Orhan Pamuk
tiểu thuyết gia đã rất thành công với Tên
tôi là Đỏ, Pháo đài trắng hay Cuốn
sách đen, nhưng vì là một nhà văn rất tham vọng, “phổ màu” của ông
còn muốn
bao trùm rộng lớn hơn nữa, lên chính trị, hội họa cổ điển, những tản
văn ngắn,
và lên sự đọc.
“Những màu
khác” minh chứng cho tham vọng văn chương Orhan Pamuk. Cuốn sách là sự
nối dài
đầy ngoạn mục, những “ngoại truyện” bổ sung cho các tiểu thuyết của
ông, những
thêm thắt về cảm giác vốn đã huy hoàng trong cuốn hồi ký tuyệt vời Istanbul, và nhất là ở đây, ta được chứng
kiến Pamuk trong tư cách một người đọc cự phách; người đọc ấy hào phóng
dẫn dắt
ta đến với thế giới những tác giả mà ông sùng mộ nhiều chục năm nay:
Camus,
Flaubert, Dostoyevsky, Nabokov… những thế giới của sự đọc ấy mở rộng
nhiều lần
đường biên giới của sự viết ký tên Pamuk.
Blog NL
Khi “Những sắc
màu khác” mới ra lò, TV có đi vài bài, và có ý định đi hết cuốn, nếu
không, thì
những bài liên quan tới xứ Mít, nhưng nhớ là, một “tay nào đó”, hình
như đại diện
cho NN, mail, cho biết đã có bản quyền cuốn sách, cho nên GCC bèn ngưng.
Cách viết
NSMK, theo GCC, là những kinh nghiệm cá nhân, riêng tư, của Pamuk, một
nhà văn
Thổ, khi đọc “thế giới”, trong cái tham vọng vươn ra thế giới, qua
những tác giả
như Dos, Camus… Pamuk có "giấc mơ Thổ" của ông, khi viết Istanbul, và cũng giấc mơ
đó, khi viết NSMK. Độc giả TV có thể nhận ra điều này, khi đọc ông viết
về Dos,
hay về Camus.
Trên tờ TLS
số 21 Tháng Ba, 2008, Christopher de Bellaigue, điểm cuốn "Những mầu
sắc khác", tập
tiểu luận của Pamuk, coi ông là tiểu thuyết gia hơn là tiểu luận gia.
Theo người
viết, Pamuk là một thứ nhà văn hướng nội, introspective writer, mặc dù
dính líu
vô những chuyện chính trị, và từng bị buộc tội "sỉ nhục cộng đồng
Turki". Và có thể nói, toàn bộ tiểu thuyết của ông
tạo nên một trong những tự thuật lằng nhằng,
lẵng nhẵng nhất trong văn chương. [Pamuk is an introspective writer.
Indeed, it
might be said that the sum of his novels constitues one of the most
sustained,
if elliptical, autobiographies in literature].
Về tính lằng
nhằng, lẵng nhẵng, tác giả bài viết kể lại kinh nghiệm viết của Pamuk:
Vào năm
1988, một nhà văn chưa được người đời biết tới tên là Orhan Pamuk đang
phải chiến
đấu, làm thế nào hoàn tất cuốn Cuốn
Sách Đen, cuốn thứ tư và là cuốn tham vọng
nhất của ông cho tới lúc đó. "Trong khi chữ bò mãi ra", Pamuk nhớ lại
trong Những mầu sắc khác,
"cuốn sách dầy mãi lên, thú viết sâu đậm
thêm", nhưng đây đúng là một niềm an ủi nho nhỏ, bởi vì "cuốn tiểu
thuyết nhất định không chịu ngưng"! [the novel refused to end].
Riêng về nhà
văn bắc cầu, người viết nhận xét, trong Những mầu sắc khác, Pamuk để lộ
mình ra
nhiều hơn là ông tưởng. Những mầu
sắc khác cho chúng ta thấy một con người cô
đơn, quyết tâm tự học, thiên về tự tha thứ cho mình, và bịnh hoạn [Other Colors
shows him to be a solitary, determined autodidact, prone to
self-indulgence and
morbidity].
Bài diễn văn
Nobel được in lại trong sách, bắt đầu bằng những lời cảm tạ, vinh danh
ông bố,
chấm dứt bằng liệt kê những lý do khiến ông viết, cho thấy, đây là một
người
nhân bản, human, mâu thuẫn, vị tha, và ích kỷ, đúng như chính tác giả.
Tin Văn đã cống
hiến bản dịch một số bài viết trong cuốn này, thí dụ bài viết về Những Con Quỉ
của Dostoevsky.
Pamuk cũng
coi Dos như là một trong những sư phụ của ông. (a)
Orhan
Pamuk
Phi lý của
Camus ở đâu mà ra?
Sartre mở
ra cuốn “Chủ nghĩa hiện sinh là gì ?” bằng câu của Dos: “Nếu Thượng Đế
không
có, thì mọi chuyện đều được phép”, và coi đây là khởi điểm của chủ
nghĩa hiện
sinh. Từ ý này, Sartre phán, thật hách, như... Nghị Hách: Con người bị
kết án
phải tự do!
Tôi
luôn luôn coi Những Con Quỉ là một cuốn
sách công khai hoá những bí mật nhục nhã mà đám trí thức tiến bộ (những
kẻ sống
xa trung tâm, ở mép bờ của Âu Châu, hục hặc với những giấc mơ Tây
Phương của họ,
và bị hành hạ bởi những hồ nghi của họ về Thượng Đế), mong giấu kín,
chúng ta.
Ui
chao, bạn đọc những dòng trên, song song với những đoạn trong Bếp Lửa, thí dụ đoạn Tâm và Đại cà khịa
với nhau về Dostoevsky, hay Tâm trả lời tay Nhiên, khi qua Bắc Ninh dậy
học tại
một trường đạo...
Cách đọc sách
của Pamuk không phải như là 1 phê bình gia, mà như là 1 tiểu thuyết
gia. Ông đọc
những vị thầy của ông – như là 1 độc giả Thổ - để trở thành 1 nhà văn,
viết từ
miền đất của ông, từ cái đế quốc Thổ hoang tàn đổ nát. Đây là 1 phát
giác rất
quan trọng, “của riêng Gấu”, về ông, ngay khi đọc “Những Sắc Màu Khác”.
Và cách
này, quy về Gấu, nhìn lại những gì Gấu đọc thời mới lớn, thì nó ra nhận
xét này:
Gấu đọc Mác Xít, để cố tìm cách giải thích cuộc chiến Mít, tại sao nó
xẩy ra, và
sau này, từ khi ra được hải ngoại, đọc Lò Thiêu, để hiểu Cái Ác Bắc
Kít, nguồn
cơn của cuộc chiến, không phải chủ nghĩa Mác.
Tôi nhớ là đã tự hỏi chính mình, vào thời
kỳ đó, là, tại sao chẳng có ai nói về những phát giác như thế ở trong
cuốn sách. Nó có quá nhiều điều để nói với chúng tôi về chính thời đại
của chúng tôi, tuy nhiên, trong những sinh hoạt tả phái, [left circles]
điều này [cuốn sách] bị vờ đi, và có thể, vì lý do đó, cho nên, khi tôi
đọc, cuốn sách như nói thầm với tôi, một bí mật.
Pamuk
10 tiếng nói
văn chương ngoại thật bảnh. Trong có hai, Gấu cực khoái, Enrique
Vila-Matas, và
Orhan Pamuk.
Cái nick, tên “Mơ Mộng Lưu
Vong” - le “Rêveur en Exil” - thay vì, "Kẻ mơ mộng đang tỉnh thức", "Le
Rêveur en Éveil, cũng
có thể
ban cho GCC.
Tất nhiên, cả vòng hoa Nobel văn chương, chôm
của GCC:
"who in the quest for the
melancholic soul of his native city
has discovered new symbols for the clash and interlacing of cultures."
"Người mà trong khi tìm kiếm
linh hồn sầu muộn của thành phố quê hương của
mình, đã khám phá ra những biểu tượng mới cho cuộc đụng độ và quấn quít
lấy
nhau của những nền văn hoá."
Vòng hoa trao tặng Pamuk vinh
danh nhà văn Nobel 2006 một cách nào đó, là kết hợp
của hai vòng hoa, của Gấu, tặng Sài Gòn, viết khi ở nhà tù Bangkok và
trại tị nạn
Thái Lan:
Trong những đêm chập chờn mất
ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong
tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo
đường xưa
cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần
đời đó mới
đáng kể...
Nhìn bước đi của thời gian, của
thành phố trong cơn tuyệt vọng chạy đua với chiến
tranh, trong nỗi hối hả đi tìm ông chủ đích thực, sau những ông chủ
thuộc địa,
thực dân cũ, thực dân mới... cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ thù.
Lần Cuối Sài Gòn
Kẻ mơ mộng tỉnh
thức: Từ này, nguyên của Borges.
Trong
"Chuyện Nghề" (The Writer's Apprenticeship), Borges viết:
Nghề văn,
nghề thơ, là một nghề kỳ cục. Chesterton có nói: "Chỉ có một điều cần -
tất
cả mọi điều." Với một nhà văn, tất cả mọi điều là một từ không chỉ có
nghĩa "bao gồm"; phải hiểu theo nghĩa đen của nó. Thí dụ, một nhà văn
cần sự cô đơn, và anh ta được chia phần, của nỗi cô đơn. Anh ta cần
tình yêu,
anh ta được chia, tình yêu, và luôn cả, tình yêu không được chia.
Theo một
nghĩa nào đó, nhà văn là một kẻ mơ-ngày, a day-dreamer, một kẻ sống
cuộc đời
kép. Anh ta bắt đầu viết, bằng cách bắt chước những nhà văn mà anh ta
thích. Đó
là cách nhà văn trở thành chính mình, bằng cách làm mất bản thân - cung
cách kỳ
cục của một cuộc sống kép, sống hết mình trong thực tại này, cùng lúc,
trong thực
tại khác - thực tại mà anh ta sáng tạo ra, thực tại "của những giấc
mơ".Một cuộc
sống
kép, sống hết mình trong thực tại này, và cùng lúc, trong một thực tại
khác...
Một kẻ mơ ngày.... Murakami có lẽ cũng nghĩ như vậy, khi ông cho rằng,
viết, là
một cách mơ mộng, nhưng mà trong tình trạng tỉnh thức, “écrire, c’est
comme
rêver éveillé” (1)