|
Những
Con Quỉ Đáng Sợ Của
Dostoevsky.
Pamuk
Những con quỉ, theo cách nhìn của tôi, là tác
phẩm chính trị lớn lao, vĩ đại nhất của mọi thời. Tôi đọc nó lần đầu
khi tôi 20
tuổi, và nó phạng tôi một cú ngỡ ngàng, khiếp sợ, kinh khủng, và bị
thuyết phục
đến cùng cực. Chưa có một cuốn tiểu thuyết nào ảnh hưởng sâu đậm như
thế đối
với tôi, chưa có câu chuyện nào cho tôi một thứ hiểu biết chán chường,
thiểu
não như thế, về cái gọi là linh hồn của con người. Lòng ham muốn quyền
lực của
con người, khả năng của nó, về tha thứ, cái sự khôn khéo, lanh lợi của
nó trong
việc đánh lừa, làm thất vọng chính nó, và những người khác; cái lòng
yêu niềm
tin, thù niềm tin, và cần đến niềm tin của con người; sự nghiện nghập
của con
người, cả về điều thánh thiện lẫn phàm tục - điều gây chấn động ở nơi
tôi, là,
Dostoevsky nhìn thấy tất cả những tính tình đó hiện hữu cùng với nhau,
ăn sâu
bám rễ ở trong một câu chuyện rối mù, mang tính thông thường, về chính
trị,
thất vọng, chán chường, và chết chóc. Tôi ngưỡng mộ cuốn tiểu thuyết, ở
cái tốc
độ, qua đó, nó chuyên chở sự uyên thâm muốn ôm lấy tất cả của nó. Đây
có lẽ là
đạo hạnh số 1 của văn chương: Những cuốn tiểu thuyết lớn, chúng hớp hồn
chúng
ta liền lập tức, nhanh như cắt, cũng bằng cái tốc độ khủng khiếp mà
những nhân
vật ở trong đó lao vào sự dầy đặc của những sự vật. Chúng ta tin tưởng
những
thế giới của chúng, sâu đậm như chúng ta tin tưởng những nhân vật của
chúng.
Nồng nhiệt, hăng hái, hăm hở, tôi tin tưởng cái giọng thần bí, thấu
thị, tiên
tri của Dostoevsky, như tôi tin tưởng những nhân vật của ông, và cái
thú nghiền
thú tội của họ.
Mệt hơn
nữa, là điều, làm thế
nào giải thích, tại sao cuốn sách lại phạng ngay tim tôi một cú dễ sợ
như thế.
Tôi đặc biệt bị chấn động bởi cái xen tự tử đau đớn (ngửi đèn cầy, và
cái xen
tối thui, quan sát những sự kiện từ phòng kế bên) và bởi sự hung bạo
của một cú
giết người được toan tính một cách tồi tệ, nẩy sinh từ sự ghê rợn, kinh
khiếp.
Có lẽ, cuốn sách phạng tôi đến ngất ngư, là do vận tốc, mà với nó,
những nhân
vật, nhoáng một cái, đang vật lộn với những tư tưởng lớn lao, nhoáng
một cái,
lại lủi thủi trở về với cuộc sống tỉnh lỵ nhỏ bé của họ, cái sự gan
cùng mình
này, Dostoevsky nhìn ra, không phải chỉ ở những nhân vật, mà ở chính
ông ta.
Khi chúng ta đọc cuốn sách, hình như ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt
nhất của
cuộc sống bình thường cũng được dính vào với những tư tưởng lớn lao, và
bằng
cái sự nhìn ra những mối nối như thế đó, khiến chúng ta nhập vào thế
giới hoang
tưởng, khùng khùng điên điên, trong đó, tất cả những tư tưởng, những ý
nghĩ lớn
lao được móc cái nọ với cái kia. Và như thế, chính những xã hội kín,
những tổ
này, nhóm nọ đan chéo nhau, lồng vào với nhau, những tay làm cách mạng,
những
tên cớm, điểm chỉ, mật thám... tất cả những thứ đó là cư dân của cuốn
sách. Cái
thế giới dễ sợ, trong đó, mọi người dính dấp với mọi người khác, sử
dụng vừa
như một mặt nạ, vừa như một dẫn dắt, chỉ cho thấy sự thực lớn lao, the
great
truth, lẩn khuất phía sau tất cả những tư tưởng, ý nghĩ, bởi vì đằng
sau thế
giới này, là một thế giới khác, và trong thế giới khác đó, biết đâu, có
thể tra
vấn về sự tự do của con người và sự hiện hữu của Thượng Đế. Trong Những
Con
Quỉ, Dostoevsky dâng hiến [offer] cho chúng ta, một nhân vật, nhân vật
này tự
huỷ mình [commit suicide] để xác nhận [confirm] cả hai ý tưởng lớn lao
đó - tự
do của con người và sự hiện diện của Thượng Đế - và anh ta làm như vậy,
bằng
một cách thức mà không có một độc giả nào có thể quên được. Chỉ một dúm
nhà văn
có thể nhập thân hóa [personify] hay bi kịch hóa [dramatize] những niềm
tin,
những tư tưởng trừu tượng, và những nghịch lý triết học, 'bảnh' như
Dostoevsky.
(1)
(1)
Sartre mở ra cuốn Chủ
nghĩa hiện sinh là gì ? bằng câu của Dos: Nếu Thượng Đế không có, thì
mọi
chuyện đều được phép, và coi đây là khởi điểm của chủ nghĩa hiện sinh.
Từ ý
này, Sartre phán, thật hách, như... Nghị Hách: Con người bị kết án phải
tự do!
Dostoevsky
bắt đầu viết Những
Con Quỉ năm 1869, khi đó ông 48 tuổi. Ông vừa hoàn tất và cho in Gã
Khờ; ông
viết xong Người Chồng Muôn Thưở. Ông sống ở Âu châu (Florence và
Dresden), từ
hai năm trước đó, vừa để trốn chủ nợ, vừa kiếm một chỗ tương đối thanh
thản.
Ông có trong đầu một cuốn tiểu thuyết về niềm tin và cái sự mất nó, và
ông đặt
tên là Atheism, the Life of a Great Sinner [Vô thần, cuộc đời một tay
tổ sư tội
lỗi]. Ông quá tởm đám Hư vô chủ nghĩa, những kẻ mà chúng ta có thể gọi
là nửa
vô chính phủ, nửa tự do [liberal], và ông đang viết một cuốn tiểu
thuyết chính
trị chế nhạo bọn này về sự thù hận truyền thống Nga, say mê Tây phương,
và
không có niềm tin của họ. Sau khi loay hoay với cuốn sách được một dạo,
ông mất
hứng, và hứng khởi lại bùng lên, (chỉ một tay lưu vong mới có thể có
được cái
sự thú vị này], khi ông đọc báo chí Nga [chắc giống như bi giờ đọc
VN-Express?], và nghe qua một người bạn của bà vợ, về một vụ sát nhân
có tính
chính trị. Năm đó, một sinh viên đại học tên là Ivanov đã bị bốn ông
bạn quí,
cũng sinh viên, làm thịt, vì nghi anh ta là ăng ten của cảnh sát. cái
tổ cách
mạng mà mấy ông bạn quí giết lẫn nhau đó, là nằm trong một màng lưới
lớn lao hơn,
được cầm đầu bởi Nechayev, thông minh, xảo quyệt, và ma quỉ. Trong
Những Con
Quỉ, nhân vật Stefanovich Verhovensky đóng vai Nechayev, và, như trong
đời
thực, anh ta và mấy ông bạn quí (Tolchenko, Virginski, Shigalev, và
Lamshin)
giết chết ông bạn quí Shatov, vì nghi làm ăng ten, tại một công viên,
rồi ném
xác xuống một cái hồ.
Vụ
giết người khiến
Dostoevsky có dịp nhìn lại những giấc mơ, cách mạng và không tưởng, của
đám Hư
vô chủ nghĩa Nga, và những kẻ sùng bái Tây phương, và khám phá ra, có
một sự ham
muốn quyền lực dữ dằn, có một nỗi đam mê được ngự trị ở trên đầu trên
cổ, vợ
con, bạn bè, những người chung quanh, và rộng ra, cả thế giới của chúng
ta. Và
chính vì vậy, mà tôi, [Pamuk], khi còn trẻ, một tên tả phái, [as a
young
leftist], đọc Những Con Quỉ, với tôi, có vẻ, đây là câu chuyện không
phải về
một nước Nga một trăm năm trước đó, nhưng mà là về Thổ Nhĩ Kỳ, cái xứ
sở ngã
quỵ, quy hàng trước cái đám chính trị gia mê cải tổ, mê tiến bộ, mê đổi
mới,
nhưng lại ngập đầu, cắm rễ ở trong bạo lực.
Ui
chao, cứ như thể
Dostoevsky thì thầm vào tai tui, dậy cho tui cái ngôn ngữ bí mật của
linh hồn,
đẩy tôi vào xã hội của đám tiến bộ, tuy, bừng bừng vì những giấc mộng
thay đổi
thế giới, nhưng bị khoá chặt ở trong những hội kín hội hở, và hơi bị
thích thú
cái trò khốn nạn, đánh lừa những kẻ khác, nhân danh cách mạng (1), đầy
đọa, làm
nhục, làm mất nhân phẩm, những người không nói thứ ngôn ngữ cách mạng,
không
chịu cùng chia sẻ viễn ảnh về một ngày mai ca hát của chúng.
(1)
Đúng là tình cảnh nước
Mít, năm 1945, trong có hoàn cảnh một nhạc sĩ, nhà thơ, vì bát cơm của
tổ
trưởng tổ cách mạng, me-xừ Vũ Quí nào đó, mà phải cầm súng đi làm thịt
tay ăng
ten cho hiến binh Nhật, Đỗ Đức Phin, và sau này, sám hối, viết Tại sao
tôi viết
Tiến Quân Ca.
*
Tôi
nhớ là đã tự hỏi chính
mình, vào thời kỳ đó, là, tại sao chẳng có ai nói về những phát giác
như thế ở
trong cuốn sách. Nó có quá nhiều điều để nói với chúng tôi về chính
thời đại
của chúng tôi, tuy nhiên, trong những sinh hoạt tả phái, [left circles]
điều
này [cuốn sách] bị vờ đi, và có thể, vì lý do đó, cho nên, khi tôi đọc,
cuốn
sách như nói thầm với tôi, một bí mật.
Còn
một lý do có tính cá nhân
về những nỗi sợ hãi của tôi. Bởi vì, vào thời gian đó - nói một cách
khác, 100
năm sau khi xẩy ra vụ sát nhân Nechayev và sự xuất hiện của Những Con
Quỉ - một
sự kiện tương tự đã xẩy ra tại Thổ Nhĩ Kỳ, tại trường trung học Robert College.
Một tổ cách mạng, trong đó có một vài bạn học cùng lớp với tôi gia
nhập, tin
tưởng rằng thì là, một trong số những tổ viên, là một tên phản bội. Cái
sự tin
tưởng này thì lại còn được cổ võ bởi một vị 'anh hùng' khôn như ma [a
clever
and devilish 'hero']. Vị này [Gấu bỗng liên tưởng đến me-xừ Tường] sau
đó biến
vào hư vô [vanished into the mist]. Thế là, vào một đêm đẹp trời, họ
lấy gậy
đập đầu anh ta, rồi lèn, nhét xác chết vô một cái rương - và sau đó, bị
tóm khi
chở cái rương vượt eo biển Bosphorus trên một cái thuyền [a rowboat:
thuyền
dùng mái chèo]. Cái ý tưởng đã dẫn dắt, xúi giục họ đến mức muốn tiến
xa, tiến
tới, mãi mãi, cho đến có được cái hành động dùng gậy đập đầu bạn quí,
là,
"kẻ thù nguy hiểm nhất, là cái kẻ gần gụi, thân cận nhất, bạn quí mà,
và
điều này có nghĩa, cái kẻ bỏ đi trước nhất, sớm sủa nhất". Và bởi vì
tôi
đã đọc Những Con Quỉ, cho nên, tôi như bị thọi một cú ngay đúng tim.
Những năm
sau đó, tôi hỏi một người bạn đã từng ở trong cái tổ chuồn chuồn đó,
rằng, anh
ta đã từng đọc Những Con Quỉ, mà cái âm mưu mà mấy bạn quí đó thực
hiện, chỉ là
bắt chước ở trong đó, một cách không ý thức, nhưng anh ta chẳng hề quan
tâm tới
tiểu thuyết tiểu thiếc làm gì cho nó mệt.
Tuy
tẩm đậm sợ hãi và bạo
lực, Những Con Quỉ của Dostoevsky là một cuốn tiểu thuyết rất ư là vui,
nhộn.
Dostoevsky là một nhà biếm văn hoàn hảo, đặc biệt là trong những nơi
thị tứ,
chốn đông người. Trong Anh em nhà Karamazov, Dostoevsky đã tạo nên bức
họa nhức
nhối, một Turgenev, [a biting caricature of Turgenev], ông này, với
Dostoevsky,
vừa là bạn quí, vừa là kẻ thù [y chang Gấu với đám bạn quí thời mới tập
tành
viết!], trong đời thực. Turgenev làm phiền Dostoevsky, vì dưới mắt
Dostoevsky,
Turgenev là một ông chủ đất giầu có, khoái đám Hư vô chủ nghĩa, mê Tây
phương,
lại thêm cái nhìn kẻ cả nhìn xuống văn hóa Nga. Những Con Quỉ, ở một
mức độ nào
đó, là một cuốn tiểu thuyết ông viết, để cà khịa [arguing] với cuốn Cha
và Con
của Turgenev.
Nhưng,
tuy cáu kỉnh với đám
tự do tả phái, và mê Tây phương, Dostoevsky, từ bên trong, vẫn không
thể nào
không trò chuyện với họ bằng tình cảm yêu thương, thỉnh thoảng, đôi
lúc. Ông
viết về chung cuộc của nhân vật Stefanovich Verhovensky - và cuộc gặp
gỡ của
ông, với anh ta, đúng là thứ nông dân Nga mà suốt đời ông mơ tưởng -
bằng một
giọng văn thơ mộng nhức nhối con tim [with such heartfelt lyricism] đến
nỗi độc
giả, chẳng còn một cách nào khác, ngoài, ngưỡng mộ anh ta, cho dù nực
cười vì
những trò tự đắc, hợm hĩnh, kênh kiệu của anh ta suốt cuốn truyện. Theo
một
nghĩa nào đó, đây có thể là cách mà Dostoevsky giơ tay vẫy chào vĩnh
biệt,
[bye, bye, never see you again] với cái đám trí thức cách mạng hoặc ăn
cứt Tây
phương hoặc chẳng ăn gì hết [Dostoevsky's way of saying farewell to the
Westernizing all-or-nothing revolutionary intellectuals, nên nhớ Mác
Xịt thì
cũng là một thứ cứt đám mũi lõ Tây mà thôi], và cũng còn là một cách
tặc tặc
cái lưỡi, tha thứ, những đam mê, những lầm lẫn và những trò hách xì
xằng, của
chính ông.
Tôi
luôn luôn coi Những Con
Quỉ là một cuốn sách công khai hoá những bí mật nhục nhã mà đám trí
thức tiến
bộ (những kẻ sống xa trung tâm, ở mép bờ của Âu Châu, hục hặc với những
giấc mơ
Tây Phương của họ, và bị hành hạ bởi những hồ nghi của họ về Thượng
Đế), mong
giấu kín, chúng ta.
*
Ui
chao, bạn đọc những dòng
trên, song song với những đoạn trong Bếp Lửa, thí dụ đoạn Tâm và Đại cà
khịa
với nhau về Dostoevsky, hay Tâm trả lời tay Nhiên, khi qua Bắc Ninh dậy
học tại
một trường đạo...
*
Chúng
tôi bước ra sân. Người
thanh niên vẫn chăm chú làm việc không để ý đến sự có mặt của tôi. Đại
cầm ở
tay cuốn Crime et Châtiment. Tôi hỏi:
“Cậu
đến trường luôn không?”
“Không.”
“Làm gì
ở nhà?”
“Đọc
sách và suy nghĩ.”
“Suy
nghĩ về phép giết người
chăng?” Tôi nói đùa.
Đại
không đáp. Chúng tôi đứng
nhìn xuống khu xóm lao động phía dưới. Đại bỗng nói:
“Nó đến
trường tìm mình dữ
lắm.”
“Cậu
quyết định thế nào?”
Đại
trầm ngâm một phút:
“Chưa.”
Đại là
sinh viên khoa học, đã
qua được chứng chỉ căn bản. Hắn bị gọi động viên và đang trốn.
“Nghĩ
gì về Dostoievski?”
“Bệnh.”
Tôi
không ưa lối nói cụt lủn
của Đại. Hắn rất say đắm chủ nghĩa cộng sản
*
“Anh
cho là có Thượng Đế hay
không?”
Tôi suy
nghĩ rồi trả lời:
“Câu
hỏi ấy chưa bao giờ làm
tôi thắc mắc cả.”
Tôi
không nghĩ đến nó.
Nhiên
lại hỏi:
“Anh có
nhận rằng ở đời có
một cái gọi là Thiện, một cái gọi là Ác, có công bằng, có tự do, bác
ái…"
Tôi
trông thẳng vào mặt Nhiên
đáp:
“Có chứ
tại sao không?”
“Vậy mà
anh lại không tin
Thượng Đế thì lạ thật.”
“Tôi
tưởng những ý niệm ấy
họp nhau thành một ý niệm hoàn hảo hơn tất cả là Thượng Đế. Thường
thường người
ta nghĩ một vài ý niệm khó thỏa hiệp vớ nhau như bình đẳng và tự do,
nhưng đạt
đến sự hòa hiệp chính là tìm về Thượng Đế rồi còn gì.”
Tôi
bước vài bước đắn đo:
“Tôi
nhắc lại với anh tôi
không suy nghĩ về vấn đề ấy. Theo tôi có những lúc người ta cần giải
quyết giữa
người với người và Thượng Đế không nên có mặt ở lúc ấy. Có mặt khi
không cần
thiết, Thượng Đế sẽ bị nhơ nhuốc lây và có thể bị mất ngôi. Mà ngôi
Thượng Đế
có lẽ cần thiết lúc khác.”
“Thượng
Đế sẽ giải quyết được
những vấn đề của loài người nếu loài người biết tìm về Người.”
“Không,
tôi không tin như
thế, Thượng Đế không sống cái sống xác thịt của nhân loại. Khi Thượng
Đế nhập
thể thành người như Chúa Jésus hay Phật Tổ thì chính ở những người ấy
Thượng Đế
đã bị lôi kéo vào tấn thảm kịch riêng tư của loài người, và chỉ có thể
thoát ra
với sự thất bại…”
*
Nguyên
văn, bản tiếng Anh,
bài của Orhan Pamuk
CHAPTER
THIRTY-SEVEN
Dostoyevsky's Fearsome Demons
Demons
is, in my view, the
greatest political novel of all time. I first read it when I was
twenty, and I
can describe its impact only by saying I was stunned, awed, terrified,
and
utterly convinced. No other novel had affected me so deeply; no other
story had
given me such distressing knowledge of the human soul. Man's will to
power; his
capacity for forgiveness; his ability to deceive himself and others;
his love
for, hatred of, and need for belief; his addictions, both sacred and
profane—
what shocked me was that Dostoyevsky saw all these qualities as
existing
together and rooted in a common tangled tale of politics, deception,
and death.
I admired the novel for the speed with which it conveyed its
all-embracing
wisdom. This may be literature's primary virtue: Great novels draw us
into
their trance as fast as their heroes race into the thick of things; we
believe
in their worlds as deeply as we believe in their heroes. I believed in
Dostoyevsky's prophetic voice as ardently as I believed in his
characters and
in their addiction to confession.
What is
harder to explain is
why this book struck such fear in my heart. I was particularly affected
by the
excruciating suicide scene (the snuffing of the candle and the dark
other,
observing events from the next room) and by the violence of an
ill-conceived murder
bom of terror. Perhaps what shook me was the speed with which the
novel's
heroes switched back and forth between grand thoughts and their small
provincial lives, a boldness Dostoyevsky saw not just in them but in
himself.
When we read this novel, it seems as if even the smallest details of
ordinary
life are tied to the characters' grand thoughts, and it is by seeing
such
connections that we enter the fearful world of the paranoid, in which
all
thoughts and great ideals are linked to one another. So it is with the
secret
societies, intertwined cells, revolutionaries, and informers who
inhabit this
book. This fearsome world in which everyone is connected to everyone
else
serves both as a mask and a conduit to the great truth I lurking behind
all
thoughts, for behind this world is another, and in this other world it
is
possible to question man's freedom and God's existence. In Demons,
Dostoyevsky
offers us a hero who commits suicide to confirm both these grand
ideas—man's
freedom and God's presence—and he does so in a way no reader is likely
ever to
forget. There are very few writers who can personify or dramatize
beliefs,
abstract thoughts, and philosophical contradictions as well as
Dostoyevsky.
Dostoyevsky
began work on
Demons in 1869, at the age of forty-eight. He'd just written and
published The
Idiot; he'd written The Eternal Husband. He was living in Europe
(Florence and
Dresden), where he'd gone two years earlier to escape his creditors and
work in
relative peace. He had in mind a novel about faith and the lack of it,
which he
called Atheism, the Life of a Great Sinner. He was full of rancor for
the
Nihilists, whom we might define as half anarchist, half liberal, and he
was
writing a political novel that mocked their hatred of Russian
traditions, their
enthusiasm for the West, and their lack of faith. After working on this
novel
for some time, he began to lose interest in it and coincidentally
became fired
up (as only an exile can be) about a political murder that he read
about in the
Russian papers and also heard about from a friend of his wife's. That
same year
a university student named Ivanov had been murdered by four friends who
believed him to be a police informer. This revolutionary cell in which
the
youths were killing one another was headed by the brilliant, devious,
devilish
Nechayev. In Demons, it is Stefanovich Verhovensky who serves as the
Nechayev
figure, and as in real life, he and his friends (Tolchenko, Virginski,
Shigalev, and Lamshin) kill the suspected informer Shatov in a park and
throw
his body into a lake.
The
murder allowed
Dostoyevsky to look behind the revolutionary and Utopian dreams of
Russian
Nihilists and Westemizers and to discover there a powerful desire for
power—over our spouses, our friends, our surroundings, our entire
world. And
so, when as a young leftist I read Demons, it seemed to me that the
story was
not about Russia a hundred years earlier but about Turkey, which had
succumbed
to a radical politics deeply rooted in violence. It was as if
Dostoyevsky was
whispering into my ear, teaching me the secret language of the soul,
pulling me
into a society of radicals who, though inflamed by dreams of changing
the
world, were also locked into secret organizations and taken with the
pleasure
of deceiving others in the name of the revolution, damning and
degrading those
who did not speak their language or share their vision. I remember
asking
myself at the time why no one talked about the revelations in this
book. It had
so much to tell us about our own times, yet in leftist circles it was
ignored,
and that may be why, when I read it, the book seemed to be whispering a
secret
to me.
There
was also a personal
reason for my fears. For at the time—in other words, about a hundred
years
after the Nechayev murder and the publication of Demons—a similar crime
was
perpetrated in Turkey, at Robert College. A revolutionary cell to which
a
number of my classmates belonged became convinced (with the
encouragement of a
clever and devilish "hero" who then vanished into the mist) that one
of their number was a traitor; they killed him one night by smashing
his head
with a cudgel, stuffed the body into a trunk—and were caught while
taking it
across the Bosphorus in a rowboat. The idea that drove them, the idea
that made
them willing to go as far as murder, was that "the most dangerous enemy
is
the one closest to you, and that means the one who leaves first"—it was
because I had read this first in Demons that I could feel it in my
heart. Years
later I asked a friend who'd been in this cell if he'd read Demons,
whose plot
they'd unwittingly imitated, but he had no interest in the novel
whatsoever.
Though
suffused with fear and
violence, Demons is Dostoyevsky's most amusing, most comic, novel.
Dostoyevsky
is a consummate satirist, especially on crowded sets. In Karmazinov,
Dostoyevsky has created a biting caricature ofTurgenev, for whom he
felt both
friendship and hatred in real life. Turgenev troubled Dostoyevsky by
being a
wealthy landowner who approved of the Nihilists and Westemizers and (in
Dostoyevsky's
view) looked down on Russian culture. Demons is to some degree a novel
he wrote
as a way of arguing with Fathers and Sons. But angry as he was at
left-wing
liberals and Westemizers, Dostoyevsky, knowing them from within, also
could not
help discussing them with affection from time to time. He writes of
Stephan
Trofimovich's end—and of his meeting just the sort of Russian peasant
he'd
always dreamed of—with such heartfelt lyricism that the reader, who has
been
smirking at this man's pretensions throughout the novel, cannot help
but admire
him. This could in some sense be seen as Dostoyevsky's way of saying
farewell
to the Westernizing all-or-nothing revolutionary intellectual,
dispatching him
to indulge his passions, his mistakes, and his pretensions in peace.
I have
always seen Demons as
a book that proclaims the shameful secrets that radical intellectuals
(who live
far from the center, on the edge of Europe, at war with their Western
dreams
and racked by doubts about God) wish to hide from us.
Orhan Pamuk: Other Colors
|