|
July 19,
2007
Anita Desai.
A Tranquil Star: Unpublished Stories
by Primo Levi, translated from the Italian by Ann
Goldstein and Alessandra
Bastagli
Norton, 164 pp., $21.95
1 2
Dịck
K
A belief
like a guillotine – as heavy as light.
Franz Kafka: Reflections on Sin,
Suffering, Hope, and the True Way
[Niềm tin
thì cũng giống như cái máy chém. Nặng như thế. Mà nhẹ, cũng như thế].
Hai Lúa tin
rằng nhà thơ VC Phạm Tiến Duật phải đã từng đọc Kafka, nhất là câu
trên, mới nẩy
ra hứng sáng tác, câu thơ thần sầu:
Đường ra trận
mùa này đẹp lắm!
Cái máy chém
đó. Niềm tin đó.
Nhẹ và đẹp,
như câu thơ của họ Phạm.
Nặng, là cái
chết của ba triệu người, ở cả hai miền, kể cả thường dân và binh sĩ.
Bằng con số
nạn nhân Lò Thiêu.
One reads in
order to ask questions.
Kafka
[Alberto Manguel trích dẫn, trong A
history of Reading]
Người ta đọc,
để hỏi.
Yet any
translation, however influencial, harbors its own dissolution.
Literature
endures; translation, itself a branch of literature, decays.
Cynthia
Ozick: The Impossibility of Being
Kafka, Sự Không Thể Là Kafka. In
trong Quarrel & Quandary,
tập tiểu luận, nhà xb Vintage, 2001.
Dịch, cho dù
ảnh hưởng tới cỡ nào, cũng chỉ là trò thả mồi bắt bóng, nghĩa là, lấy
cái tâm sự
nát tan - hay như người ta nói, sự phản bội kia - như là niềm cưu mang
của
chính nó:
Giật mình,
mình lại thương mình xót xa!
Văn, như gừng,
càng già càng cay.
Dịch, như củi,
càng lâu càng mục.
Ông tính “gửi”
cho ai, cuốn “Vụ Án” của ông?
Khi dịch “Vụ
Án”, tôi có những tình cảm thay đổi, đối chọi nhau, thích thú, hoan hỉ
nữa, vui
vẻ, như khi tôi giải được một bài toán, san bằng một khó khăn. Nhưng
tôi cũng cảm
thấy âu lo, hốt hoảng (angoisse), và thật là buồn. Chính vì vậy, trong
khi mà
tôi luôn luôn trao những cuốn sách của tôi tới tất cả mọi người, tôi
không muốn
như vậy, với cuốn “Vụ Án” này. Tôi tự hỏi, thí dụ vậy, liệu có tốt
không, khi một
đứa bé mười lăm tuổi, đọc một cuốn sách như là “Vụ Án”. Tôi mong tránh
cho đứa
trẻ khỏi phải đọc. Hình như với tôi, đây là một cuốn sách nặng những
điềm triệu.
Altro dirti non vo’; ma la tua festa / ch’anco tardi a venir non ti sia
grave
(3). “Vụ Án” làm cho chúng ta ý thức hơn. Hãy nhớ lại cuốn sách đã kết
thúc như
thế nào. Hãy nhớ xen chót: trời xanh, và vụ hành quyết sẽ xẩy ra một
cách nào
đó, bởi hai cá nhân, tức là hai người máy, chúng gần như chẳng nói năng
gì hết,
chúng ngợi khen lẫn nhau một cách ngu đần, và hoàn toàn rửng rưng.
Chúng thật
thích nghi với cung cách của vụ hành quyết, làm sao thực hiện nó một
cách thật
chính xác, đúng như mệnh lệnh đã được giao. Nhưng đây là một kết án tử,
chúng
xoáy lưỡi dao vào tim [nạn nhân]. Một kết thúc thật là độc ác, một sự
độc ác bất
chợt, bất ngờ đến nỗi, nếu tôi có con trai còn trẻ, tôi sẽ tránh không
cho nó
phải đọc. Hình như đối với tôi, nó gây nên một sự khó chịu, bất an, một
nỗi thống
khổ, mà, lẽ dĩ nhiên, nó là sự thực, là chân lý. Chúng ta sẽ chết, mỗi
chúng ta
đều sẽ chết, ít hoặc nhiều, như thế đó.
«An Interview with Primo
Levi », Partisan Review, vol. LIV,
3, 1987.
Un entretien avec Primo
Levi par Risa Sodi
Un récent livre de
l'historien H. Stuart
Hughes trace le portrait de six écrivains juifs italiens, au nombre
desquels
vous figurez (1). Cette définition d'« écrivain juif» ne vous
semble-t-elle pas
un peu forcée?
Si. En
Italie, il serait impossible de coller une étiquette telle que «
écrivain juif»
ou «écrivain non juif ». Dans mon cas, ce sont les Américains qui l'ont
employée pour la première fois, pas les Italien. En Italie, on me
connaît comme
un écrivain qui, incidemment, est également juif. Aux États-Unis, c'est
différent. La dernière fois que je me suis rendu en Amérique, en 1985,
j'ai eu
l'impression qu'on m'avait de nouveau épinglé l'étoile de David sur la
poitrine! Mais je m'en moque. En ce qui me concerne, il est assez
facile de me
définir comme juif, puisque la plupart de mes œuvres ont, d'une manière
ou
d'une autre, un rapport avec le judaïsme et puisque, en tant que Juif,
j'ai été
amené à vivre l'expérience d'Auschwitz. En revanche, pour des auteurs
comme
Moravia, Svevo ou Ginzburg, il est extrêmement difficile de parler
d'écrivains
juifs. Si Natalia Ginzburg n'était pas juive, cela ne changerait
presque rien à
ses livres, Pour Bassani (2), toutefois, les choses sont un peu
différentes. Je
me souviens d'ailleurs que Hughes le définit comme «le seul vrai Juif»
ou « le
premier vrai Juif », je ne me rappelle plus précisément l'expression
qu'il
emploie. En ce qui me concerne, mes œuvres de science-fiction n'ont
presque
rien à voir avec le judaïsme, et La Clé à molette n'est pas non
plus un
«livre juif ». Quoi qu'il en soit, j'accepte de bon gré la définition
d'«
écrivain juif ».
Một cuốn sách mới ra lò ít
lâu, tác giả, một sử gia, gọi ông là nhà văn Ý gốc Do
Thái. Ông thấy quê không?
Quê. Ở Ý,
đếch có cái trò đội nón như thế.
Trong trường hợp của tôi, người Mẽo đội cho tôi cái nón đó đầu tiên,
không phải
người Ý.
GCC thích được
gọi là “nhà văn Ngụy”, thứ chủng loại [sắp] tuyệt chủng!
Nhưng gọi “Gấu Nhà Văn”, thích hơn!
Hà, hà!
It is not at
all surprising that Levi translated Kafka (The Trial). Even if Kafka
died,
fortuitously, before the Holocaust, its shadow imbues the work of both.
If one
saw it looming in the future, the other looked back to see how it
suffused the
past. What is curious is that Levi said, in an essay on his translation
in the
collection The Mirror Maker, “I don’t think I have much affinity for
Kafka,”
and went on to explain the difference he perceived between them:
In my
writing, for good or evil, knowingly or not, I’ve always strived to
pass from
the darkness into the light, as…a filtering pump might do, which sucks
up
turbid water and expels it decanted: possibly sterile. Kafka forges his
path in
the opposite direction: he endlessly unravels the hallucinations that
he draws
from incredibly profound layers, and he never filters them. The reader
feels
them swarm with germs and spores: they are gravid with burning
significances,
but he never receives any help in tearing through the veil or
circumventing it
to go and see what it conceals. Kafka never touches ground, he never
condescends to giving you the end of Ariadne’s thread.
Now it is
true that one could never think of Kafkas’s stories as “playful” and it
is also
true that, as Levi puts it, “perhaps Kafka laughed when he told stories
to his
friends, sitting at a table in a beer hall, because one isn’t always
equal to
oneself, but …
Chẳng có gì đáng ngạc
nhiên, Levi dịch K [Vụ Án]. Ngay cả, giả như Kafka may mắn
chết, trước khi Lò Thiêu xẩy ra, thì cái bóng của nó cũng phủ lên tác
phẩm của
cả hai, và nhuộm cho chúng 1 cái màu âm u của 1 mùa địa ngục [cái này
là mô phỏng
văn chương vãi lệ của 1 nhà phê bình hải ngoại, hà, hà]: Nếu ở trong
ông này
[Kafka] nó tiên tri tương lai như là 1 cơn ác mộng sắp mò tới, thì ở
trong ông
kia, [Levi], là cái nhìn lại quá khứ, sau khi đã nếm mùi Lò Thiêu.
Điều kỳ cục
là, Levi đếch nhận mình giống Kafka!
Chuyện của tôi là trường hợp
đặc biệt. Bởi vì họ khám phá ra tôi
là một nhà hoá học, tôi được làm việc trong một xưởng hóa học. Chúng
tôi có ba
người, trong số 10 ngàn tù nhân. Hoàn cảnh cá nhân của tôi hết sức đặc
biệt,
như vị trí và hoàn cảnh của bất cứ một kẻ sống sót nào. Một tù nhân
bình thường
chết. Đó là cách trốn trại của anh ta. Sau khi qua lần kiểm tra về hoá
học, tôi
chờ coi những ông sếp sẽ tính gì về mình. Nhưng chỉ có một ông là còn
có tí
tính người, qua đó, là sự cảm thông, đối với tôi, đó là Dr. Muller, sếp
trực tiếp,
my supervisor, ở phòng thí nghiệm. Chúng tôi bàn luận về chuyện này,
sau chiến
tranh, qua thư từ. Ông ta là một con người thường thường bậc trung, an
average
man, không anh hùng mà cũng không dã man. Ông ta không biết gì về hoàn
cảnh của
chúng tôi. Được thuyên chuyển tới Auschwitz
vài ngày trước đó. Bởi vậy, ông tỏ ra bối rối. Họ nói với ông: Đúng
rồi, trong
phòng thí nghiệm, trong nhà máy của chúng ta, chúng ta sử dụng kẻ thù.
Họ là tà
ma, ác quỉ, kẻ thù, kẻ địch của chính quyền chúng ta. Chúng ta đưa họ
vào làm
việc để khai thác họ, nhưng anh, anh không có được nói chuyện với họ.
Đó không
phải là nhiệm vụ của anh. Họ thì nguy hiểm, họ là Cộng Sản, họ là những
tên giết
người. Bởi vậy, bắt họ làm việc nhưng không được nói chuyện với họ. Ông
ta là một
người vụng về, không tinh khôn lắm. Ông không phải là một tên Nazi. Ông
có vài
nét người. Ông thấy tôi không cạo râu, và hỏi. Tôi nói, coi này, tôi
đâu có dao
cạo râu, đâu có khăn mặt. Chúng tôi hoàn toàn trần truồng, bị tước đoạt
hết thẩy,
và thế là ông bắt tôi phải cạo râu hai lần trong một tuần. Mệnh lệnh
này thì
cũng chẳng ghê gớm gì, nhưng ít nhất, nó cũng là một dấu hiệu. Hơn nữa,
ông thấy
tôi đi guốc. Vừa ồn vừa khó chịu. Ông hỏi, tại sao. Tôi nói, ngay ngày
đầu đến
đây, là đã bị lột giầy. Guốc là tiêu chuẩn của chúng tôi. Ông kiếm giầy
da cho
tôi. Thật đỡ khổ, vì guốc đúng là một cực hình. Tôi vẫn còn những vết
sẹo guốc.
Nếu bạn đi không quen, chỉ chừng nửa dậm đường, là nó sẽ cứa nát chân.
Rồi thêm
bụi bặm, nhơ bẩn, và chân bạn sẽ nhiễm trùng. Có được giầy da, thì thật
là đỡ
khổ. Bởi vậy, tôi cảm thấy hàm ơn ông ta. Ông không phải thứ người can
đảm. Ông
sợ bọn SS, như tôi. Ông quan tâm đến chuyện, tôi làm việc có ích lợi,
chứ không
tìm cách trù giập, bách hại. Ông chẳng có gì chống Do Thái, chống tù
nhân. Ông
chỉ mong, chúng tôi là những công nhân làm việc có hiệu quả. Câu chuyện
về ông
ta, như được tôi kể trong Bảng Tuần Hoàn, The Periodic Table,
là hoàn
toàn có thực. Tôi chẳng có may mắn gặp lại ông sau chiến tranh. Ông
chết trước
vài ngày, trước cái ngày hẹn gặp nhau của chúng tôi. Ông điện thoại cho
tôi từ
một nhà chữa bệnh bằng nước suối khoáng, ở Đức, nơi ông đang phục hồi
sức khoẻ.
Như tôi được biết, cái chết của ông ta là tự nhiên. Nhưng tôi không
biết có đúng
như thế hay là không. Tôi để ngang như vậy, trong Bảng Tuần Hoàn... để
bạn đọc
có chút hồ nghi, như chính tôi cũng mơ mơ hồ hồ.
Primo Levi [trích The Paris Review, từ bài viết về nghệ thuật
viết tiểu
thuyết, The Art of Fiction CXL]
*
Đoạn trên, trích từ tuyển tập, về "đủ thứ trên đời", The Paris
Review Book of Love, Sex, Betrayal, God, Death, War... , và thuộc
về phần
War, Chiến tranh.
Cũng trong phần, có trích đoạn, cuộc phỏng vấn nhà thơ phản quốc, Ezra
Pound.
*
Người phỏng vấn: Hành động chính trị của ông mà mọi người còn nhớ, là,
những
bài phát thanh từ Ý, trong thời kỳ chiến tranh. Khi ông cho chơi những
bài đó,
ông có ý thức đến chuyện ông chơi cha đối với luật pháp Mẽo?
Pound: Không. Tôi hoàn toàn ngạc nhiên. Ông biết là tôi có lời hứa hẹn
đó, you
see that I had that promise. Tôi được giao cho cái sự tự do đó, về cái
việc sử
dụng cái micro đó, hai lần trong một tuần. "Anh ta [tức là tui] được
yêu cầu,
không được chơi một cái gì đi ngược lại với luơng tâm của anh ta, và đi
ngược lại
cái bổn phận của anh ta, như là một công dân Mẽo". Tôi nghĩ tôi đã làm
đầy
đủ hai điều đó [ I thought that covered it].
-Liệu luật Mẽo có cho ông cái quyền 'đem sự giúp đỡ và sự hài lòng
thoải mái, đến
cho kẻ thù', và kẻ thù ở đây, có phải là cái xứ sở chúng ta đang có
chiến tranh
với họ?
-Tôi nghĩ, lúc đó, tôi đang chiến đấu, cho một quan điểm mang tính định
chế, a
constitutional point. Tôi muốn nói, tôi có thể là một thằng quá cù lần,
quá ngu
ngốc, nhưng, chắc chắn, tôi không phạm tội phản quốc....
*
Gấu bỗng nhớ đến những hành động "đâm sau lưng chiến sĩ" của mấy ông
VC nằm vùng, và của đám tinh anh bỏ chạy. Liệu đám khốn này, cũng chiến
đấu cho
một quan điểm có tính định chế: làm sao choàng cho được cái cùm định
chế, là chủ
nghĩa CS, lên đầu lên cổ, nhân dân Miền Nam?
Pound, ông tự nhận ông là thằng cù lần.
Đám kia, còn lâu mới dám thú nhận, họ làm điều ngu đần.
Cái
chuyện
Levi khăng khăng chối, tớ đếch giống Kafka có thể giải thích được.
Levi, nếu
không bị bắt vô Lò Thiêu, chắc chắn chẳng hề viết. Khác hẳn Kafka,
không viết
là “ngứa” quá, không thể chịu được giống Thầy Kuốc nhà mình, hà, hà.
Bạn nhận ra
điều này, nếu đọc Banville viết về ông, trong bài Một Kafka Khác,
hay trong bài “Trois regards pour dépayser Kafka”, trong ba cái nhìn
này, thì
cái nhìn biến Kafka thành nhà thơ của sự tủi hổ và phạm tội, khủng
nhất. Chính
Kafka cũng không hề chối, tớ sinh ra là để viết văn, ông Trời năn nỉ
tớ, đừng
viết, đếch được, ("Dieu ne veut pas que j'écrive, mais moi je dois").
Không phải thứ tán “hĩm”, hay ve vuốt VC, mà là thứ “tủi hổ và phạm
tội”!
Akhmatova:
Nửa Thế Kỷ Của Tôi
Robert Hass,
trong bài viết “gia đình và nhà tù, families and prisons” in trong
“What light
can do”, nhắc tới Mandelstam, ông cảm thấy khó chịu, về cái sự bị
hớp hồn của chúng ta đối với nhà thơ, vì vài lý do, but I am uneasy by
our
fascination with him for a couple of reasons.
Thứ nhất, là sự nghi ngờ, có thể
cái sự tuẫn nạn của ông gãi ngứa chúng ta, the first is the suspicion
that
our fascination exists because his martyrdom flatter us.
Và ông đưa ra 1 nhận định
cũng thật thú: Có 1 số nhà thơ có tài, nhưng vì 1 lý do nào đó, thiếu
can đảm,
và có những đấng đếch có tài, nhưng lại quá thừa can đảm.
Nhân đó, ông
lèm bèm tiếp về Akhmatova. Cũng theo cách nhận thức như vậy.
Theo GCC,
Robert Hass không đọc được, cả hai nhà thơ trên. Lý do, theo Gấu vẫn
là, có 1 cái
gì đó thiếu, về mặt độc ác, tính ác, ở những nhà thơ Mẽo như ông, cho
nên không
đọc ra được những nhà văn nhà thơ của phần đất Á Châu, như Mandelstam,
Akhmatova.
Đẩy quá lên
bước nữa, có thứ văn chương chúng ta đếch cần đọc, vì chẳng bao giờ nó
ngó ngàng
đến cái độc, cái ác của con người, nhất là Cái Ác Á Châu, trong có
Mít.
Primo Levi
phán, tớ là 1 nhà hóa học, tớ quan sát, để hiểu, nhưng hiểu không có
nghĩa là
tha thứ, bởi là vì tha thứ là hành động chỉ có những người có niềm tin
tôn
giáo, làm được. Một tên vô thần như tớ, thua!
"Comprendre,
ce n’est pas pardoner". Le pardon est un acte religieux don’t il est,
lui
l’athée, incapable.
Trong số báo
mới nhất về Kafka, có hai bài, lạ, một, về Kertesz và mối nối giữa ông
và
Kafka, và một, về Primo Levi, đúng hơn, về 1 cuộc trò chuyện của ông, Vùng Xám,
La Zone Grise, mới ra lò. Bài “Ba cái nhìn
để biến Kafka thành 1 kẻ vô xứ” [từ này Gấu chôm của Thầy Đạo], “Trois
regards
pour dépayser Kafka”, trong ba cái nhìn này, thì cái nhìn biến Kafka
thành nhà
thơ của sự tủi hổ và phạm tội, khủng nhất.
1986: Turin
AFTER THE
SEASON OF AUSCHWITZ
Sau Mùa Lò Thiêu
Are you
ashamed because you are alive in place of
another? And in particular, of a man more generous, more sensitive,
more
useful, wiser, worthier of living than you? You cannot block out such
feelings:
'you examine yourself, you review your memories, hoping to find them
all, and that
none of them are masked or disguised. No, you find no obvious
transgressions,
you did not usurp anyone's place, you did not beat anyone (but would
you have
had the strength to do so?), you did not accept positions (but none
were offered
to you ... ), you did not steal anyone's bread; nevertheless you cannot
exclude
it. It is no more than a supposition, indeed the shadow of a suspicion:
that
each man is his brother's Cain, that each one of us (but this time I
say us in a much vaster, indeed, universal
sense) has usurped his neighbor's place
and lived in his stead. It is a supposition, but it gnaws at us; it has
nestled
deeply like a woodworm; although unseen from the outside,
it gnaws and rasps.
After my
return from imprisonment at Auschwitz, I was visited by a friend older
than myself,
mild and intransigent, the cultivator of a personal religion, which,
however;
always seemed to me severe and serious. He was glad to find me alive
and
basically unhurt, perhaps matured and fortified, certainly enriched. He
told me
that my having survived could not be the work of chance, of an
accumulation of
fortunate circumstances (as I did then and still do maintain) but
rather of
Providence. I bore the mark, I was an elect: I, the nonbeliever, and
even less
of a believer after the season of Auschwitz, was a person touched by
Grace, a
saved man. And why me? It is impossible to know, he answered. Perhaps
because I
had to write, and by writing bear witness: wasn't I in fact then, in
1946,
writing a book about my imprisonment?
Such an opinion seemed monstrous to me. It
pained me, as when one touches an exposed nerve, and kindled the doubt
I spoke
of before: I might be alive in the place of another, at the expense of
another;
I might have usurped, that is, in fact, killed. The "saved" of the
Lager [the concentration camps] were not the best, those predestined to
do
good, the bearers of a message: what I had seen and lived through
proved the
exact contrary. Preferably the worst survived, the selfish, the
violent, the
insensitive, the collaborators of the "gray zone," the spies. it was
not a certain rule (there were none, nor are there certain rules in
human
matters), but it was nevertheless a rule. I felt innocent, yes, but
enrolled
among the saved and therefore in permanent search of a justification in
my own eyes
and those of others. The worst survived, that is, the fittest; the best
all
died.
Chaim died,
a watchmaker from Krakow, a pious Jew who despite the language
difficuties made
an effort to understand and be understood, and explained to me, the
foreigner, the
essential rules for survival during the first crucial days of
captivity; Szabo
died, the taciturn Hungarian peasant who was almost two meters tall and
so was
the hungriest of all, and yet, as long as he had the strength, did not
hesitate
to help his weaker companions to pull and push; and Robert, a professor
at the
Sorbonne who spread courage and trust all around him, spoke five
languages,
wore himself out recording everything in his prodigious memory, and had
he
lived would have answered the questions that I do not know how to
answer; and Baruch
died, a longshoreman from Livorno, immediately, on the first day,
because he
had answered the first punch he had received with punches and was
massacred by
three kapos in coalition. These, and innumerable others, died not
despite their
valor but because of it.
My religious friend had told me that I survived so
that I could bear witness. I have done so, as best I could, and I also
could
not have done so; and I am still doing so, whenever the opportunity
presents
itself; but the thought that this testifying of mine could by itself
gain for
me the privilege of surviving and living for many years without serious
problems troubles me because I cannot see any proportion between the
privilege
and its outcome.
I must repeat: we, the survivors, are not the true
witnesses. This is an uncomfortable notion of which I have become
conscious
little by little, reading the memoirs of others and reading mine at a
distance
of years. We survivors are not only an exiguous but also an anomalous
minority:
we are those who by their prevarications or abilities or good luck did
not touch
bottom. Those who did so, those who saw the Gorgon, have not returned
to tell
about it or have returned mute, but they are the submerged, the
complete
witnesses, the ones whose deposition would have a general significance.
They
are the rule, we are the exception. We who were
favored by fate tried, with more or less wisdom, to recount not only
fate but
also that of the others, indeed of the drowned, but this was a
discourse
"on behalf of third parties," the story of things seen at close hand,
not experienced personally. The destruction brought to an end, the job
completed, was not told by anyone, just as no one ever returned to
describe his
own death. Even if they had paper and pen, the drowned would not have
testified,
because their death had begun before that of their body. Weeks and
months
before being snuffed out, they had already lost the ability to observe,
to
remember, to compare and express themselves. We speak in their stead,
by proxy.
Primo
Levi, from “The Drowned and the Saved”.
Arrested for his involvement in the Italian
resistance during World Word II, Levi entered Auschwitz on February 26,
1944,
and the identifying number 174517 was tattooed on his arm. Soviet
troops liberated
the camp eleven months later, and he made his way home to Turin by foot
and by
train. He published Survival in Auschwitz in 1947 and The Periodic
Table in
1975. Levi died, apparently by suicide, in 1987 at the age of
sixty-seven-in
the same house in which he was born.
Lapham's Death
Khe Sanh,1968
MICHAEL HERR IN A
BLOODSWARM
I looked and
there was a pale green horse! Its rider's name was Death, and Hades
followed
with him.
-Book
of Revelations, c. 90
Tôi nhìn và
thấy 1 con ngựa xanh nhợt nhạt! Tên kỵ sĩ là Thần Chết, và Diêm Vương,
đằng sau
anh ta.
Khe Sanh
1968, Sarajevo 1992, Cõi Khác 1969... là cùng dạng “memoir”, kể
cả "Nỗi
Buồn
Chiến Tranh" của Bảo Ninh. Chúng có chung cái air "độc thoại".
Đoạn mở ra Sarajevo, đọc 1 phát là nhập vô liền:
There was
spring rain and pale fog in Sarajevo as my plane approached the city
last
April, veering over the green foothills of Mount Igman.
Có mưa Xuân
và sương mù lợt tạt ở Sarajevo, Tháng Tư vừa rồi, khi chiếc phi cơ của
tôi
loay hoay chọn hướng đáp xuống thành phố, bên trên những ngọn đồi thấp,
màu
xanh, của núi Mount Igman.
Câu văn còn
làm nhớ câu thơ phổ nhạc của Phạm Duy, “Ngày mai đi nhận xác chồng”,
cái gì gì,
“phi cơ đáp xuống một chiều...” (1)
Thê lương thật. Sống thêm
vài kiếp nữa, chắc vẫn chưa quên nổi cuộc
chiến.
Mà quên làm khỉ gì không biết!
(1)
Tưởng như còn
người yêu
Ngày mai đi
nhận xác chồng
Say đi để thấy
mình không là mình
Ngày mai đi
nhận xác anh
Cuồng si thuở
ấy, hiển linh bây giờ
Cao nguyên
hoang lạnh ơ hờ
Như môi góa
phụ nhạt mờ vết son
Tình ta
không thể vuông tròn
Say đi mà tưởng
như còn người yêu
Phi cơ đáp
xuống một chiều
Khung mây
bàng bạc mang nhiều xót xa
Dài hơi hát
khúc thương ca
Thân côi
khép kín trong tà áo đen
Chao ôi !
Thèm nụ hôn quen
Chong đèn, hẹn
sẽ đêm đêm đợi chờ
Bây giờ anh
phủ mầu cờ
Bây giờ anh
phủ mầu cờ
Em không
nhìn được xác chàng
Anh lên lon
giữa hai hàng nến trong
Mùi hương cứ
tưởng hơi chàng
Ôm mồ cứ tưởng
ôm vòng người yêu !
Lê Thị Ý
[net]
Lần đầu
tiên
Gấu nghe, 1 buổi sáng Chủ Nhật không phải đi lao động, tại nông trường
cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè, đặc khu Rừng Sát cũ. Nghe 1 phát là rùng hết cả
mình,
nhớ lần đi lấy xác đứa em trai tử trận tại Sóc Trăng.
Đó cũng
là lần đầu Gấu biết
được mùi thịt chuột, và nó ngon đến cỡ nào, và phải cơ may [“máy trời”
xoay
chuyển] như thế nào mới được thưởng thức!
Akhmatova:
Nửa Thế Kỷ Của Tôi
Robert Hass,
trong bài viết “gia đình và nhà tù, families and prisons” in trong
“What light
can do”, nhắc tới Mandelstam, ông cảm thấy khó chịu, về cái sự bị
hớp hồn của chúng ta đối với nhà thơ, vì vài lý do, but I am uneasy by
our
fascination with him for a couple of reasons.
Thứ nhất, là sự nghi ngờ, có thể
cái sự tuẫn nạn của ông gãi ngứa chúng ta, the first is the suspicion
that
our fascination exists because his martyrdom flatter us.
Và ông đưa ra 1 nhận định
cũng thật thú: Có 1 số nhà thơ có tài, nhưng vì 1 lý do nào đó, thiếu
can đảm,
và có những đấng đếch có tài, nhưng lại quá thừa can đảm.
Nhân đó, ông
lèm bèm tiếp về Akhmatova. Cũng theo cách nhận thức như vậy.
Theo GCC,
Robert Hass không đọc được, cả hai nhà thơ trên. Lý do, theo Gấu vẫn
là, có 1 cái
gì đó thiếu, về mặt độc ác, tính ác, ở những nhà thơ Mẽo như ông, cho
nên không
đọc ra được những nhà văn nhà thơ của phần đất Á Châu, như Mandelstam,
Akhmatova.
Đẩy quá lên
bước nữa, có thứ văn chương chúng ta đếch cần đọc, vì chẳng bao giờ nó
ngó ngàng
đến cái độc, cái ác của con người, nhất là Cái Ác Á Châu, trong có
Mít.
Mặt Trời Lặn
ở Fossoli
Tôi biết, nghĩa là gì,
không trở về.
Qua những
hàng rào kẽm gai
tôi nhìn
thấy
mặt trời xuống và chết
Và da
thịt tôi như bị xé ra
Bởi những
dòng thơ của một thi sĩ già:
“Mặt trời
thì có thể lặn và mọc
Nhưng
chúng tôi, ngược hẳn lại
Ngủ, sau
1 tí ánh sáng ngắn ngủi,
Một đêm
dài ơi là dài”
Tháng Hai,
7, 1946
Primo Levi
The
centaur's ghastly tale.
“Ký sự gia của Địa Ngục và
tiểu luận gia về thiên nhiên". Một câu
chuyện
nhợt nhạt ghê rợn của con quái vật centaur.
ghastly: nhợt
nhạt, ghê rợn. Cả hai ý này đều hợp với văn của Primo Levi. Miêu tả địa
ngục bằng
cặp mắt của 1 nhà khoa học, một chuyên viên về hóa học
Cái số báo
TLS, phần văn chương Tẩy, có nhiều bài thật là tuyệt. Thí dụ bài của
Graham
Robb, "Đằng sau những huyền thoại về trù ẻo, Behind the myths of
malediction", viết
về Mùa Địa Ngục, Rimbaud, và về
Isodore Ducasse, Chants de Maldoror, hai
nhà thơ được đời gán nhãn thi sĩ
trời nguyền, poèts maudits. Bài điểm cuốn
“Proust
giữa những vì sao, among the stars”, của Malcolm Bowie cũng OK. Rồi bài
về
Claudel, "Thi sĩ và Thánh Kinh"… Tuy nhiên,
1 bài ngắn, điểm cuốn "Người là Sói với Người, Man is Wolf to Man,
Surviving the Gulag", 408 p, Berkeley, theo GCC, cũng thật đáng
quan tâm.
Bèn post dưới đây.
Trả thù
có
khi cũng cần, và thù hận có khi cũng là chuyện thường ngày ở huyện:
Biết đâu đấy,
có thể Ngụy cũng xứng đáng để thù hận đám VC lắm chứ, tại sao không, hà
hà!
[Nguyên văn: Maybe we are
entitled to be judges and executioners, should we ever meet our
oppressors on
equal grounds”]
|