Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Nhật ký | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tưởng niệm | Tiểu thuyết | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Lướt Tin Văn Cũ | Kỷ niệm, kỷ niệm
Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết |Ghi chú trong ngày|  Thơ Mỗi Ngày| Nhật Ký Cũ
*


Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]
















 



Noel 2011

You who were born this night
To tear us from the Devil’s might

- TRADITIONAL POLISH CAROL

Đấng sinh ra đêm nay
Để kéo chúng ta ra khỏi quyền năng của Quỉ
Đồng dao Ba Lan
[Czeslaw Milosz trích dẫn]

Whoever considers as normal the order of things in which the strong triumph, and the weak fail, and life ends with death, accepts the devil's rule.
Kẻ nào coi trật tự sự vật, theo đó, kẻ mạnh thì thắng, kẻ yếu thì thua, và đời thì chấm dứt bằng cái chết, kẻ đó chấp nhận luật của Quỉ.

Czeslaw Milosz

*


*

Vĩnh Biệt Vaclav Havel


Câu chuyện ở Bồng Sơn

*

Note: Tks Tuyen Vu.
Merry Christmas to both of U
NQT

- Đặt chân đến Bồng Sơn, họ vô cùng bất ngờ khi thấy tấm bảng “Trường tiểu học Bồng Sơn” nằm chễm chệ trên tòa nhà mà lẽ ra phải là thư viện. Ken và Pat muốn đặt tên cho thư viện này là “Bong Son – Lucky Star Library and Learning Center” vì Lucky Star chính là đơn vị mà Ken phục vụ thời chiến tranh. Chính quyền địa phương đã tự ý đổi tên và đổi cả chức năng của tòa nhà mà không hề báo một lời với vợ chồng ông – những người đã bỏ tiền xây nên tòa nhà đó – chưa nói đến việc xin ý kiến của vợ chồng ông. Ken nói với mình “I paid for it, but they changed the name. I want my money back.”
*

Lèm bèm ngoài lề:
Cái tên, là, rất quan trọng. Nó như dấu ấn của 1 nhà văn. Đọc 1 nhân vật tự xưng là Nguyễn, thí dụ, là biết ngay của Nguyễn Tuân rồi.
Chính vì thế mà không ai dám đặt tên cho mình, hay nhân vật của mình là Nguyễn nữa.
Ngoại trừ nhà thơ NXT!
Đây là 1 sự kính nể những người đi trước nữa. Một khi bạn cố tình vi phạm, là phải có vấn đề.
NMG, khi chọn cho nhân vật của mình là Tường, là phải có vấn đề, không thể khơi khơi nói tôi hư cấu được, thứ nhất cuốn tiểu thuyết của ông viết đúng vào thời kỳ có ông Tường đó đó.
Bởi thế, có 1 bạn văn cũng khá thân quen, có vẻ bực mình, vì GCC đặt vấn đề này, nghĩ là GCC không ưa NMG.
Phải nói ngược lại mới đúng.
[Jean-Paul Sartre, viết Những kẻ bị cầm tù ở Altona, Les séquestrés d'Altona (1959), phịa ra 1 nhân vật, không ngờ tên của nhân vật này trùng hợp với 1 người có thực, có thế giá ở ngoài đời, thế là đành phải lên tiếng xin lỗi, và cho thu hồi toàn bộ những ấn bản đã cho phát hành. NMG mà không làm chuyện đó, sợ không còn nhiều thì giờ! Bởi vì chỉ có cách đó mới bão vệ sự vẹn toàn của MBD, như là 1 giả tưởng văn học.]

NMG đã từng bị làm phiền về chuyện này rồi, khi chính ông T đó lên tiếng hỏi, tại làm sao ông lấy tên của tôi đặt cho nhân vật của ông.
NMG trả lời, tôi hư cấu, nhưng ở 1 chỗ khác, ông lại nhận, có lấy một số chi tiết đời thực của T đưa vô tiểu thuyết.

Nhảm. Cực nhảm. Bởi vì chỉ 1 chi tiết như thế, là phải vứt cuốn sách vô thùng rác. Giống như bạn đánh cờ, mà chưa sạch nước cản. Bắc Mỹ chia là làm hai, giả tưởng, và phi giả tưởng, là theo nghĩa đó. Giả tưởng, tha hồ phịa. Phi giả tưởng, không có quyền phịa, dù chỉ 1 chi tiết. Ba thứ hồi ký ghi là memoir, là phải coi như sự thực, không phải giả tưởng.

Ở những bậc đại tài, một khi mà giả tưởng lừng lẫy quá, thì, 1 cách nào đó, nó chiếm ngay 1 chỗ trong lịch sử, trong đời thực.
Đây là trường hợp xẩy ra với “1984”, của Orwell, hay với mẫu tự K, của Kafka.
Hoặc, với Bếp Lửa của TTT.
Nhắc tới Bếp Lửa 1 phát, là lập tức 1954 xuất hiện!

Kỳ tới, GCC sẽ lèm bèm tiếp, về cái sự li kỳ của con số 1984, và mẫu tự K, qua bài viết của G. Steiner: The Killing Time, Thời Giết Người

*

Gấu đi tầu Rắn Biển, Marine Serpent, khi đó, chắc cũng giống như chú bé trong hình, nhưng vác theo hai cái rương nhỏ, đựng toàn sách, mua tại Chợ Trời Hà Nội.
Không nhớ tới Sài Gòn ngày nào, nhưng nhớ, chuyến đó ở trên tầu hơi lâu, vì còn chờ Đức Hồng Y Spellman ghé ban phước lành. Cũng phải những ngày cuối chiến dịch Passage To Freedom, vì phải chờ đến lúc Hải Phòng sắp hết hạn 300 ngày, Gấu mới từ giã nổi Hà Nội.

Đâu có tính đi?

Còn 1 chi tiết nữa. Những chuyến trước, cứ đặt chân xuống đất liền là được phát mấy trăm đồng. Sáu trăm, hình như vậy. Chuyến của Gấu, chỉ nhận 1 cái giấy chứng nhận, và đem giấy đó đến Tổng Uỷ Di Cư, ở đường Trần Hưng Đạo, gần Tổng Nha Cảnh Sát Đô Thành, hình như vậy, lãnh tiền.

*

Chụp với ông cậu, Cậu Toàn, 1954, trước khi chuồn xuống Hải Phòng. Gấu vận quần cụt.
Cái vụ gặp lại Ông Cậu cũng thật li kỳ, nhờ Cậu Cầu, đứng đằng sau, chót, phía bên phải.
Ông này, sau 1975 chuồn vô Sài Gòn, mua 1 căn nhà, kéo cả gia đình vô theo. Gấu về hai lần đều không gặp.
Gia đình ông Ngoại Gấu lúc đó đã chuồn về Hà Nội. Ông Ngoại Gấu, không tự tử chết như Gấu nghe tin đồn những ngày sau 1954, mà được bà vợ đem vàng ra chuộc, đưa về Hà Nội, và mất ở đó. Ông bị giam ở làng của Gấu, làng Thanh Trì, cái nôi của Cách Mạng vùng này. 

Ông Cầu đang đi lêu bêu “bát phố”, sau khi VC tiếp quản Hà Nội, thì gặp ông anh. Hỏi, có phải ông là ông Toàn, anh tôi không.
Ông Toàn gật đầu!


Thơ Mỗi Ngày

Wislawa Szymborska's "Vermeer"

A poem against the apocalypse
Một bài thơ chống lại Tận Thế

Aug 27th 2010, 16:53 by More Intelligent Life, A.R. | NEW YORK

I HAPPENED upon this poem on the New York Review of Books's website, and was startled by how beautifully Wislawa Szymborska captures the dance between motion and stillness in Vermeer's "The Milkmaid"—a moment frozen yet continually happening.

Vermeer

So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.

I love the shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.

"Vermeer", Wislawa Szymborska, translated from the Polish by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak

Note: Bài thơ này, TV đã post, nay chỉ post thêm lời bình của tay Prospero.
Bản tiếng Việt, của TV, cũng phân biệt ra hai từ "W", và "w".
GNV cũng đọc nó trên tờ NYRB, như Prospero.
Thế mới thú chứ!

Một khi mà người đàn bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế giới.
Source

I love the shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.
Tôi mê cái dáng của bài thơ - mỏng như sợi sữa, tự nó đổ nó ra, chẳng cần tới ai. Tôi cũng mê sức căng mà thi sĩ tạo ra, giữa W và w, nó làm lộ ra đẳng cấp nhưng cũng còn làm lộ ra sự trơn trượt.

Ui chao, phán như thế mới là phán chứ, nhỉ?

Nhưng bạn đã nhận ra sức căng của thời tiết, vào lúc trời đất rơi vào thu phân?

… tóc em rối giữa hai đầu ngọn gió
hình như rừng rơi vào thu phân.
TMT

Tiện thể đi thêm 1 đường Prospero, về Thơ Ca và Chủ Nghĩa Vác Ngà Voi: Thơ có thể nói cái gì?

Books, arts and culture

Prospero

Poetry and humanitarianism

What can poetry say?

Sep 23rd 2011, 10:06 by E.H. | LONDON

THEODOR ADORNO famously declared in 1951 that to write poetry after Auschwitz was “barbaric”. Mindful of the limits of words, generations of poets still strive to use them to describe the impossible.  

“Poetry and the State”, an event that took place on September 20th, was haunted by this problem: how to put into words events that leave you speechless. Organized by the poetry initiative “Poet in the City”, the magazine Modern Poetry in Translation and Amnesty International, the evening aimed to show the relevance of poetry in making “a public statement with a universal reach”. The five poets who gave readings were connected, in some way or another, to humanitarian causes. They included Timothy Allen, a former aid worker, Zuzanna Olszewska, a fellow from Oxford who conducts anthropological studies with female Afghan refugees, and Carlos Reyez Manzo, Amnesty’s first poet in residence, who survived torture under Pinochet’s regime in Chile.

 This makes it a difficult event to criticize. But although there were moments of joy in the readings—for instance, the concluding lines in Mr. Allen’s translation of Ho Chi Minh’s “Prison Diary” from the Vietnamese, “my poems are made of steel / and each is an act of resistance”—on the whole, the evening did not hold together. It felt as if the poets had been chosen more for the problems they wrote about rather than how well they wrote. The question of translation only seemed pertinent when Amarjit Chandan read from his poems both in Punjabi and English, creating a delightful interplay between the two languages.

Swamped by the various causes they were connected to, and only speaking for an average of 12 minutes each, the poets were unable to stand out as individuals. They were gathered together under an umbrella of worthiness, but there was no examination of the relationship between poetry and humanitarianism. We were meant to take it for granted that poetry is a force for good against subjects as diverse as Pinochet, Britain’s cuts in arts funding (which David Constantine of Modern Poetry in Translation decried for making the country the “philistine place we’re in”), and the state of the environment.  

“Poetry and the State” seemed to hold a complacent view of poetry as an inherently ethical or comforting medium that brings people together. But in doing so, the evening undermined the power of any one poet to say much of anything.

THEODOR ADORNO hiển hách phán, vào năm 1951, rằng, làm thơ sau Auschwitz thì “dã man”. Tuy biết thừa đi rằng thì là chữ thì ra cái chó gì, đâu có làm chết nổi ai, nhiều thế hệ những nhà thơ sau đó vưỡn làm thơ, vưỡn sử dụng chữ để diễn tả "điều không thể".
“Thơ ca và Nhà nước”, một sự kiện xẩy ra vào ngày 20 Tháng Chín cũng bị ám ảnh bởi vấn đề này:
Làm thế nào đưa vào chữ nhưng sự kiện làm bạn cấm khẩu, ú a ú ớ, không làm sao nói lên lời?


 

THE WORLD'S PROSE 

Die Prosa der Welt

-Hegel, of course

 

Imagine a day begun in Le Bon Cafe;
colored newspapers on tables and Aznavour's songs come
drifting from the speakers. A brief moment of attention:
the coquettish French "r" whirls like a child's plaything
within the mighty city, the empire's hub,
and seems about to thaw the winter's queen.
Nervous bureaucrats in narrow suits
gulp scalding coffee, the liquid of oblivion.
Four solitary airplanes circle overhead.

I stand before the picture Rilke talks of:
a family of acrobats has turned up in a desert.
No one's watching, and their many tricks
and songs, concealed in tambourines and supple muscles,
their leaps and jokes all go for nothing here.
They gaze uncertainly, they look around;
the young woman on the far right would like
to leave the painting (she stands apart).
They look around, but what is there to see?

Snow lies around us, covering the architecture of power.
Snow wraps the monumental shapes with slipcases
and even the narrow heads of obelisks have turned white.
Provincial trees breathe quietly beneath the snow,
and fresh leaf buds sleep tight, waiting for a sign.
You pay with life for every moment of snow, for
what is white and what is black, for happiness, for seeing.
The prose of life spreads out around us,
while poetry crouches in the heart's chambers.

Dòng đời

Hãy tưởng tượng một ngày bắt đầu ở Le Bon Café
Những tờ nhật báo màu sắc ở trên bàn,
và tiếng hát lang thang trôi dạt của Aznavour
từ những loa. Nè, hãy để ý, cái âm “r” của Tẩy mới nhõng nhẽo làm sao,
như một thứ đồ chơi của con nít trong thành phố lớn lao, trung tâm của đế quốc,
như làm tan lớp giá băng của nữ hoàng mùa đông.
Những viên chức bồn chồn trong những bộ đồ chật cứng,
Nhấp cà phê nóng bỏng, thứ nước của quên lãng.
Bốn chiếc máy bay cô đơn vần vũ ở trên đầu

Tôi đứng trước bức tranh Rilke nói về:
một gia đình nghệ sĩ nhào lộn ở sa mạc
Chẳng ai thèm nhìn họ,
và rất nhiều những mánh khoé trình diễn, những bài ca,
được giấu ở trong những cái trống, những bắp thịt mềm mại, dẻo dai.
Những cú nhẩy, những câu chuyện tiếu lâm, khôi hài
Tất cả đều vô dụng ở đây
Họ nhìn quanh, lơ đãng;
Một người đàn bà trẻ ở tít xa phiá bên phải,
có vẻ như muốn rời bức tranh (nàng đứng riêng ra).
Họ nhìn quanh, nhưng có gì ở đó đâu?

Tuyết chung quanh chúng ta, che phủ kiến trúc của quyền lực
Tuyết bao đền đài tưởng niệm
bằng những cái hộp,
và ngay cả những cái đầu của những đài tưởng niệm
thì cũng biến thành màu trắng
Cây cối thở im lặng dưới tuyết
Và những chồi lá non ngủ, chật, cứng, đợi dấu hiệu
Bạn trả bằng đời của mình, cho mọi khoảnh khắc tuyết
Cho cái thì trắng, cái thì đen, cái thì hạnh phúc,
cái thì để nhìn ngắm,
chiêm ngưỡng và kính trọng (1)
Dòng đời trải ra chung quanh chúng ta
Trong khi thơ "ngoạ hổ tàng long"
ở trong những căn phòng của trái tim.

(1) Thứ tình yêu Platonique, chiêm ngưỡng và kính trọng...

Tứ tấu khúc

Ui chao, đọc bài thơ thì lại nhớ đến lần đầu, 1994, đến thành phố lạnh, xứ lạnh, tuyết lạnh, bão tuyết lạnh, và cái bàn tay của cô bạn, lấy ra khỏi cái bao tay, ấm thật ấm, bắt tay anh cu Gấu đang run rẩy...

Hà, hà!

Cái cô bạn, cùng ngồi xuồng ngày nào, năm lụt, trong xuồng có đủ khổ đau dành cho 3 người...

Dòng đời trôi quanh ta.
Thật.
Thơ ở trong đầu.
Thật.

Cô bạn thân ơi
Nẻo về tuyệt lối
Hồn tôi điên cuồng réo gọi

Đi trong gió
Nỗi nhớ Sài Gòn buốt trên đầu ngón tay

Biển

A KING

In memory of Jozef Czapski

 

He was very old. But his spirit held.
Of one acquaintance (old as he) he said:
"That famed Petersburg beauty; observe
her face." He still painted. Lived. Wrote. Thought.

He knew Akhmatova. Spoke with de Gaulle,
Andre Malraux also took note.
Gide (too Parisian) disappointed him.
A penniless count, he helped the poor. 

So tall (and good), as if proud
nature wished to put him on display.
Mary McCarthy once glimpsed him in a crowd
at a museum and jotted down: a righteous man 

Beauty thrilled him. He spoke
more often though of ugliness and pain -
things it seems he scarcely knew
(but how can we be sure?)

What's the moment when divinity appears?
How can we tell, since we always keep it
in the past tense or the future (hopefully!)
We describe it from a distant country, 

where we've been carried by a wild express train
with no stops at that small still station
we call Beauty, a resting place
too modest for its taste. 

But we can talk of ugliness
at length, and pain will still fill
many tomes; our quick sightseeing trip
becomes a humble tortoise city tram. 

His death was long and patient; perhaps those
who rule the earth and play at chess demurred:
should such a splendid upright shape, a king,
be made a horizontal form, a line of print?

Adam Zagajewski

Một Vì Vua

Tưởng nhớ Jozef Czapski 

Ông rất già. Nhưng tinh thần bảnh lắm, cứng lắm, vững như trụ.
Về một mối thân quen [cũng già như ông], ông nói:
“Cái đẹp Petersburg nổi tiếng, hãy quan sát mặt của bà".
Ông vẫn vẽ. Sống. Viết. Nghĩ. 

Ông biết Akhmatova. Nói chuyện với de Gaulle.
André Malraux ngồi loay hoay ghi "notes".
Gide (quá Paris), ông không ưa.
Một vị bá tước không 1 đồng xu, ông giúp kẻ nghèo 

Dáng thật cao (và tốt), như thể thiên nhiên cao ngạo
muốn đưa ông ra trình diễn.
Mary McCarthy có lần thoáng nhìn thấy ông trong đám đông
ở một viện bảo tàng và phán thật là ngắn gọn:
một người đàn ông chính trực 

Cái đẹp làm ông hồi hộp. Tuy nhiên ông nói nhiều về cái xấu và cái đau –
điều mà ông hầu như không rành
(nhưng làm sao chúng ta chắc chắn về chuyện này?) 

Khoảnh khắc, khi tính thần thánh xuất hiện, là gì?
Làm sao chúng ta biết, kể từ khi mà chúng giữ nó
trong thì quá khứ, hay thì tương lai (may mắn thay!)
Chúng ta miêu tả nó, từ một xứ sở xa 

Trong khi chúng ta bị mang đi bằng 1 chuyến xe lửa tốc hành man dại
Đếch thèm ngưng ở một cái nhà ga nhỏ xíu có tên là Cái Đẹp,
Một trạm nghỉ quá tầm thường, khiêm tốn nên đếch hợp với cái gu của nó.

Nhưng chúng ta vưỡn có thể nói vế sự xấu xí dài dài,
và cái đau thì cũng được đưa vô trong nhiều chương, hồi, tập;
cuộc cưỡi ngựa coi hoa của chúng ta trở thành 1 chuyến cưỡi rùa dạo chơi thành phố
rất ư là khiêm tốn.

Cái chết của ông thì dài, và kiên nhẫn;
có lẽ những kẻ trị vì trái đất và chơi cờ, lưỡng lự:
Liệu dáng đứng cao sang, tuyệt vời như thế, một vì vua
Có thể trở thành một dáng nằm ngang,
như một dòng mực?
  

Ui chao bài thơ mới tuyệt vời làm sao. Làm Gấu nhớ tới giai thoại một họa sĩ Tầu không hợp lòng vua, bị Cớm đến nhà tính đưa đi cải tạo, bèn đi vô luôn bức tranh của mình! (1)
Ông bạn của thi sĩ như vậy là cũng từ biệt cuộc đời, và biến thành một dòng thơ! (2)

(1)

Hiếm nhà văn được như Borges: ông đi vào truyền thuyết, ngay từ khi còn sống, không như một nhà văn nổi tiếng, mà là một huyền tượng. Trong chuyện Tàu có trường hợp tương tự: Để trốn tránh cơn giận dữ của nhà vua, và cái chết tiếp theo đó, Wang Fo rời cuộc đời, bước vào bức tranh ông vẽ.
Source

(2)

GCC cũng đã từng viết về Nguyễn Tuân, như trên!

Cảnh Huấn Cao viết bức tranh chữ cuối cùng của đời mình rồi quay sang nói với viên cai ngục, hãy kiếm một nghề khác mà nuôi thân, (con người như ông, những chữ như thế này  phải tìm đất khác để mà tụ lại); chẳng đợi người cai tù nói hết câu: xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ chưa khô mực.

Chữ người tử tù


Ông Thần-Tháp-Rùa / Vũ Khắc Khoan

DTL

Note: Vũ Khắc Khoan còn 1 cái nick nữa, là Tuyết Ngưu.

*

Bài thơ trên cũng không có trong ấn bản Thơ Ở Đâu Xa của talawas.

in memoriam: khóc muộn tuyết ngưu vkk

Cõi tối biếc quáng đồng trắng lõa
Rừng phong bát ngát tuyết mưa khỏa
Bông lạnh tả tơi rối đêm ngày
Cầm chân Tuyết Ngưu đắp rét say

Trợn mắt dòm bão trận sinh tử
Bủa muôn trùng ánh thép hoa bay
Khốn kiếp cô đại thời băng lũ
Tuyệt bóng dị thú hoang địa này

1986

Khúc “in memoriam” này quả là thần sầu. Nhất là khúc sau. Khúc trước, TTT tưởng tượng, hẳn thế, vì 1990 ông mới ra hải ngoại, khóc muộn bạn.
Bạn phải nhìn thấy Thầy Vũ 1 lần thì mới hiểu được cái nick Trâu Tuyết này, và cái hình ảnh tuyệt bóng dị thú, và hoang địa [waste land] bày.
Bỗng nhiên nhớ tới cái nick Trâu Nước, của GCC, do bạn Cẩn tặng.
Và tất nhiên, nhớ đến Koestler, cũng cùng 1 cái dáng “thú” đó.
Trong tiểu sử của ông, chúng ta được biết, hồi nhỏ K. rất ưa đánh lộn…. 



Bọ Lập


La Peau [Làn Da]: Một cuốn tiểu thuyết-Trùm: Un Archi-Roman


Ghi chú trong ngày

*

Lần về HN lần đầu, 2001, DMT đèo xe máy đưa G tới gặp HNH, tại tư gia, đúng thời gian HNH bị tố ngụy tạo tài liệu, bởi vậy, khi bà vợ ông mang nước trà ra đãi khách, đã hỏi khéo, hải ngoại có còn chửi ông chồng tôi nữa không.
Bà lầm G với ông cớm văn nghệ, vì nghĩ hải ngoại bé tí, không nó, thì là bạn của nó!
G nhớ là, HNH mặt một đống, lấy tay xua bà vợ, ra ý thôi đi chỗ khác, U Tha Cho Mi [Bà tha cho tôi, thưa bà!].
Nhìn vẻ mặt của HNH lúc đưa bài viết, thì rõ ra là, ông muốn G đi một đường giới thiệu.
Phải nói rõ ra như vậy, vì sau đó, bài này được đăng trên talawas, và khi G mail hỏi, có gì khác so với bài trên TV, thì SCN mail trả lời, HNH cho biết, chưa cho phép ai đăng bài này hết.
Khi trả lời như thế, là SCN muốn chỉ ra tôn chỉ của talawas, không đăng bài đã đăng rồi, trên các diễn đàn khác. Ðồng thời tố cáo G ngụy tạo tài liệu!
Bắc Kít nhiều đòn lắm, phải 1 thằng Bắc Kít khốn nạn cỡ G thì mới hiểu được lòng dạ của chúng!
Chứng cớ, sau đó, HNH từ chối không cho phép talawas đăng bài phỏng vấn ông.
Là vì ông bắt buộc phải từ chối, nếu xin phép ông!
Vụ này, G có giải thích trên TV rồi, để coi lại coi trong
bài viết nào.
Vì vậy, khi trở về Canada, Gấu đã mất công gõ bài viết, cho đăng cùng 1 lúc trên trang Tin Văn, và trên tờ Việt Báo online. Mấy anh nhà văn Mít hải ngoại thấy đại giáo sư VC nhắc đến mình, sướng điên lên, bèn trích lại, đăng búa xua trên trang nhà, nhưng lại rét, vì thời gian đó, chính G cũng bị đám Chống Cộng Ðiên Cuồng dọa xin tí huyết [nói đùa cho dzui thôi], thế là bèn đăng thì đăng, nhưng chú thích nguồn, là tờ Việt Báo, và thanh minh thanh nga, tôi không có hân hạnh được quen ông HNH!
Nghĩa là đếch thèm cám ơn thằng cha G đã mất công gõ bài!
Tư cách như thế mà viết lách cái chó gì không biết!

Source

Đọc trên trang LH, thì ST, cựu học sinh Dũng Lạc, Hà Nội, một trường tư, không bảnh bằng Chu Văn An, số 1, và Nguyễn Trãi số 2. Theo gia đình di cư 1954, học hành, đỗ đạt, làm 1 viên chức lớn (Chánh Sự Vụ) trong chế độ VNCH, sau 1975, đi cải tạo 1 năm, được Đảng tha về, mở quán cà phê, 1985 qua Canada theo diện bảo lãnh.

Ông không biết gì đến hận thù Quốc Cộng, không nhà tù, “ghét tô” nào giam giữ ông. Có th như thế mà ông viết như chẳng có gì xẩy ra. Và ông coi cái đất nước nhận ông, chẳng có ơn nghĩa gì, vì mày không nhận tao, thì tao ở VN, mà làm sao mày không nhận tao được, nếu tao đủ điều kiện để vô nước mày theo chính sách của mày, về đoàn tụ gia đình?
Nhưng, đó chính là câu trả lời của đám tù thanh thiếu niên, phần lớn Bắc Kít, mà GCC đã từng đi uý lạo, với tí quà bánh của HNV, trong 1 dịp lễ lạc nào đó, của Canada, hay của xứ Mít không còn nhớ, trong 1 nhà tù thành phố. Một trong đám này biểu Gấu, mi về nói với chính quyền Canada tại làm sao lại bắt tao, mà còn tính trả tao về Việt Nam? Tao đâu có muốn đến Canada đâu. Khi ở Trại, họ năn nỉ chúng tao tới Canada [quả có thế, vì Canada cần lấy đủ người theo “quota” với Cao Uỷ Tị Nạn, những người Miền Nam, Mẽo OK; Bắc Kít, No, thành thử đa số Bắc Kít chọn Canada là như vậy]. Bây giờ lại đuổi chúng ta về VN, là sao?
Mấy ông tướng này, qua Canada không lo làm ăn mà chỉ lo làm bậy, bị bắt, nhiều lần, Canada đành năn nỉ VC nhận lại giùm…

ST cũng đã từng được chấp nhận làm nhân viên của Mẽo, nhưng sau chót, hỏng cẳng, theo bài viết của LH, về ông. Hóa ra ông chẳng hề muốn sống ở Canada, thật, như bạn của ông là ông số 2!

Khác hẳn Gấu. Đã từng làm bồi Mẽo hơn 10 năm ở Miền Nam trước 1975, Gấu tởm Mẽo quá, may được Canada nhận, mừng quá, biết ơn quá, quá!


Essai de roman
Enrique Vila-Matas