souvent que de ne pas haïr ceux que nous aimons.
Pascal
Graham Greene trích dẫn,
trong bài viết về Mauriac, trong The
Lost Chilhood and Other Essays
Hoá ra là ông Pascal này cũng
đã từng ngồi bên bờ sông Mekong, nhìn
thấy xác
bạn quí trôi lều bều qua. Người phán:
Chúa đòi hỏi chúng ta phải
tha thứ và thương yêu kẻ thù.
Ui chao, chuyện dễ ợt!
Khó, rất hơi bị khó, là đừng
có ghét bạn quí của mình!
*
Phản hồi từ người đọc đã là
quí, đằng này tôi lại được chính một tác giả ngoại quốc của quyển sách
được đề
cập tới liên lạc và tỏ lời chân thành cám ơn thì quả thực với tôi là
một an ủi
lớn
DTD
Dưới đây là lời chân thành cám ơn!
Sự thực, nó là một cái thư yêu
cầu cải chính, vì ông Đào lầm hình dịch giả là tác giả!
Sun, 12 Jul 2009 18:57:42
+0200 [07/12/2009 12:57:42 PM EDT]
>Dear Dao Trung Dao,
>I am Ferenc Barnas the
author of The Ninth. I am writing you because
>not long ago I found a
link (on the WEB) in which you have written
>about my novel in
Vietnemese [Vietnamese] language. The only problem is that the
>photo above the text is
the photo of my translater: Paul Olchvary.
>Here I send you my
website: you can download my photo from it:
>www.ferencbarnas.com
>Yours Sincerely,
>Ferenc Barnas
Vì cùng là dân học
chuyên ngành Triết nên việc chuyện trò trao đổi giữa chúng tôi thật dễ
dàng
thoải mái.
Ferenc Barnas viết tiếng Anh khá chuẩn.
DTD
No còm!
Nhưng giá mà Đào quân phán, ông
mũi lõ viết tiếng Việt khá chuẩn, thì may ra còn hiểu được!
|
|